Bài Báo Cáo CN&MT K18 - Tham khảo | Đại học Hoa Sen

Bài Báo Cáo CN&MT K18 - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả

Trường:

Đại học Hoa Sen 4.8 K tài liệu

Thông tin:
30 trang 5 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Bài Báo Cáo CN&MT K18 - Tham khảo | Đại học Hoa Sen

Bài Báo Cáo CN&MT K18 - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả

32 16 lượt tải Tải xuống
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐẠO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HOA SEN
KHOA KINH TẾ - QUẢN TRỊ
BÀI TIỂU LUẬN
Đề Tài : Biến Đổi Khí Hậu
Giảng Viên : Phạm Nữ Ngọc Hân
Môn Học : Con Người Và Môi Trường
Thực hiện : Nhóm 16
STT Họ và tên MSSV
1 Trần Tấn Tài 2183507
2 Mai Hồng Phúc 2181359
3 Nguyễn Thị Mỹ Dung 2171953
4 Nguyễn Thảo Doanh 2174905
TRÍCH YẾU
Mục tiêu của bài tiểu luận nhằm nhắm đến những vấn đề biến đổi khí hậu và hiểu
thêm những cách khắc phục và phòng chống. Để đạt được những mục tiêu trên thì
Nhóm 16 chúng mình đã vận dụng những kiến thức trên lớp và tham khảo một số
tài liệu để có thêm kiến thức và nhiều thông tin hơn về vấn đề biến đổi khí hậu.
Cuối cùng nhóm 16 đã tìm ra được những nguyên nhân dẫn đến việc biến đổi khí
hậu bên cạnh đó việc con người khai thác quá mức những tài nguyên thiên nhiên
cũng dẫn đến những ảnh hưởng xấu. Hi vọng bài tiểu luạn này sẽ là kinh nghiệm
và kiến thức cho nhóm.
LỜI CẢM ƠN
Bài tiểu luận được hoàn thành bởi những nổ lực cố gắng của 4 thành viên của
nhóm Bên cạnh đó nhóm 16 gửi lời cảm ơn đến cô Phạm Nữ Ngọc Hân đã nhiệt
tình hướng dẫn, và luôn giải đáp những câu hỏi của nhóm, hơn thế trên lớp cô cũng
chia sẽ những thông tin hữu ích và hỗ trợ kiến thức để nhóm hoàn thành bài tiểu
luận một cách tốt nhất.
MỤC LỤC
DANH MỤC HÌNH ẢNH
NHẬP ĐỀ
Phạm vị của bài tiểu luận xoay quanh những vấn đề dẫn đến việc biến đổi khí hậu,
bên cạnh đó cũng sẽ tìm ra nguyên nhân do đâu và cách khắc phục như thế nào.
Vấn đề biến đổi khí hậu luôn là chủ đề được các phương tiện truyền thông chú ý
đến, hơn thế thì vấn đề này đang càng ngày trở nên xấu hơn bởi việc khai thác quá
mức của con người. Nhóm 16 thấy đây là một chủ đề rất hay và hấp dẫn nên nhóm
đã quyết định nghiên cứu và tham khảo tài liệu trên một số trang web chính thống
để hiểu rõ hơn về thực trạng biến đổi khí hậu hiện nay.
I. Khái niệm :
Biến đổi khí hậu sự thay đổi trạng thái trung bình của khí hậu có liên hệ mật thiết
ảnh hưởng rộng đến nhiều nguồn nhiên liệu khác nhau như đất đai, đại dương, bề mặt
Trái đất. Khi khí hậu có sự thay đổi thì các hiện tượng băng quyển như nhiệt độ tăng lên,
hiện tượng băng tan, và nước biển dâng theo một xu thế nhất định trong khoảng thời gian
nhất địnhnó có thể sẽ thay đổi sau cả thập kỉ hoặc thế kỉ sau đó. Do tác động của điều
kiện từ tự nhiên mà biến đổi khí hậu xảy ra trong một khoảng thời gian dài, tuy nhiên thời
gian gần đây, xảy ra do tác động thông qua các hoạt động gián tiếp trực tiếp của
con người như việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch trong giao thông vận tải sản xuất
công nghiệp, thải ra môi trường khí nhà kính (ví dụ như khí CO ). Chưa kể biến đổi khí
2
hậu cũng có thể gây ra ảnh hưởng lớn tới sự sống cũng như đời sống con người. Điều này
cũng được chứng minh rõ theo định nghĩa của Công ước khí hậu
Hình 1. Ảnh minh họa Biến đổi khí hậu.
II. Thực trạng :
1. Trên thế giới.
Theo tờ The New York Time, các nhà khoa học thuộc Tổ chức Maplecroft của Anh
dự báo trong bối cảnh cuộc di khí hậu toàn cầu đã bắt đầu. Các nước đang phát triển
tại châu Á châu Phi khả năng nhiều nhất trong việc đối mặt với những rủi ro nặng
nề do hiện tượng ấm dần lên của Trái đất trong 30 năm tới. Các vùng duyên hải ven biển
của Bangladesh được nhận xét là nơi chịu ảnh hưởng và tác động nặng nề nhất. Kế đến là
Ấn Độ - quốc gia đông dân thứ hai thế giới với 1,1 tỷ người.
Theo số liệu các nhà khoa học thống kê, tính từ thời điểm này kéo dài đến 2080,
phần trăm tỉ lệ cho thấy số lượng người lựa chọn sống xa xứ để định tại một nơi khác
chiếm khoàng một phần năm bắt đầu từ bây giờ cho đến năm 2080 có thể từ 1 tỷ đến 3 tỷ
người, nguyên nhân chủ yếu do thiếu nước ngọt để sinh hoạt. Những người bị tổn thất
nặng đầu tiên đó chính những dân sinh sống tại các vùng duyên hải vùng đồng
bằng. Đặc biệt, riêng tại Đông Nam Á, Quỹ Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (WWF) đo
lường được ít nhất mực nước biển dâng cao khoảng tầm thêm 0,5 tại 11 thành phố lớn
nằm gần ven biển hoặc ở các vùng đồng bằng. Họ khuyến cáo những người sống tại vị trí
này cần lưu ý và chuẩn bị sẵn sàng cách đối phó và phòng tránh trước trường hợp bão, lụ
lụt sẽ xảy ra. Trong khi đó, trong vài thập niên tới theo giới khoa học Bangladesh cho
biết, khoảng 17% diện tích của Bangladesh, nơi đang hơn 35 triệu dân sẽ đối mặt với
nguy cơ bị nhấn chìm do mực biển dâng cao.
Nếu nhìn sang Trung Quốc, ta thấy với nhiệt độ nước này trung bình đã dao động
thêm từ 1 đến 2 C, việc này khiến sản xuất nông nghiệp giảm sút đất trồng trọt thêm
o
khô cằn vì thế nông dân lại phải đổ về các thành phố lớn kiếm sống. Lượng người di dân
từ các vùng quê lên nhiều thành phố Trung Quốc ngày càng tăng cao, điều này khiến
chính quyền Bắc Kinh cần xem xét chính sách đô thị hóa. Về vấn đề quốc gia hay những
vùng đất khả năng đón nhận với sức chứa hàng chục, hàng trăm các làn sóng di
sự biến đổi khí hậu, ông Filippo Grandi - Cao ủy Liên hiệp quốc về người tị nạn
(UNHCR) nghĩ rằng các nước cần chuẩn bị phương án đối phó với tình trạng sẽ có lượng
lớn người dân phải rời bỏ nhà cửa một cách ngoài ý muốn do hậu quả của biến đổi khí
hậu. Các yếu tố thời tiết cực đoan có thể được tính là hậu quả biến đổi khí hậu gồm cháy
rừng Australia, nước biển dâng khiến nhiều hòn đảo bị nhấn chìm, tàn phá mùa màng,
gia súc ở vùng Nam châu Phi và gây lũ lụt nhiều nơi trên thế giới.
Trước đó, các nhà khoa học thuộc Trung tâm Thông tin Môi trường Quốc gia về Đại
dương và Khí quyển Quốc gia Hoa Kỳ phân tích năm 2020 rất có thể (> 99,9%) được xếp
hạng trong số năm nămm nhất hoặc mười năm ấm nhất. Phân tích này dựa trên những
hiện tượng thời tiết bất thường hiện tại các chỉ số nhiệt độ hàng năm trên toàn cầu
trong lịch sử đã xác nhận xu hướng ấm lên lâu dài do các khí nhà kính bị giữ lại trong khí
quyển.
Bằng cách đưa tháng 5 năm 2016 trở thành tháng 5 ấm nhất được ghi nhận, tháng 5
năm 2020 tiếp tục kỷ lục của năm 2020 mỗi tháng đều tháng ấm nhất hoặc ấm nhất
thứ hai được ghi nhận. Đối với những người sợ hãi cái nóng mùa hè, đó dấu hiệu đáng
báo trước.tại thời điểm này, hầu như chắc chắn rằng năm 2020 sẽ nằm trong số năm
năm ấm nhất được ghi nhận với gần 50% khả năng năm 2020 sẽ là năm ấm nhất được ghi
nhận.
