lOMoARcPSD| 59757093
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
KHOA TRUYỀN THÔNG VÀ VĂN HÓA ĐỐI NGOẠI
:
:
:
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, chúng em xin gửi lời cảm ơn tới Khoa Truyền thông Văn hóa đối
ngoại, Học viện Ngoại giao đã đưa bộ Chủ nghĩa xã hội khoa học vào trong chương trình
giảng dạy ngành Truyền thông Quốc tế. Qua môn học, chúng em có thể trang bị cho mình
những kiến thức nền tảng quan trọng bước đầu tiếp cận với phương pháp nghiên cứu
khoa học để phục vụ cho quá trình học tập, mở rộng hiểu biết về sự chuyển biến tất yếu
của xã hội, con người.
Chúng em xin gửi lời cảm ơn tới Bùi Thị Tỉnh giảng viên giảng dạy bộ môn
Chủ nghĩa xã hội khoa học . Nhờ sự tâm huyết và chỉn chu trong từng bài giảng, cùng với
đó cách chuyển tải kiến thức sinh động, linh hoạt, logic của cô, chúng em thể nắm
bắt hiểu nội dung kiến thức của môn học. Đồng thời, chúng em xin cảm ơn đã
giao cho chúng em thực hiện bài tập này.
Chúng em hi vọng rằng, Khoa Truyền thông và Văn hóa đối ngoại, Học viện Ngoại
giao sẽ tiếp tục xây dựng chương trình giảng dạy ngành Truyền thông Quốc tế với những
môn học bổ ích như môn Chủ nghĩa hội khoa học, góp phần đào tạo các thế hệ sinh
viên - nguồn lao động chất lượng cao trong lĩnh vực Truyền thông - sáng tạo, năng động,
bản lĩnh, nhạy bén với thời cuộc và mang đậm “Bản sắc DAV”.
Dù đã cố gắng hết sức để hoàn thành bài báo cáo, nhưng chúng em cũng không thể
tránh được những sai sót. Chúng em mong sẽ nhận được những ý kiến đóng góp từ cô để
có thể rút kinh nghiệm và hoàn thành tốt hơn trong những bài báo cáo tiếp theo.
Cuối ng, chúng em xin chúc Bùi Thị Tỉnh thật nhiều sức khỏe, hạnh phúc
thành công.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
LỜI ĐỀ TỰ
Bộ môn Chủ nghĩa hội khoa học nhằm mục đích giúp sinh viên ngành truyền
thông tiếp cận và trau dồi kiến thức về sự biến đổi tất yếu của cuộc sống và con người qua
các góc nhìn triết học, kinh tế học chính trị và chính trị.
1. Giới thiệu về chủ đề lựa chọn
Thực hiện nhiệm vụ của bài kiểm tra giữa kỳ, bài báo cáo của nhóm 1 tập trung vào
những vấn đề chính sau:
Thứ nhất, nêu rõ khái niệm và đặc điểm tiêu biểu của “Khoảng cách thế hệ trong việc
nuôi dạy con cái”
Thứ hai, tìm hiểu về nguyên nhân và ảnh hưởng của khoảng cách thế hệ đến việc nuôi dạy
con cái
Thứ ba, tìm kiếm và phân tích những phương pháp dạy con tiêu biểu đang được
áp dụng rộng rãi trong thời đại ngày nay.
2. Cấu trúc bài báo cáo
Bài báo cáo được thực hiện theo cấu trúc:
- Phần I: Khái niệm
- Phần II: Đặc điểm
- Phần III: Nguyên nhân
- Phần IV: Ảnh hưởng
- Phần V: Giải pháp
I. Khái niệm về khoảng cách thế hệ trong việc nuôi dạy con cái
1. Lời đầu
Gia đình, một khái niệm quen thuộc gắn liền với cuộc sống hàng ngày của chúng ta.
Trong gia đình có mối liên kết với nhau từ quan hệ huyết thống hoặc nuôi dưỡng. Là
nơi mà những con người gắn kết sinh sống với nhau, tạo nên mối quan hệ mật thiết. Gia
đình là hình ảnh phản ánh của một xã hội thu nhỏ. Trải qua nhiều thời kỳ phát triển của
xã hội, gia đình Việt Nam được hình thành và phát triển với nhiều thế hệ con người
những chuẩn mực đạo đức có giá trị cao quý. Những giá trị đạo đức, văn hóa, truyền
thống tốt đẹp được gìn giữ vun đắp và phát triển trong suốt quá trình lịch sử dựng nước
và giữ nước của dân tộc. Qua các thời kỳ, cấu trúc và quan hệ trong gia đình có thay
đổi, nhưng những chức năng cơ bản của gia đình vẫn luôn tồn tại.
Gia đình là một nền tảng không thể thiếu đối với sự phát triển của từng cá nhân, con
người. Gia đình là cái nôi nuôi dưỡng và thành nên nhân cách, lối sống, lối suy nghĩ,
cách đối nhân xử thế của một cá nhân. Chính vì vậy, vai trò của gia đình là vô cùng quan
trọng, cần được hiểu rõ và tiếp nhận một cách sâu sắc hơn. Xây dựng gia đình mới xã hội
chủ nghĩa được thực hiện trên cơ sở kế thừa những giá trị tốt đẹp nhất của gia đình
truyền thống, đồng thời tiếp thu những tiến bộ của thời đại chính là tạo nên gia đình văn
hóa. Đối với việc xây dựng gia đình văn hóa ở nước ta thời gian qua, chúng ta đã gặt hái
được nhiều thành tựu cũng như vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế chế. Xuất phát từ tình
hình thực tế trên, nhóm em xin lựa chọn đề tài “Khoảng cách thế hệ trong việc nuôi dạy
con cái trong gia đình”
1. Khái niệm
“Khoảng cách thế hệ trong việc nuôi dạy con cái” sự khác biệt, tạo ra vách
ngăn trong niềm tin, suy nghĩ, tưởng, lối sống các ứng xử trước những vấn đề giữa
thế hệ này với thế hệ khác, từ đó tạo ra những ảnh hưởng khác nhau rệt trong quá
trình phát riển nhận thức và trưởng thành của con cái.
II. Đặc điểm, biểu hiện của khoảng cách thế hệ trong việc nuôi dạy con cái
Có thể nói, nuôi dạy con cái dù ở bất kỳ thời đại nào, trước hay nay, dù trong bất
kì bối cảnh xã hội nào thì đều là những thử thách đối với bậc làm cha làm mẹ. Ngay cả
khi xã hội phát triển với sự ra đời của nhiều công cụ hỗ trợ, song làm thế nào để tạo môi
trường cho con phát triển, làm thế nào để cha mẹ thấu hiểu và đồng hành trên con đường
trưởng thành của con, đây đều là những câu hỏi khiến rất nhiều bậc cha mẹ băn khoăn và
vẫn chưa tìm ra phương pháp.
