Bài báo mô hình tư - Mô hình Giáo dục đại học tư trên toàn thế giới chịu nhiều thử thách trong tiến

Bài báo mô hình gduc tư - Mô hình Giáo dục đại học tư trên toàn thế giới chịu nhiều thử thách trong tiến được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 34, Số 3 (2018) 1-17
1
Mô hình giáo dục đại học tư từ thực tiễn thế giới
và kinh nghiệm cho Việt Nam
Nguyễn Huy Vị Lê Bạt Sơn
1,*
,
2
1
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh,
10-12 Đinh Tiên Hoàng, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
2
Trường Đại học Phú Yên, 18 Trần Phú, Tuy Hòa, Phú Yên, Việt Nam
Nhận ngày năm 201829 tháng 5
Chỉnh sử năm 2018; Chấp nhận đăng ngày năm 2018a ngày 14 tháng 6 18 tháng 7
Tóm tắt: hình h Giáo dục đại học trên toàn thế giới chịu nhiều thử thách trong tiến trình lịc
sử phát triển của của nó, lúc rất khắc nghiệt bởi thể chế các quan điểm chính trị khác nhau.
Phân khúc này trong hệ thống giáo dục đại học khắp nơi trên thế giới đều phát triển rất chậm
yếu ớt. Cho đến những năm 1980 của thế kỷ XX, giáo dục đại học mới trở lại cất cánh nhờ
vào sự gia tăng nhu cầu học tập đại học của người dân, cùng với sự khó khăn về tài chính của các
Nhà nước trong đáp ứng nhu cầu. Ở Việt Nam, giáo dục đại học tư đã xuất hiện trước năm 1975
miền Nam; nhưng mô hình này đã bị bỏ quên mãi đến đầu thập kỷ 90 của thế kỉ XX mới xuất hiện
trở lại trong thời kỳ thống nhất đất nước. Quy luật phát triển hình giáo dục đại học Việt
Nam cũng không phải là ngoại lệ. Bài viết này nghiên cứu thực tiễn thế giới về ục hình giáo d
đại học tư trên các phương diện: định nghĩa quốc tế về giáo dục đại học tư; lược lịch sử ra đời
và phát triển giáo dục đại học (nghiên cứu trường hợp Nước Cộng hòa Pháp); các hình thức
hóa tài chính cho giáo dục đại học cuố đề xuất một số ý tưởng cho hoạch định ; i cùng,
chính sách giáo dục đại học tư ở Việt Nam.
Từ khóa: Mô hình; Giáo dục đại học tư; Sự tư hóa.
1. Mở đầu
Giáo dục đại học tư một thực tiễn vừa
vừa mới. Những trường đại học đầu tiên ra
đời Châu Âu, kéo dài suốt nửa sau thời kỳ
Trung Cổ kết quả khởi xướng của những tổ
chức phi chính phủ Đấy những trường đại .
học được thành lập theo sắc lệnh của hoàng gia
hoặc giáo hoàng, được trao cho một số quyền tự
chủ nhất định về tài chính và tổ chức.
_______
Tác giả liên hệ. ĐT.: 84-903576072.
Email: nguyenhuyvi@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1159/vnuer.4147
Giáo dục đại học chịu nhiều thử thách
trong tiến trình phát triển của lịch sử, có lúc rất
khắc nghiệt bởi ý thức hệ các quan điểm
chính trị, nhất từ khi xuất hiện học thuyết
“Nhà nước phúc lợi”. Chính vậy cho
có nguồn gốc từ rất xa trong lịch sử, phân khúc
này trong hệ thống giáo dục đại học khắp nơi
trên thế giới đều phát triển rất chậm yếu ớt.
Cho đến những năm 1980 của thế kỷ XX, giáo
dục đại học mới trở lại cất cánh nhờ vào
sự gia tăng nhu cầu học tập đại học của người
dân, cùng lúc đó sự khủng hoảng của nhà
nước phúc lợi Việt am là một dụ, buộc N
các quốc gia phải duy lại cách thức quản trị
N.H. / 3 (2018) 1-17Vị, L.B. Sơn Tạp chí Khoa học ĐHQ HN: Nghiên c u iáo dục, Tập 34, Số
2
đại học, cách thức cung cấp tài chính cho giáo
dục đại học...
Bài viết này nghiên cứu thực tiễn thế giới
về giáo dục đại học trên các phương diện:
định nghĩa quốc tế về giáo dục đại học tư;
lược lịch sử ra đời phát triển giáo dục đại
học (nghiên cứu trường hợp Nước Cộng hòa
Pháp); các hình thức hóa tài chính cho
giáo dục đại học và cuối cùng đề xuất một
số ý tưởng cho hoạch định chính sách giáo dục
đại học tư ở Việt Nam.
1. “Mô hình” gì? Theo Từ điển bách
khoa Việt Nam (2002), NXB Từ điển Bách
khoa, Nội, về mặt ngữ nghĩa, “Mô hình
nghĩa hẹp là mẫu, khuôn, tiêu chuẩn theo đó mà
chế tạo ra sản phẩm hàng loạt; là thiết bị, cơ cấu
tái hiện hay bắt chước cấu tạo và hoạt động của
cơ cấu khác ( của nguyên mẫu hay cái được mô
hình hóa) mục đích khoa học sản xuất.
Nghĩa rộng hình ảnh (hình tượng, đồ, sự
tả, v.v…) ước lệ của một khách thể (hay
một hệ thống các khách thể, các quá trình hoặc
hiện tượng)”;
Cũng theo từ điển này, về mặt triết học,
khái niệm “Mô hình” được hiểu là: “sự biểu thị
mối quan hệ giữa tri thức của con người về các
khách thể bản thân các khách thể đó.
hình không chỉ là phương tiện còn một
trong những hình thức của sự nhận thức của tri
thức, bản thân tri thức. Trong quan hệ với
thuyết, hình không chỉ công cụ tìm kiếm
những khả năng thực hiện thuyết còn
công cụ kiểm tra mối liên hệ, quan hệ, cấu trúc,
tính quy luật được diễn đạt trong lý thuyết ấy có
tồn tại thực hay không”.
Một cách tiếp cận khác dưới góc độ thuật
ngữ khoa học, mô hình được hiểu: “ là một đối
tượng được tạo ra tương tự với một đối tượng
khác về một số mặt nào đó. Nếu gọi a
hình của A, thì a cái thể hiện, còn A cái
được thể hiện. Giữa cái thể hiện và cái được thể
hiện có một sự phản ánh không đầy đủ”. (Đặng
Bá Lãm, [1, trang 24]).
thể xây dựng nhiều kiểu hình khác
nhau tùy thuộc đối tượng nhiệm vụ nghiên
cứu; nói riêng trong lãnh vực giáo dục, kiểu
hình nhận th c (conceptive model) thường
được vận dụng để thiết kế những hệ thống,
những tổ chức thuộc lãnh vực hội nhân
văn. hình giáo dục đại học thục Việt
Nam bài này đang đề cập một sự vận
dụng mô hình nhận thức trong giáo dục đại học.
2. Định nghĩa quốc tế về giáo dục đại học tư
Tổ chức Hợp tác Phát triển kinh tế
(OCDE) đề xuất các định nghĩa sau liên quan
đến sự khác biệt giữa công và tư:
Trường công trường “được kiểm soát
quản trực tiếp bởi chính quyền hoặc một
quan phụ trách giáo dục công, hoặc trực tiếp
bởi một cơ quan của chính phủ, hoặc bởi một tổ
ch c lãnh đạo (hội đồng, ban...) phần lớn
các thành viên của tổ ch c đó được bổ nhiệm
bởi nhà nước hoặc được bầu bởi cán bộ quản
lý, giáo viên, nhân viên của nhà trường đó”.
Trường trường“được kiểm soát
quản bởi một tổ ch c phi chính phủ (ví dụ
như nhà thờ, công ty hoặc doanh nghiệp)
đó, phần lớn các thành viên của ban lãnh đạo
không phải do nhà nước bổ nhiệm mà do các tổ
ch c tư”.
Như vậ theo OECD, sự khác biệt y,
lớn/chính giữa trường công trường chủ
thể quản chế quản khác nhau; từ đó
dẫn đến chế hình thành đội ngũ quản
khác nhau.
Giữa các trường tư với nhau, cũng cần thiết
phân biệt chúng: một số trường hơn một
nửa nguồn lực do nhà nước tài trợ một số
trường khác gọi “độc lập” (nghĩa không
phụ thuộc vào nguồn lực nhà nước). nhiều
nước, không sự khác biệt quá lớn giữa công
xét theo những trợ cấp quan trọng. dụ
như Anh, Lan hoặc Úc, các trường đại học
thường được xem là công, cho về mặt kỹ
thuật quản trị pháp tư, bởi vì phụ
thuộc rất nhiều vào trợ cấp của nhà nước. Tất cả
các trường, kể cả trường tư, cũng được xem
trường công trong 06 hệ thống giáo dục như:
Andorra, Bỉ (cộng đồng Pháp ngữ), Đan Mạch,
Phần Lan, Hi Lạp và Ý [2, 84].
N.H. Vị, L.B. Sơn Tạp chí Khoa học ĐHQ HN: Nghiên c u iáo dục, Tập 34, Số / 3 (2018) 1-17
3
Đối chiếu với quan niệm của Việt Nam về
trường công trường tư, thể hiện trong Luật
Giáo dục đại học năm 2012, khoản 2, tiết a
b, Điều 7, chương I như sau:
“Cơ sở giáo dục đại học công lập thuộc sở
hữu nhà nước, do Nhà nước đầu tư, xây dựng
cơ sở vật chất”;
“Cơ sở giáo dục đại học thục thuộc sở
hữu của tổ chức hội, tổ chức hội nghề -
nghiệp, tchức kinh tế nhân hoặc nhân,
do tổ chức xã hội, tổ chức xã hộ nghề nghiệp, i -
tổ chức kinh tế nhân hoặc nhân đầu tư,
xây dựng cơ sở vật chất.”
Như vậy, với Việt Nam, sự khác biệt
lớn/chính giữa trường công trường chủ
sở hữu; từ đó định hướng chính sách của Việt
Nam là phân biệt rõ trường lợi nhuận hay
không vì lợi nhuận.