Hình 1. Hình ảnh NOAA Climate.gov sử dụng dữ liệu từ Trung tâm Thông tin Môi trường
Quốc gia.
Xếp hạng nhiệt độ toàn cầu tháng 5 năm 2020. Màu đỏ cho biết tháng 5 năm 2020
mức ấm hơn trong kỷ lục 141 năm, với màu đỏ đậm nhất cho thấy độ ấm kỷ lục của
tháng 5. Màu xanh lam đại diện cho các vị trí lạnh hơn mức trung bình. Không khu
vực nào có màu xanh lam đậm cho thấy tháng 5 lạnh kỷ lục.
Trước khi chúng ta nói về một số dị thường mát mẻ, chúng ta hãy nói về nhiệt độ cao
hơn mức bình thường ở châu Á. Phần lớn phía bắc châu Á Siberia dễ dàng chứng kiến
nhiệt độ trên 10 ° F so với mức trung bình trong tháng 5. Là một lục địa, châu Á cao hơn
mức trung bình kỷ lục 2,09°C (3,6°F) trong tháng, đánh dấu lần đầu tiên nhiệt độ trong
tháng 5 của châu Á cao hơn mức trung bình 2°C. Nhìn chung, 7,55% toàn cầu có nhiệt độ
tháng 5 cao kỷ lục, bao gồm các khu vực của Đại Tây Dương, Thái Bình Dương Ấn
Độ Dương, cùng với Tây Âu, Trung và Nam Mỹ, Châu Phi và Châu Á.
Không nơi nào trên đất liền hoặc trên đại dương có nhiệt độ toàn cầu lạnh kỷ lục vào
tháng Năm. Các điểm mát đáng chú ý nhất được tìm thấy miền đông Hoa Kỳ phần
lớn Canada, đông Âu miền bắc Ấn Độ. (Một sự bất thường mát lạnh dai dẳng Bắc
Đại Tây Dương có thể tín hiệu của sự thay đổi lâu dài trong hoàn lưu đại dương trong
khu vực.) Nó chỉ cho thấy rằng ngay cả trong một tháng nóng kỷ lục toàn cầu, trong một
chuỗi các tháng cực kỳ ấm áp, một số nơi vẫn thể mát hơn mức trung bình. Nhưng
những con số thú vị đó Bắc Mỹ nhạt nhòa so với mức độ nóng của những nơi
khác.
Hình 2. Hình ảnh Climate.gov sử dụng dữ liệu từ Trung tâm Thông tin Môi trường Quốc
gia.
Nhiệt độ toàn cầu chênh lệch so với mức trung bình của tất cả các ngày từ 1895 -
2020. Tháng 5 năm 2020 gắn với tháng 5 ấm nhất được ghi nhận với tháng 5 năm 2016.
Trên toàn cầu, nhiệt độ cao hơn 0,95°C (1,71°F) so với mức trung bình của thế kỷ
XX. Trong kỷ lục 141 năm, bảy vịnh ấm nhất là vịnh có giá trị trong bảy năm qua. Tháng
5 năm 2020 cũng tháng thứ 44 liên tiếp tháng thứ 425 liên tiếp nhiệt độ bề mặt
toàn cầu cao hơn mức trung bình của thế kỷ XX.
Nhiệt độ trên đất liền toàn cầu trong tháng 5 là nóng nhất được ghi nhận (không
mối liên hệ nào đây), với 10 nhiệt độ trên đất liền trong tháng 5 ấm nhất đều xảy ra kể
từ năm 2010. ngay cả khi không El Niño, giúp tăng nhiệt độ đại dương toàn cầu,
năm 2020 vẫn chỉ là 0,01°C tránh xa cột vào tháng 5 năm 2016 để có nhiệt độ đại dương
ấm nhất toàn cầu. Một thống gây sốc được đưa ra vào tháng 5 năm 2016 vẫn nằm
phần cuối của một trong những sự kiện El Niño mạnh nhất kể từ năm 1950. Tháng 5 cũng
đánh dấu sự kết thúc của mùa xuân khí tượng, mùa xuân năm 2020 kết thúc mùa
nóng thứ hai trong kỷ lục (1,06°C hoặc 1,91°F trên mức trung bình). Đây là mức nhiệt độ
bất thường theo mùa cao thứ mười (trong ba tháng) được ghi nhận. Mười chuyến khởi
hành theo mùa hàng đầu so với mức trung bình đều xảy ra kể từ năm 2015. Nói một cách
đơn giản, địa cầu đang ấm lên.
Hình 3. Hình ảnh NOAA Climate.gov sử dụng dữ liệu từ Trung tâm
Thông tin Môi trường Quốc gia.
Sự khác biệt về nhiệt độ trung bình khi so sánh tập trungkhu vực Bắc Á trong thời
gian từ tháng 1 đến tháng 4 năm 2020. Trong thời gian này, Siberia nhiệt độ cực kỳ
cao trên mức trung bình, luôn vượt quá 11°F.
Từ tháng 1 đến tháng 5 cũng khoảng thời gian ấm nhất thứ hai được ghi nhận,
nhưng câu chuyện lớn hơn từ đầu năm đến nay Bắc Á ấm áp đáng kể như thế nào.
Nhiệt độ đã trung bình cao hơn ít nhất 3,5°C (6,3°F) so với mức trung bình trong cả năm
cho đến nay. Một vùng rộng lớn Siberia đã chứng kiến sự chênh lệch nhiệt độ lớn hơn
nhiều. Vào tháng 5, nhiệt độ ở Siberia gần hoặc cao hơn Vòng Bắc Cực là 80°F!
Nhiệt độ cực kỳ cao trên mức trung bình đã xảy ra đồng thời với các vụ cháy rừng
trên diện rộng, làm tăng nguy vào mùa với hàng triệu mẫu đất bốc cháy khắp
Siberia.
2. Ảnh hưởng của Biến đổi khí hậu tại Việt Nam.
Việt Nam nền văn minh quốc gia dễ gặp phải những mất mát nặng trước tác động
tiêu cực của biến đổi khí hậu. Trong thông tin nhận xét hàng năm về các quốc gia ảnh
hưởng bởi sự thay đổi cực đoan trong tiết trời khí hậu trong năm 1997 - 2016, quốc
gia Việt Nam đứng thứ 5 trong Chỉ số nguy hiểm khí hậu toàn cầu 2018 đồng thời đứng
thứ 8 về Chỉ số nguy đe dọa khí hậu dài hạn (CRI). Trước việc thời tiết khí hậu biến
động trở nên ngày càng khó ứng biến mỗi năm, đây điều không thể dự báo trước
được. dẫn đến các hệ lụy không những tăng cao tỉ lệ tử nạn tai hại cho sở hạ
tầng vô cùng mạnh mẽ (chẳng hạn như các cơ sở giáo dục hay trung tâm y tế), mà còn tác
động gây khó chịu đến đời sống hạn chế lập nghiệp của nhóm dân sống ở thị xã và những
người làm nông.
Những cụm từ "mưa lớn kỷ lục", "nắng nóng kỷ lục" hoặc "lũ lụt kỷ lục" xuất hiện
quen thuộc trên các công cụ truyền thông thông tin đông đảo Việt Nam tại những năm
mới đây. Năm 2017 được coi năm vô cùng “kỷ lục” về các đại họa từ thiên nhiên Việt
Nam kéo đến làm hứng chịu 16 trận bão trong lịch sử. Nhiệt độ trung bình tại Bắc Bộ
và Bắc Trung Bộ đang cao hơn nhiệt độ bình thường các năm trước từ 0,5 - 1°C tính theo
số liệu cập nhật từ 30 năm về sau. Sự thay đổi tần suất của những cơn bão áp thấp
nhiệt đới ngày một không thể phủ nhận những biến động, dụ như năm xảy ra liên
tục tới 18 đến 19 cơn xoáy thuận do áp thấp nhiệt đới trên Biển Đông, nhưng năm lại
vỏn vẹn xảy ra 4 hay 6 cơn xoáy thuận, áp thấp nhiệt đới. Những con số biểu thị cho các
cơn bão sức gió từ cấp 12 trở lên tăng nhẹ trong giai đoạn 1990 - 2015. Về diễn biến
nguồn nước (mực nước sông lượng mưa) năm 2018 cũng tăng không kém so với mật
độ tiêu chuẩn năm 2017. Năm 2018 cũng khá nhiều những trường hợp bức phá về nhiệt
độ với nhiệt độ tăng mạnh có lúc lên tới 42°C trong 46 năm trôi qua tại Hà Nội.
