















Preview text:
Đề cương cuối kỳ
CHƯƠNG 2: SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN (3)
Giai cấp công nhân hiện đại ngày nay: ● Thành phần:
Đa dạng hơn về thành phần, gồm công nhân áo trắng, áo vàng, áo xanh,... - lao động chân tay và lao động trí
óc do sự phát triển của khoa học công nghệ, trí tuệ nhân tạo đã nâng cao trình độ của sản xuất và dịch vụ cùng với
“cách tổ chức xã hội hiện đại cũng làm cho cơ cấu của giai cấp công nhân hiện đại đa dạng tới mức nội hàm của
nó liên tục phải điều chỉnh theo hướng mở rộng” với sự phân chia thành phần khác nhau dựa trên các tiêu chí khác
nhau (lĩnh vực, trình độ công nghệ, sở hữu, chế độ chính trị,...).
● Tính chất chung và riêng của từng thành phần: - Tính chất chung:
Thứ nhất, đó là xu hướng “trí tuệ hóa” ngày càng gia tăng. Gắn liền với cách mạng khoa học và công nghệ
hiện đại, với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế tri thức, công nhân hiện nay dần có xu hướng trí tuệ hóa.
Trí thức hóa và tri thức hóa là hai mặt của một quá trình, của xu hướng trí tuệ hóa đối với công nhân và giai cấp
công nhân hiện nay. Trên thực tế, có rất nhiều khái niệm mới để chỉ công nhân đi theo xu hướng này ra đời, ví dụ
như “công nhân tri thức”, “công nhân áo vàng”,…
Thứ hai, trong bối cảnh toàn cầu hóa, chủ nghĩa tư bản đã đưa ra một số điều chỉnh nhất định về phương thức
quản lý, nhằm điều hòa các mâu thuẫn trong xã hội, từ đó xu hướng “trung lưu hóa” được gia tăng đáng kể.
Một số bộ phận công nhân đã được tham gia hữu một lượng tư liệu sản xuất nhất định của xã hội thông qua chế độ cổ phần hóa.
Thứ ba, trong bối cảnh mới của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp 4.0, công nhân hiện
đại có sự tăng trưởng mạnh về số lượng. Đến đầu thế kỷ XX, toàn thế giới có 80 triệu công nhân. Hiện nay có
hơn 1 tỷ trong số 1,6 người lao động ăn lương đó là công nhân, cơ cấu có sự thay đổi lớn trong nền sản xuất hiện
đại. Đặc biệt là cơ cấu xã hội, cơ cấu nghề nghiệp, cơ cấu thu nhập giữa các bộ phận công nhân trên phạm vi toàn
cầu cũng như trong mỗi quốc gia.
Tính chất xã hội hóa của lao động công nghiệp mang nhiều biểu hiện mới: sản xuất công nghiệp trong thế giới
toàn cầu hóa đang mở rộng thành “chuỗi giá trị toàn cầu”.Lực lượng sản xuất hiện đại đã vượt ra khỏi phạm vi
quốc gia – dân tộc và mang tính chất quốc tế, trở thành lực lượng sản xuất của thế giới toàn cầu.
Cuối cùng, ở các nước XHCN, giai cấp công nhân trở thành giai cấp lãnh đạo xã hội thông qua Đảng Cộng
sản. Họ nắm giữ vai trò cầm quyền trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một số quốc gia xã hội chủ nghĩa.
Tiêu biểu như Liên Xô và Đông Âu trước đây, hay các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay như Việt Nam, Trung Quốc.
Vì vậy, có thể thấy rằng, công nhân hiện đại không còn là “chiếc đinh ốc trong dây chuyền sản xuất TBCN”
mà có tính chủ động hơn, tư duy năng động và đa diện hơn.16 - Tính chất riêng:
Công nhân áo xanh có trình độ văn hóa tốt nghiệp trung học phổ thông, trình độ chuyên môn nghiệp vụ thấp
hơn so với “công nhân cổ vàng”: công nhân lao động trong các nhà máy xí nghiệp, công trường xây dựng....và
được trả lương theo giờ (trong khi “công nhân cổ trắng” và “công nhân cổ vàng” được trả lương theo tháng).
Công nhân áo trắng - công nhân có trình độ đại học, cao đẳng, chuyên môn nghiệp vụ cao, tỷ lệ lao động trí
óc và lao động sáng tạo cao, chủ yếu làm công việc điều hành, quản lý sản xuất trong các văn phòng (nhân viên
văn phòng) có trình độ chủ yếu làm việc trong các văn phòng. Về vị trí xã hội, “công nhân cổ trắng” được xếp vào tầng lớp trung lưu
Công nhân áo vàng là những người làm công ăn lương có trình độ đại học, cao đẳng hoặc tốt nghiệp các
trường dạy nghề, trường kỹ thuật…, là công nhân của các ngành công nghệ mới bao gồm các kỹ thuật viên, phi
công, điều khiển viên, y sĩ, y tá...Nhìn chung, “công nhân cổ vàng” được xếp vào tầng lớp trung lưu bậc dưới
Những khó khăn mà công nhân Việt Nam gặp phải hiện nay
Hiện nay công nhân Việt Nam đang gặp phải nhiều những khó khăn, thách thức trong thời đại công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ngày nay:
Khó khăn thứ nhất đó chính là trình độ khoa học - kỹ thuật vẫn còn kém, năng lực thấp, thiếu cơ hội được đào
tạo về học vấn, kỹ năng, điều đó dẫn đến việc dù công nhân có cần cù nhưng năng suất lại rất thấp. Khó khăn tiếp
theo là công nhân phải đối mặt với mức lương thấp so với mức chi phí sinh hoạt cao, phải làm việc trong thời gian
dài và không được trả lương xứng đáng. Một số còn đang trong nguy cơ thất nghiệp hay không có bảo hiểm xã
hội. Đảng ta có chú trọng xây dựng giai cấp công nhân, nhưng quan tâm chưa đầy đủ, chưa ngang tầm với vị trí,
vai trò của giai cấp công nhân trong thời kỳ mới này vậy nên những khó khăn của công nhân chưa được giải quyết
triệt để, khắc phục kịp thời.
Vai trò của Đảng Cộng Sản trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
ĐCS đề ra phương hướng, chiến lược phát triển, mục tiêu cơ bản của mỗi giai đoạn cách mạng (xây dựng
cương lĩnh chính trị đúng đắn).
ĐCS lãnh đạo quá trình thể chế hóa đường lối chính trị đã đề ra qua các biện pháp như kiểm tra, giám sát;
tuyên truyền, giáo dục, vận động; kỷ luật, nêu gương.
ĐCS đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công nhân cho cách mạng.
ĐCS xây dựng, củng cố mối quan hệ với nhân dân.
Vai trò của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
ĐCS Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành cho lợi ích của công
nhân, nhân dân lao động Việt Nam.
Từ khi ra đời đến nay, Đảng cộng sản đã thực hiện vai trò lãnh đạo, dẫn dắt giai cấp công nhân và dân tộc.
Trong tiến trình cách mạng, Đảng ta đã và đang lãnh đạo nhân dân ta hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc
đưa cả nước từng bước đi lên con đường chủ nghĩa xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta đã lãnh đạo nhân
dân trong cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã
hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Đứng trước yêu cầu và nhiệm vụ đổi mới, Đảng ta luôn coi trọng công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng theo
các nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất: Phải đối mới tư duy, trước hết là tư duy lý luận, nâng cao trình độ trí tuệ và năng lực lãnh đạo đạo của Đảng.
Thứ hai: Phải thực hiện triệt để nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt của Đảng.
Thứ ba: Tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ tư: Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên trong sạch của phẩm chất, có năng lực và chiến đấu cao.
CHƯƠNG 3: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH (4)
Tính tất yếu khách quan của Thời kỳ quá độ lên CNXH
Thứ nhất, Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản là hai chế độ xã hội khác nhau về bản chất, CNXH không tự
phát nảy sinh trong lòng xã hội tư bản : Trong khi CNTB được xây dựng trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất,
duy trì áp bức, bóc lột và tồn tại những mâu thuẫn đối kháng về giai cấp thì CNXH dựa trên sự công hữu về tư
liệu sản xuất, xóa bỏ áp bức, người bóc lột người, các mâu thuẫn đối kháng được giải quyết hài hòa. Vì thế không
thể ngay lập tức xóa bỏ CNTB để đi lên CNXH mà cần phải có 1 thời kỳ lịch sử nhất định ở giữa 2 chế độ xã hội khác nhau.
Thứ hai, Sự phát triển của CNTB tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật nhất định cho CNXH, nhưng để cơ sở vật
chất - kỹ thuật đó phục vụ cho CNXH cần phải có thời gian tổ chức, sắp xếp lại. Khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư
bản, Mác - Ăngghen đã xác định rằng: CNTB tạo ra tiền đề vật chất cho CNXH. Do đó, những quốc gia đã trải
qua giai đoạn phát triển TBCN khi đi lên xây dựng CNXH sẽ có sẵn nền tảng vật chất là nền đại công nghiệp và
trình độ phát triển cao. Tuy nhiên, với những quốc gia quá độ lên CNXH mà chưa trải qua giai đoạn phát triển
TBCN, họ cần có thời gian để tổ chức và sắp xếp lại nền sản xuất. Việc chuyển đổi nền sản xuất từ phục vụ cho
thiểu số, phục vụ cho giai cấp tư sản sang phục vụ cho đa số, cho nhân dân lao động là một quá trình cần có thời gian.