Ta thấy, quan niệm của thế giới về phân
biệt trường công trường chủ yếu dựa vào
cấu trúc quản trị; trong khi quan niệm của Việt
Nam dựa chủ yếu vào quyền sở hữu. Đây
một khác biệt của Việt Nam
3. lược lịch sử ra đời phát triển của
giáo dục đại học tư trên thế giới
Xét về mặt thuật ngữ, giáo dục đại học
(Enseignement supérieur privé/Private higher
education), được thể hiện cụ thể bằng những
trường đại học đầu tiên trên thế giới, nội
hàm của chúng nội hàm định không cùng
nghĩa như trường đại học tư mà ta nghe nói đến
ngày nay. Quả vậy, tất cả các trường đại học
khi đó đều khuynh hướng công, căn cứ
vào đó, các trường đại học buộc phải báo cáo,
giải trình vừa với quyền lực tôn giáo vừa với
quyền lực nhà nước. Vào thời kỳ Trung cổ, sự
phân chia giữa lĩnh vực công không
ràng như ngày nay, nhất giữa các nhà nước
quân chủ Châu Âu nhà thờ công giáo. Như
thế, sự khác biệt giữa giáo dục đại học công
tư cũng vì vậy không rõ ràng như ngày nay.
Hiện nay, trường đại học tư bị quản lý chặt hơn
ngày xưa bởi quyền lực công, bởi cũng
phải đặt dưới sự quản của nhà nước như đối
với toàn thể các trường đại học. Từ thực tế đó,
càng tiến xa trong lịch sử giáo dục đại học,
quyền kiểm tra đại học của nhà nước càng tăng
lên. Xu hướng này đã đạt tới đỉnh vào thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX khi nhà nước hiện ,
đại chính thức mở rộng phạm vi quyền hạn
nhằm đặt giáo dục đại học dưới sự kiểm soát
của mình tiến trình mà gọi là - Neave (2000) [3]
“nhà nước hóa” giáo dục đại học. Giữa thế kỷ
XX, các trường đại học còn chưa tồn tại
trong phần lớn các hệ thống giáo dục đại học;
một số nơi khác có trường đại học tư nhưng tầm
quan trọng của tương đối yếu so với trường
đại học công.
3.1. Di sản Châu Âu quyền chủ của lĩnh
vực công
Vai trò rất hạn chế của các thực thể thục
giữa lòng giáo dục đại học được giải do
nguồn gốc giáo dục đại học Châu Âu; người ta
thấy, những trường đại học đầu tiên ra đời
Châu Âu vào cuối thế kỷ XI, được mở rộng
phát triển ra suốt nhiều thế kỷ sau đó, nhờ sự hỗ
trợ tài chính của các tổ chức tôn giáo và phi tôn
giáo. Sự hỗ trợ này nhiều do khác nhau,
nhưng lý do hàng đầu yêu cầu về sở vật
chất cần thiết cho sự vận hành và tồn tại của các
trường đại học. Bắt đầu sang thế kỷ XVIII, giáo
dục đại học chấu Âu dần thoát khỏi sự chi phối
của Nhà thờ đồng hành với thế tục hơn; vai
trò can thiệp của Nhà nước vào giáo dục đại
học càng gia tăng. Các trường đại học dần dần
được xem công cụ để đào tạo tinh hoa
thông qua đội ngũ tinh hoa này, nhà nước thực
thi quyền lực của mình. Để đào tạo những thành
viên mới cho nền hành chính, các nhà nước
Châu Âu, nhất là Châu Âu lục địa bắt đầu sáng
lập các trường đại học mới quy định ràng
hơn đối với các trường đại học hiện có. Căng
thẳng giữa quyền lực nhà nước thế tục và dòng
Tên thể hiện nét suốt thế kỷ XVIII: Từ giữ
vai trò trung tâm đối với hệ thống giáo dục, các
thầy tu dòng Tên bị thay thế dần bởi quyền lực
công trong nhiều nước ở Châu Âu.
Trong thế kỷ XIX nổi lên hiện tượng ra đời
của chế độ quan liêu bàn giấy, càng lúc càng
nặng nề, được thiết lập nhằm áp đặt quy chế
N.H. / 3 (2018) 1-17Vị, L.B. Sơn Tạp chí Khoa học ĐHQ HN: Nghiên c u iáo dục, Tập 34, Số
4
cho những chi tiết nhỏ nhất về tổ chức, về
chương trình, về tuyển dụng nhân sự sinh
viên đại học. Chính tại Pháp, tiến trình quan
liêu hóa này đạt tới cực điểm với sự sáng lập
trường đại học theo kiểu mẫu Napoléon: Nhà
nước chính thức can thiệp vào quản trị các đại
học chuyên ngành, các trường trách nhiệm
đóng góp vào quá trình hội hóa giáo dục đại
học, nhưng đồng thời cũng phải thúc đẩy các
thiết chế nhà nước (Neave et van Vught, 1994).
Kiểu mẫu đại học Napoléon ảnh hưởng suốt
thời gian dài lên các hệ thống giáo dục đại học
khác, nhất là Tây Ban Nha và Ý. Song song với
đó, kiểu mẫu đại học của nước Phổ (hoặc đại
học Humboldt) cho được thành lập vào đầu
những năm 1800, phản ứng lại kiểu mẫu
Napoléon nhằm bảo vệ sự tự do của đại học, thế
nhưng bản thân cũng mang đặc trưng ý chí
mới của quyền lực công về thực thi quyền kiểm
soát hành chính chặt chẽ lên đời sống đại học.
Trong một số nước, quyền lực thường trực này
của nhà nước đã bắt đầu xấu đi suốt nhiều thập
kỷ đã qua của thế k XX; vai trò của chính
quyền nhà nước địa phương được tăng
cường; nhà nước địa phương giao cho các
trường đại học chăm lo đào tạo đội ngũ tinh hoa
cho hội. Song song với đó, đối với nhà nước
hiện đại, xuất hiện vào cuối những năm 1960,
một khi yêu cầu trường đại học phải đóng góp
vào quá trình đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao cho đất nước càng trở nên hiển
nhiên, thì nhà nước càng cần phải tăng cường
kiểm soát đời sống của trường đại học (xem
Neave, 2001) [4].
Mối quan hệ mới giữa các trường đại học
và nhà nước nổi lên vào thế kỷ XIX kéo dài
trong suốt phần lớn của thế kỷ XX, đã đặt các
trường đại học vào tình thế phụ thuộc nhiều vào
nhà nướ Sự phụ c (xem Wittrock, 1993) [5].
thuộc này đặc biệt rệt Châu Âu, liên quan
đến những lĩnh vực tài chính, chính sách trong
quản lý giáo dục Vai trò tăng lên của quyền .
lực công trong cung cấp tài chính cho trường
đại học đi cùng với sự giám sát quản chặt
chẽ. Một trong những dấu hiệu dễ thấy nhất của
tiến trình này là sự kiện các bộ giáo dục hay cấu
trúc quản lý công có chức năng tương t ra đời;
vai tcủa thiết lập một chế quản
sâu vào đời sống đại học. Châu Âu lục địa,
các bgiáo dục đầu tiên xuất hiện vào thế kỷ
XIX, trong khi ở nước Anh, các bộ giáo dục lần
lượt ra đời và chỉ hoàn thành sau chiến tranh thế
giới lần thứ hai; vì vậy, các trường đại học ngày
càng có trách nhiệm phải báo cáo giải trình với
quyền lực công Xu thế (Van Vught, 1989) [6].
này đạt tới đỉnh trong suốt nhiều thập kỷ sau
chiến tranh thế giới lần thứ hai, với cái
người ta gọi là “tính đồng nhất pháp lý” (Neave
et Van Vught, 1991): chính phủ xác định
chương trình giáo dục chuẩn để mỗi nhà trường
đại học căn cứ vào đó và chịu trách nhiệm cung
ứng giáo dục đại học trong mỗi lĩnh vực đặc
thù. Khuynh hướng này thể hiện nét Châu
Âu lục địa.
Sự qui định chặt chẽ của nhà nước đối với
giáo dục đại học không chỉ nhắm đến đặt tất cả
hệ thống giáo dục đại học dưới sự bình đẳng mà
còn đảm bảo cho người tốt nghiệp đại học được
thụ đắc những năng lực cần thiết để thực thi
chức trách hành chính công. Sự ảnh hưởng tăng
lên của nhà nước đối với giáo dục đại học được
hình thành trong giới hạn rộng hơn bởi sự thiết
lập cấu trúc hành chính chính trị hiện đại
(Middleton, 1997) [7]. Với sự mở rộng vai trò
kinh tế hội của nhà nước người ta
quan sát được, nhất sau thế chiến thứ hai,
quốc gia cần thiết phải một đội ngũ nhân sự
quản lý có hệ thống năng lực hắc chắn qua đào c
tạo đại học. Nhu cầu chất lượng mang tính đặc
thù này đã tồn tại vào thế kỷ XIX, nhất là trong
lĩnh vực luật kỹ sư. Tuy nhiên, sự bành
trướng vai trò của nhà nước dẫn tới, nhất sau
1945, theo quan điểm thuyết nhà nước phúc
lợi, các chính phủ tiến hành tuyển dụng một đội
ngũ nhân lực thật sự chất lượng cao: giáo
viên, người lao động hội, bác sĩ, ý tá, kế
toán... Suốt thời kỳ sau chiến tranh, quản
kinh tế về nhu cầu đã đòi hỏi các chính
phủ phải trang bị đội ngũ nhân lực trình độ cao
về kinh tế. Nhà nước thế cũng trở thành
người sử dụng chính các nhân lực nghề nghiệp
qua đào tạo do đó, nhà nước phải dành mối ;
bận tâm cho việc điều chỉnh nguồn cung về
giáo dục đại học, đáp ứng nhu cầu của các cấu
N.H. Vị, L.B. Sơn Tạp chí Khoa học ĐHQ HN: Nghiên c u iáo dục, Tập 34, Số / 3 (2018) 1-17
5
trúc hành chính đang phổ biến, bằng cách điều
chỉnh nội dung giảng dạy, thậm chí trong một
số trường hợp điều chỉnh cả chương trình giảng
dạy của giáo dục đại học.
Như vậy, nguồn gốc của giáo dục đại học
chính là sự phát triển của kinh tế thị trường đòi
hỏi lực lượng sản xuất phải thay đổi, cần đáp
ứng nguồn nhân lực trung, cao cấp dẫn đến
nhu cầu đào tạo (trung cấp, cao đẳng, nghề mới
đại học phát triển cả về số lượng và chất lượng;
từ đó, dẫn tới nhu cầu nảy sinh những chính
sách về quản lý, tài chính, giáo dục...) đối với
giáo dục đại học.