Mật độ của đại dương ven đại lục dâng cũng một trong những hình thức biểu
hiện kinh điển đối với khí hậu sự thay đổi Việt Nam. Tính trong phạm vi 50 năm,
mực nước biển biến động tăng lên tầm 20 cm theo các số liệu thuộc trạm Quốc gia Hòn
Dấu thu thập. Mực nước biển quan trắc các khu trạm hải vân chiếm 2,45 mm/năm vào
năm 1960 2014; 3,34 mm/năm không thay đổi nếu so với các giai đoạn 1993
2014. Nguồn số liệu từ vệ tinh cung cấp thông tin mực nước biển đã tăng lên 3,5
mm/năm vào năm 2014 so với năm 1993.
Tổng lượng phát thải Việt Nam sẽ chạm mức 888,8 triệu tấn khí CO tương đồng
2
năm 2030 theo các tính toán dựa trên số liệu kiểm kê khí nhà kính mới nhất, tăng hơn 100
triệu tấn so với BAU trong NDC đầu tiên (ban hành năm 2015). Sự thay đổi này có được
do những lĩnh vực công nghiệp được thêm vào danh sách các phạm vi phát thải lớn
nhất, bên cạnh “năng lượng”, “chất thải” “nông nghiệp”. Riêng “chuyển đổi sử dụng
đất và lâm nghiệp” (LULUCF) vẫn là lĩnh vực hấp thụ CO chủ yếu.
2
An ninh nguồn thực phẩm cải thiện nông nghiệp trở thành mục tiêu bị đe dọa tàn
bạo bởi sự biến động của khí hậu, gây nên đất nông nghiệp bị hạn hẹp. Quan trọng là diện
tích đất trũng ven biển đáng kể, chủ yếu là đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu
Long bị ngập trong nước mặn do nước biển dâng. Do đó, tốc độ sinh trưởng, năng suất
cây trồng cũng như lịch canh tác bị ảnh hưởng, nguy sâu bệnh gia tăng; cây cận nhiệt
đới giảm trong khoảng thời thích ứng của cây nhiệt đới mở rộng. Sự sinh sản, tăng
trưởng khả năng ngăn ngừa dịch bệnh của động vật nuôi trong nhà cũng bị liên lụy
tiêu cực.
Thực trạng biến đổi khí hậu, nguồn nước đối mặt với mối hiểm họa suy thoái do hạn
hán gia tăng không ngừng một số vùng trong một số mùa nhất định, đồng thời gây
hại trực tiếp đến quá trình vận chuyển cung cấp nước ở thôn xã và thành phố, ngành nông
nghiệp và sản xuất điện. Các tình trạng lũ khắc nghiệt vào mùa mưa hạn hán vào mùa
khô xảy ra do lưu lượng nước mưa thay đổi thể dẫn đến làm gia tăng xung đột trong
các tiến hành hoạt động thu gom và sử dụng nguồn nguyên liệu nước.
Với mục đích hàng đầu trở thành một nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020,
Việt Nam thúc đẩy hoạt động chế tạotiêu thụ nguồn tài nguyên tăng mạnh, đặc biệt là
trong các ngành công nghiệp, giao thông nâng cấp đô thị. Việc này sẽ hình thành
lượng đào thải khí nhà kính cao hơn. không những chống lại xu hướng quốc tế
còn đòi hỏi mỗi quốc gia bao gồm đất nước tiến bộ và đang phát triển cần thực hiện giảm
khối lượng phát thải khí nhà kính để bảo đảm an toàn cho hệ thống khí hậu chung của
toàn trái đất. Trong khi đó, nguồn tài nguyên tái chế năng lượng mới chỉ phát thải ra
lượng khí nhà kính thấp lại không được chú trọng bằng những đầu lớn chi phí cao,
bỏ qua những năng lượngthể tái sử dụng, tiết kiệm hiệu quả không kém. Nhiều chính
sách quy toàn cầu áp dụng việc ngăn ngừa phát thải khí nhà kính đang được thực thi
thì lại thể gây ra các chướng ngại thương mại mới. Những nền kinh tế đang tiến bộ
hiện tại như Việt Nam, nếu không chắc chắn với những con đường quyết định cứng
rắn thì họ mãi chẳng thể vượt qua những rào cản đó thiếu các nguồi lực chính về tài
chính công nghệ cần thiết để thể sản xuất hàng loạt những sản phẩm thể cạnh
tranh trên thị trường.
Nhận thức của tập thể Việt Nam về biến đổi khí hậu còn rất nhiều giới hạn phiến
diện do chủ yếu chú tâm vào các ảnh hưởng tiêu cực chỉ biết hưởng lợi từ những thứ
trước mắt chưa phù hợp với phong cách sống, hình chế tạo tiêu dùng với
phương hướng carbon thấp tăng trưởng xanh. Những thách thức này đang thúc giục
Việt Nam trở thành quốc gia kiên cường phấn đấu hơn nữa trong các biện pháp nhằm
nâng cao nhận thức cộng đồng năng lực cùng những chính sách ứng phó với biến đổi
khí hậu. Sau cùng nhằm đồng thời thúc đẩy cải thiện sự thịnh vượng trong kinh tế nhằm
nâng cao năng lực cạnh tranh kinh tế chứng minh vị thế quốc gia trên thương trường
quốc tế.
III. Nguyên nhân :
Biến đổi khí hậu cũng thể do các hoạt động của con người gây ra, chẳng hạn như
đốt nhiên liệu hóa thạch và chuyển đổi đất cho nông nghiệp và lâm nghiệp. Kể từ khi bắt
đầu cuộc Cách mạng Công nghiệp, những ảnh hưởng của con người đến hệ thống khí hậu
đã tăng lên đáng kể. Ngoài các tác động môi trường khác, các hoạt động này làm thay đổi
bề mặt đất thải ra khí quyển các chất khác nhau. Do đó, những điều này thể ảnh
hưởng đến cả lượng năng lượng đến lượng năng lượng đi ra thể cả tác động
làm ấm làm mát khí hậu. Sản phẩm chính của quá trình đốt cháy nhiên liệu hóa thạch
carbon dioxide, một loại khí nhà kính. Hiệu ứng tổng thể của các hoạt động của con
người kể từ cuộc Cách mạng Công nghiệp hiệu ứng ấm lên, chủ yếu do phát thải khí
cacbonic và tăng cường phát thải các khí nhà kính khác.
Một số khí trong bầu khí quyển của Trái đất hoạt động giống như thủy tinh trong nhà
kính, giữ nhiệt mặt trời ngăn rỉ trở lại không gian. Nhiều loại khí trong số này
xuất hiện tự nhiên, nhưng hoạt động của con người đang làm tăng nồng độ của một số
chúng trong khí quyển, cụ thể là: carbon dioxide (CO2), mêtan, nitơ oxit, khí flo hóa.
CO2 là khí nhà kính thường được tạo ra bởi các hoạt động của con người và nó là nguyên
nhân gây ra 64% sự nóng lên toàn cầu do con người tạo ra. Nồng độ của trong khí
quyển hiện cao hơn 40% so với khi bắt đầu công nghiệp hóa. Các khí nhà kính khác được
thải ra với số lượng nhỏ hơn, nhưng chúng giữ nhiệt hiệu quả hơn nhiều so với CO2,
trong một số trường hợp, nó mạnh hơn hàng nghìn lần. Mêtan là nguyên nhân gây ra 17%
sự nóng lên toàn cầu do con người tạo ra, oxit nitơ chiếm 6%.Nguyên nhân tăng phát
thải, đốt than, dầu khí đốt tạo ra khí cacbonic nitơ oxit. Chặt phá rừng (phá rừng).
Cây xanh giúp điều hòa khí hậu bằng cách hấp thụ CO2 từ khí quyển. Vì vậy, khi chúng
bị đốn hạ, tác dụng lợi đó sẽ mất đi carbon tích trữ trong cây được thải vào khí
quyển, làm tăng thêm hiệu ứng nhà kính. Tăng gia chăn nuôi. Bò và cừu tạo ra một lượng
lớn khí mê-tan khi chúng tiêu hóa thức ăn. Phân bón có chứa nitơ tạo ra khí thải nitơ oxit.
Khí flo tạo ra hiệu ứng nóng lên rất mạnh, lớn hơn CO2 tới 23000 lần. Rất may, chúng
được phát hành với số lượng ít hơn và đang bị quy định của EU loại bỏ dần. Sự nóng lên
toàn cầu các nhà máy điện các sở lắp đặt trong ngành công nghiệp khác những
nơi phát thải CO2 chính. Nhiệt độ trung bình toàn cầu hiện tại cao hơn 0,85ºC so với vào
cuối thế kỷ 19. Mỗi thập kỷ trong ba thập kỷ qua đều ấm hơn bất kỳ thập kỷ nào trước đó
kể từ khi các kỷ lục bắt đầu vào năm 1850. Các nhà khoa học khí hậu hàng đầu thế giới
cho rằng các hoạt động của con người gần như chắc chắn nguyên nhân chính gây ra
hiện tượng ấm lên được quan sát từ giữa thế kỷ 20. Việc tăng 2°C so với nhiệt độ trong
thời kỳ tiền công nghiệp được các nhà khoa học coi là ngưỡng vượt quá nguy cơ cao hơn
nhiều có thể xảy ra những thay đổi nguy hiểm và có thể thảm khốc trong môi trường toàn
cầu. Vì lý do này, cộng đồng quốc tế đã nhận ra sự cần thiết phải giữ cho sự ấm lên dưới
2°C. Sự tích tụ của các khí nhà kính trong khí quyển đã dẫn đến việc tăng cường hiệu
ứng nhà kính tự nhiên. Chính sự gia tăng hiệu ứng nhà kính do con người gây ra này
vấn đề đáng quan tâm liên tục phát thải khí nhà kính khả năng làm ấm hành tinh
đến mức chưa từng có trong lịch sử văn minh nhân loại. Biến đổi khí hậu như vậy có thể
gây ra những hậu quả sâu rộng và / hoặc khó lường về môi trường, xã hội và kinh tế.