Thứ ba, Những quan hệ xã hội của CNXH không nảy sinh tự phát trong CNTB, mà là kết quả của quá trình
cải tạo và xây dựng XHCN. Đây cũng là nội dung cần có thời gian để xây dựng quan hệ xã hội mới. Những quan
hệ xã hội như quan hệ giai cấp, vấn đề công bằng, vấn đề bình đẳng, không thể tự phát sinh trong lòng CNTB.
Chúng phải là kết quả của quá trình cải tạo xã hội cũ để xây dựng xã hội mới. Do đó, cần có thời gian để xây dựng
và tạo ra những quan hệ xã hội mới này.
Thứ tư, Công cuộc xây dựng CNXH là một công cuộc mới mẻ, hết sức khó khăn và phức tạp. Giai cấp công
nhân và nhân dân lao động càng cần có thời gian để làm quen và thích nghi. Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra những
tiền đề hiện thực (cả về vật chất và tinh thần)cho chủ nghĩa xã hội. Và để tiếp quản, phát triển những giá trị này
để xây dựng nên chủ nghĩa xã hội cần một quá trình chuẩn bị kỹ lưỡng, cẩn thận được gọi là quá độ, đặc biệt là
đối với các nước chưa có nền tảng kinh tế phát triển như Việt Nam.
Tựu chung lại, thời kỳ quá độ mang tính tất yếu và khách quan. Nó phải là cái phải có và phù hợp với hoàn
cảnh khách quan từ thực tế.
Những thuận lợi khi Đảng ta quyết định đi theo con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Có các kinh nghiệm từ thực tiễn mô hình ở Liên Xô cũ: Nhiều quốc gia trên thế giới đã xác định con đường
chủ nghĩa xã hội là tất yếu. Tuy nhiên, việc thực hiện các đường lối, chính sách trên thực tế lại không hiệu quả.
Từ đó, Việt nam có được kinh nghiệm, tìm kiếm các bước chiến lược phù hợp hơn với thực tiễn của đất nước,
tránh các sai lầm trong việc thực hiện triển khai chiến lược trong mô hình ở các quốc gia khác. Lựa chọn chiến
lược phù hợp, khả thi trong điều kiện và tình hình đất nước.
Hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng: Nước ta luôn xác định với lý tưởng dân chủ, trao quyền và lợi ích cho
người dân. Dưới sự lãnh đạo thống nhất quần chúng trong tư tưởng chung, Đảng thực hiện công bằng, bình đẳng
trong xã hội, tạo điều kiện, cơ sở cho việc tiếp tục vững bước trên con đường đã chọn.
Khả năng phát triển nền kinh tế một cách công bằng, dân chủ trong thế giới bùng nổ khoa học công nghệ
cùng xu hướng toàn cầu hóa: Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đã thúc đẩy các quốc gia mở cửa
và hội nhập. Xu hướng toàn cầu hóa tạo điều kiện cho việc tiếp thu các thành tựu và kinh nghiệm phát triển của
các nước đi trước, cũng như tránh các bước đi không hiệu quả. Lúc này, vai trò của Nhà nước Công nhân phát
huy tuyệt đối tác dụng, đảm bảo cơ hội phát triển, hội nhập được chia đều cho các cá nhân, từ đó tạo nền tảng cho
một xã hội thịnh vượng chung.
Dễ dàng tham gia và tìm kiếm lợi ích trong cộng đồng quốc tế: Xu thế phát triển, bùng nổ không ngừng của
thế giới đã đặt ra nhiều thách thức về các vấn đề an ninh phi truyền thống như an ninh năng lượng, an ninh lương
thực hay an ninh con người. Nhà nước Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là đảng duy nhất đại diện
cho công nhân, nông dân hay tầng lớp trí thức, tiểu tư sản có thể đưa ra những quan điểm, lập trường nhất quán
cũng như trên cơ sở đó có khả năng tìm kiếm và hợp tác toàn diện, lâu dài với các đối tác, các bên có cùng chung
tư tưởng và hướng tới những lợi ích chung.
=> Nhờ những thuận lợi trên, Đảng ta đã đạt được những thành tựu trong 35 năm qua trong nhiều lĩnh vực như
kinh tế, giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội.
Những hạn chế khi Đảng ta quyết định đi theo con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Đất nước còn nghèo nàn: Khi đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua tư bản chủ nghĩa, tất yếu sẽ
gặp khó khăn trong việc tạo lập cơ sở vật chất của xã hội mới bởi nội tại cơ sở hạ tầng chưa thực sự phát triển tới
mức đỉnh cao. Khó khăn này lại càng sâu sắc hơn do sự tàn phá của chiến tranh và sự chống phá của các lực lượng thù địch.
Thiếu lý tưởng, các suy thoái ở nhiều tầng lớp: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển
mạnh mẽ cũng đặt ra nhiều nguy cơ về việc suy thoái, rơi rụng về lý tưởng xảy ra ở nhiều tầng lớp. Điển hình là
các hiện tượng tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, con ông cháu cha, các tệ nạn xã hội,... Gây nên các khó
khăn về lực lượng, về nguồn lực và tiềm năng ổn định, phát triển trong nền kinh tế mới. Ngoài ra, lối sống thực
dụng, thiếu tính nhân văn cũng đang và từng ngày từng giờ tác động đến cán bộ, đảng viên và đặc biệt là tầng lớp
trẻ. Các đội ngũ này có vai trò quan trọng trong học tập, rèn luyện và làm nên bộ mặt mới của đất nước. Nhưng
khi lý tưởng không được đảm bảo, các ý nghĩa hoạt động của đội ngũ này cũng không được tìm thấy dẫn tới thách
thức trong giữ vững quan điểm chính trị. Thực tế đó là một thách thức to lớn cho Đảng và Nhà nước ta. Mặc dù
nhận thấy đoàn kết thực hiện lý tưởng chung mang đến nhiều cơ hội, song, sự suy thoái ở các tầng lớp lại cản trở
lý tưởng này. Vậy nên, việc đi lên chủ nghĩa xã hội cũng không thể hoàn thành nhanh chóng.
Vấn đề cần quan tâm nhất: Việc chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt, có ý
nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa, bởi:
- Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam. Đảng ra đời, tồn tại và pháttriển
là vì lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Vậy khi Đảng cầm quyền, cần được
toàn dân thừa nhận là đội tiên phong lãnh đạo của mình.
- Đảng ta kiên trì lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉnam
cho hành động cách mạng, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh,
chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động,
tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên; thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ.
Kết luận: Từ những nội dung nêu trên, có thể thấy rằng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, tuy
gặp phải nhiều khó khăn thách thức, song thực tế không có lựa chọn nào cho ta cái lợi hoàn toàn. Một chế độ
chính trị - xã hội có thể mất hàng trăm, hàng ngàn năm để đạt tới sự phát triển cao nhất. Chính vì thế thời kỳ quá
độ ở Việt Nam là một điều tất yếu khách quan và phù hợp với nhà nước của dân tộc Việt Nam.
Về tám đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội Việt Nam 1.
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là những giá trị xã hội tốt đẹp nhất, là mục tiêu phấn đấu của chủ
nghĩa xã hội => đặc trưng phổ quát, có tính bản chất của XHCN Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh là những mục tiêu không tách rời nhau, bổ sung cho nhau, mục tiêu này làm cơ sở, điều kiện, tiền
đề cho mục tiêu kia. Là mục tiêu chiến lược vô cùng đẹp đẽ, tất yếu trên con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa.
2. Xã hội do nhân dân làm chủ. Nhà nước ta là Nhà nước của Dân, do Dân và vì Dân: Dân là người chủ đất
nước, Nhà nước là công cụ quản lý đất nước của Dân, mọi quyền lực Nhà nước đều ở nơi Dân, mọi tài sản của
Nhà nước đều là của Dân. Đó là bản chất chính trị, bản chất nhân dân cực kỳ quan trọng của Nhà nước ta.
3. Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. Phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mà trước mắt là hoàn thiện thể chế của nó; đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, nhằm xây dựng một lực lượng sản xuất hiện đại
để có một nền kinh tế phát triển cao - điều kiện bảo đảm cho sự phát triển bền vững xã hội XHCN
4. Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa vừa tiên tiến, vừa đậm
đà bản sắc dân tộc, tảng tinh thần của xã hội, là động lực và sức mạnh cho xã hội là nền phát triển. Cần kế thừa
và phát huy những giá trị, tinh hoa văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại và văn hóa thời đại để phát triển văn hóa Việt Nam.
5. Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Con người là trung tâm
của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Mục tiêu của CNXH mà nhân dân xây dựng là vì con
người, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn với quyền và lợi ích của dân tộc. Xây dựng con người Việt Nam
giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ và trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi; có văn hoá,
nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính.
6. Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển. Đoàn
kết các dân tộc có vị trí chiến lược cơ bản, lâu dài trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là mục tiêu mà xã hội XHCN hướng tới. Bảo đảm công bằng và bình đẳng
xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; thực hiện dân chủ
gắn liền với giữ gìn kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
7. Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân vì nhân dân do Đảng Cộng sảnlãnh
đạo. Nhà nước pháp quyền XHCN là nhà nước quản lý và điều hành đất nước và xã hội bằng pháp luật thể hiện
quyền lợi và ý chí của nhân dân do nhân dân, vì nhân dân. Quyền lực nhà nước là => nhà nước của nhân dân,
thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản - đảng mang bản chất, nội dung, thực hiện mục tiêu và lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
8. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới. Phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các
nước trên thế giới là yêu cầu khách quan, thể hiện bản chất của chế độ XHCN. Đảng Cộng sản Việt Nam chủ
trương thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng
quốc tế, vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Kết luận:
- Xây dựng chủ nghĩa xã hội với tám đặc trưng nêu trên là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấutranh
phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen.