Vai trò tăng lên của nhà nước trong giáo
dục đại học, sau năm 1945, nằm trong xu thế
chung là khuyến khích phát triển sức mạnh nhà
nước, nhất ở các nước phương Tây. Vào thời
kỳ này, sự gia tăng chi phí nhà nước cho giáo
dục công cao đến nỗi lộ một ý chí
vượt quá sự cần thiết đối với nhu cầu tăng
trưởng về giáo dục đại học, nhằm làm cho hệ
thống giáo dục được hưởng một ưu tiên thực tế
về chính sách và ngân sách. Chiến tranh thế
giới lần thứ hai đã tạo ra bước ngoặt quyết định
này: chính phủ các nước ý thức v sự cần
thiết phải chuẩn bị một đội ngũ những người
lao động chất lượng cao, đóng góp tiềm năng
cho nghiên cứu khoa học thuộc nh vực quân
sự, kinh tế và xã hội. Giáo dục đại học vì thế đã
trở thành một trong những ưu tiên của nhiều
chính phủ Sự (Wittrock et Wagner, 1996) [8].
đa dạng phức tạp của những kỳ vọng này đã
dẫn đến sự phát triển liên tục và hỗ trợ giáo dục
đại học trong suốt nửa sau thế kỷ XX thời kỳ -
của bùng phát giáo dục đại học đại chúng
Bắc Mỹ, Nhật và sau đó là TâyÂu.
Vào đầu thế kỷ XX, phần lớn các trường
đại học tập trung Châu Âu và Châu Mỹ. Thật
vậy, cho giáo dục đại học tồn tại từ rất lâu
trong thế giới Rập và Hồi giáo, ngoại trừ các -
trường dòng Hồi giáo, giữa thế kỷ XX, ở Trung
đông, nhưng số lượng các trường đại học vẫn
còn rất ít. Tình trạng này cũng tương tự như
Châu Phi, Bắc Phi một số trường thần học
rất cổ xưa và nổi tiếng vì sự xuất sắc; ngược lại,
giáo dục đại học phi tôn giáo chỉ xuất hiện vào
thế kỷ XIX, với sự sáng lập một số viện
khoa tự trị. Những trường đại học đầu tiên của
Bắc Phi chỉ ra đời vào thế kỷ XX, phần lớn
các trường đại học của Nam Sahara Châu Phi
được thành lập mới đây, thường thấy nhất
sau khi gia nhập vào các nước độc lập, sau
chiến tranh thế giới lần thứ hai. Châu Á,
những trường đại học đầu tiên ở phía Tây ra đời
nửa thế kỷ XIX. Thế kỷ XIX, XX, việc học tập
khoa học phương Tây được truyền bá song song
với ý tưởng về sự hấp lực của một nền văn hóa
Phương Tây được mở rộng cổ súy trên toàn
châu lục này. (Altbach et Umakoshi, 2004) [9].
Quả thực, sự ra đời của các trường đại học
theo kiểu mẫu các trường đại học Châu Âu diễn
ra khắp nơi trên thế giới; Thậ nhiều m chí,
trường đại học được thành lập vào thế kỷ XX
cũng thường phỏng theo kiểu mẫu các trường
đại học Châu Âu ( bởi các Naeve, 2000) [3],
thành viên của chính phủ quốc gia, thường
những người tốt nghiệp từ các trường đại học
Châu Âu, khuynh hướng bắt chước cấu trúc
thiết chế của các trường gốc họ học (Neave
et van Vught, 1994). Sự ảnh hưởng của kiểu đại
học Châu Âu đôi khi cũng mang tính gián tiếp
hoặc cải biến; đấy là trường hợp của các trường
đại học về cấu trúc tổ chức, thì phỏng theo
phiên bản gốc kiểu Châu Âu, nhưng rồi sau đó
lại tích hợp các ảnh hưởng các đặc trưng
khác nhằm đáp ứng nhu cầu của địa phương
yêu cầu về đào tạo tinh hoa cho đất nước, như
trường hợp các trường đại học Bắc Mỹ Nam
Mỹ vào thế kỷ XIX. Ở Bắc Mỹ, sự sáng lập nhà
nước liên bang đi kèm với sự trao quyền có giới
hạn cho giáo dục đại học cũng tạo điều kiện
thuận lợi cho sự đa dạng hóa các trường đại học
so với kiểu Châu Âu nguyên bản. Sự tiến hóa
này làm nổi lên mô hình đại học “kiểu Mỹ”,
đó sự phân tầng ràng, thể đáp ứng
mọi nhu cầu học tập sau trung học của nhân
dân, đã được nhiều vùng khác nhau trên thế giới
chấp nhận du nhập vào nửa sau thế kỷ XX
(xem [10]).
3.2. Sự phát triển giáo dục đại học Một -
hiện tượng toàn cầu
Vào cuối thế kỷ XX, khi nhu cầu học đại
học tăng cao của hội do sự phát triển tốc độ
N.H. / 3 (2018) 1-17Vị, L.B. Sơn Tạp chí Khoa học ĐHQ HN: Nghiên c u iáo dục, Tập 34, Số
6
nhanh của nền kinh tế hội của thế giớ- i, xu
hướng đại chúng hóa giáo dục đại học trở thành
một tất yếu trên phạm vi toàn cầu rong khi đó ; t
nguồn lực ngân sách công chịu tải của các quốc
gia đều hạn. Mâu thuẫn nội tại này mặc
nhiên dẫn đến giải pháp giáo dục đại học
được chú ý lựa chọn như một phương án chọn
tất yếu khách quan; từ đây, các hệ thống giáo ,
dục đại học nói chung cho phép lĩnh vực ít
nhiều được mở rộng.
Như thế, xét về bản chất, một khi kinh tế thị
trường phát triển, phân hóa giàu nghèo ngày
càng tăng, trong khi tính chất nhà nước phúc lợi
ngày càng giảm, thì giáo dục trở thành dịch vụ.
Đấy chính sở/cơ hội cho giáo dục phát
triển (cả phổ thông lẫn dạy nghề)
Quả vậy, các trường đại học giữ vai trò
ngày càng tăng trong suốt thế kỷ XX xu thế
này được thúc đẩy từ năm 1975. Thường thì các
trường đại học tư đầu tiên gắn với vai trò truyền
thống của tôn giáo. Cho dù sự thế tục hóa và sự
phát triển của nhà nước hiện đại từ thế kỷ
XVIII đã tạo ra các điều kiện không thuận lợi
cho sự phát triển của các trường khuynh
hướng tôn giáo, thì c trường đại học đầu
tiên, nhiều nước vẫn được thành lập bởi tôn
giáo, đứng đầu các nhà thờ Thiên chúa
giáo. miền Nam Việt Nam, trước năm 1975
cũng nhiều viện/trường đại học do các
giáo hội Công giáo, Phật giáo, Hòa Hảo, Cao
Đài thành lập.
Tôn giáo giữ vai tđặc biệt quan trọng
Châu Mỹ lục địa. Châu Mỹ La tinh, những
trường đại học được gọi “làn sóng đầu
tiên” (nghĩa các trường được thành lập trước
thế kỷ XIX) phụ thuộc vào Nhà thờ thiên chúa
giáo một cách rất ràng (Levy, 1986) [11].
Tuy nhiên với sự lên ngôi của nhà nước hiện
đại, phần lớn các trường đại học này, cuối cùng
đặt dưới sự bảo hộ của nhà nước; giáo dục đại
học trở thành độc quyền của nhà nước cho đến
hết thế kỉ XIX. Thế nhưng, những năm 1920
1930 đã đánh dấu sự trở lại, cho dù chậm nhưng
chắc, của các trường đại học tư Thiên chúa giáo
nhiều nước Châu Mỹ La tinh như Colombia,
Chi-lê, Bolivia và Peru. Sự sáng lập thế hệ mới
các trường đại học Thiên chúa giáo dường
như được xem là phương tiện để đối phó với xu
thế phát triển thế tục hóa giáo dục đại học ở các
quốc gia, qua đó, theo quan điểm của Nhà
thờ thiên chúa giáo muốn nhắm đến gìn giữ
một phần ảnh hưởng chính trhội
có từ ngày xưa.
Bắc Mỹ, tôn giáo cũng góp phần rộng rãi
vào sự trỗi dậy của các trường đại học đầu
tiên. Các trường đại học được thành lập trong
sau thời kỳ thuộc địa thường giữ gìn mối
quan hệ chặt chẽ với các giáo phái Tin lành
khác nhau (Thelin, 2004) [12]. Trường đại học
đầu tiên trong số đó, được thành lập vào năm
1936 bởi Tòa án Massachusetts, ba năm sau đổi
tên thành “Harvard College” nhằm vinh danh
người hiến tặng hào phóng là John Harvard,
người đại diện pháp lý của nó là tòa án vào năm
1650. Sự sáng lập trường Harvard kéo theo sau
đó một chuỗi các trường tương tự dọc suốt
bờ Đông.
Canada, ngoại trừ trường dòng Quebec
một vài trường dạy ngữ pháp, những trường
đại học đầu tiên được thành lập vào cuối thế kỷ
XIX. Tuy nhiên, vào thế kỷ XIX, tôn giáo đã
mất đi phần lớn tầm ảnh hưởng của mình đối
với giáo dục đại học, cho một số trường vẫn
còn nhận tài trợ của tôn giáo nhưng lại vận
hành theo cấu trúc quản trị phi tôn giáo
(Hofstader, 1996) [13]. Hơn nữa, mặc được
thành lập bởi những người sùng đạo nhưng các
trường đại học của Bắc Mỹ nhìn chung đã
mất đi phần lớn các yếu tố tôn giáo.