Nguyên nhân tự nhiên của biến đổi khí hậu:
Như chúng ta đã biết, trái đất đã trải qua giai đoạn ấm lạnh trong quá khứ, rất
lâu trước khi con người. Các lực góp phần gây ra biến đổi khí hậu bao gồm cường độ
mặt trời, núi lửa phun trào thay đổi nồng độ khí nhà kính tự nhiên. Nhưng các ghi
chép chỉ ra rằng sự nóng lên của khí hậu ngày nay - đặc biệt sự ấm lên từ giữa thế kỷ
20 - đang diễn ra nhanh hơn bao giờ hết không thể giải thích được chỉ bằng các
nguyên nhân tự nhiên. Theo NASA, "Những nguyên nhân tự nhiên này vẫn còn nguyên
nhân ngày nay,
nhưng ảnh hưởng của chúng quá nhỏ hoặc chúng xảy ra quá chậm để giải thích cho
sự nóng lên nhanh chóng được thấy trong những thập kỷ gần đây."
Hình 5. Ảnh núi lửa S.t Helens phun trào tại tiểu bang Wasington, Hoa Kì.
IV.Hậu quả :
1. Trên thế giới.
a. Tác động đến động vật.
Việc biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng gây ảnh hưởng đến nhiều loài động
thực vật trên thế giới. Theo như số liệu thông thì tại Ấn Độ nhiệt độ thể lên tới 46
độ C, điều đó dẫn đến một đàn khỉ chết vì không thể tìm được nguồn nước, bên cạnh đó ở
Úc dơi chết hàng loạt nhiệt độ quá cao. Hơn thế, rừng nhiệt đới Amazon cũng đang
đứng trước nguy phải mất đi một số loài động vật quý hiếm nếu lượng khí nhà kính
không được kiểm soát. Một số các khu vực như rừng Miombo Nam Phi Tây Nam
Australia đang hứng chịu những hậu quả nặng nề nhất do việc biến đổi khí hậu . Việc môi
trường ngày càng nóng lên làm băng tan, mực nước biển ngày càng dâng cao, các cơn
bão xuất hiện ngày càng nhiều khiến cho các loài động vật cũng bị ảnh hưởng theo. Từ
đó, thể dẫn đến diện tích, lãnh thổ sinh sống chuỗi thức ăn của các loài động vật
cũng bị thu hẹp đi rất nhiều. Biến đổi khí hậu gây ra các tác động tiêu cực đến việc sinh
sản của loài rùa nhưphá hủy các khu vực làm tổ của chúng, nhiệt độ nóng lên dẫn đến
trứng không thể nở được. Bên cạnh đó, các biến động về nhiệt độ biển cũng gây ảnh
hưởng đến nguồn thức ăn của các loài. Ngoài ra, kể từ những năm 1970 quần thể loài
chim cánh cụt ở phía tây Nam Cực đã suy giảm ít nhất 80%. Việc này còn dẫn tới những
loài động vật sống Bắc Cực Nam Cực bị ảnh hưởng rất nhiều môi trường sống
của chúng phần lớn trên những tảng băng khi thời tiết nóng lên làm băng tan đẩy
chúng đến vùng đất khô cằn khắc nghiệt. Nếu các loài động vật di chuyển đến khu vực có
môi trường sống khí hậu thích hợp thì thể làm giảm sự tuyệt chủng của chúng,
nhưng cũng có một số loài không có khả năng thích ứng với môi trường sống mới.
Hình 6. Động vật chết do thời tiết nóng lên.
a. Tác động đến Nam Cực và Bắc Cực.
Thế giới ghi nhận rằng Nam Cực đã phải trải qua những ngày nóng kỷ lục. Vào
ngày 6/2, cơ quan phụ trách thời tiết Liên Hợp Quốc đã phát hiện kỷ lục mới ở Nam Cực
đó nhiệt độ lên đến 18,3 độ C tăng gần 1 độ C so với kỷ lục trước đó được ghi nhận
vào ngày 24/3/2015 là 17,5 độ C. Ở Nam Cực, các miệng hố trên thềm băng Vua Baudoin
phía Đông được một số nhà nghiên cứu cho rằng không phải do va chạm với thiên
thạch nguyên nhân do gió mang hơi nóng nên gây ra hiện tượng băng trên bề mặt
bị xói mòn. Việc nhiệt độ tăng cao không chỉ dừng lại đó còn dẫn đến hậu quả như
tạo thành các vết nứt trong kết cấu chắc chắn của các thềm băng khiến cho các mảng
băng phía trên dễ bị tổn thương hơn. Nếu lượng băng Nam Cực tan ra thì thể khiến
cho mực nước biển dâng lên hàng chục mét và có thể dẫn đến nhiều thiên tai khác.
Hình 7. Nhiệt độ tăng cao ở Nam Cực.
Ngược lại với đó thì Bắc Cực tốc độ ấm lên của nhiệt độ nhanh gấp 2 lần so với
thế giới, vào ngày 20/6 thị trấn lạnh lẽo Verkhoyansk tỉnh Siberia của nước Nga nằm
trên vùng đất phía bắc vòng Bắc Cực ghi nhận nhiệt độ nóng kỷ lục lên đến 38 độ C.
Băng tan do khí hậu nóng lên sẽ giải phóng khối lượng khí các-bô-níc và khí mê-tan nằm
sâu dưới lòng đất băng giá, góp phần làm gia tăng hiệu ứng nhà kính. Đáng quan ngại
hơn, tầng băng vĩnh cửu càng ngày thải ra nhiều lượng cacbon đẩy nhanh quá trình
biến đổi khí hậu. Tình trạng băng tan đang đe dọa đến sự sinh hoạt và sinh tồn của người
dân bản địa bởi băng chính mặt bằng di chuyển chính của họ, điều đáng quan tâm
hơn lời cảnh báo về những tầng băng vĩnh cửu chứa lượng khí cacbon (dao động từ
300 600 triệu tấn) nhiều gấp mười lần rừng Amazon, chúng không ngừng thải ra lượng
khí cacbon vào tầng khí quyền, vượt xa số lượng mà cây xanh có thể hấp thụ và xử lý. Vì
vậy, Bắc Cực không chỉ bị tác động bởi việc biến đổi khí hậu mà còn trở thành một nhân
tố làm biến đổi khí hậu.
Hình 8. Băng tan ở Bắc Cực.
b. Tác động đến rừng.
Theo như báo cáo được đánh giá từ 57 bài nghiên cứu khoa học Anh, các sự kiện
cháy rừng diễn ra trên toàn thế giới đang xu hướng ngày càng gia tăng, một phần
nguyên do chính là việc biến đổi khí hậu của thế giới.
Cụ thể, rừng sức tác động mạnh mẽ đối với khí hậu thông qua nhiều con đường
khác nhau ngược lại, dụ như khi nhiệt độ tăng lêntrở nên ấm hơn sẽ sản sinh ra
một số các loài sâu bệnh, vi khuẩn mới khiến rừng dễ bị tổn thương hơn và làm tăng khả
năng hỏa hoạn do thời tiết trở nên khô nóng, hạn hán kéo dài,…
Điển hình cho việc này, chính một loạt các sự kiện cháy rừng Úc vào khoảng
cuối 2019 - đầu 2020, đã để lại những hậu quả kinh khủng khi có 28 người chết, nửa triệu
loài động vật trong New South Wales bị ảnh hưởng, hơn một tỉ các loài động vật như dơi,
động vật không xương sống, các loài lưỡng cư,..chết và có thể đi đến bờ vực tuyệt chủng.