- Xác định những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng nêu trên là kết quảcủa
quá trình tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam hiện nay.
Phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay:
1. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên,
môi trường Phải kết hợp ngay từ đầu với hiện đại hoá, gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi
trường. Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm: -
Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên,môi trường. -
Coi trọng phát triển các ngành công nghiệp nặng và có lợi thế -
Phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình độ công nghệ cao, chất lượng cao gắn với công
nghiệpchế biến và xây dựng nông thôn mới. -
Bảo đảm phát triển hài hoà giữa các vùng, miền. -
Thúc đẩy phát triển nhanh các vùng kinh tế trọng điểm. -
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác định là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Phát triển nhiều thành phần kinh tế, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
3. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhândân,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội Đại hội XII của Đảng đề ra nhiệm vụ: Xây dựng nền văn hóa và con người
Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và
khoa học. Đảng ta yêu cầu: quán triệt mục tiêu phát triển là xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện.
Muốn vậy, phải thực hiện tốt hai nhiệm vụ lớn:
Một là, giải quyết tốt lao động, việc làm và thu nhập cho người lao động, bảo đảm an sinh xã hội. Hai là,
coi trọng chăm sóc sức khỏe nhân dân, công tác dân số kế hoạch hóa gia đình cải thiện tình trạng mất cân
bằng giới tính khi sinh, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em; xây dựng gia đình hạnh phúc.
4. Đảm bảo vững chắc quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Đại hội XII đề ra 7 nhiệm vụ: -
Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọngyếu.
-Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh. -
Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh. -
Có kế sách ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, xung đột -
Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. -
Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng -
Nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
5. Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế
- Toàn cầu hoá là một xu thế tất yếu khách quan đang lôi cuốn nhiều nước tham gia.
- Triển khai đồng bộ hoạt động đối ngoại, cả về chính trị, an ninh, quốc phòng, kinh tế, văn hóa, xã hội.
- Đẩy mạnh công tác người Việt Nam ở nước ngoài. 6.
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, tăng cường và mở rộng
mặt trậndân tộc thống nhất. Đại hội XII của Đảng coi đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của
cách mạng nước ta, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc 7.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
- Hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
- Hoàn thiện tổ chức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước
- Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
8. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
Đặt nhiệm vụ tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh lên hàng đầu, xây dựng. Đảng là nhiệm vụ
then chốt. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân
dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát
của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Kết luận: Trong quá trình thực hiện tám phương hướng cơ bản nêu trên phải đặc biệt chú trọng nắm vững và
giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng,
hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập,
tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;...
CHƯƠNG 6: VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH (6)
Nếu đặt trong bối cảnh của Việt Nam thì mối quan hệ này có những đặc điểm cơ bản nào? Và với
một vấn đề nóng như vậy, Đảng và Nhà nước ta đã có những đường lối chính sách gì để phù hợp với
những đặc thù riêng trong mối quan hệ này
Đặt trong bối cảnh của Việt Nam thì mối quan hệ giữa dân tộc và tôn giáo có 3 đặc thù cơ bản:
Thứ nhất, Viêt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo; quan hệ
dân tộc và tôn giáo
được ̣ thiết lập và củng cố trên cơ sở cộng đồng quốc gia – dân tộc thống nhất -
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc cùng sinh sống. Nhà nước Việt Nam đã công
nhận 36 tổ chức tôn giáo thuộc 16 tôn giáo khác nhau như Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Cao
Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Hồi giáo… -
Các tôn giáo ở Viêt Nam c ̣ ó truyền thống gắn bó chặt chẽ với dân tôc, đ ̣ ồng hành cùng dân
tôc, g ̣ ắn đạo với đời. -
Mọi công dân Viêt Nam không phân biệ t dân tộ c, ṭ ín ngưỡng và tôn giáo nhìn chung đều
đoàn kết ý thức rõ về côi ngụ ồn, về môt qụ ốc gia – dân tôc tḥ ống nhất cùng chung sức xây dựng và bảo vê Ṭ ổ quốc. -
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Công sản Việ t Nam, quan hệ dân tộ c ṿ à tôn giáo luôn được
coi trọng và nhìn chung được giải quyết khá tốt, không dẫn đến những xung đôt ḷ ớn trong nôi bộ qụ ốc gia. -
Mặc dù vây, trong trị ển khai hoạt đông tḥ ực tiễn, có nơi có lúc quan hê ṇ ày vẫn nảy sinh
những mâu thuẫn cần phải nhân diệ n rõ ṿ à đánh giá môt cách khách quan, khoa học đ ̣ ể tiếp tục tăng
cường giải quyết tốt mối quan hê dân tộ c ṿ à tôn giáo.
Với đặc thì quốc gia đa dân tộc, tôn giáo này, việc tăng cường mối quan hê tốt đẹp gị ữa dân tộc và
tôn giáo, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết tôn giáo được coi như là vấn đề chiến
lược, cơ bản, lâu dài và cấp bách đối với Đảng và Nhà nước. -
Trong lịch sử phát triển, từ khi nước nhà đôc lậ p, Đảng ta luôn khẳng định: xây ḍ ựng, củng
cố khối đại đoàn kết toàn dân tôc ṿ à đoàn kết tôn giáo là vấn đề chiến lược, cơ bản, lâu dài và cấp
bách của cách mạng Viêt Nam; phát huy những giá trị văn hóa truỵ ền thống của các dân tôc, đ ̣ ồng
thời “phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và nguồn lực của tôn giáo cho quá trình phát triển đất nước”. -
Hiên nay, ṣ ự nghiêp đ ̣ ổi mới toàn diên đất nự ớc theo định hướng xã hôi cḥ ủ nghĩa của
Viêṭ Nam càng cần có môt ṣ ự đoàn kết rông ṛ ãi của khối đại đoàn kết toàn dân tôc, đọ àn kết tôn giáo
và tăng cường mối quan hê ṭ ốt đẹp giữa dân tôc ṿ à tôn giáo… để tạo đông ḷ ực to lớn thúc đẩy công
cuôc ̣ kiến tạo đất nước phồn vinh, phát triển bền vững và bảo vê ṇ ền đôc lậ p, cḥ ủ quyền của quốc gia.
=> Xã hôi x ̣ ã hôi cḥ ủ nghĩa ở nước ta phải luôn là môi trường, điều kiên thuậ n lợi nhất cho tất cả ̣
các dân tôc, các tôn giáo được ṭ ự do phát triển theo đúng qui định của pháp luât, phát huy mọi ngụ ồn
lực đóng góp ngày càng nhiều cho sự nghiêp đ ̣ ổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hôi.̣ -
Thực tiễn này cũng đặt ra yêu cầu: ở mỗi giai đoạn lịch sử, viêc giải quyết ṃ ối quan hệ dân
tôc ṿ à tôn giáo cần có cách tiếp cân ṿ à lựa chọn ưu tiên giải quyết phù hợp với bối cảnh, tình hình
của giai đoạn đó; đồng thời phải luôn nhân diệ n đầy đ ̣ ủ và giải quyết môt cách hiệ u quả những ̣ vấn
đề mới nảy sinh trong mối quan hê dân tộ c ṿ à tôn giáo.
Thêm vào đó, đặt trong chế độ pháp quyền của một nhà nước xã hội chủ nghĩa: Giải quyết mối quan
hê dân tộc và tôn giáo phải đặt trong mối quan hệ với cộng đồng quốc gia – dân tộc thống nhấṭ theo
định hướng xã hội chủ nghĩa -
Để giải quyết tốt mối quan hê dân tộ c ṿ à tôn giáo cần phải tuân thủ nguyên tắc: giải quyết
vấn đề tôn giáo trên cơ sở vấn đề dân tôc, tuyệ t đ ̣ ối không được lợi dụng vấn đề tôn giáo đòi ly khai
dân tôc, hay chia rẽ kḥ ối đại đoàn kết dân tôc ḷ àm tổn hại đến lợi ích quốc gia – dân tôc, ṃ à phải đảm
bảo giữ vững đôc lậ p cḥ ủ quyền, thống nhất đất nước. -
Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 đã quy định: “Tâp hợp đ ̣ ồng bào theo tín ngưỡng, tôn
giáo và đồng bào không theo tín ngưỡng, tôn giáo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tôc, xây ḍ ựng
và bảo vê Ṭ ổ quốc”. -
Thực hiên quan đị ểm có tính nguyên tắc này nhằm đảm bảo sự ổn định chính trị, trât ṭ ự an
toàn xã hôi ở mỗi địa ḅ àn, nhất là ở vùng dân tôc thị ểu số, vùng có đạo, cũng như đảm bảo sự thống
nhất toàn vẹn lãnh thổ trong môt cộ ng đ ̣ ồng quốc gia - dân tôc tḥ ống nhất theo định hướng xã hôi cḥ ủ nghĩa.