Đối sánh việc nuôi dạy con trong 2 bối cảnh xã hội Việt Nam xưa và nay, ta thấy sự
khác biệt rõ rệt. Xã hội ngày càng phát triển sẽ kéo theo những cách dạy con cũng trở nên
khác biệt và không còn giống với “ngày xưa”.
20- 30 năm trước, hầu hết các bậc cha mẹ không được tiếp cận với sách vở, mạng
xã hội hay những buổi hội thảo trực tuyến của các nhà tâm lý học và và giáo viên. Trẻ em
được nuôi dạy bằng trực giác, thường dựa trên kinh nghiệm của người đi trước. Đây là
do tại sao không có gì ngạc nhiên về thực tế là nhiều giá trị mà cha mẹ chúng ta từng nghĩ
là bất biến nhưng thực ra lại không phải như vậy.
1. Sự khác nhau trong giá trị, quan điểm đời thường
Minh chứng 1: Sự khác nhau trong việc đặt tên
Ngày xưa, cha mẹ thường đặt tên con với mục đích dễ nhớ, dễ gọi. sinh nhiều
con, ít thì 4-5, nhiều thì 9-10 người, nhà con đông n nên việc đặt tên con diễn ra
nhanh chóng, không mang ý nghĩa cụ thể nào. Để dễ nhớ, cha mẹ thường đặt cho con
những cái tên rất gần gũi, gắn với những thứ xung quanh mình. Khi liên kết các tên ấy với
nhau, nhiều người nghe không thể nhịn cười. Các loại cây ăn quả như mít., na, bưởi, xoài
hay một số vật dụng dao, thuổng, bát, ly, chậu cũng được cha mẹ tận dụng để đặt tên cho
con. 12 con giáp trong tín ngưỡng dân gian cũng được người xưa dùng để đặt tên cho con.
Con sinh vào năm con giáp nào thì đặt tên con theo năm ấy. dụ sinh vào năm con dê thì
đặt tên là Mui, sinh vào năm con lợn thì đặt tên là Hợi… Có nhà đặt tên cho con theo các
hiện tượng thiên nhiên như Mưa, Nắng,...
Theo các cụ cao niên, người xưa đặt tên cho con thường tránh tên vua, chúa hay tên
huý của các vị thành hoàng. Thậm chí, đặt tên con càng xấu càng khoẻ mạnh, dễ nuôi.
nơi, người xưa còn quan niệm nếu đặt tên con đẹp thì sẽ bị “ma bắt”.
Ngày nay, trái ngược với người xưa, nhiều cha mẹ hiện nay thường rất cầu kỳ trong
việc đặt tên cho con. Họ thậm chí đã nghĩ tới việc đặt tên cho con từ khi chưa mang thai.
Những cái tên thường dài. Con không chỉ còn mang họ cha thể còn cả họ mẹ. Tên
đệm ít khi còn là “Thị” hay “Văn” mà thay bằng những từ nghe hay hơn nhiều.
Nhiều cặp vợ chồng trẻ còn lên mạng để tra cứu tên hay cho con. Thậm chí họ còn
cài đặt cả ứng dụng đặt tên con theo tuổi bố mẹ tốt nhất trên điện thoại để dễ nghiên cứu.
Anh Trần Văn Huy ở TP Hải Dương còn đi nhờ cả một nhà giúp đặt tên cho con. Sau
khi xem, nhà này đặt cho con gái anh cái tên khá dài Trần Thị Phương Mỹ Hân. “Tên
con cũng phải hợp cung tướng số, mệnh của bố mẹ thì nhà cửa mới yên ấm, làm ăn phát
đạt”, anh Huy quan niệm.
Không ít cha mẹ đặt cho các con cùng một cái tên, chỉ khác tên đệm. Ví dụ như một
gia đình sinh hai con trai đặt tên lần lượt là Nguyễn Hoàng Anh và Nguyễn Đức
Anh. Một cặp vợ chồng khác sinh hai con gái đặt tên là Nguyễn Lê Hoài Trang và
Nguyễn Minh Trang…
Quan niệm trong cách đặt tên cho con giữa thời xưa nay đã sự thay đổi. Đặt
tên cho con việc quan trọng nhưng cái chính cha mẹ cần chăm sóc, giáo dục con để
sau này chúng lớn n sẽ trở thành những người sống hiếu, đạo đức, giúp ích cho gia
đình và xã hội..
Theo các cụ cao niên, người xưa đặt tên cho con thường tránh tên vua, chúa hay tên
huý của các vị thành hoàng. Thậm chí, đặt tên con càng xấu càng khoẻ mạnh, dễ nuôi.
nơi, người xưa còn quan niệm nếu đặt tên con đẹp thì sẽ bị “ma bắt”.
Ngày nay, trái ngược với người xưa, nhiều cha mẹ hiện nay thường rất cầu kỳ trong
việc đặt tên cho con. Họ thậm chí đã nghĩ tới việc đặt tên cho con từ khi chưa mang thai.
Những cái tên thường dài. Con không chỉ còn mang họ cha mà có thể còn cả họ mẹ.
Tên đệm ít khi còn là “Thị” hay “Văn” mà thay bằng những từ nghe hay hơn nhiều. Nhiều
cặp vợ chồng trẻ còn lên mạng để tra cứu tên hay cho con. Thậm chí họ còn cài đặt cả ứng
dụng đặt tên con theo tuổi bố mẹ tốt nhất trên điện thoại để dễ nghiên cứu.
Anh Trần Văn Huy ở TP Hải Dương còn đi nhờ cả một nhà sư giúp đặt tên cho con.
Sau khi xem, nhà sư này đặt cho con gái anh cái tên khá dài là Trần Thị Phương Mỹ Hân.
“Tên con cũng phải hợp cung tướng số, mệnh của bố mẹ thì nhà cửa mới yên ấm, m ăn
phát đạt”, anh Huy quan niệm.
Không ít cha mẹ đặt cho các con cùng một cái tên, chỉ khác tên đệm. Ví dụ như một
gia đình sinh hai con trai đặt tên lần lượt là Nguyễn Hoàng Anh và Nguyễn Đức
Anh. Một cặp vợ chồng khác sinh hai con gái đặt tên là Nguyễn Lê Hoài Trang và
Nguyễn Minh Trang…
Quan niệm trong cách đặt tên cho con giữa thời xưa nay đã sự thay đổi. Đặt
tên cho con việc quan trọng nhưng cái chính cha mẹ cần chăm sóc, giáo dục con để
sau này chúng lớn n sẽ trở thành những người sống hiếu, đạo đức, giúp ích cho gia
đình và xã hội..