Khác với Châu Âu và Bắc Mỹ, giáo dục đại
học thường ra đời vào thế kỷ XX. Những
trường đại học đầu tiên Trung Đông chỉ
hình thành vào nửa cuối thế kỷ XIX. Trong suốt
thế kỷ XX, nhất là sau độc lập, hầu như toàn bộ
các trường đại học mới được thành lập trong
các nước ập là trường công, bởi vì giáo dục R
đại học thường được xem trách nhiệm của
nhà nước: cũng giống như nhiều vùng khác trên
thế giới, giáo dục đại học công cụ để đào tạo
tinh hoa, nhất những viên chức cao cấp. Các
trường đại học thế buộc phải đóng cửa
hoặc không bao giờ ra đời. Ưu thế đại học công
kéo dài mãi đến những năm 1980 1990,
nhiều chính phủ khi ấy đã không còn khả năng
N.H. Vị, L.B. Sơn Tạp chí Khoa học ĐHQ HN: Nghiên c u iáo dục, Tập 34, Số / 3 (2018) 1-17
7
đáp ứng nhu cầu giáo dục đại học đang tăng lên
với cấp số (UNESCO/OCDE, 2006) [14].
Đúng vậy, từ năm 1995 đến 2003, tlệ người
học đại học gần như tăng gấp 3 ở Ai Cập và gần
như gấp đôi ở Jordanie. Sự tăng cao nhu cầu đại
học cho phép các trường đại họ các sở c
giáo dục đại học khác lại trỗi dậy phát
triểnrất nhanh.
Châu Phi, giáo dục đại học phát triển
khá muộn. miền Nam Sahara của Châu Phi
gần như không trường đại học nào cho đến
nửa thế kỷ XX. Thật vậy, ngoài Trường Đại học
của Mũi Hảo Vọng (Cap de Bonne-Espérance)
được thành lập Nam Phi vào năm 1873, tiếp
sau đó là 02 trường đại học khác được thành lập
vào buổi bình minh của thế kỷ XX. Đóng góp
của khối Thịnh vượng chung Anh vào giáo dục
đại học Châu Phi còn rất hạn chế. Trong các
nước thuộc địa của Pháp Châu Phi, những nỗ
lực theo đường hướng phát triển giáo dục đại
học còn yếu ớt. Chính bởi do đó Châu
Phi, phần lớn các trường đại học chỉ mới ra
đời gần đây, nhất là từ những năm 1990. Sự nổi
lên của giáo dục đại học được giải bởi sự
phát triển chậm của giáo dục đại học công
bởi những khó khăn tài chính nhiều chính
phủ các nước Châu Phi đang đối mặt
không khả năng đáp ứng nhu cầu giáo dục
đại học tăng nhanh. Sự phát triển của lĩnh vực
giáo dục đại học xuất hiện nhờ vào sự bùng
nổ số lượng ghi danh vào đại học Kenya,
Ouganda hoặc Zimbabwe, đặc biệt từ những
năm 1980 (Neave et Van Vught, 1994;
UNESCO/OCED, 2006) [14]. Tuy nhiên sự đói
nghèo kinh niên đã kìm hãm sự phát triển
nhanh của lĩnh vực đại học trong nhiều nước
Châu Phi; quả vậy, năm 2005, 50% dân số
Nam Sahara của Châu Phi sống dưới mức 1,25
đô la mỗi ngày (Ngân hàng thế giới, 2009).
Châu Á, giáo dục đại học Tây Á phát
triển vào thế kỷ XIX, lĩnh vực đại học tư nhanh
chóng phát triển để rồi cuối cùng giữ vai trò
trung tâm trong nhiều quốc gia (Shils et Robert,
2004). Phi-líp-pin nước Đông Nam Á đầu
tiên phát triển trường đại học theo cảm hứng
kiểu mẫu phương Tây cũng nước đi tiên
phong trong lĩnh vực giáo dục đại học
Châu Á: một trường lợi nhuận được thành
lập vào năm 1928 dưới tên gọi Viện kế toán,
sau đổi tên thành Trường Đại học Viễn Đông
năm 1934. Trung Quốc Nhật Bản, giáo
dục đại học tư phát triển rất sớm, vào buổi bình
minh của thế kỷ XX, ít lâu sau khi thành lập
những trường đại học công đầu tiên. Đến năm
1949, gần 40% của con số 125 trường đại học
và khoa trong trường đại học Trung Quốc thuộc
khu vực tư, một phần lớn trong số đó đã được
thành lập trong suốt nửa sau của thế kỷ XIX.
Lĩnh vực giáo dục đại học tư cũng bắt đầu phát
triển nhanh các nước Châu Á khác, những
nước mà vai trò của giáo dục đại học tư rất hạn
chế, thậm chí không như Việt Nam (sau
năm 1975) hoặc Người ta cũng quan Malaysia.
sát thấy, một vài nước Châu Á, giáo dục đại
học không phải một hiện tượng mới; mặt
khác, lĩnh vực giáo dục đại học chiếm hơn
một nửa tổng số sinh viên ghi danh như trường
hợp của Nhật Bản, Hàn Quốc hoặc Phi-líp-pin.
Một vài trong số các trường đại học của các
nước này rất nổi tiếng.
Khi xem xét toàn thể các nước trong Tổ
chức Hợp tác Phát triển kinh tế (OCDE),
người ta thấy rằng Châu Âu suốt thời gian dài là
pháo đài của giáo dục đại học công; ngày nay,
trong phần lớn các nước Châu Âu, một nửa sinh
viên ghi danh vào các trường đại học công.
Thậm chí nhiều trường đại học khuynh
hướng tôn giáo tồn tại cho đến ngày hôm nay
Châu Âu cuối cùng phần lớn cũng bị chế tài
chính đồng hóa vào lĩnh vực công trong thế kỷ
XX; Đấy trường hợp của nhiều trường đại
học ởLan Bỉ. Thậm chí trên giấy tờ, các
trường đại học này là trường tư, thế nhưng
được cung cấp tài chính giám sát giống như
bất kỳ trường đại học công nào khác trong hệ
thống được coi một hình đại học
trung dung: trường đại học phụ thuộc nhà
nước. Trường hợp này nghĩa là, trường đại
học tư thực thể về pháp lý trong việc điều hành,
nhưng 50% nguồn lực tài chính bản hoặc
nhiều hơn nữa lại do chính phủ tài trợ và đội
ngũ giảng viên được trả thù lao từ một tổ chức
công. , vai trò Người ta cũng nhận thấy của các
trường đại học tư vẫn còn rất nhỏ trong nhiều
N.H. / 3 (2018) 1-17Vị, L.B. Sơn Tạp chí Khoa học ĐHQ HN: Nghiên c u iáo dục, Tập 34, Số
8
hệ thống giáo dục của Đông Âu bất chấp nỗ lực
thiết lập logic thị trường cho giáo dục đại học
của các chính phủ khu vực này. (Teixeria
cộng sự, 2004) [15].
3.3. Những nhân tố khởi thủy sự phát triển của
giáo dục đại học tư
Giáo dục đại học truyền thống được đặc
trưng bởi sự ngự trị của đại học công và sự quy
định chặt chẽ của nhà nước, nhất là ở Châu Âu.
Đặc trưng này càng đậm nét hơn khi nhà nước
hiện đại phát triển đi cùng với ý chí quản sứ
mệnh đại học của nhà nước. Từ quan điểm này,
xét về mặt lịch sử, vai trò của giáo dục đại học
tư rất hạn chế cho đến 30 năm qua, giáo dục đại
học mới phát triển mạnh trên toàn thế giới.
Hiện tượng này đặc biệt thấy Trung Âu,
Đông Âu, Châu Mỹ La tinh và Đông Á. Cho
tôn giáo góp phần quan trọng vào việc sáng lập
các trường đại học đầu tiên, nhất tại Châu
Mỹ, thế nhưng sự phát triển hàng loạt mới đây
của đại học được nhìn nhận do các yếu tố
khác. Chính bối cảnh thời đại đã tạc nên khuôn
mặt mới của giáo dục đại học thế giới suốt mấy
thập kỷ qua.
Một trong những nhân tố chủ yếu giải thích
sự tăng trưởng của giáo dục đại học chính
sự tăng liên tục, không hề giảm của giáo dục
đại học, ngay trong các nước hoặc những vùng
mà mới hôm qua, tiếp cận giáo dục đại học còn
hạn chế, chỉ dành cho thiểu số. Tổng số sinh
viên trên thế giới từ 68 triệu năm 1991 đã tăng
lên 132 triệu năm 2004 (UNESCO, 2006) [14].
Sự bùng nổ giáo dục đại học được duy trì bởi
các yếu tố hội nhân. Từ quan điểm
chính sách công, c các chính phủ dần dần ý thứ
sự cần thiết phải chuẩn bị đội ngũ nhân lực
chất lượng cao nhằm cải thiện năng lực cạnh
tranh kinh tế của quốc gia. Các ngôn bản về
kinh tế gần đây, luôn khẳng định ý tưởng rằng,
chỉ có sự tích lũy vốn con người mới có thể cải
thiện được các triển vọng kinh tế. Trong thời
điểm toàn cầu hóa tăng lên với tốc độ
nhanh, việc cải thiện năng lực nghề nghiệp trở
thành một trong những đòn bẩy cốt yếu để các
nhà nước sử dụng nhằm cải thiện các thành tựu
kinh tế của quốc gia (Blöndal et Girouard,
2002) [16].
Mặt khác, sự phát triển giáo dục đại học,
trong cái nhìn rộng hơn còn nguyên nhân từ
sự tiến triển tâm thực tiễn nhân. Tấm
bằng đại học luôn được xem như một sự đầu
sáng suốt của nhân. Người trình độ cao
hơn thì năng suất lao động cũng cao hơn, điều
đó đã được thực chứng trong nhiều nước. Trong
nhiều thập kỷ đã qua, ai cũng nuôi dưỡng ý
tưởng người tốt nghiệp đại học quyền
tham vọng được trả thù lao cao tìm kiếm
việc làm một cách dễ dàng, nhất trong tương
quan so sánh với những người tốt nghiệp ở trình
độ thấp.
Nhu cầu giáo dục đại học tăng cao liên
tục đã làm nảy sinh hiện tượng “đại chúng hóa”
giáo dục đại học. Hiện tượng này không chỉ
hiểu một cách đơn thuần thông qua số lượng
ghi danh của sinh viên vào đại học tăng cao
còn phải nhận thấy hệ thống giáo dục đại học
đang ngày càng trở nên không đơn nhất và phức
tạp hơn. Để khả năng đáp ứng nhu cầu ngày
càng đa dạng, hệ thống giáo dục đại học phải đa
dạng hóa chương trình đào tạo kể cả hệ
thống cũng phải đa dạng (Teicher, 1998) [17];
chính sự đa dạng này cũng trở thành sự
thách thức to lớn đối với chính sách giáo dục
đại học. Mặt khác, đại chúng hóa giáo dục cũng
nghĩa rằng, phần lớn các chính phủ không
còn khả năng phải dừng can thiệp một cách
quá chi tiết vào đời sống giáo dục đại học
(Neave van Vught, 1991). Các nhà nước
buộc phải hướng về các dạng thức quản trị mới,
phù hợp hơn với những thách thức mới của giáo
dục đại học đại chúng.