Thứ hai, Quan hê dân tộc và tôn giáo ở Việ t Nam chịu sự chi phối ṃ ạnh mẽ bởi tín ngưỡng
truyền thống
Ở Viêt Nam, ṭ ín ngưỡng truyền thống biểu hiên ở nhị ều cấp đô, trên phạm vi cả nự ớc, diễn ra
trong mọi gia đình, dòng họ không phân biêt dân tộ c, tôn giáo. Trong đ ̣ ó, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên,
thờ anh hùng dân tôc, những ngự ời có công với dân, với nước có ý nghĩa đặc biêt quan trọng trong ̣
đời sống tâm linh người Viêt.̣ -
Ở cấp đô gia đ ̣ ình, thờ cúng tổ tiên là hoạt đông pḥ ổ biến, thâm cḥ í trở thành truyền thống,
nét đẹp văn hóa, sợi dây kết dính của mỗi gia đình, dòng họ. -
Ở cấp đô ḷ àng xã, hầu hết các làng xã của người Viêt đ ̣ ều thờ cúng Thành hoàng làng, Thần
Làng rất đa dạng. Đa phần đó là các vị có công gây dựng làng xã, đem lại môt ngḥ ề cho dân làng,
hoặc là người có công với nước được sinh ra tại làng xã đó. -
Ở cấp đô qụ ốc gia, đỉnh cao của sự hôi ṭ ụ đoàn kết thống nhất công đ ̣ ồng dân tôc c ̣ ủa
người Viêt Nam được bị ểu hiên dự ới dạng tín ngưỡng, tôn giáo. Đó là người Viêt Nam ḍ ù sinh sống
ở bất cứ nơi đâu trên mọi miền của Tổ quốc hay định cư ở nước ngoài, dù có khác nhau về ngôn ngữ,
về tín ngưỡng, tôn giáo, thế hê…. tḥ ì đều hướng về côi ngụ ồn dân tôc chung tḥ ực hiên các nghi lễ tệ́
tự, thờ cúng thể hiên lòng tôn ḳ ính, niềm tự hào dân tôc ṿ ề con Lạc cháu Hồng, về nghĩa “đồng bào”
đoàn kết gắn bó chặt chẽ trong môt cộ ng đ ̣ ồng quốc gia - dân tôc tḥ ống nhất.
VD: Từ rất lâu trong lịch sử Việt Nam, ngày 10 tháng 3 âm lịch đã trở thành một ngày trọng đại của
cả dân tộc. Đây là một lễ hội lớn nhằm tưởng nhớ và tỏ lòng biết ơn công lao lập nước của các vua
Hùng, những vị vua đầu tiên của dân tộc.
Thứ ba, Các hiên tượng tôn giáo mới có xu hướng phát triển ṃ ạnh làm ảnh hưởng đến đời
sống cộng đồng và khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Từ khi đất nước thực hiên đự ờng lối đổi mới toàn diên, kinh tế thị trự ờng, toàn cầu hóa và hôị nhâp
qụ ốc tế sâu rông tḥ ì đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của người Viêt Nam phát trị ển, trong đó xuất hiên
mộ t ṣ ố hiên tượng tôn giáo ṃ ới như Long hoa Di Lặc, Tin Lành Vàng Chứ, Thanh Hải vô thượng
sư, Tiên rồng…; các tổ chức đôi ḷ ốt tôn giáo như Tin Lành Đề Ga, Hà Mòn ở Tây Nguyên.
Các thế lực thù địch thường xuyên lợi dụng vấn đề dân tộc và vấn đề tôn giáo nhằm thực hiêṇ “diễn
biến hòa bình”, nhất là tập trung ở 4 khu vực trọng điểm: Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và Tây
duyên hải miền Trung. Các thế lực này thường xuyên lợi dụng các vấn đề dân tộc và tôn giáo để tuyên
truyền những nôi dung gây hoang mang trong quần cḥ úng, hay thực hành những nghi lễ phản văn hóa,
truyền đạo trái phép, phát tán các tài liêu c ̣ ó nôi dung xuyên tạc đự ờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Đây là ví dụ cụ thể cho hành động tuyên truyền những tư tưởng lệch lạc đến từ các giáo phái đen
Kiên quyết đấu tranh với hoạt động lợi dụng vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo nhằm chia rẽ
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị - xã hội ở nước ta hiện nay
Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, tôn giáo là lĩnh vực nhạy cảm, dễ thu hút sự chú ý của dư
luận trong nước và quốc tế. Đây cũng là lĩnh vực dễ bị lợi dụng vào các hoạt động gây chia rẽ khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị - xã hội. Việt Nam là quốc gia có nhiều tôn giáo. Với
chủ trương “tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo” của Đảng và Nhà nước Việt Nam, thời gian qua, tình
hình tôn giáo ổn định, đời sống tôn giáo có những biến đổi sâu sắc cả về số lượng lẫn phạm vi hoạt động,
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được tôn trọng, bảo đảm.
Đến năm 2018, Việt Nam đã công nhận và cấp đăng ký hoạt động cho 43 tổ chức, thuộc 16 tôn giáo
với trên 26 triệu tín đồ, 55.870 chức sắc, 145.561 chức việc, 29.396 cơ sở thờ tự. Các tổ chức tôn giáo
và đại bộ phận chức sắc, chức việc, nhà tu hành hoạt động tôn giáo đúng quy định của pháp luật, tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Tuy nhiên, với tác động của tình hình quốc tế, mặt trái của toàn cầu hóa và cơ chế thị trường, âm mưu
“chính trị hóa tôn giáo” của các thế lực thù địch đã làm cho đời sống tôn giáo bị tác động và không
ngừng biến đổi, tiềm ẩn nhiều “nguy cơ”, nổi lên các vấn đề như: Lợi dụng hoạt động tôn giáo vi phạm
pháp luật, thậm chí mang “màu sắc chính trị”; lợi dụng một số bất cập trong quản lý tôn giáo để xuyên
tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; mâu thuẫn nội bộ, tranh giành
chức quyền, hoạt động tôn giáo xa rời chuẩn mực đạo đức và văn hóa truyền thống dân tộc, trục lợi, sa
sút đạo hạnh... trong một số tổ chức tôn giáo; xuất hiện một số loại hội, nhóm mang danh tôn giáo, đạo lạ.
Những vấn đề nêu trên không chỉ gây khó khăn cho công tác tôn giáo mà còn là nguyên nhân và điều
kiện để các thế lực thù địch lợi dụng tiến hành các hoạt động gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
gây mất ổn định chính trị - xã hội. Cụ thể là: 1-
Lợi dụng tôn giáo để hoạt động chống Đảng và Nhà nước Việt Nam, gây mất ổn định
chính trị - xã hội.
Thời gian qua, lợi dụng tính nhạy cảm của vấn đề tôn giáo, một số phần tử cực đoan trong tôn giáo
cấu kết với các tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí với Đảng và Nhà nước Việt Nam tổ chức các cuộc “hôị
luân”, “ḥ ọp báo”, soạn thảo và tán phát các tài liệu có nội dung xuyên tạc, bịa đặt để tuyên truyền chống
Đảng và Nhà nước Việt Nam, nhất là trên các lĩnh vực dân chủ và nhân quyền. Họ đẩy mạnh xuyên tạc
Đảng và Nhà nước Việt Nam “đàn áp tôn giáo”, Việt Nam “không có tự do tôn giáo”. Họ cho rằng Pháp
lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo (trước đây) và Luật Tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay là sự “đàn áp tôn giáo”
bằng pháp luật của Nhà nước Việt Nam, không tạo điều kiện cho các tôn giáo phát triển; từ đó, khoét
sâu mâu thuẫn giữa các tôn giáo với chính quyền các cấp. Đồng thời, móc nối, câu kết với một số tổ
chức, cá nhân ở trong nước và nước ngoài thành lâp hoặ c ṭ ích cực tham gia các hôi, nḥ óm trái pháp
luât, mang danh ngḥ ĩa tôn giáo để tập hợp, phát triển lực lượng chống đối.
Một số chức sắc cực đoan lợi dụng các vấn đề chính trị - xã hội phức tạp để kích động tín đồ xuống
đường biểu tình, gây mất ổn định chính trị - xã hội. Điển hình như, lợi dụng sự cố môi trường ở các tỉnh
miền Trung do Formosa gây ra, một số chức sắc cực đoan trong Công giáo thuộc Giáo phận Vinh đã tổ
chức, kích động giáo dân tổ chức nhiều cuộc biểu tình, tuần hành dưới danh nghĩa “bảo vệ môi trường”,
gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự tại các địa phương, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân
những người không theo tôn giáo, khiến cho mối quan hệ đoàn kết lương - giáo có nơi, có lúc bị rạn nứt nghiêm trọng.