Ngoài ra, mùa cháy rừng này đã đốt đi khoảng 10.7 triệu hecta rừng, phá hủy hơn 5900
công trình xây dựng, trong đó hơn 2203 ngôi nhà,..Và do lớn nhất cho việc này,
chính là biến đổi khí hậu đã gây ra sự nóng lên toàn cầu, làm khô đất cùng với thảm thực
| 1/30

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐẠO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HOA SEN
KHOA KINH TẾ - QUẢN TRỊ BÀI TIỂU LUẬN
Đề Tài : Biến Đổi Khí Hậu
Giảng Viên : Phạm Nữ Ngọc Hân
Môn Học : Con Người Và Môi Trường Thực hiện : Nhóm 16 STT Họ và tên MSSV 1 Trần Tấn Tài 2183507 2 Mai Hồng Phúc 2181359 3
Nguyễn Thị Mỹ Dung 2171953 4 Nguyễn Thảo Doanh 2174905 TRÍCH YẾU
Mục tiêu của bài tiểu luận nhằm nhắm đến những vấn đề biến đổi khí hậu và hiểu
thêm những cách khắc phục và phòng chống. Để đạt được những mục tiêu trên thì
Nhóm 16 chúng mình đã vận dụng những kiến thức trên lớp và tham khảo một số
tài liệu để có thêm kiến thức và nhiều thông tin hơn về vấn đề biến đổi khí hậu.
Cuối cùng nhóm 16 đã tìm ra được những nguyên nhân dẫn đến việc biến đổi khí
hậu bên cạnh đó việc con người khai thác quá mức những tài nguyên thiên nhiên
cũng dẫn đến những ảnh hưởng xấu. Hi vọng bài tiểu luạn này sẽ là kinh nghiệm và kiến thức cho nhóm. LỜI CẢM ƠN
Bài tiểu luận được hoàn thành bởi những nổ lực cố gắng của 4 thành viên của
nhóm Bên cạnh đó nhóm 16 gửi lời cảm ơn đến cô Phạm Nữ Ngọc Hân đã nhiệt
tình hướng dẫn, và luôn giải đáp những câu hỏi của nhóm, hơn thế trên lớp cô cũng
chia sẽ những thông tin hữu ích và hỗ trợ kiến thức để nhóm hoàn thành bài tiểu
luận một cách tốt nhất. MỤC LỤC DANH MỤC HÌNH ẢNH NHẬP ĐỀ
Phạm vị của bài tiểu luận xoay quanh những vấn đề dẫn đến việc biến đổi khí hậu,
bên cạnh đó cũng sẽ tìm ra nguyên nhân do đâu và cách khắc phục như thế nào.
Vấn đề biến đổi khí hậu luôn là chủ đề được các phương tiện truyền thông chú ý
đến, hơn thế thì vấn đề này đang càng ngày trở nên xấu hơn bởi việc khai thác quá
mức của con người. Nhóm 16 thấy đây là một chủ đề rất hay và hấp dẫn nên nhóm
đã quyết định nghiên cứu và tham khảo tài liệu trên một số trang web chính thống
để hiểu rõ hơn về thực trạng biến đổi khí hậu hiện nay. I. Khái niệm :
Biến đổi khí hậu là sự thay đổi trạng thái trung bình của khí hậu có liên hệ mật thiết
và ảnh hưởng rộng đến nhiều nguồn nhiên liệu khác nhau như đất đai, đại dương, bề mặt
Trái đất. Khi khí hậu có sự thay đổi thì các hiện tượng băng quyển như nhiệt độ tăng lên,
hiện tượng băng tan, và nước biển dâng theo một xu thế nhất định trong khoảng thời gian
nhất định vì nó có thể sẽ thay đổi sau cả thập kỉ hoặc thế kỉ sau đó. Do tác động của điều
kiện từ tự nhiên mà biến đổi khí hậu xảy ra trong một khoảng thời gian dài, tuy nhiên thời
gian gần đây, nó xảy ra do tác động thông qua các hoạt động gián tiếp và trực tiếp của
con người như việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch trong giao thông vận tải và sản xuất
công nghiệp, thải ra môi trường khí nhà kính (ví dụ như khí CO ).
2 Chưa kể biến đổi khí
hậu cũng có thể gây ra ảnh hưởng lớn tới sự sống cũng như đời sống con người. Điều này
cũng được chứng minh rõ theo định nghĩa của Công ước khí hậu
Hình 1. Ảnh minh họa Biến đổi khí hậu. II. Thực trạng :
1. Trên thế giới.
Theo tờ The New York Time, các nhà khoa học thuộc Tổ chức Maplecroft của Anh
dự báo trong bối cảnh cuộc di cư khí hậu toàn cầu đã bắt đầu. Các nước đang phát triển
tại châu Á và châu Phi có khả năng nhiều nhất trong việc đối mặt với những rủi ro nặng
nề do hiện tượng ấm dần lên của Trái đất trong 30 năm tới. Các vùng duyên hải ven biển
của Bangladesh được nhận xét là nơi chịu ảnh hưởng và tác động nặng nề nhất. Kế đến là
Ấn Độ - quốc gia đông dân thứ hai thế giới với 1,1 tỷ người.
Theo số liệu mà các nhà khoa học thống kê, tính từ thời điểm này kéo dài đến 2080,
phần trăm tỉ lệ cho thấy số lượng người lựa chọn sống xa xứ để định cư tại một nơi khác
chiếm khoàng một phần năm bắt đầu từ bây giờ cho đến năm 2080 có thể từ 1 tỷ đến 3 tỷ
người, nguyên nhân chủ yếu do thiếu nước ngọt để sinh hoạt. Những người bị tổn thất
nặng đầu tiên đó chính là những dân cư sinh sống tại các vùng duyên hải và vùng đồng
bằng. Đặc biệt, riêng tại Đông Nam Á, Quỹ Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (WWF) đo
lường được ít nhất mực nước biển dâng cao khoảng tầm thêm 0,5 tại 11 thành phố lớn
nằm gần ven biển hoặc ở các vùng đồng bằng. Họ khuyến cáo những người sống tại vị trí
này cần lưu ý và chuẩn bị sẵn sàng cách đối phó và phòng tránh trước trường hợp bão, lụ
lụt sẽ xảy ra. Trong khi đó, trong vài thập niên tới theo giới khoa học Bangladesh cho
biết, khoảng 17% diện tích của Bangladesh, nơi đang có hơn 35 triệu dân sẽ đối mặt với
nguy cơ bị nhấn chìm do mực biển dâng cao.
Nếu nhìn sang Trung Quốc, ta thấy với nhiệt độ nước này trung bình đã dao động thêm từ 1 đến 2 C, o
việc này khiến sản xuất nông nghiệp giảm sút và đất trồng trọt thêm
khô cằn vì thế nông dân lại phải đổ về các thành phố lớn kiếm sống. Lượng người di dân
từ các vùng quê lên nhiều thành phố ở Trung Quốc ngày càng tăng cao, điều này khiến
chính quyền Bắc Kinh cần xem xét chính sách đô thị hóa. Về vấn đề quốc gia hay những
vùng đất có khả năng đón nhận với sức chứa hàng chục, hàng trăm các làn sóng di dư vì
sự biến đổi khí hậu, ông Filippo Grandi - Cao ủy Liên hiệp quốc về người tị nạn
(UNHCR) nghĩ rằng các nước cần chuẩn bị phương án đối phó với tình trạng sẽ có lượng
lớn người dân phải rời bỏ nhà cửa một cách ngoài ý muốn do hậu quả của biến đổi khí
hậu. Các yếu tố thời tiết cực đoan có thể được tính là hậu quả biến đổi khí hậu gồm cháy
rừng ở Australia, nước biển dâng khiến nhiều hòn đảo bị nhấn chìm, tàn phá mùa màng,
gia súc ở vùng Nam châu Phi và gây lũ lụt nhiều nơi trên thế giới.
Trước đó, các nhà khoa học thuộc Trung tâm Thông tin Môi trường Quốc gia về Đại
dương và Khí quyển Quốc gia Hoa Kỳ phân tích năm 2020 rất có thể (> 99,9%) được xếp
hạng trong số năm năm ấm nhất hoặc mười năm ấm nhất. Phân tích này dựa trên những
hiện tượng thời tiết bất thường hiện tại và các chỉ số nhiệt độ hàng năm trên toàn cầu
trong lịch sử đã xác nhận xu hướng ấm lên lâu dài do các khí nhà kính bị giữ lại trong khí quyển.
Bằng cách đưa tháng 5 năm 2016 trở thành tháng 5 ấm nhất được ghi nhận, tháng 5
năm 2020 tiếp tục kỷ lục của năm 2020 là mỗi tháng đều là tháng ấm nhất hoặc ấm nhất
thứ hai được ghi nhận. Đối với những người sợ hãi cái nóng mùa hè, đó là dấu hiệu đáng
báo trước. Và tại thời điểm này, hầu như chắc chắn rằng năm 2020 sẽ nằm trong số năm
năm ấm nhất được ghi nhận với gần 50% khả năng năm 2020 sẽ là năm ấm nhất được ghi nhận.
Hình 1. Hình ảnh NOAA Climate.gov sử dụng dữ liệu từ Trung tâm Thông tin Môi trường Quốc gia.