Minh chứng 2: Quan điểm về giới xưa và nay
Ngày xưa rất nhiều cha mẹ cho rằng phải đẻ được 1 người con trai để nối dõi tông
đường, thế gây sự bất bình, “trọng nam khinh nữ” trong việc nuôi dạy con cái. Thời
phong kiến, chỉ con trai mới được học hành, thi cử, làm quan. Còn phụ nữ phải công
dung ngôn hạnh, gắn với nội trợ, bếp núc, phục vụ chăm sóc gia đình. Hay
trong các triều đại phong kiến, ngai vàng chỉ được truyền cho con trai. Thậm chí, người
nắm quyền hành, chức vụ trong triều đình cũng chỉ có nam nhi. Phụ nữ thì bị coi như tì
thiếp, không hề có tiếng nói trong gia đình, xã hội. Vì suy nghĩ rập khuôn ấy nên ảnh
hưởng đến khá nhiều gia đình trong quá trình tác động suy nghĩ, nhận thức vào con trẻ.
Nhưng giờ đây, theo sự thay đổi chung của thời đại, người phụ nữ ngoài trách nhiệm
truyền thống là làm con, làm dâu, làm mẹ, làm vợ… đã thực sự bước vào xã hội với nhiều
vai trò khác nhau trên tất cả các lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, giáo dục, văn hóa, khoa học
kỹ thuật… và phụ nữ đã và đang nắm giữ các vị trí quan trọng trong bộ máy lãnh đạo của
Đảng, Nhà nước, các cơ quan, doanh nghiệp… ngày càng chiếm tỷ lệ cao. Rất nhiều phụ
nữ có kinh tế, có địa vị xã hội nhưng vẫn không quên thiên chức làm vợ, làm mẹ. Họ biết
tận dụng giờ nghỉ, tranh thủ đi chợ, nấu ăn, dọn dẹp nhà cửa, chăm sóc con và cả gia đình,
tranh thủ đi học để nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của hội. Đó chính
hiện thân của phụ nữ trong thời đại mới, hội đủ các yếu tố công, dung, ngôn, hạnh”
thời nay. Chính sự phát triển của xã hội, tiếp xúc với nhiều nền văn minh khác nhau, nên
cha mẹ từ đó cũng thay đổi cách nhìn, cách suy nghĩ về bình đẳng giới, từ đó giáo dục con,
cả trai lẫn gái đều dựa trên sự bình đẳng như nhau. Con gái hay con trai đều có thể tạo ra
những giá trị nhất định, không nên quy kết chóng vội.
2. Phương pháp giáo dục khác nhau giữa xưa và nay
Ngày xưa cha mẹ thường răn dạy con cái theo kinh nghiệm xã hội được truyền lại từ
những đời trước đã tạo thành nếp, thành thói quen in sâu vào m thức của họ. Đặc biệt,
việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ để áp dụng cho việc dạy con trở n phổ biến. Ví dụ như
“Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi” hay “Ân sâu nghĩa nặng chớ quên/ m
con phải giữ lấy nền phong gia” .
hình cấu trúc làng ngày xưa sống quay quần bên nhau, người gần người
hơn, trọng chữ “tình” trong đối nhân xử thế nên cha mẹ dạy cho con những bài học về lối
sống giản dị trước hết yêu thương người thân, làng xóm, như “Bán anh em xa, mua
láng giềng gần”. Con cái gần với cha mẹ, ng xóm tạo nên một quỹ thời gian thoải mái
hơn, không ai cấm cản kiểm soát chặt chẽ. Cho nên, người xưa ít mắc phải những bệnh
lý, những vấn đề về mặt tinh thần hơn bây giờ.
Thời xưa, việc học với trẻ em nhẹ nhàng hơn rất nhiều so với bây giờ, trẻ em rất ít
bị áp lực về điểm số, cấp bậc, đại học, công việc chồng chất như hiện tại. Bên cạnh việc
học, trẻ em khi trưởng thành còn được chọn nhiều công việc khác, thể đi học nghề từ
sớm hoặc trong thời chiến, thanh niên có thể chọn cách đi nghĩa vụ để bảo vê độc lập dân
tộc. Tất nhiên, tất cả những điều ấy chỉ giúp con được an toàn tốt hơn. Nhưng
tình, chúng ta lại mang đến bầu không khí ngột ngạt hơn đến cho con trẻ. Cũng chính
vậy mà trẻ lại mong muốn tự do hơn, do đó sự xung đột trong tâm trí càng nhiều, điều đó
khiến mọi thứ trở nên tồi tệ hơn và có lẽ còn gây ra sự xa cách giữa cha mẹ và con cái.
Thực trạng hội luôn báo động về tình trạng trẻ em hiện nay đã mất quá nhiều thời
gian để vui chơi, mà thay vào đó, trẻ em phải tham gia rất nhiều lớp học thêm. Vì vậy, khi
con của những phụ huynh này nhận được “môi trường hoàn hảo” tức chúng bắt buộc
phải tài giỏi.
III. Nguyên nhân của khoảng cách thệ hệ trong việc nuôi dạy con
Sự thay đổi văn hóa hội: Các quan điểm phong cách sống sự thay đổi
qua các thế hệ.
Ví dụ: Chủ đề nhạy cảm và giới tính: Trong thời đại ngày nay, có một sự chuyển đổi
lớn trong cách mà xã hội nhìn nhận về giới tính và vai trò giới tính. So với trước đây, ngày
nay chúng ta có sự cởi mở và chấp nhận cao hơn đối với sự đa dạng giới, bản dạng giới và
xu hướng tính dục. Bên cạnh đó, sự phổ biến của công nghệ mạng hội đã thay đổi
cách mà con cái tiếp cận thông tin giải trí. Trẻ em thanh thiếu niên trong thế hệ mới
thường tiếp xúc với công nghệ từ khi còn rất nhỏ thông qua các thiết bị như điện thoại thông
minh, máy tính bảng hay máy tính cá nhân. Điều này cũng tạo ra một môi trường nuôi dạy
khác biệt so với các thế hệ trước đây.
Giá trị, niềm tin và phong cách sống khác nhau giữa các thế hệ:
Mỗi thế hệ thường các giá trị niềm tin riêng, dựa trên trải nghiệm môi trường
hội của họ. Cách mà mỗi thế hệ sống, làm việc giải tcũng có thể khác nhau. Các
thế hệ đều những kinh nghiệm riêng từ qkhứ môi trường hiện tại. Sự khác biệt
trong kinh nghiệm này có thể dẫn đến sự thiếu hiểu biết về những thách thức và cơ hội mà
con cái đang đối diện nhưng những sự khác biệt này cũng thể tạo ra gen gap trong việc
nuôi dạy con, thường đòi hỏi sự linh hoạt hiểu biết từ cả hai bên để tạo ra một môi
trường nuôi dạy tích cực và phù hợp với nhu cầu của con cái.
Công việc và sự cân bằng giữa công việc và cuộc sống:
Mô hình gia đình đã thay đổi qua các thế hệ, với nhiều gia đình ngày nay có cả hai
bố mẹ đều tham gia vào lực lượng lao động. Điều này có thể tạo ra một môi trường nuôi
dạy khác biệt so với các thế hệ trước đây, khi mà ngày xưa sẽ một trong hai bố mẹ thường
ở nhà chăm sóc con cái.