Đáng chú ý, với lý do “bảo vệ tự do tôn giáo”, một số thế lực nước ngoài đã ban hành báo cáo, phúc
trình, thậm chí là đạo luật, nghị quyết “lên án” tình hình bảo đảm quyền con người của Việt Nam, nhất
là trên lĩnh vực tôn giáo, từ đó gây sức ép về ngoại giao, đồng thời gắn các vấn đề dân chủ và nhân quyền
trên lĩnh vực tôn giáo với các vấn đề về viện trợ kinh tế, đầu tư phát triển, nhằm can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. 2-
Lợi dụng các hoạt động tôn giáo vi phạm pháp luật để gây chia rẽ đoàn kết dân tộc,
gâymất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
Lợi dụng đường lối, chính sách đổi mới, mở cửa và tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước
ta, các tôn giáo đều gia tăng các hoạt động mở rộng cơ sở vật chất, dẫn đến phát sinh nhiều vụ tranh
chấp, khiếu kiện đất đai liên quan đến tôn giáo. Đáng chú ý, số đối tượng cực đoan trong các tôn giáo
cũng như các tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí với Nhà nước Việt Nam ở trong nước và nước ngoài đã
triệt để lợi dụng các vụ tranh chấp, khiếu kiện về đất đai liên quan đến tôn giáo để kích động các hoạt
động chống đối, gây tâm lý bức xúc và phản ứng của tín đồ đối với chính quyền; gây chia rẽ giữa chính
quyền với tôn giáo. Nghiêm trọng hơn, họ còn cố tình chính trị hóa sự việc, xuyên tạc, vu cáo chính
quyền “lấy đất đai của tôn giáo, bỏ quên quyền lợi nhân dân, bao che cho doanh nghiệp, tàn phá môi
trường”, kích động tâm lý so bì, cho rằng Nhà nước đối xử không bình đẳng giữa các tôn giáo. Một số
tổ chức, cá nhân tôn giáo không hợp tác với chính quyền trong viêc kê khai, ḷ àm các thủ tục để được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhằm lấn chiếm đất để mở rộng cơ sở thờ tự.
Bên cạnh hoạt động vi phạm pháp luật về đất đai, trong hoạt động tôn giáo cũng xảy ra các vụ, việc
chưa tuân thủ các quy định của pháp luât, như thuyên chuỵ ển, bổ nhiêm chức sắc, chức việc, nhà tụ
hành trong các tôn giáo; việc thành lập các cơ sở tôn giáo trực thuộc chưa được sự chấp thuân c ̣ ủa chính quyền.
Các hoạt động vi phạm nói trên luôn tiềm ẩn nguy cơ bị các thế lực xấu khai thác, lợi dụng để gây
chia rẽ giữa tôn giáo với chính quyền, giữa người theo đạo và người không theo đạo, cũng như tiến hành
các hoạt động chống phá, gây bất ổn chính trị - xã hội. 3-
Thành lập các hội, nhóm mang danh tôn giáo, đạo lạ, gây mất đoàn kết dân tộc và đe
dọaổn định chính trị - xã hội.
Lợi dụng vấn đề tôn giáo trong vùng đồng bào một số dân tôc thị ểu số; sự sa sút tính chân truyền
trong các tôn giáo đã được Nhà nước công nhận; điều kiện khó khăn về kinh tế, xã hội..., một số đối
tượng đã thành lâp c ̣ ác hôi, nḥ óm mang danh nghĩa tôn giáo, hoạt đông vi pḥ ạm pháp luât, gây mấṭ
đoàn kết dân tộc. Chẳng hạn, một số thế lực nước ngoài câu kết với số đối tượng xấu trong nước lâp rạ
các tổ chức dưới danh nghĩa tôn giáo nhưng mang màu sắc chính trị, như cái gọi là “Tin Lành Đêga”,
Hà Mòn ở khu vực Tây Nguyên, các tổ chức Tin Lành riêng của người Mông ở khu vực Tây Bắc và tổ
chức “Liên đoàn Khmers Kampuchea Krom” (KKF) ở khu vực Tây Nam Bộ, để kích động các hoạt
động ly khai, tự trị ở các vùng trọng điểm, chiến lược, ảnh hưởng nghiêm trọng tới khối đoàn kết toàn
dân tộc và sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước..
Bên cạnh đó, còn có nhiều loại hình mang danh tín ngưỡng, tôn giáo, hiện tượng tôn giáo mới xuất
hiện ở nhiều địa phương, xa rời văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, như không thờ cúng tổ tiên,
gọi bố mẹ là anh, chị, em; khám, chữa bệnh bằng cầu cúng; tuyên truyền, hứa hẹn về tương lai tốt đẹp
để mê muội quần chúng. Điển hình là các tổ chức “Hội thánh của Đức Chúa Trời Mẹ”, Pháp Luân Công,
Dương Văn Mình, “Nhất quán đạo”, “Thanh Hải Vô Thượng Sư”... Hoạt động của các tổ chức này không
chỉ gây mâu thuẫn trong quần chúng, ảnh hưởng tới khối đoàn kết toàn dân tộc, mà còn tạo ra những tác
động tiêu cực tới sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước, tạo cớ cho các thế lực thù địch xuyên tạc
tình hình tôn giáo ở Việt Nam, vu cáo Việt Nam “không có tự do tôn giáo”. 4-
Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo mê tín, trục lợi, làm lệch chuẩn văn hóa, đạo đức xã hôi.̣
Thời gian gần đây, tại một số cơ sở tôn giáo xuất hiện hiện tượng thương mại hóa hoạt đông ṭ ín
ngưỡng, tôn giáo, cụ thể là lợi dụng lòng tin của người dân để trục lợi, phát triển các hoạt đông tâṃ linh
mang màu sắc mê tín, như hoạt đông dâng sao gị ải hạn, bói toán, xem quẻ, cúng oan gia trái chủ, chữa
bệnh bằng tâm linh... Các tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí đã triệt để lợi dụng các vấn đề đó để công
kích, bịa đặt, xuyên tạc, gây mất đoàn kết trong nội bộ một số tôn giáo, kích động tín đồ tạo phe phái để
chống đối lẫn nhau, ly khai, thành lập tổ chức khác. Đây đều là các yếu tố tiềm ẩn nguy cơ đe dọa sự
đoàn kết nội bộ các tôn giáo cũng như khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Hoạt động lợi dụng tôn giáo và vấn đề tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn
định chính trị - xã hội là hoạt động hết sức nguy hiểm, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, gây chia rẽ giữa các tôn giáo, giữa tôn giáo với chính quyền, giữa quần chúng giáo dân
và những người không theo tôn giáo, tạo ra những yếu tố phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ bùng nổ thành xung
đột xã hội. Trên thực tế, đã xảy ra một số vụ mâu thuẫn, xung đột trong nội bộ nhân dân có liên quan tới
tôn giáo do tác động bởi hoạt động nói trên. Sự ổn định chính trị - xã hội ở một số nơi, một số lúc đã bị
ảnh hưởng. Do đó, chủ động phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả với hoạt động này có vai trò quan trọng
trong toàn bộ công tác tôn giáo cũng như bảo đảm sự ổn định chính trị - xã hội ở Việt Nam.
Thực tiễn cho thấy, các thế lực thù địch lợi dụng hoạt động tôn giáo, vấn đề tôn giáo để chia rẽ khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị - xã hội là vì họ còn có những môi trường, điều kiện
nhất định. Môi trường, điều kiện đó xuất phát từ tính chất nhạy cảm của tôn giáo, từ những phức tạp
trong hoạt động của các tôn giáo, cũng như hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên lĩnh vực này của
các cơ quan chức năng. Do đó, làm tốt công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo là một trong
những phương pháp hữu hiệu để tạo lòng tin của giáo dân đối với chính quyền và đường lối, chính sách
về tôn giáo của Đảng, Nhà nước; thu hẹp mưu đồ lợi dụng tôn giáo để hoạt động chống phá. Để thực
hiện tốt nhiệm vụ này, cần thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp sau:
Một là, tuyên truyền, nâng cao nhận thức của xã hội về tôn giáo và công tác tôn giáo.. Tăng cường
công tác tuyên truyền về hoạt động tôn giáo và đường lối, chính sách đúng đắn về tôn giáo của Đảng,
Nhà nước, nhất là Luật Tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định số 162/2017/NĐ-CP, ngày 30-12-2017, của
Chính phủ, về “Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo”, để cán
bộ, người dân và tổ chức, cá nhân theo tôn giáo hiểu, nâng cao nhận thức và chủ động thực hiện đúng.
Đẩy mạnh công tác đối ngoại về tôn giáo, chủ động tham gia các diễn đàn tôn giáo quốc tế và khu
vực. . Tạo điều kiện và tổ chức tốt việc đón tiếp các cá nhân, tổ chức quốc tế vào tìm hiểu tình hình,
chính sách tôn giáo ở Việt Nam. Thông qua các hoạt động này để thông tin kịp thời về thành tựu của
Việt Nam trong lĩnh vực bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời, tạo điều kiện cho các cá
nhân, tổ chức tôn giáo tham gia các hội nghị, diễn đàn quốc tế liên quan đến tôn giáo.
Hai là, tăng cường công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo, đẩy mạnh hướng dẫn các tổ
chức tôn giáo hoạt động theo hiến chương, điều lệ đã được Nhà nước công nhận và theo quy định của
pháp luật. Siết chặt kỷ cương, tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng,
tôn giáo. Lồng ghép nội dung, nhiệm vụ công tác tôn giáo với các chỉ tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội vùng có đông đồng bào tôn giáo ở địa phương. Chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra,
không để xảy ra hiện tượng “nhờn luật” ở cả phía chính quyền và giáo hội, xử lý nghiêm đối với các
hành vi vi phạm pháp luật. Phát huy vai trò của hệ thống chính trị ở cơ sở trong vận động chức sắc, chức
việc, nhà tu hành, tín đồ tôn giáo tuân thủ pháp luật và tham gia phong trào xây dựng, bảo vệ an ninh,
trật tự, an toàn xã hội ở địa phương.