Một nhân tố khác giúp chúng ta hiểu rõ hơn
sự suy giảm tương đối của giáo dục đại học
công: Sự bùng nổ của giáo dục đại học xảy ra
gần đây lại trùng hợp với vấn đề tài chính của
các quốc gia ngày càng khó khăn. Điều đó buộc
các quốc gia phải giảm bớt chi tiêu cho giáo
dục đại học. Tất cả các chính phủ, kể cả những
những nước giàu đều phải đương đầu với khó
khăn về tài chính. Đối với các nước giàu, sự
khủng khoảng của “Nhà nước phúc lợi” đã dẫn
tới phải tư duy lại cách thức tài trợ truyền thống
N.H. Vị, L.B. Sơn Tạp chí Khoa học ĐHQ HN: Nghiên c u iáo dục, Tập 34, Số / 3 (2018) 1-17
9
cho giáo dục đại học, chủ yếu dựa vào i trợ
công. Đối với các nước tương đối giàu, những
ràng buộc về tài chính kết hợp với quân bình
ngân sách bấp bênh đã không cho phép thực
hiện các dự án công nhằm thúc đẩy sự phát
triển giáo dục đại học.
Chủ nghĩa tân tự do đã neo sâu vào lịch sử
giáo dục giờ đây đang trở lại. Vào giữa những
năm 1950, Milton Friedmand đã bắt đầu đặt lại
vấn đề cái ông gọi là Nhà nước hóa giáo
dục”. Trong tác phẩm của mình tên “Chủ
nghĩa tư bản và tự do” (1962), ông đã khơi mào
một cuộc tranh luận về vai trò riêng của thị
trường chính phủ đối với giáo dục đại học.
Theo Friedmand, vai trò tài trợ của nhà nước
nói chung không còn trong lĩnh vực giáo
dục như giáo dục đại học, bởi giáo dục đại
học mang lại các lợi thế đáng kể như thu nhập
cao hơn cho người tốt nghiệp. Từ quan điểm
này, Friedmand đã đưa ra một đề xuất gây tranh
cãi: thiết lập một hệ thống tài trợ dựa trên
những “chi phí giáo dục”. Theo Friedmand
chuyển chi phí giáo dục đại học từ nhà nước
sang người học cho phép tăng cường cạnh tranh
giữa các trường đại học hợp lý hóa việc sử
dụng nguồn lực.
Những lập luận này ngày càng trở nên hợp
khi nhà nước phúc lợi lâm vào cuộc khủng
hoảng vào những năm 1980. Trong các nước
thuộc Tổ chức hợp tác Phát triển kinh tế
các nước khác, nhà nước không còn lựa chọn
nào khác là phải cải thiện tính hiệu quả của việc
trợ cấp nguồn lực công quản các trường
đại học công (Cave và cộng sự, 1990) [18].
Những lập luận ủng hộ sự phát triển giáo
dục đại học không chỉ được nhìn thấy các
vấn đề liên quan đến tính hiệu quả trong mà còn
cả những cuộc tranh luận về tính hiệu quả ngoài
của hệ thống giáo dục đại học (Levy, 2002)
[19]. Lĩnh vực dường như năng lực hơn
trong việc khai thác các hội kinh doanh
chiếm lĩnh thị trường nhờ vào nh linh hoạt
của quản tăng lên khuynh hướng lợi
nhuận ràng hơn. Các trường đại học cho
phép đa dạng hóa việc cung ứng giáo dục đại
học theo quan điểm của các vùng địa
phục vụ những ngành học được đề nghị;và
lĩnh vực tư cũng cho phép đáp ứng tốt hơn nhu
cầu của thị trường lao động (Geiger, 1986) [20].
Các tổ chức tôn giáo trong quá khứ
nhiều ảnh hưởng, nay giữ vai trò đứng hàng thứ
hai trong làn sóng mới về hóa giáo dục đại
học (Levy, 1986 2006) [11, 21]. Nhưng các
trường đại học khuynh hướng tôn giáo chắc
chắn sẽ lấy lại sức sống của mình tại một số
vùng trên thế giới, những vùng mà trước đây
lý do chính trị đã hạn chế hoặc ngăn cản sự phát
triển lĩnh vực như các nước Đông Âu chẳng
hạn (Wells và các cộng sự, 2007) [22].
Bảng 1. Những cột mốc chủ yếu về sự phát triển của giáo dục đại học tư trên thế giới
S phát tri n c ủa lĩnh vực tư
Thi kì
S phát tri n c c công ủa lĩnh vự
Du hi u
c th
Động lc
Thế k XVIII
Động lc
Các vùng
liên quan
Du hi u
c th
Làn sóng
hiện đại đu
tiên c i ủa đạ
học tư
Ảnh hưởng
ca nhà th
Thiên chúa
giáo
S phát tri n c a N
nước hi i - Sện đạ
cn thi t v o ế đào tạ
tinh hoa
Châu Âu
lục địa
Nhà nước
tăng cường
qui định
ngày càng
ràng
hơn đối
với GDĐH
Ảnh hưởng
ca tôn giáo
Tin lành
Phát tri n
đại h ọc tư
S
mnh/nhiêm
v c i ủa đạ
hc
Phương Tây
hóa
Thế k XIX
N l t hóa ực đơn nhấ
GDĐH của Nhà nước
- Nhu c u v đội ngũ
nhân l c ch t
lượng tăng cao
Châu Âu -
Châu M
La tinh
các nước
Rp
Nhà nước
tăng cường
kim tra
các trưng
ĐH
N.H. / 3 (2018) 1-17Vị, L.B. Sơn Tạp chí Khoa học ĐHQ HN: Nghiên c u iáo dục, Tập 34, Số
10
S tái tr i
dy c a các
trường ĐH
tôn giáo
Phn ng l i
thế tc hóa
Thế
k
XX
Na
đầu
thế k
Thế
k
XX
Tha nh n
tm quan
trng chi n ế
lược c a GD
ĐH - Nhu cu
tăng về đội
ngũ nhân lực
chất lượng cao
Đông Âu
và B c M
Bùng n
GDĐH
Nhng
thp
k sau
chiến
tranh
S tái tr i
dy phát
trin nhanh
của GDĐH
- Ràng bu c
v tài chính
- Yêu c u v
tiếp c n
GDĐH
tính hi u qu
của GDĐH
đối vi
nhân
- Yêu c u
cao v tính
hiu qu c a
nghiên c u
Nhng
thp
k g n
đây
Xu th th ế ế
gii
Đại chúng
hóa
GDĐH
Nguồn: OECD (2011) Giáo dục đại học tầm nhìn đế Tập 2 [23], n 2030- :
Thế giới hóa, Nghiên cứu và Đổi mới trong giáo dục đại học
4. Các hình thức tư hóa giáo dục đại học và cơ chế tài trợ cho giáo dục đại học tư
4.1. Hình th c tư hóa giáo dục
Cho ngày nay, duy hóa đang ngự trị khắp nơi trên toàn cầu, thì ững chính sách hóa nh
dựa trên các quy luật của thị trường cũng không phải một tổng thể bao hàm những thực tiễn như
nhau. Trên thực tế, học thuyết “Chủ nghĩa tân tự do” đã cho ra đời những dạng thức tư hóa khác
nhau. Một chuyên gia kinh tế giáo dục người Ấn Độ đã nêu ra tính nhập nhằng của (Tilak, 2009) [24]
thuật ngữ “tư hóa” (privatisation) có nghĩa nhau, tùy thuộc vào nguồn lực tài chính và nhiều ý khác
tầm quan trọng ít hay nhiều của các nhân tố công và tư trong cùng một hệ thống quốc gia. Tilak (2009
[24], p. 52) i 2 privatisation) đề xuất cách phân loạ dạng thức khác nhau của tư hóa giáo dục: “tư hóa” (
và “giả hóa” gọi “tư hóa” đối với các sở giáo dục do các thực thể tư (pseudo-privatisation); -
tổ chức các hoạt động thương mại, nhằm tìm kiếm nguồn lợi; và gọi là“giả tư với các cơ sở hóa”- đối
giáo dục do các thực thể tư quản lý nhưng chủ yếu nhận tài trợ của nhà nước.
Degefa (2011) quan tâm đến vai trò kết hợp nhà nước và thị trường trong tư hóa nhà trường và gợi
ý 4 cách thức tư hóa có thể rất hữu ích:
- Tư hóa với tư cách chia sẻ chi phí (Nhà nước cung cấp dịch vụ giáo dục đại học; tuy nhiên, cùng
với trợ cấp tài chính công của Nhà nước thì SV/người tiêu dùng phải chia sẻ bằng cách đóng góp chi
phí tiêu thụ dịch vụ)
- Tư hóa thông qua áp dụng ch thức quản theo kiểu doanh nghiệp vào các trường đại học
công;
- Tư hóa qua hệ thống chi phiếu giáo dục (các tổ chức tư cung cấp dịch vụ giáo dục đại học và nhà
nước tài trợ cho người thụ hưởng/SV bằng cách cấp chi phiếu giáo dục họ để họ lựa chọn dịch vụ thay
vì đầu tư trực tiếp cho các trường đại học)
- hóa sự nổi lên của lĩnh vực giáo dục phi nhà nước (các tổ chức tư cung cấp dịch vụ; đồng
thời đầu tư nguồn vốn, Nhà nước không tham gia).
N.H. Vị, L.B. Sơn Tạp chí Khoa học ĐHQ HN: Nghiên c u iáo dục, Tập 34, Số / 3 (2018) 1-17
11
Tuy nhiên bản thânch tiếp cận của fa cũng có vài hạn chế, bởi vì nó không tính đến bản chất Dege
của tài sản dịch vụ, cũng không hề tính đến cách thức theo đó dịch vụ được cung ứng tiêu
thụ. Savas gợi ý rằng tài sản dịch vụ thđược sắp xếp y theo sự độc quyền (2000) [25]
cách tiêu thụ. Tác giả phân biệt 04 kiểu tài sản: tài sản cá nhân (đặc trưng bởi độc quyền và tiêu thụ cá
nhân), tài sản của câu lạc bộ (độc quyền tiêu thụ chung), tài sản chung (không độc quyền tiêu
thụ cá nhân) và tài sản tập thể hoặc tài sản công hông độc quyền và tiêu thụ chung). Theo tác giả, tốt (k
nhất là một vài dịch vụ giao hẳn cho thị trường cung ứng, trong khi một số dịch vụ khác nhà nước cần
thiết phải can thiệp.