Kỳ vọng
hội ngày nay thường đặt ra nhiều áp lực kỳ vọng cao cho các gia đình con
cái, từ việc thành công học vấn đến thành tích trong công việc và cuộc sống cá nhân. Điều
này có thể tạo ra căng thẳng và khó khăn trong việc nuôi dạy con.
Yếu tố cá nhân
Mỗi đứa trẻ một cá thể riêng biệt với nhu cầu và tính cách riêng. Điều này có nghĩa
là phương pháp nuôi dạy phải phù hợp với cá nhân từng đứa con, và điều này có thể tạo ra
sự khác biệt giữa các thế hệ.
IV. Ảnh hưởng của khoảng cách thế hệ trong việc nuôi dạy con cái
a. Tích cực
Không thể phủ nhận rằng, việc cùng nuôi dạy con cái giữa ông bà và bố mẹ đem
đến một số tác động tích cực đến sự phát triển của trẻ nhỏ. Khi nhận được tình yêu, sự
quan tâm của cả ông bà và cha mẹ, trẻ có cảm giác được chở che nhiều hơn. Điều này
giúp chúng phát triển tâm lý và tinh thần mạnh mẽ hơn. Trẻ học được thói quen, tính cách
tốt từ ông bà (nếu ông bà mẫu mực, có nhiều thói quen tốt). Những kinh nghiệm, những
giá trị truyền thống từ ông bà sẽ giúp trẻ được học hỏi và phát triển kỹ năng sống và giáo
dục.
b. Tiêu cực
Tuy nhiên không thể không nhắc đến mặt tiêu cực khoảng cách vô hình trong
nuôi dạy này mang lại:
ông bà và bố mẹ đều có những quan điểm khác nhau trong việc nuôi dạy trẻ, gây
ra sự xung đột trong phương pháp giáo dục.
Trong khi các mẹ cố gắng đưa trẻ vào những nguyên tắc ăn uống lành mạnh thì ông
bà luôn tỏ ra hoặc lo ngại, hoặc khó chịu, hoặc sốt ruột vì cách cho ăn của các bà mẹ. Ông
thường sẵn sàng bón cho cháu ăn hết bát cơm đầy, nếu cháu tỏ ý không muốn ăn,
thậm chí cho cháu vừa ăn bim bim, xem tivi vừa ăn m nếu cháu muốn… Sự thiếu thảo
luận giữa các thế hệ có thể dẫn đến thiếu sự đồng thuận về các vấn đề quan trọng như quy
tắc, giờ giấc, ăn uống.
Ông bà thường hay chiều cháu, cháu đòi gì được nấy, tạo thành thói quen hư. Cha mẹ
thì khác, phải để cho con tự lực làm việc học tập hay đạt được thành tựu gì đó thì mới được
nhận món đồ mình mong muốn. Nhiều ông bà từ khi cháu còn nhỏ đã luôn răn dạy rằng
cháu cần phải làm thế này, lớn lên phải trở thành người thế kia. Việc này chính là giết chết
đi những ước mơ của trẻ thơ, làm trẻ đi theo một con đường mơ hồ mà người lớn vạch sẵn
ra không suy nghĩ. Ông bà là một phần quan trọng trong cuộc sống của bất cứ đứa trẻ nào.
Sự mặt của ông bà mang lại những niềm vui kỷ niệm khó quên đối với con. Nhờ
sự hỗ trợ của ông bà, bmẹ sẽ cảm thấy cuộc sống của mình “dễ thở". Tuy nhiên đôi khi
sự quan tâm của ông bà với những đứa cháu lại dễ châm ngòi cho một cuộc chiến gia đình,
đặc biệt khi ông can thiệp, ép buộc cắt ngang mỗi lúc bố mẹ dạy con hoặc ngược
lại, khi bmẹ phớt lờ cảm nhận của ông bà. Khoảng cách thế hệ khiến cho quan điểm đối
với việc nuôi dạy con của bố mẹ và ông bà có những điểm khác biệt khá rõ ràng.
V. Các giải pháp dạy con tiến bộ đang được áp dụng hiện nay
Tôn trọng quan điểm của nhau:
Văn hoá Việt Nam khá nhiều truyền thống và khép kín, nhưng trong việc dạy con,
phần lớn cha mẹ Việt đều rất chịu khó học hỏi và cởi mở trước những phương pháp mới.
Dẹp bỏ truyền thống hay cái tôi qua một bên, miễn là những phương pháp đó mang lại
hiệu quả tích cực cho con ba mẹ sẵn sàng tìm hiểu và áp dụng.
Tuy nhiên, ông lại không hoàn toàn ủng hộ suy nghĩ đó. Họ thường cho rằng phương
pháp nuôi dạy con theo cách truyền thống là tốt nhất. Vì vậy, chúng ta hiểu rằng ông bà, bố
mẹ đều là những người có những kinh nghiệm và quan điểm riêng trong việc nuôi dạy con
cái. Tôn trọng những quan điểm khác biệt, không nên áp đặt ý kiến của thế hệ này lên thế
hệ khác.
Trao đổi cởi mở và chân thành, không chỉ trích:
Quy tắc hàng đầu đối với quan hệ giữa ông bố mẹ đừng chỉ trích. Chẳng
ai thích bị phản đối, phán xét hay đổ lỗi. Hiểu được tâm này, để giúp cải thiện khoảng
cách giữa hai thế hệ, bố mẹ nên dành thời gian trao đổi với ông về những bất đồng trong
việc nuôi dạy con cái. Thay vì chỉ trích, hãy gợi ý cho ông bà biết cách thức mà bố mẹ cần
ông bà hỗ trợ. Trao đổi cởi mở và chân thành để hiểu rõ quan điểm của nhau và tìm ra giải
pháp chung trong việc nuôi dạy con giữa hai thế hệ.
Phân chia trách nhiệm rõ ràng, không vượt quá giới hạn:
Chúng ta nên sự phân chia trách nhiệm ràng cho từng người trong việc chăm
sóc giáo dục con cái. dụ, bố mẹ thể ưu tiên việc học của con, m đến những phương
pháp giáo dục tốt nhất. Đồng thời ông cũng những sự “cứng nhắc” trong quan niệm
về ăn uống của trẻ. Mỗi người nên có những vai trò khác nhau không nên can thiệp khi
cùng đồng hành nuôi dạy con trẻ. Bố mẹ nên cho ông biết rằng bản thân không thoải mái
khi họ vượt quá vai trò của mình, như là ông bà cho một vài lời khuyên không thực sự cần
thiết về cách nuôi dạy con cái.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 59757093
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
KHOA TRUYỀN THÔNG VÀ VĂN HÓA ĐỐI NGOẠI : : : LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, chúng em xin gửi lời cảm ơn tới Khoa Truyền thông và Văn hóa đối
ngoại, Học viện Ngoại giao đã đưa bộ Chủ nghĩa xã hội khoa học vào trong chương trình
giảng dạy ngành Truyền thông Quốc tế. Qua môn học, chúng em có thể trang bị cho mình
những kiến thức nền tảng quan trọng và bước đầu tiếp cận với phương pháp nghiên cứu
khoa học để phục vụ cho quá trình học tập, mở rộng hiểu biết về sự chuyển biến tất yếu
của xã hội, con người.