Ba là, kiên quyết đấu tranh với các hoạt động lợi dụng tôn giáo để chống phá Đảng và Nhà nước Việt
Nam. Các lực lượng chức năng triển khai các phương tiện, biện pháp, nhất là đẩy mạnh công tác vận
động quần chúng tín đồ, tranh thủ chức sắc, cũng như vận dụng có hiệu quả biện pháp ngoại giao để
kiên quyết đấu tranh với các hoạt động lợi dụng tôn giáo chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam của
các thế lực thù địch. Đẩy mạnh đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc về tình hình tôn giáo ở Việt
Nam, hòng chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nêu gương điển hình tiên tiến đối với các cá nhân, tổ
chức tôn giáo thực hiện tốt phương hướng hoạt động “sống tốt đời, đẹp đạo”; tích cực tham gia các
phong trào thi đua yêu nước ở các địa phương.
Bốn là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở, củng cố bộ máy làm
công tác tôn giáo đủ mạnh, có tính ổn định cao, được giao đủ thẩm quyền để làm tốt công tác quản lý
các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo. Bảo đảm bộ máy và đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo phải có
năng lực, trình độ tương xứng để có thể quản lý, đối thoại với cá nhân, tổ chức tôn giáo. Tăng cường đào
tạo, bồi dưỡng kiến thức tôn giáo, nghiệp vụ công tác cho đội ngũ cán bộ, đảng viên làm công tác tôn
giáo, nhất là ở cơ sở, nhằm xây dựng một đội ngũ cán bộ có trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ, có lập
trường tư tưởng vững vàng, xóa bỏ nhận thức lệch lạc và hiểu sai chính sách, pháp luật. Kết luận: Có
thể nói, ổn định tình hình tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những yếu tố quan trọng góp phần vào thành công của công
cuộc đổi mới đất nước, phát triển kinh tế, xã
hội, đoàn kết dân tộc và bảo đảm an ninh - quốc phòng. Do vậy, công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo và công tác bảo đảm an ninh trên lĩnh vực tôn giáo là những nhiệm vụ quan trọng, vừa bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, nâng cao đời sống tinh thần
của người dân, vừa hạn chế sự chống phá của các thế lực thù địch, góp phần tạo sự ổn định và
phát triển bền vững đất nước
CHƯƠNG 7: VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH (1)
Các cơ sở xây dựng gia đình khác
Tình yêu và sự quan tâm: Tình cảm yêu thương và quan tâm giữa các thành viên gia đình là nền tảng quan
trọng nhất trong một gia đình. Nó giúp tạo ra một môi trường ấm áp và hỗ trợ cho mọi người.
Tính cảm hòa thuận và gắn kết: Sự hòa thuận và gắn kết giữa các thành viên gia đình làm tăng tính đoàn kết
và tạo ra sự ổn định trong gia đình.
Trách nhiệm và tôn trọng: Mỗi thành viên trong gia đình phải có trách nhiệm đối với nhau và tôn trọng lẫn
nhau. Điều này giúp duy trì một môi trường sống lành mạnh và hài hòa.
Sự hỗ trợ và chia sẻ: Gia đình cung cấp sự hỗ trợ lẫn nhau trong mọi tình huống và chia sẻ cả niềm vui lẫn nỗi buồn.
Luân phiên và sự linh hoạt: Việc thích ứng với thay đổi và sự linh hoạt trong các vai trò và trách nhiệm trong
gia đình là rất quan trọng để duy trì sự cân bằng và hòa thuận.
Tự do và không gian cá nhân: Gia đình có thể tạo ra không gian riêng tư cho mỗi thành viên, như phòng ngủ
riêng, nơi để thư giãn, hoặc thời gian cá nhân cho mỗi người.
Hòa hợp với giá trị và niềm tin: Gia đình thường tổ chức các hoạt động hoặc thảo luận để xác định và phát
triển các giá trị và niềm tin chung, như tham gia các hoạt động tôn giáo, tham gia các sự kiện cộng đồng, hoặc tổ
chức buổi họp gia đình.
Sự kiên nhẫn và nhượng bộ: Các thành viên gia đình thường học cách lắng nghe và hiểu biết quan điểm của
nhau, và sẵn lòng thỏa hiệp và tìm kiếm giải pháp mà mọi người đều có thể chấp nhận
Hỗ trợ giáo dục và phát triển: Gia đình thường khuyến khích và hỗ trợ sự học hỏi và phát triển của nhau, như
việc giúp đỡ với bài tập, thảo luận về các vấn đề quan trọng, và cung cấp nguồn lực để mỗi thành viên có thể đạt
được tiềm năng của mình.
Cùng chung sống với mục tiêu và ý nghĩa: Gia đình thường tổ chức các hoạt động và thúc đẩy các giá trị và
mục tiêu chung, như việc tổ chức các chuyến dã ngoại gia đình, tham gia vào các dự án từ thiện, hoặc thực hiện
các hoạt động văn hóa và nghệ thuật.
*Để xây dựng gia đình VN tiến bộ, hạnh phúc cần làm những việc sau:
Cần phải có những trách nhiệm đối với gia đình như:
Quan hệ giữa con cái với cha mẹ
Ý thức được tầm quan trọng của gia đình đối với bản thân và đối với xã hội. Gia đình là tế bào của xã hội,
thành viên văn minh sẽ xây dựng được gia đình văn mình, gia đình văn minh sẽ góp phần tạo nên xã hội tươi đẹp, tiến bộ.
Dành nhiều thời gian quan tâm đến gia cha mẹ: thường xuyên trò chuyện, tâm sự với ba mẹ, để hiểu thêm về
họ, cũng như cho họ có quyền được hiểu thêm về bản thân mình, gạt bỏ đi những khoảng cách giữa các thế hệ.
Hoàn thành tốt trách nhiệm của sinh viên như phấn đấu học tập, trau dồi kĩ năng, khiến cho cha mẹ yên lòng,
trở thành một cá nhân có ích trước hết là cho gia đình, sau đó là cho cộng đồng và xã hội
Không cãi lời ba mẹ, tham gia vào các tệ nạn xã hội, luôn luôn tỉnh táo trước những cám dỗ. Hiếu thảo với cha
mẹ, vâng lời cha mẹ, phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ.
Quan hệ giữa anh chị em trong gia đình:
Hiểu được rằng, tình cảm anh chị em là thứ tình cảm huyết thống thiêng liêng không có bất kỳ thứ gì trên đời
này có thể thay thế được. Đặc biệt, mối quan hệ đó sẽ bền chặt suốt đời và được truyền từ đời này sang đời khác.
Tôn trọng anh chị em của mình, lựa lời mà nói để tránh gây ra những tổn thương, mâu thuẫn Cùng các thành
viên khác chia sẻ niềm vui, nỗi buồn, cùng nhau đối diện với khó khăn, thử thách
Anh chị phải có trách nhiệm yêu thương, dạy dỗ, đùm bọc các em, rèn luyện đạo đức, trở thành một công dân
tốt, là tấm gương tốt cho các em noi theo
Người làm em thì lắng nghe những ý kiến, góp ý của anh chị để phát huy và sửa đổi, giúp bản thân ngày càng
hoàn thiện hơn. Trong tương lai, khi kết hôn và có cho mình một gia đình nhỏ, lúc này, vai trò trong gia đình cũng sẽ có sự thay đổi:
Quan hệ giữa vợ và chồng:
Tôn trọng pháp luật, nghiêm túc chấp hành chế độ hôn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Đây là
chế độ phù hợp với quy luật phát triển tự nhiên, với tâm lý, tình cảm và đạo đức con người, do vậy là cơ sở đảm
bảo xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững.
Thực hiện bình đẳng trong mọi khía cạnh của đời sống gia đình như: cùng chia sẻ công việc gia đình, chăm
sóc con cái; được thỏa mãn những nhu cầu cá nhân như: giải trí, học tập, tham gia hoạt động xã hội, cộng đồng;
được bàn bạc, trao đổi, tham gia vào quá trình ra quyết định trong gia đình cũng như bình đẳng, tôn trọng trong
đời sống tình dục hay kế hoạch hóa gia đình.
Gia đình được gây dựng nên nhờ hôn nhân, hôn nhân là sự kết hợp thiêng liêng trên cơ sở tình yêu,
Do vậy, việc duy trì tình yêu trong hôn nhân là yếu tố then chốt để giữ gìn hạnh phúc gia đình. Có thể duy trì
tình yêu bằng cách chăm sóc, tôn trọng, trung thực trong đời sống thường ngày, thăm hỏi, động viên, chia sẻ mỗi
khi người vợ/chồng gặp khó khăn, đau ốm, không giải quyết mâu thuẫn bằng bạo lực.
Bên cạnh đó, quan hệ hôn nhân cũng cần có sự đảm bảo về tài chính. Mỗi thành viên cần phải nỗ lực để mang
lại một cuộc sống ổn định, đảm bảo các nhu cầu sống và phát triển để người vợ/ chồng không cần phải vất vả
gánh vác gánh nặng kinh tế một mình. Quan hệ giữa cha mẹ và con cái
Cần thể hiện tình yêu với con cái thường xuyên hơn để chúng biết rằng cha mẹ yêu chúng nhiều đến thế nào.
Tránh để trẻ trưởng thành trong một môi trường thiếu sự yêu thương, dẫn đến hình thành tính cách tự ti, bệnh tâm lý.
Giao tiếp nhiều với con để con có thể học được cách xây dựng các mối quan hệ ngoài gia đình, ghi nhận quan
điểm, chia sẻ những vướng mắc, khó khăn mà con đang gặp phải
Tôn trọng quan điểm, góc nhìn của con cái, không nên áp đặt cách nuôi dạy con của người khác lên con cái
của mình vì mỗi cá nhân sẽ có những thế mạnh, điểm yếu khác nhau. Cần tạo ra một không gian an toàn cho con
cái, ở đó, con cảm thấy được bảo vệ và chăm sóc. Thỏa mãn nhu cầu được lắng nghe, được quan tâm, thấu hiểu.