Xếp hạng nhiệt độ toàn cầu tháng 5 năm 2020. Màu đỏ cho biết tháng 5 năm 2020 ở
mức ấm hơn trong kỷ lục 141 năm, với màu đỏ đậm nhất cho thấy độ ấm kỷ lục của
tháng 5. Màu xanh lam đại diện cho các vị trí lạnh hơn mức trung bình. Không có khu
vực nào có màu xanh lam đậm cho thấy tháng 5 lạnh kỷ lục.
Trước khi chúng ta nói về một số dị thường mát mẻ, chúng ta hãy nói về nhiệt độ cao
hơn mức bình thường ở châu Á. Phần lớn phía bắc châu Á ở Siberia dễ dàng chứng kiến
nhiệt độ trên 10 ° F so với mức trung bình trong tháng 5. Là một lục địa, châu Á cao hơn
mức trung bình kỷ lục 2,09°C (3,6°F) trong tháng, đánh dấu lần đầu tiên nhiệt độ trong
tháng 5 của châu Á cao hơn mức trung bình 2°C. Nhìn chung, 7,55% toàn cầu có nhiệt độ
tháng 5 cao kỷ lục, bao gồm các khu vực của Đại Tây Dương, Thái Bình Dương và Ấn
Độ Dương, cùng với Tây Âu, Trung và Nam Mỹ, Châu Phi và Châu Á.
Không nơi nào trên đất liền hoặc trên đại dương có nhiệt độ toàn cầu lạnh kỷ lục vào
tháng Năm. Các điểm mát đáng chú ý nhất được tìm thấy ở miền đông Hoa Kỳ và phần
lớn Canada, đông Âu và miền bắc Ấn Độ. (Một sự bất thường mát lạnh dai dẳng ở Bắc
Đại Tây Dương có thể là tín hiệu của sự thay đổi lâu dài trong hoàn lưu đại dương trong
khu vực.) Nó chỉ cho thấy rằng ngay cả trong một tháng nóng kỷ lục toàn cầu, trong một
chuỗi các tháng cực kỳ ấm áp, một số nơi vẫn có thể mát hơn mức trung bình. Nhưng
những con số thú vị đó ở Bắc Mỹ nhạt nhòa so với mức độ nóng của nó ở những nơi
Hình 2. Hình ảnh Climate.gov sử dụng dữ liệu từ Trung tâm Thông tin Môi trường Quốc gia. khác.
Nhiệt độ toàn cầu chênh lệch so với mức trung bình của tất cả các ngày từ 1895 -
2020. Tháng 5 năm 2020 gắn với tháng 5 ấm nhất được ghi nhận với tháng 5 năm 2016.
Trên toàn cầu, nhiệt độ cao hơn 0,95°C (1,71°F) so với mức trung bình của thế kỷ
XX. Trong kỷ lục 141 năm, bảy vịnh ấm nhất là vịnh có giá trị trong bảy năm qua. Tháng
5 năm 2020 cũng là tháng thứ 44 liên tiếp và tháng thứ 425 liên tiếp có nhiệt độ bề mặt
toàn cầu cao hơn mức trung bình của thế kỷ XX.
Nhiệt độ trên đất liền toàn cầu trong tháng 5 là nóng nhất được ghi nhận (không có
mối liên hệ nào ở đây), với 10 nhiệt độ trên đất liền trong tháng 5 ấm nhất đều xảy ra kể
từ năm 2010. Và ngay cả khi không có El Niño, giúp tăng nhiệt độ đại dương toàn cầu,
năm 2020 vẫn chỉ là 0,01°C tránh xa cột vào tháng 5 năm 2016 để có nhiệt độ đại dương
ấm nhất toàn cầu. Một thống kê gây sốc được đưa ra vào tháng 5 năm 2016 vẫn nằm ở
phần cuối của một trong những sự kiện El Niño mạnh nhất kể từ năm 1950. Tháng 5 cũng
đánh dấu sự kết thúc của mùa xuân khí tượng, và mùa xuân năm 2020 kết thúc là mùa
nóng thứ hai trong kỷ lục (1,06°C hoặc 1,91°F trên mức trung bình). Đây là mức nhiệt độ
bất thường theo mùa cao thứ mười (trong ba tháng) được ghi nhận. Mười chuyến khởi
hành theo mùa hàng đầu so với mức trung bình đều xảy ra kể từ năm 2015. Nói một cách
đơn giản, địa cầu đang ấm lên.
Hình 3. Hình ảnh NOAA Climate.gov sử dụng dữ liệu từ Trung tâm
Thông tin Môi trường Quốc gia.
Sự khác biệt về nhiệt độ trung bình khi so sánh tập trung ở khu vực Bắc Á trong thời
gian từ tháng 1 đến tháng 4 năm 2020. Trong thời gian này, Siberia có nhiệt độ cực kỳ
cao trên mức trung bình, luôn vượt quá 11°F.
Từ tháng 1 đến tháng 5 cũng là khoảng thời gian ấm nhất thứ hai được ghi nhận,
nhưng câu chuyện lớn hơn từ đầu năm đến nay là Bắc Á ấm áp đáng kể như thế nào.
Nhiệt độ đã trung bình cao hơn ít nhất 3,5°C (6,3°F) so với mức trung bình trong cả năm
cho đến nay. Một vùng rộng lớn ở Siberia đã chứng kiến sự chênh lệch nhiệt độ lớn hơn
nhiều. Vào tháng 5, nhiệt độ ở Siberia gần hoặc cao hơn Vòng Bắc Cực là 80°F!
Nhiệt độ cực kỳ cao trên mức trung bình đã xảy ra đồng thời với các vụ cháy rừng
trên diện rộng, làm tăng nguy cơ vào mùa hè với hàng triệu mẫu đất bốc cháy khắp Siberia.
2. Ảnh hưởng của Biến đổi khí hậu tại Việt Nam.
Việt Nam là nền văn minh quốc gia dễ gặp phải những mất mát nặng trước tác động
tiêu cực của biến đổi khí hậu. Trong thông tin nhận xét hàng năm về các quốc gia ảnh
hưởng bởi sự thay đổi cực đoan trong tiết trời và khí hậu trong năm 1997 - 2016, quốc
gia Việt Nam đứng thứ 5 trong Chỉ số nguy hiểm khí hậu toàn cầu 2018 đồng thời đứng
thứ 8 về Chỉ số nguy cơ đe dọa khí hậu dài hạn (CRI). Trước việc thời tiết khí hậu biến
động trở nên ngày càng khó ứng biến ở mỗi năm, đây là điều không thể dự báo trước
được. Nó dẫn đến các hệ lụy không những tăng cao tỉ lệ tử nạn và tai hại cho cơ sở hạ
tầng vô cùng mạnh mẽ (chẳng hạn như các cơ sở giáo dục hay trung tâm y tế), mà còn tác
động gây khó chịu đến đời sống hạn chế lập nghiệp của nhóm dân sống ở thị xã và những người làm nông.
Những cụm từ "mưa lớn kỷ lục", "nắng nóng kỷ lục" hoặc "lũ lụt kỷ lục" xuất hiện
quen thuộc trên các công cụ truyền thông thông tin đông đảo ở Việt Nam tại những năm
mới đây. Năm 2017 được coi là năm vô cùng “kỷ lục” về các đại họa từ thiên nhiên Việt
Nam kéo đến làm hứng chịu 16 trận bão lũ trong lịch sử. Nhiệt độ trung bình tại Bắc Bộ
và Bắc Trung Bộ đang cao hơn nhiệt độ bình thường các năm trước từ 0,5 - 1°C tính theo
số liệu cập nhật từ 30 năm về sau. Sự thay đổi tần suất của những cơn bão và áp thấp
nhiệt đới ngày một không thể phủ nhận vì những biến động, ví dụ như ở năm xảy ra liên
tục tới 18 đến 19 cơn xoáy thuận do áp thấp nhiệt đới trên Biển Đông, nhưng có năm lại
vỏn vẹn xảy ra 4 hay 6 cơn xoáy thuận, áp thấp nhiệt đới. Những con số biểu thị cho các
cơn bão có sức gió từ cấp 12 trở lên tăng nhẹ trong giai đoạn 1990 - 2015. Về diễn biến
nguồn nước (mực nước sông và lượng mưa) năm 2018 cũng tăng không kém so với mật
độ tiêu chuẩn năm 2017. Năm 2018 cũng khá nhiều những trường hợp bức phá về nhiệt
độ với nhiệt độ tăng mạnh có lúc lên tới 42°C trong 46 năm trôi qua tại Hà Nội.
Mật độ của đại dương ở ven đại lục dâng cũng là một trong những hình thức biểu
hiện kinh điển đối với khí hậu có sự thay đổi ở Việt Nam. Tính trong phạm vi 50 năm,
mực nước biển biến động tăng lên tầm 20 cm theo các số liệu thuộc trạm Quốc gia Hòn
Dấu thu thập. Mực nước biển quan trắc ở các khu trạm hải vân chiếm 2,45 mm/năm vào
năm 1960 và 2014; và 3,34 mm/năm không thay đổi nếu so với các giai đoạn 1993 và
2014. Nguồn số liệu từ vệ tinh cung cấp thông tin mực nước biển đã tăng lên 3,5
mm/năm vào năm 2014 so với năm 1993.