Chúng em xin gửi lời cảm ơn tới cô Bùi Thị Tỉnh – giảng viên giảng dạy bộ môn
Chủ nghĩa xã hội khoa học . Nhờ sự tâm huyết và chỉn chu trong từng bài giảng, cùng với
đó là cách chuyển tải kiến thức sinh động, linh hoạt, logic của cô, chúng em có thể nắm
bắt và hiểu rõ nội dung kiến thức của môn học. Đồng thời, chúng em xin cảm ơn cô đã
giao cho chúng em thực hiện bài tập này.
Chúng em hi vọng rằng, Khoa Truyền thông và Văn hóa đối ngoại, Học viện Ngoại
giao sẽ tiếp tục xây dựng chương trình giảng dạy ngành Truyền thông Quốc tế với những
môn học bổ ích như môn Chủ nghĩa xã hội khoa học, góp phần đào tạo các thế hệ sinh
viên - nguồn lao động chất lượng cao trong lĩnh vực Truyền thông - sáng tạo, năng động,
bản lĩnh, nhạy bén với thời cuộc và mang đậm “Bản sắc DAV”.
Dù đã cố gắng hết sức để hoàn thành bài báo cáo, nhưng chúng em cũng không thể
tránh được những sai sót. Chúng em mong sẽ nhận được những ý kiến đóng góp từ cô để
có thể rút kinh nghiệm và hoàn thành tốt hơn trong những bài báo cáo tiếp theo.
Cuối cùng, chúng em xin chúc cô Bùi Thị Tỉnh thật nhiều sức khỏe, hạnh phúc và thành công.
Chúng em xin chân thành cảm ơn! LỜI ĐỀ TỰ
Bộ môn Chủ nghĩa xã hội khoa học nhằm mục đích giúp sinh viên ngành truyền
thông tiếp cận và trau dồi kiến thức về sự biến đổi tất yếu của cuộc sống và con người qua
các góc nhìn triết học, kinh tế học chính trị và chính trị.
1. Giới thiệu về chủ đề lựa chọn
Thực hiện nhiệm vụ của bài kiểm tra giữa kỳ, bài báo cáo của nhóm 1 tập trung vào
những vấn đề chính sau:
Thứ nhất, nêu rõ khái niệm và đặc điểm tiêu biểu của “Khoảng cách thế hệ trong việc nuôi dạy con cái”
Thứ hai, tìm hiểu về nguyên nhân và ảnh hưởng của khoảng cách thế hệ đến việc nuôi dạy con cái
Thứ ba, tìm kiếm và phân tích những phương pháp dạy con tiêu biểu đang được
áp dụng rộng rãi trong thời đại ngày nay.
2. Cấu trúc bài báo cáo
Bài báo cáo được thực hiện theo cấu trúc: - Phần I: Khái niệm - Phần II: Đặc điểm - Phần III: Nguyên nhân - Phần IV: Ảnh hưởng - Phần V: Giải pháp
I. Khái niệm về khoảng cách thế hệ trong việc nuôi dạy con cái 1. Lời đầu
Gia đình, một khái niệm quen thuộc gắn liền với cuộc sống hàng ngày của chúng ta.
Trong gia đình có mối liên kết với nhau từ quan hệ huyết thống hoặc nuôi dưỡng. Là
nơi mà những con người gắn kết sinh sống với nhau, tạo nên mối quan hệ mật thiết. Gia
đình là hình ảnh phản ánh của một xã hội thu nhỏ. Trải qua nhiều thời kỳ phát triển của
xã hội, gia đình Việt Nam được hình thành và phát triển với nhiều thế hệ con người và
những chuẩn mực đạo đức có giá trị cao quý. Những giá trị đạo đức, văn hóa, truyền
thống tốt đẹp được gìn giữ vun đắp và phát triển trong suốt quá trình lịch sử dựng nước
và giữ nước của dân tộc. Qua các thời kỳ, cấu trúc và quan hệ trong gia đình có thay
đổi, nhưng những chức năng cơ bản của gia đình vẫn luôn tồn tại.
Gia đình là một nền tảng không thể thiếu đối với sự phát triển của từng cá nhân, con
người. Gia đình là cái nôi nuôi dưỡng và thành nên nhân cách, lối sống, lối suy nghĩ,
cách đối nhân xử thế của một cá nhân. Chính vì vậy, vai trò của gia đình là vô cùng quan
trọng, cần được hiểu rõ và tiếp nhận một cách sâu sắc hơn. Xây dựng gia đình mới xã hội
chủ nghĩa được thực hiện trên cơ sở kế thừa những giá trị tốt đẹp nhất của gia đình
truyền thống, đồng thời tiếp thu những tiến bộ của thời đại chính là tạo nên gia đình văn
hóa. Đối với việc xây dựng gia đình văn hóa ở nước ta thời gian qua, chúng ta đã gặt hái
được nhiều thành tựu cũng như vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế chế. Xuất phát từ tình
hình thực tế trên, nhóm em xin lựa chọn đề tài “Khoảng cách thế hệ trong việc nuôi dạy con cái trong gia đình” 1. Khái niệm
“Khoảng cách thế hệ trong việc nuôi dạy con cái” là sự khác biệt, tạo ra vách
ngăn trong niềm tin, suy nghĩ, tư tưởng, lối sống và các ứng xử trước những vấn đề giữa
thế hệ này với thế hệ khác, từ đó tạo ra những ảnh hưởng khác nhau rõ rệt trong quá
trình phát riển nhận thức và trưởng thành của con cái.
II. Đặc điểm, biểu hiện của khoảng cách thế hệ trong việc nuôi dạy con cái
Có thể nói, nuôi dạy con cái dù ở bất kỳ thời đại nào, trước hay nay, dù trong bất
kì bối cảnh xã hội nào thì đều là những thử thách đối với bậc làm cha làm mẹ. Ngay cả
khi xã hội phát triển với sự ra đời của nhiều công cụ hỗ trợ, song làm thế nào để tạo môi
trường cho con phát triển, làm thế nào để cha mẹ thấu hiểu và đồng hành trên con đường
trưởng thành của con, đây đều là những câu hỏi khiến rất nhiều bậc cha mẹ băn khoăn và
vẫn chưa tìm ra phương pháp.