Đảm bảo với con là con có thể tin tưởng rằng dù có chuyện gì xảy ra đi chăng nữa, con vẫn luôn có gia đình đứng sau ủng hộ.
Không dùng bạo lực để răn dạy con cái vì điều đó có thể khiến trẻ có xu hướng trở nên bạo lực, bạo lực nối
tiếp bạo lực. Ngoài ra, bạo lực còn có thể đem lại tổn thương về mặt thể xác và mặt tinh thần, làm cho trẻ luôn có
những suy nghĩ tiêu cực, tâm trạng buồn bã, chán nản, suy giảm khả năng nhận thức, trở nên khép mình, nổi loạn, căm ghét cha mẹ.
Không thiên vị, không so sánh, chia đều tình thương, đối xử công bằng với các con.
Sự biến đổi chức năng gia đình và các vấn đề gia đình liên quan
Biến đổi chức năng tái sản xuất ra con người:
Sự thay đổi trong tư tưởng liên quan đến chức năng tái sản xuất con người đã dẫn đến một số hậu quả nghiêm
trọng. Thứ nhất là nạn đẻ thuê. Gần đây tình trạng mang thai hộ, đẻ thuê ngày càng gia tăng trong xã hội. Nạn
đẻ thuê khác với mang thai hộ vì mục đích nhân đạo ở chỗ: đẻ thuê là việc một người phụ nữ mang thai cho người
khác bằng việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để được hưởng lợi về kinh tế hoặc lợi ích khác. Thứ hai, một vấn
đề khác cũng đang nảy sinh trong xã hội hiện nay là chính sách ít con, tồn tại tư tưởng trọng nam khinh nữ, coi
trọng việc sinh con trai để nối dõi tông đường cùng với sự hiện đại hóa các thiết bị y tế đã dẫn đến việc lựa chọn
giới tính khi sinh. Điều này dẫn đến hiện trạng nạo phá thai bừa bãi, gây ra nguy cơ mất cân bằng giới tính. Căn
cứ theo số liệu mới nhất của Tổng cục Thống kê năm 2022, tỷ số mất cân bằng giới tính khi sinh ở nước ta là
112,1 trẻ trai trên 100 trẻ gái. Đây là vấn đề hết sức hệ trọng nếu không quyết liệt chung tay giải quyết thì tương
lai đến 2050 sẽ có khoảng 2 - 4 triệu nam thanh niên Việt Nam không có cơ hội kết hôn với phụ nữ ở Việt Nam.
Biến đổi chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng:
Thứ nhất là hình thức huy động lao động trẻ em và người già tham gia đóng góp kinh tế trong gia đình.
Trong một số gia đình, khi kinh tế rơi vào khó khăn, đặc biệt ở vùng nông thôn, gia đình bằng mọi cách ép trẻ em
hay người gia đi lao động để hỗ trợ kinh tế gia đình, không quan tâm đến các chức năng khác như giáo dục và
chăm sóc sức khỏe người già và trẻ em. Điều này đã dẫn đến hậu quả là kinh tế giàu nhưng gia đình không bền
vững khi con cái ham chơi, trốn học, mắc các tệ nạn xã hội, để rồi vi phạm pháp luật khi còn ở tuổi vị thành niên
và trên hết nó tạo điều kiện cho việc lạm dụng lao động trẻ em hay người già. Tình trạng lạm dụng lao động trẻ
em ở mức báo động là ở Sa Pa. Trẻ em ở đây thường bị phụ huynh đẩy ra đường, chèo kéo khách du lịch mua
hàng dưới thời tiết 1 độ C. Điều này không những khiến cho hình ảnh khu du lịch Sapa nói riêng và Việt Nam nói
chung trở nên mất điểm trong mắt khách du lịch, mà còn tước đi cơ hội được học tập và được nuôi dưỡng đúng
nghĩa của trẻ em. Thứ 2 là xuất hiện sản xuất kinh doanh trái phép. Gia đình quá chú trọng đến lợi ích kinh tế
mà thực hiện các hành động sản xuất kinh doanh trái pháp luật, phát triển lĩnh vực sản xuất gây ô nhiễm môi
trường, bóc lột sức lao động người làm thuê.
Biến đổi chức năng nuôi dưỡng, giáo dục
Những tác đông trên đây ḷ àm giảm sút đáng kể vai trò của gia đình trong thực hiên cḥ ức năng xã hôi ḥ óa,
giáo dục trẻ em ở nước ta thời gian qua. Hiên tượng trẻ em hư, bỏ học ṣ ớm, lang thang, nghiên ḥ út ma túy, mại
dâm… cũng cho thấy phần nào sự bất lực của xã hôi ṿ à sự bế tắc của môt ṣ ố gia đình trong viêc chăm ṣ óc, giáo
dục trẻ em. Điều này dẫn đến hiện tượng trẻ vị thành niên phạm tội. Một trong số đó là vấn đề tội phạm vị thành
niên, một vấn đề nhức nhối trong xã hội. Ví dụ là vụ việc của Lê Văn Luyện: Giết người cướp tiệm vàng khi chưa
tròn 18 tuổi. Tuy giết hại nạn nhân dã man nhưng vì chưa thành niên nên vẫn được khoan hồng. Nguyên nhân của
vụ án này có thể được lý giải như sau: Sau 3 tháng điều tra vụ giết người, cướp tiệm vàng Ngọc Bích, tại bản kết
luận dài 24 trang, Công an Bắc Giang cho biết, Luyện (huyện Lục Nam, Bắc Giang) làm thợ xây dựng tự do ở Hà
Nội. Giữa tháng 8, Luyện bỏ việc, mượn xe máy của chú về quê chơi. Túng tiền, anh ta đem xe cầm cố và nảy
sinh ý đồ cướp tiệm vàng lấy tiền chuộc. Như vậy, từ hoàn cảnh, có thể thấy, Lê Văn Luyện đã tham gia lao động
dù chưa đủ 18 tuổi, ngoài ra hắn còn bỏ học từ năm lớp 10. Điều này chứng tỏ, gia đình đã lơ là trong việc để
Luyện nhận được đầy đủ giáo dục từ chính gia đình cũng như nhà trường. Điều này dẫn đến việc Luyện đi vào
con đường tù tội, gây ra cảnh tang thương cho gia đình chủ tiệm vàng. Đây là vấn đề nhức nhối của xã hội hiện
nay - tội phạm vị thành niên
Biến đổi chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình
Khi phương tiện đại chúng, mạng xã hội phát triển, đời sống tinh thần của các gia đình nhìn chung là có sự đa
dạng hơn trong việc giải trí. Tuy nhiên, nó cũng góp phần tạo nên khoảng cách giữa các thành viên trong gia đình.
Hiện nay, các cá nhân trẻ trong gia đình thường bị lôi cuốn bởi những trào lưu văn hóa lối sống thực
dụng, cá nhân chủ nghĩa. Thay vì dành thời gian cho gia đình, họ tập trung nhiều vào các mối quan hệ bên ngoài
như: bạn bè, đồng nghiệp, nhóm sở thích,... thông qua mạng xã hội. Điều này khiến có mối quan hệ giữa các thành
viên trong gia đình trở nên xa cách hơn. Ví dụ điển hình là trong thời gian rảnh, thay vì dành thời gian quan tâm,
chăm sóc các thành viên khác trong gia đình thì hiện nay, đa số mọi người lựa chọn sử dụng các thiết bị điện tử
thông minh như: chơi game, lướt mạng xã hội, sử dụng các ứng dụng hẹn hò,... Do đó, sự tương tác giữa các thành
viên trong gia đình ngày càng suy giảm, dần tạo nên sự khác biệt trong suy nghĩ cũng như sự liên kết trong gia
đình. Không phải ngẫu nhiên tình trạng mâu thuẫn giữa các thế hệ trong gia đình, hoặc xung đột vợ chồng dẫn
đến ly hôn có xu hướng tăng trong những năm gần đây, dẫn đến sự bất ổn định của gia đình Việt Nam. Có thể nói
sự biến đổi chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý đã dẫn đến hai vấn đề chính là sự thiếu gắn kết giữa các thành
viên trong gia đình và sự tăng lên trong tỷ lệ ly hôn.