Tổng lượng phát thải ở Việt Nam sẽ chạm mức 888,8 triệu tấn khí CO 2tương đồng
năm 2030 theo các tính toán dựa trên số liệu kiểm kê khí nhà kính mới nhất, tăng hơn 100
triệu tấn so với BAU trong NDC đầu tiên (ban hành năm 2015). Sự thay đổi này có được
là do những lĩnh vực công nghiệp được thêm vào danh sách các phạm vi phát thải lớn
nhất, bên cạnh “năng lượng”, “chất thải” và “nông nghiệp”. Riêng “chuyển đổi sử dụng
đất và lâm nghiệp” (LULUCF) vẫn là lĩnh vực hấp thụ CO2 chủ yếu.
An ninh nguồn thực phẩm và cải thiện nông nghiệp trở thành mục tiêu bị đe dọa tàn
bạo bởi sự biến động của khí hậu, gây nên đất nông nghiệp bị hạn hẹp. Quan trọng là diện
tích đất trũng ven biển đáng kể, chủ yếu là đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu
Long bị ngập trong nước mặn do nước biển dâng. Do đó, tốc độ sinh trưởng, năng suất
cây trồng cũng như lịch canh tác bị ảnh hưởng, nguy cơ sâu bệnh gia tăng; cây cận nhiệt
đới giảm trong khoảng thời kì thích ứng của cây nhiệt đới mở rộng. Sự sinh sản, tăng
trưởng và khả năng ngăn ngừa dịch bệnh của động vật nuôi trong nhà cũng bị liên lụy tiêu cực.
Thực trạng biến đổi khí hậu, nguồn nước đối mặt với mối hiểm họa suy thoái do hạn
hán gia tăng không ngừng ở một số vùng và trong một số mùa nhất định, đồng thời gây
hại trực tiếp đến quá trình vận chuyển cung cấp nước ở thôn xã và thành phố, ngành nông
nghiệp và sản xuất điện. Các tình trạng lũ khắc nghiệt vào mùa mưa và hạn hán vào mùa
khô xảy ra do lưu lượng nước mưa thay đổi có thể dẫn đến làm gia tăng xung đột trong
các tiến hành hoạt động thu gom và sử dụng nguồn nguyên liệu nước.
Với mục đích hàng đầu là trở thành một nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020,
Việt Nam thúc đẩy hoạt động chế tạo và tiêu thụ nguồn tài nguyên tăng mạnh, đặc biệt là
trong các ngành công nghiệp, giao thông và nâng cấp đô thị. Việc này sẽ hình thành
lượng đào thải khí nhà kính cao hơn. Nó không những chống lại xu hướng quốc tế mà
còn đòi hỏi mỗi quốc gia bao gồm đất nước tiến bộ và đang phát triển cần thực hiện giảm
khối lượng phát thải khí nhà kính để bảo đảm an toàn cho hệ thống khí hậu chung của
toàn trái đất. Trong khi đó, nguồn tài nguyên tái chế và năng lượng mới chỉ phát thải ra
lượng khí nhà kính thấp lại không được chú trọng bằng những đầu tư lớn và chi phí cao,
bỏ qua những năng lượng có thể tái sử dụng, tiết kiệm hiệu quả không kém. Nhiều chính
sách quy mô toàn cầu áp dụng việc ngăn ngừa phát thải khí nhà kính đang được thực thi
thì lại có thể gây ra các chướng ngại thương mại mới. Những nền kinh tế đang tiến bộ
hiện tại như Việt Nam, nếu không chắc chắn với những con đường và quyết định cứng
rắn thì họ mãi chẳng thể vượt qua những rào cản đó vì thiếu các nguồi lực chính về tài
chính và công nghệ cần thiết để có thể sản xuất hàng loạt những sản phẩm có thể cạnh tranh trên thị trường.
Nhận thức của tập thể Việt Nam về biến đổi khí hậu còn rất nhiều giới hạn và phiến
diện do chủ yếu chú tâm vào các ảnh hưởng tiêu cực và chỉ biết hưởng lợi từ những thứ
trước mắt mà chưa phù hợp với phong cách sống, mô hình chế tạo và tiêu dùng với
phương hướng carbon thấp và tăng trưởng xanh. Những thách thức này đang thúc giục
Việt Nam trở thành quốc gia kiên cường phấn đấu hơn nữa trong các biện pháp nhằm
nâng cao nhận thức cộng đồng và năng lực cùng những chính sách ứng phó với biến đổi
khí hậu. Sau cùng nhằm đồng thời thúc đẩy cải thiện sự thịnh vượng trong kinh tế nhằm
nâng cao năng lực cạnh tranh kinh tế và chứng minh vị thế quốc gia trên thương trường quốc tế. III. Nguyên nhân :
Biến đổi khí hậu cũng có thể do các hoạt động của con người gây ra, chẳng hạn như
đốt nhiên liệu hóa thạch và chuyển đổi đất cho nông nghiệp và lâm nghiệp. Kể từ khi bắt
đầu cuộc Cách mạng Công nghiệp, những ảnh hưởng của con người đến hệ thống khí hậu
đã tăng lên đáng kể. Ngoài các tác động môi trường khác, các hoạt động này làm thay đổi
bề mặt đất và thải ra khí quyển các chất khác nhau. Do đó, những điều này có thể ảnh
hưởng đến cả lượng năng lượng đến và lượng năng lượng đi ra và có thể có cả tác động
làm ấm và làm mát khí hậu. Sản phẩm chính của quá trình đốt cháy nhiên liệu hóa thạch
là carbon dioxide, một loại khí nhà kính. Hiệu ứng tổng thể của các hoạt động của con
người kể từ cuộc Cách mạng Công nghiệp là hiệu ứng ấm lên, chủ yếu do phát thải khí
cacbonic và tăng cường phát thải các khí nhà kính khác.
Một số khí trong bầu khí quyển của Trái đất hoạt động giống như thủy tinh trong nhà
kính, giữ nhiệt mặt trời và ngăn nó rò rỉ trở lại không gian. Nhiều loại khí trong số này
xuất hiện tự nhiên, nhưng hoạt động của con người đang làm tăng nồng độ của một số
chúng trong khí quyển, cụ thể là: carbon dioxide (CO2), mêtan, nitơ oxit, khí flo hóa.
CO2 là khí nhà kính thường được tạo ra bởi các hoạt động của con người và nó là nguyên
nhân gây ra 64% sự nóng lên toàn cầu do con người tạo ra. Nồng độ của nó trong khí
quyển hiện cao hơn 40% so với khi bắt đầu công nghiệp hóa. Các khí nhà kính khác được
thải ra với số lượng nhỏ hơn, nhưng chúng giữ nhiệt hiệu quả hơn nhiều so với CO2, và
trong một số trường hợp, nó mạnh hơn hàng nghìn lần. Mêtan là nguyên nhân gây ra 17%
sự nóng lên toàn cầu do con người tạo ra, oxit nitơ chiếm 6%.Nguyên nhân tăng phát
thải, đốt than, dầu và khí đốt tạo ra khí cacbonic và nitơ oxit. Chặt phá rừng (phá rừng).
Cây xanh giúp điều hòa khí hậu bằng cách hấp thụ CO2 từ khí quyển. Vì vậy, khi chúng
bị đốn hạ, tác dụng có lợi đó sẽ mất đi và carbon tích trữ trong cây được thải vào khí
quyển, làm tăng thêm hiệu ứng nhà kính. Tăng gia chăn nuôi. Bò và cừu tạo ra một lượng
lớn khí mê-tan khi chúng tiêu hóa thức ăn. Phân bón có chứa nitơ tạo ra khí thải nitơ oxit.
Khí flo tạo ra hiệu ứng nóng lên rất mạnh, lớn hơn CO2 tới 23000 lần. Rất may, chúng
được phát hành với số lượng ít hơn và đang bị quy định của EU loại bỏ dần. Sự nóng lên
toàn cầu các nhà máy điện và các cơ sở lắp đặt trong ngành công nghiệp khác là những
nơi phát thải CO2 chính. Nhiệt độ trung bình toàn cầu hiện tại cao hơn 0,85ºC so với vào
cuối thế kỷ 19. Mỗi thập kỷ trong ba thập kỷ qua đều ấm hơn bất kỳ thập kỷ nào trước đó
kể từ khi các kỷ lục bắt đầu vào năm 1850. Các nhà khoa học khí hậu hàng đầu thế giới
cho rằng các hoạt động của con người gần như chắc chắn là nguyên nhân chính gây ra
hiện tượng ấm lên được quan sát từ giữa thế kỷ 20. Việc tăng 2°C so với nhiệt độ trong
thời kỳ tiền công nghiệp được các nhà khoa học coi là ngưỡng vượt quá nguy cơ cao hơn
nhiều có thể xảy ra những thay đổi nguy hiểm và có thể thảm khốc trong môi trường toàn
cầu. Vì lý do này, cộng đồng quốc tế đã nhận ra sự cần thiết phải giữ cho sự ấm lên dưới
2°C. Sự tích tụ của các khí nhà kính trong khí quyển đã dẫn đến việc tăng cường hiệu
ứng nhà kính tự nhiên. Chính sự gia tăng hiệu ứng nhà kính do con người gây ra này là
vấn đề đáng quan tâm vì liên tục phát thải khí nhà kính có khả năng làm ấm hành tinh
đến mức chưa từng có trong lịch sử văn minh nhân loại. Biến đổi khí hậu như vậy có thể
gây ra những hậu quả sâu rộng và / hoặc khó lường về môi trường, xã hội và kinh tế.