Đối sánh việc nuôi dạy con trong 2 bối cảnh xã hội Việt Nam xưa và nay, ta thấy sự
khác biệt rõ rệt. Xã hội ngày càng phát triển sẽ kéo theo những cách dạy con cũng trở nên
khác biệt và không còn giống với “ngày xưa”.
20- 30 năm trước, hầu hết các bậc cha mẹ không được tiếp cận với sách vở, mạng
xã hội hay những buổi hội thảo trực tuyến của các nhà tâm lý học và và giáo viên. Trẻ em
được nuôi dạy bằng trực giác, thường dựa trên kinh nghiệm của người đi trước. Đây là lí
do tại sao không có gì ngạc nhiên về thực tế là nhiều giá trị mà cha mẹ chúng ta từng nghĩ
là bất biến nhưng thực ra lại không phải như vậy.
1. Sự khác nhau trong giá trị, quan điểm đời thường
Minh chứng 1: Sự khác nhau trong việc đặt tên
Ngày xưa, cha mẹ thường đặt tên con với mục đích dễ nhớ, dễ gọi. Vì sinh nhiều
con, ít thì 4-5, nhiều thì 9-10 người, có nhà con đông hơn nên việc đặt tên con diễn ra
nhanh chóng, không mang ý nghĩa cụ thể nào. Để dễ nhớ, cha mẹ thường đặt cho con
những cái tên rất gần gũi, gắn với những thứ xung quanh mình. Khi liên kết các tên ấy với
nhau, nhiều người nghe không thể nhịn cười. Các loại cây ăn quả như mít., na, bưởi, xoài
hay một số vật dụng dao, thuổng, bát, ly, chậu cũng được cha mẹ tận dụng để đặt tên cho
con. 12 con giáp trong tín ngưỡng dân gian cũng được người xưa dùng để đặt tên cho con.
Con sinh vào năm con giáp nào thì đặt tên con theo năm ấy. Ví dụ sinh vào năm con dê thì
đặt tên là Mui, sinh vào năm con lợn thì đặt tên là Hợi… Có nhà đặt tên cho con theo các
hiện tượng thiên nhiên như Mưa, Nắng,...
Theo các cụ cao niên, người xưa đặt tên cho con thường tránh tên vua, chúa hay tên
huý của các vị thành hoàng. Thậm chí, đặt tên con càng xấu càng khoẻ mạnh, dễ nuôi. Có
nơi, người xưa còn quan niệm nếu đặt tên con đẹp thì sẽ bị “ma bắt”.
Ngày nay, trái ngược với người xưa, nhiều cha mẹ hiện nay thường rất cầu kỳ trong
việc đặt tên cho con. Họ thậm chí đã nghĩ tới việc đặt tên cho con từ khi chưa mang thai.
Những cái tên thường dài. Con không chỉ còn mang họ cha mà có thể còn cả họ mẹ. Tên
đệm ít khi còn là “Thị” hay “Văn” mà thay bằng những từ nghe hay hơn nhiều.
Nhiều cặp vợ chồng trẻ còn lên mạng để tra cứu tên hay cho con. Thậm chí họ còn
cài đặt cả ứng dụng đặt tên con theo tuổi bố mẹ tốt nhất trên điện thoại để dễ nghiên cứu.
Anh Trần Văn Huy ở TP Hải Dương còn đi nhờ cả một nhà sư giúp đặt tên cho con. Sau
khi xem, nhà sư này đặt cho con gái anh cái tên khá dài là Trần Thị Phương Mỹ Hân. “Tên
con cũng phải hợp cung tướng số, mệnh của bố mẹ thì nhà cửa mới yên ấm, làm ăn phát
đạt”, anh Huy quan niệm.
Không ít cha mẹ đặt cho các con cùng một cái tên, chỉ khác tên đệm. Ví dụ như một
gia đình sinh hai con trai đặt tên lần lượt là Nguyễn Hoàng Anh và Nguyễn Đức
Anh. Một cặp vợ chồng khác sinh hai con gái đặt tên là Nguyễn Lê Hoài Trang và Nguyễn Lê Minh Trang…
Quan niệm trong cách đặt tên cho con giữa thời xưa và nay đã có sự thay đổi. Đặt
tên cho con là việc quan trọng nhưng cái chính là cha mẹ cần chăm sóc, giáo dục con để
sau này chúng lớn lên sẽ trở thành những người sống có hiếu, đạo đức, giúp ích cho gia đình và xã hội..
Theo các cụ cao niên, người xưa đặt tên cho con thường tránh tên vua, chúa hay tên
huý của các vị thành hoàng. Thậm chí, đặt tên con càng xấu càng khoẻ mạnh, dễ nuôi. Có
nơi, người xưa còn quan niệm nếu đặt tên con đẹp thì sẽ bị “ma bắt”.
Ngày nay, trái ngược với người xưa, nhiều cha mẹ hiện nay thường rất cầu kỳ trong
việc đặt tên cho con. Họ thậm chí đã nghĩ tới việc đặt tên cho con từ khi chưa mang thai.
Những cái tên thường dài. Con không chỉ còn mang họ cha mà có thể còn cả họ mẹ.
Tên đệm ít khi còn là “Thị” hay “Văn” mà thay bằng những từ nghe hay hơn nhiều. Nhiều
cặp vợ chồng trẻ còn lên mạng để tra cứu tên hay cho con. Thậm chí họ còn cài đặt cả ứng
dụng đặt tên con theo tuổi bố mẹ tốt nhất trên điện thoại để dễ nghiên cứu.
Anh Trần Văn Huy ở TP Hải Dương còn đi nhờ cả một nhà sư giúp đặt tên cho con.
Sau khi xem, nhà sư này đặt cho con gái anh cái tên khá dài là Trần Thị Phương Mỹ Hân.
“Tên con cũng phải hợp cung tướng số, mệnh của bố mẹ thì nhà cửa mới yên ấm, làm ăn
phát đạt”, anh Huy quan niệm.
Không ít cha mẹ đặt cho các con cùng một cái tên, chỉ khác tên đệm. Ví dụ như một
gia đình sinh hai con trai đặt tên lần lượt là Nguyễn Hoàng Anh và Nguyễn Đức
Anh. Một cặp vợ chồng khác sinh hai con gái đặt tên là Nguyễn Lê Hoài Trang và Nguyễn Lê Minh Trang…
Quan niệm trong cách đặt tên cho con giữa thời xưa và nay đã có sự thay đổi. Đặt
tên cho con là việc quan trọng nhưng cái chính là cha mẹ cần chăm sóc, giáo dục con để
sau này chúng lớn lên sẽ trở thành những người sống có hiếu, đạo đức, giúp ích cho gia đình và xã hội..