Các vấn đề gia đình khác
a. Mối quan hệ giới tính trong gia đình
Trong quan hệ giữa vợ và chồng, việc phân công lao động trên cơ sở giới vẫn còn duy trì, mặc dù đã có sự
chia sẻ cân bằng hơn giữa hai giới trong công việc sản xuất kinh doanh hoặc một số loại việc khác. Nhìn chung,
sự tham gia của nam giới vào công việc nội trợ không tăng đáng kể và chưa tương xứng với sự gia tăng của phụ
nữ trên thị trường lao động. Lao động nội trợ không được nhận thức thỏa đáng cả từ phía nam giới và phụ nữ và
có thể dẫn đến hậu quả tiêu cực cho quan hệ vợ - chồng và các thành viên khác. Rõ ràng, sự phân biệt giới còn
khá phổ biến, mối quan hệ vợ - chồng trong nhiều trường hợp dường như đang lặp lại hình ảnh “chồng chúa vợ
tôi” từ xa xưa và cần phải có những nỗ lực triển khai mạnh mẽ Luật Bình đẳng giới nhằm có được sự bình đẳng
thực chất giữa phụ nữ và nam giới.
b. Bạo lực gia đình
Bạo lực gia đình ngày càng trở nên nghiêm trọng, trong đó vấn đề bạo lực của người chồng đối với người vợ
đang là vấn đề được quan tâm bởi xã hội. Số liệu điều tra quốc gia về bạo lực gia đình đối với phụ nữ Việt Nam
năm 2010 cho thấy, có 58,3% phụ nữ tham gia khảo sát đã trải qua ít nhất một hình thức bạo hành về thể chất,
tinh thần hoặc tình dục, trong đó 27% đã trải qua ít nhất một hình thức bạo lực trong vòng 12 tháng trước cuộc
điều tra. Có 32% phụ nữ có chồng cho biết, họ từng trải qua bạo lực về thể chất; 6% trong số đó trải qua bạo lực
trong vòng 12 tháng trở lại.
c. Một số giá trị gia đình truyền thống bị xuống cấp
Quy mô gia đình có xu hướng ngày càng nhỏ lại: Kết quả các cuộc tổng điều tra dân số qua các năm cho thấy
quy mô gia đình Việt Nam liên tục giảm trong vòng hơn 20 năm qua, từ 5,22 người/hộ gia đình năm 1979 xuống
còn 4,88 người/hộ năm 1989 và 4,6 người/hộ năm 1999. Nguyên nhân giảm quy mô gia đình là do giảm mức
sinh, thay đổi mô hình chung sống giữa các thế hệ và những nguyên nhân khác như ly hôn, ly thân, độc thân...
Tuổi kết hôn trung bình lần đầu có xu hướng tăng cao: Ở nội thành Hà Nội, theo điều tra của ủy ban Dân số,
Gia đình và Trẻ em Hà Nội năm 2002, tuổi kết hôn trung bình lần đầu của nam là 28,25 tuổi, nữ là 24,26 tuổi. Ở
một số vùng nông thôn miền núi, tuổi kết hôn trung bình thấp và tình trạng tảo hôn còn khá phổ biến.
Tình thân mật và giao tiếp: Sự kỳ thị về thời gian và không gian cũng như sự phụ thuộc vào công nghệ có thể
làm giảm sự giao tiếp trực tiếp trong gia đình.
d. Xu hướng già hóa dân cư
Xu hướng già hóa dân cư đang diễn ra khá nhanh ở Việt Nam: năm 1979 tỷ lệ người cao tuổi trong tổng số dân
cư là 7,1%; đến năm 2009 là 10%. Chỉ số già hóa (tỷ số giữa dân số từ 60 tuổi trở lên so với dân số dưới 15 tuổi
tính theo phần trăm) đã tăng từ 18,2% năm 1989 lên 42,7% năm 2012. So với nhiều nước khác trên thế giới thì
người già ở Việt Nam ở trong tình cảnh khá đặc thù. Do phải trải qua một thời gian chiến tranh khá dài, nên phần
đông các cụ không có sổ hưu, không có sổ tiết kiệm cũng như các nguồn tích lũy khác. Có thể nói nhóm người
cao tuổi này đang gặp khó khăn, không chỉ trong việc chi trả cho các dịch vụ khám chữa bệnh và chăm sóc sức
khỏe, mà còn khó có thể tự nuôi sống bản thân. Những khó khăn này đang góp phần đẩy người cao tuổi vào tình
trạng phụ thuộc vào gia đình và con cháu mà không có một sự lựa chọn nào khác khi các dịch vụ xã hội chăm sóc
người cao tuổi còn non yếu như hiện nay.
Ngoài ra, còn những khó khăn khác như: con cái bị tàn tật, đau yếu, công việc của con cái không ổn định, nhà
neo người... Trong điều kiện đó, sự trợ giúp của Nhà nước thông qua những hình thức khác nhau (bảo hiểm, trợ
cấp tuổi già, v.v.) nhằm giảm bớt sự phụ thuộc về mặt vật chất của người cao tuổi đối với con cháu có ý nghĩa rất quan trọng.
Để đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của các cụ, bên cạnh các hình thức đã quen thuộc như chăm sóc, nuôi
dưỡng tại nhà, dịch vụ chăm sóc theo yêu cầu và dịch vụ nuôi dưỡng tập trung, hiện nay ở nhiều địa phương đã
xuất hiện nhiều loại hình dịch vụ mới, như dịch vụ nuôi dưỡng người cao tuổi dưới hình thức đầu tư tư nhân, cổ
phần... Tuy nhiên, chưa có sự tổng kết, rút kinh nghiệm các hình thức dịch vụ này.
*Những phong tục lỗi thời, lạc hậu có ảnh hưởng như thế nào đến việc hôn nhân tiến bộ ở VN hiện
nay. (Tảo hôn, bắt vợ, hôn nhân cận huyết)
Tảo hôn là việc lấy vợ, lấy chồng khi một bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn, cụ thể là nam từ đủ 20
tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên . Tục bắt vợ hay còn được gọi là tục cướp vợ, kéo vợ. Theo đó, khi người con
trai ưng một cô gái nào đó họ sẽ tìm cách bắt đem về. Tục bắt vợ là một trong những nét đặc trưng trong hôn nhân
của dân tộc H’mông. Nó giúp cho những đôi trai gái yêu nhau có cơ hội tới được với nhau. Tuy nhiên đây cũng
là một trong những nỗi lo lắng của nhiều cô gái khi lọt vào tầm ngắm của các trai bản.
Hôn nhân cận huyết được hiểu là hôn nhân giữa nam và nữ trong cùng họ hàng thân thuộc chưa quá ba thế hệ.
Đó là việc kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng huyết thống trực hệ với nhau; giữa
những người có họ trong phạm vi ba đời.
Đối với bản thân và gia đình:
● Làm mất đi cơ hội về học tập, việc làm tốt, cơ hội để cải thiện điều kiện sống và chăm sóc sức khỏe của
bà mẹ và trẻ em, đặc biệt kết hôn cận huyết thống làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng dân số,
suy giảm giống nòi và chất lượng nguồn nhân lực.
● Bản thân những bà mẹ trẻ bị ảnh hưởng đến sức khỏe do cơ thể chưa phát triển đến độ hoàn thiện, ảnh
hưởng trực tiếp đến thể chất, tâm sinh lý, sức khỏe sinh sản của người không đảm bảo khi mang thai cũng
là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến gây tử vong mẹ và trẻ sơ sinh.
● Có nhiều em đang ngồi trên ghế nhà trường phải bỏ học để lấy vợ lấy chồng, mất cơ hội học tập, kinh
nghiệm cuộc sống còn non trẻ, nhưng phải lo toan cuộc sống gia đình mà chủ yếu là làm nông nghiệp,
lao động phổ thông nên cuộc sống gặp rất nhiều khó khăn kinh tế, cơ hội lập nghiệp và phát triển kinh tế
gia đình bị hạn chế, đây là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng đói nghèo.
● Những gia đình tảo hôn thường có cuộc sống rất khó khăn, chưa hiểu biết nhiều về kiến thức nuôi dạy
con cái, cũng như trách nhiệm, bổn phận của những người làm cha, làm mẹ, nên các cặp vợ chồng trẻ bị
khủng hoảng về tâm lý, thường xảy ra mâu thuẫn. Hạnh phúc gia đình dễ bị rạn nứt, tỷ lệ ly hôn cao.
Đối với xã hội:
● Tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng dân số, suy giảm giống nòi, những
cặp kết hôn cận huyết thống dù khoẻ mạnh nhưng khi kết hôn cận huyết làm tăng tỷ lệ bệnh tật do kết
hợp gen mang lại, gây suy thoái chất lượng giống nòi, họ có thể sinh ra những đứa con bị dị dạng hoặc
bệnh tật di truyền mở đầu cho cuộc sống tàn phế suốt đời
Từ những nguyên nhân, hậu quả trên cho thấy để ngăn ngừa, đẩy lùi tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết
thống, xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi
trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách góp phần quan trọng và trực tiếp cải thiện
chất lượng giống nòi và nâng cao chất lượng dân số bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền con người, quyền công dân
trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình; bình đẳng giới; bảo vệ bà mẹ, trẻ em và những người yếu thế khác; quyền,
lợi ích của cá nhân, tổ chức khác có liên quan; lợi ích của gia đình, của Nhà nước và xã hội là trách nhiệm mỗi cá
nhân, gia đình cộng đồng và toàn xã hội, vì vậy cần thực hiện tốt các chính sách, pháp luật của nhà nước nói chung
Tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống đi ngược với thuần phong, mỹ tục của người Việt Nam, vi phạm Luật Hôn
nhân và gia đình. Những trẻ em được sinh ra từ những cặp vợ chồng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thường mắc
các dị tật bẩm sinh, chậm phát triển, suy dinh dưỡng. Việc kết hôn sớm, mang thai và sinh đẻ trong lứa tuổi vị
thành niên ảnh hưởng lớn tới sức khỏe bà mẹ, sự phát triển của thai nhi và trẻ sơ sinh. Đây là nguyên nhân làm
gia tăng tỉ lệ suy dinh dưỡng trẻ em, tăng tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới 1 tuổi và dưới 5 tuổi, tăng tỷ lệ tử vong của
bà mẹ liên quan đến thai sản; là gánh nặng cho gia đình và xã hội, ảnh hưởng đến chất lượng dân số, nguồn nhân
lực và gây hậu quả tiêu cực đến sự phát triển và tiến bộ xã hội, đồng thời là nguyên nhân chính dẫn đến nghèo đói, thất học.