StephenBall và DeborahYoudall (2007) [26] gợi ý rằng tư hóa có thể là ngoại sinh (exogène) hoặc nội
sinh (endogène) trong các trường công. hóa nội sinh bao hàm sự nhập khẩu ý tưởng, kỹ thuật
thực tiễn của lĩnh vực tư vào lĩnh vực công. Đó là nói đến dạng thức thương mại hóa, mà trong đó các
kỹ thuật quản lý vay mượn từ lĩnh vực được áp dụng vào các nhà trường . Ở chiều ngược lại, công
dạng thức hóa ngoại sinh đặt ra vấn đề mở cửa dịch vụ giáo dục công cho lĩnh vực lợi nhuận
tham gia, khía trong đó lĩnh vực tư tham gia đóng góp vào việc xây dựng, quản lý và thực hiện một số
cạnh của lĩnh vực công Cách thức tư hóa ngoại sinh và tư hóa nội sinh kết (BalletYoudall, 2007) [26].
hợp chắc chắn sẽ tạo nên một vấn đề lý thuyết thú vị.
Theo các lập luận này, một vài chức năng trách nhiệm của nhà nước đến nay nên hóa bằng
nhiều kỹ thuật khác nhau. Savas sắp xếp các kỹ thuật này theo 03 phạm trù lớn: ỦY (2000) [25]
QUYỀN, CHUYỂN GIAO THAY THẾ. Trong trường hợp , xét về chức năng, nhà nước ủy quyền
chịu trách nhiệm hoàn toàn, nhưng lại giao hoạt động sản xuất cho lĩnh vực tư. Giao thầu công việc
một ví dụ của ủy quyền mà qua đó chính phủ tư hóa hoạt động của mình bằng cách giao cho tổ chức tư
(vì lợi nhuận hoặc không vì lợi nhuận) thực hiện thông qua hợp đồng. Hợp đồng cho quyền khai thác
(một nhãn hiệu, một tên pháp lý) một cách thức khác củahóa, trong đó chính phủ ủy quyền cho
một tchức quyền bán cho công chúng một sản phẩm hoặc một dịch vụ nhà nước chịu trách
nhiệm chung thẩm. Ủy quyền cũng có thể là dạng thức trợ cấp mà chính phủ giao cho một thực thể tư
để nó chịu trách nhiệm về công việc phải làm. Thay vì tài trợ cho người hưởng trợ cấp dịch vụ, chính
phủ cũng thể hỗ trợ trực tiếp, dưới dạng chi phiếu cho những ai đáp ứng các điều kiện theo yêu ,
cầu, để những những người hưởng trợ cấp này mua dịch vụ của tổ chức mà trước đây do nhà nước
cung cấp.
Một kỹ thuật hóa khác nhằm vào việc chuyển giao một nghiệp, một chức năng hoặc tài
sản. Chính phủ trách nhiệm cho tổ chức tư. Một xí nghiệp được bán hoặc chuyển nhượng chuyển giao
vẫn hoạt động bình thường. Cách thức chuyển giao rất đa dạng hoặc bán, cho công ty tư, hoặc bán
cổ phiếu cho nhà quản lý, cho người lao động hoặc khách hàng của
xí nghiệp.
Ngoài chuyển giao và ủy quyền, Savas gợi ý rằng tư hóa cũng có thể thực hiện thông qua việc thay
thế. Đây không phải là một cách thức tích cực của chính phủ, nó là “một tiến trình thụ động hơn hoặc
gián tiếp hơn mà thông qua đó nhà nước ít nhiều được thay thế dần bởi lĩnh vực có thể gọi đó là , -
sự suy giảm của nhà nước, trong chừng mực nào đó, thị trường phát triển để đáp ứng nhu cầu của
người tiêu thụ” (Savas, 2000, p. 132) [25]. Sự thay thế cũng thxảy ra hệ lụy , người tiêu thtự họ
quyết định không dùng dịch vụ công nữa mà mua dịch vụ tư. Vai trò của chính phủ giảm theo tương ứng
cho dù họ muốn hay không và lĩnh vực tư trở nên có vai trò quan trọng. Nhà nước quyết định từ bỏ
độc quyền và cho phép nh vực tư cạnh tranh với các tổ chức của mình bởi kỳ vọng rằng, chính sự cạnh
tranh này sẽ làm cho các dịch vcông trở n hiệu quả hơn theo tinh thần của chủ nghĩan tự do.
4.2. Các cơ chế tài trợ cho giáo dục đại học tư
Người ta có thể tìm thấy nhiều ví dụ tương ứng cho mỗi trường hợp trong 03 dạng thức tư hóa - ủy
quyền, chuyển giao thay thế - trong hệ thống giáo dục của các nước khác nhau. Trên thực tế, bởi
N.H. / 3 (2018) 1-17Vị, L.B. Sơn Tạp chí Khoa học ĐHQ HN: Nghiên c u iáo dục, Tập 34, Số
12
giáo dục ngày càng được xem như một lĩnh vực dịch vụ, nên những đặc trưng chủ yếu của không
khác các doanh nghiệp, phải tuân thủ theo các quy luật thị trường. Dường như bây giờ hoạt của
động dịch vụ gắn liền với học thuyết tân tự do trong đó, cải cách giáo dục ngày càng được nhận
thức theo thuật ngữ thị trường.
Quan niệm và thực tiễn của thế giới, nhất Châu Âu, việc phân định giáo dục đại học công/tư
chỉ là vấn đề kỹ thuật, tồn tại trên giấy tờ. Trong khi đó, trên thực tế, nhiều trường đại học tư vẫn nhận
tài trợ từ chính phủ và ngược lại, các trường đại học công cũng thể tiếp nhận tài trợ từ lĩnh vực tư
hoặc tư hóa theo nhiều cách khác như nghiên cứu của Degefa Dịch chuyển quan niệm tư hóa vào lĩnh .
vực giáo dục đại học, suốt những thập kỷ qua, chính phủ nhiều nước đã tiến hành thiết kế chính sách
tài chính cho giáo dục đại học nói chung giáo dục đại học nói riêng theo nhiều hình thức khác
nhau, tùy thuộc vào đặc trưng của mỗi nước. Tuy nhiên, theo Benedetto Lepori (2008) [27], trong tác
phẩm “ ”, có 04 con Những lựa chọn và khuynh hướng trong tài trợ cho các trường đại học ở Châu Âu
đường cấp vốn/tài trợ chính yếu cho giáo dục đại học:
- Tài trợ bản của nhà nước: việc trợ cấp của nhà nước trên bình diện quốc gia. Nhà nước
cấp một gói kinh phí chi thường xuyên cho các trường đại học (lương cho người lao động thường
xuyên, sở hạ tầng một phần lớn chi cho sự vận hành). Theo truyền thống, nguồn lực tài chính
này là phần cơ bản của ngân sách.Trường hợp này thường thấy ở Đức, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ.
- Tài trợ theo dự án bởi nhà nước: các nguồn lực này được cấp theo các dự án nghiên cứu hoặc
theo các hoạt động dịch vụ, thường trong một khoảng thời gian nhất định và được cấp trực tiếp cho các
đơn vị trong trường đại học; các quan tài chính kêu gọi các dự án cạnh tranh. Kiểu tài trợ này đã
được sử dụng cho các chương trình khung của Châu Âu cũng tồn tại các tình huống trung . Ngoài ra,
gian giữa tài trợ cơ bản và tài trợ theo dự án: đấy là trường hợp các nguồn lực dành cho các hoạt động
chuyên biệt đã tính trước trong hợp đồng giữa nhà nước và các trường đại học ở Pháp.
- Hợp đồng hiến tặng của các doanh:công ty Hợp đồng thường phản ánh các hoạt động
nghiên cứu hoặc các dịch vụ của trường đại học phục vụ trực tiếp nhu cầu của doanh nghiệp. Hiến
tặng là tài sản hoặc các khoản tài chính mà các công ty tư doanh tự nguyện đóng góp/hỗ trợ vào ngân
sách và vốn tài sản của trường đại học một cách tự giác như một nghĩa cử có tính xã hội hóa.
- thông qua Cung cấp tài chính bởi sinh viên: Thường là học phí. Nguồn vốn này, một phần gián
tiếp đến từ nhà nước theo các cách thức khác nhau như học bổng, cho vay, chi phiếu giáo dục.
Chính sự kết hợp các con đường khác nhau này với các cách thức tài trợ tương ứng đã xác định và
nên làm rõ những đặc trưng kiểu mẫu cung cấp tài chính cho các trường đại học, kể cả trường đại học
tư trên thế giới.
Trong báo cáo của Isabelle và cộng sự trình Bộ trưởng Bộ giáo dục quốc gia, giáo dục đại học
nghiên cứu tên “Giáo dục đại học tư, những đề nghị về cách thức quan hệ mới với nhà
nước” [2, trang 100] nêu n về những cách thức nhà nước tài trợ cho giáo dục đại học tư,
ngoài nguồn vốn của lĩnh vực tư bao gồm:
- Tài trợ kinh phí cho sự vận hành hoặc đầu tư, cấp đất;
- Sử dụng miễn phí trang thiết bị, bất động sản và tiếp cận thông tin;
- pháp Thiết lập các công cụ và cơ chế tài chính nhằm khuyến khích các doanh nghiệp hoặc các
nhà đầu tư quan tâm đến sứ mệnh giáo dục đại học tư;
- Cấp học bổng, cho sinh viên vay (nhằm bổ sung vào các chi phí mà các trường yêu cầu);
- Chịu trách nhiệm trả lương một phần hay toàn bộ;
- Giúp đỡ, hỗ trợ nghiên cứu.
N.H. Vị, L.B. Sơn Tạp chí Khoa học ĐHQ HN: Nghiên c u iáo dục, Tập 34, Số / 3 (2018) 1-17
13
\\Bảng 2 Tổng quan về các cơ chế tài chính cho trường đại học.