Minh chứng 2: Quan điểm về giới xưa và nay
Ngày xưa rất nhiều cha mẹ cho rằng phải đẻ được 1 người con trai để nối dõi tông
đường, vì thế gây sự bất bình, “trọng nam khinh nữ” trong việc nuôi dạy con cái. Thời
phong kiến, chỉ có con trai mới được học hành, thi cử, làm quan. Còn phụ nữ phải công
dung ngôn hạnh, gắn với nội trợ, bếp núc, phục vụ chăm sóc gia đình. Hay
trong các triều đại phong kiến, ngai vàng chỉ được truyền cho con trai. Thậm chí, người
nắm quyền hành, chức vụ trong triều đình cũng chỉ có nam nhi. Phụ nữ thì bị coi như tì
thiếp, không hề có tiếng nói trong gia đình, xã hội. Vì suy nghĩ rập khuôn ấy nên ảnh
hưởng đến khá nhiều gia đình trong quá trình tác động suy nghĩ, nhận thức vào con trẻ.
Nhưng giờ đây, theo sự thay đổi chung của thời đại, người phụ nữ ngoài trách nhiệm
truyền thống là làm con, làm dâu, làm mẹ, làm vợ… đã thực sự bước vào xã hội với nhiều
vai trò khác nhau trên tất cả các lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, giáo dục, văn hóa, khoa học
kỹ thuật… và phụ nữ đã và đang nắm giữ các vị trí quan trọng trong bộ máy lãnh đạo của
Đảng, Nhà nước, các cơ quan, doanh nghiệp… ngày càng chiếm tỷ lệ cao. Rất nhiều phụ
nữ có kinh tế, có địa vị xã hội nhưng vẫn không quên thiên chức làm vợ, làm mẹ. Họ biết
tận dụng giờ nghỉ, tranh thủ đi chợ, nấu ăn, dọn dẹp nhà cửa, chăm sóc con và cả gia đình,
tranh thủ đi học để nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Đó chính
là hiện thân của phụ nữ trong thời đại mới, hội đủ các yếu tố “ công, dung, ngôn, hạnh”
thời nay. Chính sự phát triển của xã hội, tiếp xúc với nhiều nền văn minh khác nhau, nên
cha mẹ từ đó cũng thay đổi cách nhìn, cách suy nghĩ về bình đẳng giới, từ đó giáo dục con,
cả trai lẫn gái đều dựa trên sự bình đẳng như nhau. Con gái hay con trai đều có thể tạo ra
những giá trị nhất định, không nên quy kết chóng vội.
2. Phương pháp giáo dục khác nhau giữa xưa và nay
Ngày xưa cha mẹ thường răn dạy con cái theo kinh nghiệm xã hội được truyền lại từ
những đời trước đã tạo thành nếp, thành thói quen in sâu vào tâm thức của họ. Đặc biệt,
việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ để áp dụng cho việc dạy con trở nên phổ biến. Ví dụ như
“Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi” hay “Ân sâu nghĩa nặng chớ quên/ Làm
con phải giữ lấy nền phong gia” .
Vì mô hình cấu trúc làng xã ngày xưa sống quay quần bên nhau, người gần người
hơn, trọng chữ “tình” trong đối nhân xử thế nên cha mẹ dạy cho con những bài học về lối
sống giản dị mà trước hết là yêu thương người thân, làng xóm, như “Bán anh em xa, mua
láng giềng gần”. Con cái gần với cha mẹ, làng xóm tạo nên một quỹ thời gian thoải mái
hơn, không ai cấm cản và kiểm soát chặt chẽ. Cho nên, người xưa ít mắc phải những bệnh
lý, những vấn đề về mặt tinh thần hơn bây giờ.
Thời xưa, việc học với trẻ em nhẹ nhàng hơn rất nhiều so với bây giờ, trẻ em rất ít
bị áp lực về điểm số, cấp bậc, đại học, công việc chồng chất như hiện tại. Bên cạnh việc
học, trẻ em khi trưởng thành còn được chọn nhiều công việc khác, có thể đi học nghề từ
sớm hoặc trong thời chiến, thanh niên có thể chọn cách đi nghĩa vụ để bảo vê độc lập dân
tộc. Tất nhiên, tất cả những điều ấy chỉ là giúp con được an toàn và tốt hơn. Nhưng vô
tình, chúng ta lại mang đến bầu không khí ngột ngạt hơn đến cho con trẻ. Cũng chính vì
vậy mà trẻ lại mong muốn tự do hơn, do đó sự xung đột trong tâm trí càng nhiều, điều đó
khiến mọi thứ trở nên tồi tệ hơn và có lẽ còn gây ra sự xa cách giữa cha mẹ và con cái.
Thực trạng xã hội luôn báo động về tình trạng trẻ em hiện nay đã mất quá nhiều thời
gian để vui chơi, mà thay vào đó, trẻ em phải tham gia rất nhiều lớp học thêm. Vì vậy, khi
con của những phụ huynh này nhận được “môi trường hoàn hảo” tức là chúng bắt buộc phải tài giỏi.
III. Nguyên nhân của khoảng cách thệ hệ trong việc nuôi dạy con
Sự thay đổi văn hóa và xã hội: Các quan điểm và phong cách sống có sự thay đổi qua các thế hệ.
Ví dụ: Chủ đề nhạy cảm và giới tính: Trong thời đại ngày nay, có một sự chuyển đổi
lớn trong cách mà xã hội nhìn nhận về giới tính và vai trò giới tính. So với trước đây, ngày
nay chúng ta có sự cởi mở và chấp nhận cao hơn đối với sự đa dạng giới, bản dạng giới và
xu hướng tính dục. Bên cạnh đó, sự phổ biến của công nghệ và mạng xã hội đã thay đổi
cách mà con cái tiếp cận thông tin và giải trí. Trẻ em và thanh thiếu niên trong thế hệ mới
thường tiếp xúc với công nghệ từ khi còn rất nhỏ thông qua các thiết bị như điện thoại thông
minh, máy tính bảng hay máy tính cá nhân. Điều này cũng tạo ra một môi trường nuôi dạy
khác biệt so với các thế hệ trước đây.
Giá trị, niềm tin và phong cách sống khác nhau giữa các thế hệ:
Mỗi thế hệ thường có các giá trị và niềm tin riêng, dựa trên trải nghiệm và môi trường
xã hội của họ. Cách mà mỗi thế hệ sống, làm việc và giải trí cũng có thể khác nhau. Các
thế hệ đều có những kinh nghiệm riêng từ quá khứ và môi trường hiện tại. Sự khác biệt
trong kinh nghiệm này có thể dẫn đến sự thiếu hiểu biết về những thách thức và cơ hội mà
con cái đang đối diện nhưng những sự khác biệt này cũng có thể tạo ra gen gap trong việc
nuôi dạy con, và thường đòi hỏi sự linh hoạt và hiểu biết từ cả hai bên để tạo ra một môi
trường nuôi dạy tích cực và phù hợp với nhu cầu của con cái.