Nguyên nhân tự nhiên của biến đổi khí hậu:
Như chúng ta đã biết, trái đất đã trải qua giai đoạn ấm và lạnh trong quá khứ, và rất
lâu trước khi có con người. Các lực góp phần gây ra biến đổi khí hậu bao gồm cường độ
mặt trời, núi lửa phun trào và thay đổi nồng độ khí nhà kính tự nhiên. Nhưng các ghi
chép chỉ ra rằng sự nóng lên của khí hậu ngày nay - đặc biệt là sự ấm lên từ giữa thế kỷ
20 - đang diễn ra nhanh hơn bao giờ hết và không thể giải thích được chỉ bằng các
nguyên nhân tự nhiên. Theo NASA, "Những nguyên nhân tự nhiên này vẫn còn nguyên nhân ngày nay,
nhưng ảnh hưởng của chúng quá nhỏ hoặc chúng xảy ra quá chậm để giải thích cho
sự nóng lên nhanh chóng được thấy trong những thập kỷ gần đây."
Hình 5. Ảnh núi lửa S.t Helens phun trào tại tiểu bang Wasington, Hoa Kì. IV. Hậu quả :
1. Trên thế giới.
a. Tác động đến động vật.
Việc biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng gây ảnh hưởng đến nhiều loài động
thực vật trên thế giới. Theo như số liệu thông kê thì tại Ấn Độ nhiệt độ có thể lên tới 46
độ C, điều đó dẫn đến một đàn khỉ chết vì không thể tìm được nguồn nước, bên cạnh đó ở
Úc dơi chết hàng loạt vì nhiệt độ quá cao. Hơn thế, rừng nhiệt đới Amazon cũng đang
đứng trước nguy cơ phải mất đi một số loài động vật quý hiếm nếu lượng khí nhà kính
không được kiểm soát. Một số các khu vực như rừng Miombo ở Nam Phi và Tây Nam
Australia đang hứng chịu những hậu quả nặng nề nhất do việc biến đổi khí hậu . Việc môi
trường ngày càng nóng lên làm băng tan, mực nước biển ngày càng dâng cao, các cơn
bão xuất hiện ngày càng nhiều khiến cho các loài động vật cũng bị ảnh hưởng theo. Từ
đó, có thể dẫn đến diện tích, lãnh thổ sinh sống và chuỗi thức ăn của các loài động vật
cũng bị thu hẹp đi rất nhiều. Biến đổi khí hậu gây ra các tác động tiêu cực đến việc sinh
sản của loài rùa như là phá hủy các khu vực làm tổ của chúng, nhiệt độ nóng lên dẫn đến
trứng không thể nở được. Bên cạnh đó, các biến động về nhiệt độ ở biển cũng gây ảnh
hưởng đến nguồn thức ăn của các loài. Ngoài ra, kể từ những năm 1970 quần thể loài
chim cánh cụt ở phía tây Nam Cực đã suy giảm ít nhất 80%. Việc này còn dẫn tới những
loài động vật sống ở Bắc Cực và Nam Cực bị ảnh hưởng rất nhiều vì môi trường sống
của chúng phần lớn là trên những tảng băng khi thời tiết nóng lên làm băng tan và đẩy
chúng đến vùng đất khô cằn khắc nghiệt. Nếu các loài động vật di chuyển đến khu vực có
môi trường sống và khí hậu thích hợp thì có thể làm giảm sự tuyệt chủng của chúng,
nhưng cũng có một số loài không có khả năng thích ứng với môi trường sống mới.
Hình 6. Động vật chết do thời tiết nóng lên.
a. Tác động đến Nam Cực và Bắc Cực.
Thế giới ghi nhận rằng ở Nam Cực đã phải trải qua những ngày nóng kỷ lục. Vào
ngày 6/2, cơ quan phụ trách thời tiết Liên Hợp Quốc đã phát hiện kỷ lục mới ở Nam Cực
đó là nhiệt độ lên đến 18,3 độ C tăng gần 1 độ C so với kỷ lục trước đó được ghi nhận
vào ngày 24/3/2015 là 17,5 độ C. Ở Nam Cực, các miệng hố trên thềm băng Vua Baudoin
ở phía Đông được một số nhà nghiên cứu cho rằng không phải do va chạm với thiên
thạch mà nguyên nhân là do gió mang hơi nóng nên gây ra hiện tượng băng trên bề mặt
bị xói mòn. Việc nhiệt độ tăng cao không chỉ dừng lại ở đó mà còn dẫn đến hậu quả như
tạo thành các vết nứt trong kết cấu chắc chắn của các thềm băng và khiến cho các mảng
băng phía trên dễ bị tổn thương hơn. Nếu lượng băng ở Nam Cực tan ra thì có thể khiến
cho mực nước biển dâng lên hàng chục mét và có thể dẫn đến nhiều thiên tai khác.
Hình 7. Nhiệt độ tăng cao ở Nam Cực.
Ngược lại với đó thì ở Bắc Cực tốc độ ấm lên của nhiệt độ nhanh gấp 2 lần so với
thế giới, vào ngày 20/6 thị trấn lạnh lẽo Verkhoyansk ở tỉnh Siberia của nước Nga nằm
trên vùng đất ở phía bắc vòng Bắc Cực ghi nhận nhiệt độ nóng kỷ lục lên đến 38 độ C.
Băng tan do khí hậu nóng lên sẽ giải phóng khối lượng khí các-bô-níc và khí mê-tan nằm
sâu dưới lòng đất băng giá, góp phần làm gia tăng hiệu ứng nhà kính. Đáng quan ngại
hơn, tầng băng vĩnh cửu càng ngày thải ra nhiều lượng cacbon và đẩy nhanh quá trình
biến đổi khí hậu. Tình trạng băng tan đang đe dọa đến sự sinh hoạt và sinh tồn của người
dân bản địa bởi vì băng chính là mặt bằng di chuyển chính của họ, điều đáng quan tâm
hơn là lời cảnh báo về những tầng băng vĩnh cửu chứa lượng khí cacbon (dao động từ
300 – 600 triệu tấn) nhiều gấp mười lần rừng Amazon, chúng không ngừng thải ra lượng
khí cacbon vào tầng khí quyền, vượt xa số lượng mà cây xanh có thể hấp thụ và xử lý. Vì
vậy, Bắc Cực không chỉ bị tác động bởi việc biến đổi khí hậu mà còn trở thành một nhân
tố làm biến đổi khí hậu.
Hình 8. Băng tan ở Bắc Cực.
b. Tác động đến rừng.
Theo như báo cáo được đánh giá từ 57 bài nghiên cứu khoa học ở Anh, các sự kiện
cháy rừng diễn ra trên toàn thế giới đang có xu hướng ngày càng gia tăng, mà một phần
nguyên do chính là việc biến đổi khí hậu của thế giới.
Cụ thể, rừng có sức tác động mạnh mẽ đối với khí hậu thông qua nhiều con đường
khác nhau và ngược lại, ví dụ như khi nhiệt độ tăng lên và trở nên ấm hơn sẽ sản sinh ra
một số các loài sâu bệnh, vi khuẩn mới khiến rừng dễ bị tổn thương hơn và làm tăng khả
năng hỏa hoạn do thời tiết trở nên khô nóng, hạn hán kéo dài,…
Điển hình cho việc này, chính là một loạt các sự kiện cháy rừng ở Úc vào khoảng
cuối 2019 - đầu 2020, đã để lại những hậu quả kinh khủng khi có 28 người chết, nửa triệu
loài động vật trong New South Wales bị ảnh hưởng, hơn một tỉ các loài động vật như dơi,
động vật không xương sống, các loài lưỡng cư,..chết và có thể đi đến bờ vực tuyệt chủng.
Ngoài ra, mùa cháy rừng này đã đốt đi khoảng 10.7 triệu hecta rừng, phá hủy hơn 5900
công trình xây dựng, trong đó có hơn 2203 ngôi nhà,..Và lý do lớn nhất cho việc này,
chính là biến đổi khí hậu đã gây ra sự nóng lên toàn cầu, làm khô đất cùng với thảm thực