Các Doanh nghiệp
Hợp đồng Hiến tặng
Hợp đồng
Cấp vốn cơ bản Học phí
Học bổng/Tài trợ
Nguồn: Theo L. Benedetto (2008) , Các lựa chọn và khuynh hướng [27]
trong cấp vốn cho các trường đại học ở Châu Âu.
5. Kinh nghiệm đối với Việt Nam
Giáo dục đại học Việt Nam ngày nay, về
bản chất, gần như không còn thuần túy là đại
học công theo quan niệm của Talis, Degefa...
như đã trình bày ở trên, trừ các trường Công an,
Quân đội, trường Sư phạm một ngành số
phạm trong các trường đại học đào tạo giáo
viên. Tuy vậy, về mặt pháp lý, việc phân định
giáo dục đại học công hoặc ư chủ yếu dựa vào t
tiêu chí chủ sở hữu như Điều 7 của Luật Giáo
dục đại học năm 2012. Cho nên, đã đến lúc
rất cần thiết phải xem xét, điều chỉnh lại mối
quan hệ giữa Nhà nước giáo dục đại học
nhằm phát huy ảnh hưởng của lĩnh vực này,
một cấu phần quan trọng trong hệ thống giáo
dục đại học Việt Nam như quan niệm giáo dục
đại học tư cập nhật của thế giới.
Thực trạng cho thấy, mối quan hệ Nhà nước
với giáo dục đại học Việt Nam hiện nay
chứa đựng quá nhiều nghịch lý như:
- Khung pháp còn nhiều ràng buộc, nút
thắt khiến cho giáo dục đại học khó phát
triển. Nỗ lực lập pháp trong suốt gần 03 thập kỷ
qua theo định hướng khai thông giáo dục đại
học rất đáng được ghi nhận nhưng trên thực
tế kết quả đạt được chưa tương xứng với tiềm
năng của lĩnh vực này, phần lớn do thái độ
ngập ngừng của những nhà hoạch định chính
sách - những người đã bị đóng khung trong tư
duy , có phần ít cởi mở về quan niệm lợi ích
, vẫn nặng về phía xem giáo dục là một phạm
trù phúc lợi.
- g ràng, Các văn bản pháp vừa khôn
vừa không phù hợp với thực tiễn Việt Nam
xu thế hội nhập quốc tế vừa khó hiểu không chỉ ;
đối với các cơ sở giáo dục đại học tư mà còn cả
đối với công chúng, nhất sinh viên phụ
huynh học sinh - những người quyết định lựa
chọn dịch vụ giáo dục đại học cho con em họ.
Vẫn còn khoảng cách giữa khung pháp
(thường không theo kịp thực tiễn) với sự phát
triển quá nhanh của giáo dục đại học trong suốt
mấy thậ đến nay đã đạt ngưỡng p niên qua
giáo dục đại học đại chúng.
- Những qui định cứng nhắc về mở trường,
mở ngành v.v…; đồng thời với ưu thế của giáo ,
dục đại học công mà phần nhiều do chính sách
tạo ra đã làm cho các nhà đầu cảm thấy bất
an khi muốn tham gia vào lĩnh vực giáo đục đại
học tư.
Từ kinh nghiệm thực tiễn giáo dục đại học
của thế giới, định hướng nghiên cứu vận
dụng vào Việt Nam, chúng tôi đề xuất điều
chỉnh lại mối quan hệ giữa Nhà nước giáo
dục đại học tư theo các hướng như sau:
5.1. Xác định lại vai trò của Nhà nước đối với
giáo dục đại học
- Việt Nam không nằm ngoài xu thế chung
của thế giới về phát triển giáo dục đại học, cho
nên, chuyển đổi vai trò của Nhà nước từ kiểm
soát sang giám sát, hỗ trợ giáo dục đại học trở
thành tất yếu. Theo đó, Nhà nước giữ vai trò
thiết kế các công cụ chính sách; tác động, điều
tiết giáo dục đại học bằng c chính sách
khung; tạo lập sân chơi công bằng, bình đẳng
Nhà nước/Địa phương
Trường Đại học
Sinh viên
N.H. / 3 (2018) 1-17Vị, L.B. Sơn Tạp chí Khoa học ĐHQ HN: Nghiên c u iáo dục, Tập 34, Số
14
cho giáo dục đại học công lẫn tư, không phân
biệt đối xử.
- Mối quan hệ giữa Nhà nước giáo dục
đại học tư sẽ không bao giờ đạt tới mục tiêu kỳ
vọng nếu không được xây dựng trên các căn
cứ pháp ràng. Từ kinh nghiệm của thế
giới, thể rút ra những nguyên tắc chỉ đạo
nhằm thể chế hóa mục tiêu giáo dục đại học
một cách rõ ràng hơn, như là:
+ Phân biệt rõ giữa đại học lợi nhuận
và không vì lợi nhuận. Giáo dục đại học tư phải
cam kết với Nhà nước về thực thi sứ mệnh phục
vụ lợi ích chung của quốc gia, chia sẻ hợp
tác có trách nhiệm với giáo dục đại học công;
+ Thiết lập và vận hành hiệu quả các cơ chế
về công khai, minh bạch; quyền tự chủ, trách
nhiệm giải trình; đảm bảo kiểm định chất
lượng; phân tầng, xếp hạng; đồng thời buộc
phải tuân thủ các qui định chung, không kể giáo
dục đại học công hay tư.
5.2. Thiết lập cơ chế tài chính công bằng hơn
- Giáo dục đại học cũng phải được Nhà
nước cấp ngân sách như giáo dục đại học công
nếu đảm bảo các điều kiện theo yêu cầu của nhà
nước. Thiết lập cơ chế cạnh tranh thông qua
đó, giáo dục đại học giành lấy trợ cấp của
nhà nước về hoạt động đào tạo và nghiên cứu.
- Thực hiện chế cấp phát tài chính theo
nguyên tắc chuyển từ cấp trực tiếp cho trường
đại học (dựa trên tổng chỉ tiêu tuyển sinh) sang
chi phiếu giáo dục cho người học nhằm tạo ra
sự cạnh tranh về cung chương trình đào tạo
(nhằm tăng năng lực cho người tốt nghiệp, đáp
ứng nhu cầu của thị trường lao động) thay vì
cạnh tranh về cầu như hiện nay.
5.3. Chính sách mở rộng tuyển sinh đối với giáo
dục đại học tư
Nghiên cứu của nhóm tác giả Đàm Quang
Minh, Hoàng Anh Đức, Phạm Hiệp công bố
năm 2018 cho biết, sau 30 năm xuất hiện với
danh nghĩa đại học dân lập và 12 năm xuất hiện
với danh nghĩa đại học thục, cũng mới chỉ
đóng góp số lượng rất ít: 28% theo tổng số
trường đại học 14% theo tổng số sinh viên
vào năm 2016 [28].
Điều này phản ánh thái độ nước đôi của các
nhà hoạch định chính sách giáo dục Việt Nam
như đã nêu trên, đã kìm m sự phát triển
giáo dục đại học tư. Biểu hiện cụ thể nhất
chấp nhận hóa giáo dục đại học công (bằng
cách cho phép giáo dục đại học công thu phí
một số chương trình đào tạo, đáp ứng nhu cầu
của thị trường lao động) gây ra khó khăn đến đã
việc phát triển giáo dục đại học tư.
Cũng theo nhóm tác giả nêu trên, số lượng
sinh viên tại các
Các trường đại học tư tại Đông Á chiếm tỉ
lệ lớn, như tại Hàn Quốc (2011), 81% sinh
viên đại học tư; con số tương ứng tại một số
nước tỉ lệ cao Indonesia (2011): 62%,
Trung Quốc (2011): 63%, Philippines (2011):
63%...
Trong xu thế này, Việt Nam cũng phải tính
tới chiến lược phát triển giáo dục đại học
bằng 01 trong 02 cách sau: (1) Hạn chế chỉ tiêu
tuyển sinh các trường đại học công hằng năm
theo lộ trình, chỉ tiêu tuyển sinh các trường
công chủ yếu tập trung cho các trường trọng
điểm quốc gia; chuyển số chỉ tiêu tuyển sinh
giảm tương ứng từ các trường đại học công
sang các trường đại học tư, phấn đấu để các
trường đại học đạt tới tỷ lệ tuyển sinh hằng
năm vào khoảng 35 40%, khoảng một nửa so -
với các nước Đông Á (2) Thực hiện chế
cấp phát chi phiếu giáo dục để người học lựa
chọn nhằm tạo ra sân chơi bình đẳng để cả các
trường đại học công và đại học cạnh tranh
thu hú t người học.
5.4. Đa dạng hóa giáo dục tư sau trung học
Đặc trưng bản của đại chúng hóa giáo
dục đại họ đa dạng hóa nhu cầu đa dạng c là
hóa hệ thống. Giáo dục đại học Việt Nam đang
bước đầu chuyển tiếp sang giai đoạn đại học đại
chúng. vậy, phải những điều chỉnh chiến
lược cần thiết để thực hiện bước chuyển này
thành công không dẫn đến rối loạn hệ
thống, trong đó việc thay đổi nhận thức về giáo
dục đại học tư có ý nghĩa rất quan trọng (xem
[1]). Sự đa dạng nhu cầu giáo dục sau trung học
N.H. Vị, L.B. Sơn Tạp chí Khoa học ĐHQ HN: Nghiên c u iáo dục, Tập 34, Số / 3 (2018) 1-17
15
không nhất thiết chỉ là giáo dục đại học, mà còn
giáo dục nghề nghiệp với c khóa trình ngắn
hạn, chi phí thấp hơn, cách thức tổ chức linh
hoạt, mềm dẻo hơn phù hợp với sự biến động
thường xuyên của thị trường lao động sẽ thu hút
một lượng lớn thí sinh vào phân khúc này trong
những thập kỷ đến nhất trong (xem [10]),
điều kiện công nghệ phát triển của cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0. Tái cấu trúc hệ thống
giáo dục đại học theo định hướng đa dạng hóa
bằng cách xem xét và chuyển giao phân hệ giáo
dục nghề nghiệp về lại Bộ Giáo dục và Đào tạo
để thống nhất quản lý, dễ điều tiết thực hiện
phân luồng sau trung học thuận lợi, bảo đảm
tính khoa học và hệ thống trong quản trị đào tạo
nguồn nhân lực hơn. Đa dạng hóa hệ thống còn
thiết kế các công cụ chính c phù hợp để h
khuyến khích, cổ các nhà đầu đầu vào
phân khúc này theo tinh thần giáo dục đại học
không phải một dạng dịch vụ công thuần túy
[1, trang 168].