Công việc và sự cân bằng giữa công việc và cuộc sống:
Mô hình gia đình đã thay đổi qua các thế hệ, với nhiều gia đình ngày nay có cả hai
bố mẹ đều tham gia vào lực lượng lao động. Điều này có thể tạo ra một môi trường nuôi
dạy khác biệt so với các thế hệ trước đây, khi mà ngày xưa sẽ một trong hai bố mẹ thường ở nhà chăm sóc con cái. Kỳ vọng
Xã hội ngày nay thường đặt ra nhiều áp lực và kỳ vọng cao cho các gia đình và con
cái, từ việc thành công học vấn đến thành tích trong công việc và cuộc sống cá nhân. Điều
này có thể tạo ra căng thẳng và khó khăn trong việc nuôi dạy con. Yếu tố cá nhân
Mỗi đứa trẻ là một cá thể riêng biệt với nhu cầu và tính cách riêng. Điều này có nghĩa
là phương pháp nuôi dạy phải phù hợp với cá nhân từng đứa con, và điều này có thể tạo ra
sự khác biệt giữa các thế hệ.
IV. Ảnh hưởng của khoảng cách thế hệ trong việc nuôi dạy con cái a. Tích cực
Không thể phủ nhận rằng, việc cùng nuôi dạy con cái giữa ông bà và bố mẹ đem
đến một số tác động tích cực đến sự phát triển của trẻ nhỏ. Khi nhận được tình yêu, sự
quan tâm của cả ông bà và cha mẹ, trẻ có cảm giác được chở che nhiều hơn. Điều này
giúp chúng phát triển tâm lý và tinh thần mạnh mẽ hơn. Trẻ học được thói quen, tính cách
tốt từ ông bà (nếu ông bà mẫu mực, có nhiều thói quen tốt). Những kinh nghiệm, những
giá trị truyền thống từ ông bà sẽ giúp trẻ được học hỏi và phát triển kỹ năng sống và giáo dục. b. Tiêu cực
Tuy nhiên không thể không nhắc đến mặt tiêu cực mà khoảng cách vô hình trong nuôi dạy này mang lại:
Vì ông bà và bố mẹ đều có những quan điểm khác nhau trong việc nuôi dạy trẻ, gây
ra sự xung đột trong phương pháp giáo dục.
Trong khi các mẹ cố gắng đưa trẻ vào những nguyên tắc ăn uống lành mạnh thì ông
bà luôn tỏ ra hoặc lo ngại, hoặc khó chịu, hoặc sốt ruột vì cách cho ăn của các bà mẹ. Ông
bà thường sẵn sàng bón cho cháu ăn hết bát cơm đầy, và nếu cháu tỏ ý không muốn ăn,
thậm chí cho cháu vừa ăn bim bim, xem tivi vừa ăn cơm nếu cháu muốn… Sự thiếu thảo
luận giữa các thế hệ có thể dẫn đến thiếu sự đồng thuận về các vấn đề quan trọng như quy
tắc, giờ giấc, ăn uống.
Ông bà thường hay chiều cháu, cháu đòi gì là được nấy, tạo thành thói quen hư. Cha mẹ
thì khác, phải để cho con tự lực làm việc học tập hay đạt được thành tựu gì đó thì mới được
nhận món đồ mình mong muốn. Nhiều ông bà từ khi cháu còn nhỏ đã luôn răn dạy rằng
cháu cần phải làm thế này, lớn lên phải trở thành người thế kia. Việc này chính là giết chết
đi những ước mơ của trẻ thơ, làm trẻ đi theo một con đường mơ hồ mà người lớn vạch sẵn
ra không suy nghĩ. Ông bà là một phần quan trọng trong cuộc sống của bất cứ đứa trẻ nào.
Sự có mặt của ông bà mang lại những niềm vui và kỷ niệm khó quên đối với con. Nhờ có
sự hỗ trợ của ông bà, bố mẹ sẽ cảm thấy cuộc sống của mình “dễ thở". Tuy nhiên đôi khi
sự quan tâm của ông bà với những đứa cháu lại dễ châm ngòi cho một cuộc chiến gia đình,
đặc biệt là khi ông bà can thiệp, ép buộc và cắt ngang mỗi lúc bố mẹ dạy con hoặc ngược
lại, khi bố mẹ phớt lờ cảm nhận của ông bà. Khoảng cách thế hệ khiến cho quan điểm đối
với việc nuôi dạy con của bố mẹ và ông bà có những điểm khác biệt khá rõ ràng.
V. Các giải pháp dạy con tiến bộ đang được áp dụng hiện nay
Tôn trọng quan điểm của nhau:
Văn hoá Việt Nam khá nhiều truyền thống và khép kín, nhưng trong việc dạy con,
phần lớn cha mẹ Việt đều rất chịu khó học hỏi và cởi mở trước những phương pháp mới.
Dẹp bỏ truyền thống hay cái tôi qua một bên, miễn là những phương pháp đó mang lại
hiệu quả tích cực cho con ba mẹ sẵn sàng tìm hiểu và áp dụng.
Tuy nhiên, ông bà lại không hoàn toàn ủng hộ suy nghĩ đó. Họ thường cho rằng phương
pháp nuôi dạy con theo cách truyền thống là tốt nhất. Vì vậy, chúng ta hiểu rằng ông bà, bố
mẹ đều là những người có những kinh nghiệm và quan điểm riêng trong việc nuôi dạy con
cái. Tôn trọng những quan điểm khác biệt, không nên áp đặt ý kiến của thế hệ này lên thế hệ khác.
Trao đổi cởi mở và chân thành, không chỉ trích:
Quy tắc hàng đầu đối với quan hệ giữa ông bà và bố mẹ là đừng chỉ trích. Chẳng có
ai thích bị phản đối, phán xét hay đổ lỗi. Hiểu được tâm lý này, để giúp cải thiện khoảng
cách giữa hai thế hệ, bố mẹ nên dành thời gian trao đổi với ông bà về những bất đồng trong
việc nuôi dạy con cái. Thay vì chỉ trích, hãy gợi ý cho ông bà biết cách thức mà bố mẹ cần
ông bà hỗ trợ. Trao đổi cởi mở và chân thành để hiểu rõ quan điểm của nhau và tìm ra giải
pháp chung trong việc nuôi dạy con giữa hai thế hệ.
Phân chia trách nhiệm rõ ràng, không vượt quá giới hạn:
Chúng ta nên có sự phân chia trách nhiệm rõ ràng cho từng người trong việc chăm
sóc và giáo dục con cái. Ví dụ, bố mẹ có thể ưu tiên việc học của con, tìm đến những phương
pháp giáo dục tốt nhất. Đồng thời ông bà cũng có những sự “cứng nhắc” trong quan niệm
về ăn uống của trẻ. Mỗi người nên có những vai trò khác nhau và không nên can thiệp khi
cùng đồng hành nuôi dạy con trẻ. Bố mẹ nên cho ông bà biết rằng bản thân không thoải mái
khi họ vượt quá vai trò của mình, như là ông bà cho một vài lời khuyên không thực sự cần
thiết về cách nuôi dạy con cái.