6. Kết luận
Trong vài thập kỷ đã qua, giáo dục hình
đại học đã phát triển đặc biệt ấn tượng trên
phạm vi toàn cầu. Nhiều quốc gia, đặc biệt các
quốc gia ở Châu Âu liên tục cải cách chính sách
đối với hệ thống giáo dục đại học nói chung và
giáo dục đại học nói riêng. Tuy nhiên, điểm
chung trong quan niệm thực tiễn đổi mới
chính sách của các nước cải thiện mối quan
hệ giữa nhà nước giáo dục đại học theo
hướng giảm sự can thiệp của nhà nước, đồng
thời tăng quyền tự trị/tự chủ cho giáo dục
đại học.
muốn hay không, các quốc gia phải
chấp nhận xu thế hóa giáo dục đại học
xem đó như giải pháp duy nhất tốt nhất
nhằm đáp ứng nhu cầu bùng nổ của giáo dục
đại học: giảm bớt áp lực tài chính của nhà nước
đối với giáo dục đại học; đa dạng hóa về cung
ứng chương trình đào phương thức tiếp tạo
cận giáo dục đại học, đáp ứng nhu cầu đa dạng
về đào tạo sau trung học của người học; góp
phần cải thiện chất lượng hiệu quả của giáo
dục đại học công thông qua áp dụng tư duy, kỹ
thuật quản của lĩnh vực chế
cạnh tranh.
Tài liệu tham khảo
[1] Phạm Phụ (2005), Về khuôn mặt mới của iáo
dục đại học Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia
thành phố Hồ Chí Minh.
[2] Roussel Isabelle (2015), L’enseignement
supérieur privé: propositions pour un nouveau
mode de relations avec l’État,
Rapport N 5
0
2015-047, Juin 2015 - Ministère del’Éducation
nationale, de l’Enseignement supérieur et de
la Recherche.
[3] Neave, G. (2000), “Universities’ Responsibilities
to Society: An Historical Exploration of an
Enduring Issue”, in Neave (éd.), The Universities’
Responsibilities to Society - International
Perspectives, Pergamon/Elsevier, Londres,
pp. 1-28.
[4] Neave, G. (2001), “The European Dimension in
Higher Education: An Excursion into the Modern
Use of Historical Analogues”, in J. Huisman, P.
Maassen et G. Neave (éd.) Higher Education and
the Nation State; Oxford: Pergamon, pp. 13-73.
[5] Wittrock, B. (1993), “The Modern University: the
Three Transformations”, in Rothblatt and
Wittrock (éd.), The European and American
University since 1800-Historical and Sociological
Essays, Cambridge University Press, Cambridge,
pp. 303-62.
[6] Van Vught, F. (éd) (1989), Governmental
Strategies and Innovations in Higher Education,
Jessica Kingsley, Londres.
[7] Middleton, Roger (1997), Government Versus the
Market: The Growth of the Public Sector,
Economic Management and British Economic
Performance, Edward Elgar, Aldershot.
[8] Wittrock, B. et W. Peter (1996), “Social Science
and the Building of the Early Welfare State:
Toward a Comparison of Statist and Non-Statist
Western Societies”, in Dietrich Rueschemeyer et
Theda Skocpol (éd.) States, Social Knowledge
and the Origins of Modern Social Policies,
Princeton University Press, Princeton,
New Jersey.
[9] Altbach, Philip et T. Umakoshi (éd.) (2004),
Asian Universities - Historical Perspectives and
Contemporary Challenge s; John Hopkins Press.
N.H. / 3 (2018) 1-17Vị, L.B. Sơn Tạp chí Khoa học ĐHQ HN: Nghiên c u iáo dục, Tập 34, Số
16
[10] Nguyễn Huy Vị (2011), hình trường Cao
đẳng cộng đồng Việt Nam, NXB Dân trí,
Hà Nội.
[11] Levy, D.C. (1986), Higher Education and the
State in Latin America: Private Challenges to
Public Dominance, University of Chicago Press,
Chicago.
[12] Thelin, J.R. (2004), A History of American Higher
Education, Baltimore, John Hopkins
University Press.
[13] Hofstadter, R. (1996), Academic Freedom in the
Age of College, Transaction Publishers, New
Brunswick.
[14] UNESCO/OCDE (2006), Education Trends in
Perspective - Analysis of the World Education
Indicators, Institut de Statistique de l’UNESCO,
OCDE, World Education Indicators Programme.
[15] Teixeira, P., D. Dill, B. Jongbloed et A. Amaral
(éd.) (2004), The Rising Strength of Markets in
Higher Education, Kluwer, Dordrecht.
[16] Blöndal S., S. Field et N. Girouard (2002),
Investment In Human Capital Through Post-
Compulsory Education and Training: Selected
Efficiency And Equity Aspects, Département des
affaires économiques de l’OCDE, document de
travail No 333.
[17] Teichler, U. (1988), Changing Patterns of
the Higher Education System: The Experience
of Three Decades, Jessica Kingsley Publishers,
Londres.
[18] Cave, M., M. Kogan et R. Smith (1990), Output
and Performance Measurement in Government.
The State of the Art (Jessica Kinsgley, Londres).
[19] Levy, D.C. (2002), “Unanticipated Development:
Perspectives on Private Higher Education’s
Emerging Roles”, PROPHE (Program for
Research on Private Higher Education) Working
Paper #1.
[20] Geiger, R. (1986), Private Sectors in Higher
Education, Ann Arbor, The University of
Michigan Press.
[21] Levy, D.C. (2006), An Introductory Global
Overview: The Private Fit to Salient Higher
Education Tendencies , PROPHE Working
Paper #7.
[22] Wells, P.J., J. Sadlak et L. Vlăsceanu (éd) (2007),
The Rising Role and Relevance of Private Higher
Education in Europe; UNESCO-CEPES,
Bucarest.
[23] OECD (2011), L’enseignement supérieur à
l’horizon 2030 - Volume 2: Mondalisation, La
recherche et l’innovation dans l’enseignement,
Édition OCDE.
[24] Tilak, J.B.G.(2009), Higher education: a public
good or a commodity for trade?, Springer
International Publishing AG. Part of Springer
Nature.
[25] Savas (2000), Privatisation and Public - Private
Partnerships, academia.edu.
[26] Ball, J.S et Youdell,D. (2007), Higher
privatisation in public education, Education
International 5 World Congress July 2007.
th
[27] L. Benedetto (2008), Options et tandances dans le
financement des uni versités en Europe, Critique
internationale, 2008/2 (n 39)- CAIRN.INFO.
0
[28] Đàm Quang Minh, Hoàng Anh Đức, Phạm Hiệp
(2018), Ai sở hữu bao nhiêu tiền liệu còn đất
cho tay chơi mới (Báo Tuổi trẻ số ra ngày
23/5/2018).
Private Higher Education Model-World Practices
and Lessons for Vietnam
Nguyen Huy Vi , Le Bat Son
1 2
1
Ho Chi Minh City University of Social Sciences and Humanities,
10-12 Dinh Tien Hoang, Ho Chi Minh City, Vietnam
2
Phu Yen University, 18 Tran Phu, Tuy Hoa, Phu Yen, Vietnam
Abstract: The private higher education system has been facing many challenges in the history of
its development, which was harshly handled by the differentpoints of view of political regimes. The
N.H. Vị, L.B. Sơn Tạp chí Khoa học ĐHQ HN: Nghiên c u iáo dục, Tập 34, Số / 3 (2018) 1-17
17
system in the general higher education system in all over the world has slowly and weakly improved.
Until the 80s of the 20 century, the system revived and obviously developed thanks to the increasing
th
educating demand although many countries were facing financial difficulties to support it. In Vietnam,
the private higher education system appeared by 1975 in the south, but this model and the its
regulations had been forgottenuntil the beginning ofthe 90s of 20 century.
th
This research is evaluating the present higher education system in different aspects that are the
international definition of private higher education, brief history and the development of the system in
Republic of France as an example, privatization forms and finance for the system, and suggestions to
define policies for the system in Vietnam.
Keywords: Model; Private Higher Education; Privatization.
| 1/17

Preview text:

Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 34, Số 3 (2018) 1-17
Mô hình giáo dục đại học tư từ thực tiễn thế giới
và kinh nghiệm cho Việt Nam
Nguyễn Huy Vị1,*, Lê Bạt Sơn2
1Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh,
10-12 Đinh Tiên Hoàng, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
2Trường Đại học Phú Yên, 18 Trần Phú, Tuy Hòa, Phú Yên, Việt Nam
Nhận ngày 29 tháng 5 năm 2018
Chỉnh sửa ngày 14 tháng 6 năm 2018; Chấp nhận đăng ngày 18 tháng 7 năm 2018
Tóm tắt: Mô hình Giáo dục đại học tư trên toàn thế giới chịu nhiều thử thách trong tiến trình lịch
sử phát triển của của nó, có lúc rất khắc nghiệt bởi thể chế và các quan điểm chính trị khác nhau.
Phân khúc này trong hệ thống giáo dục đại học khắp nơi trên thế giới đều phát triển rất chậm và
yếu ớt. Cho đến những năm 1980 của thế kỷ XX, giáo dục đại học tư mới trở lại và cất cánh nhờ
vào sự gia tăng nhu cầu học tập đại học của người dân, cùng với sự khó khăn về tài chính của các
Nhà nước trong đáp ứng nhu cầu. Ở Việt Nam, giáo dục đại học tư đã xuất hiện trước năm 1975 ở
miền Nam; nhưng mô hình này đã bị bỏ quên mãi đến đầu thập kỷ 90 của thế kỉ XX mới xuất hiện
trở lại trong thời kỳ thống nhất đất nước. Quy luật phát triển mô hình giáo dục đại học tư ở Việt
Nam cũng không phải là ngoại lệ. Bài viết này nghiên cứu thực tiễn thế giới về mô hình giáo dục
đại học tư trên các phương diện: định nghĩa quốc tế về giáo dục đại học tư; sơ lược lịch sử ra đời
và phát triển giáo dục đại học tư (nghiên cứu trường hợp Nước Cộng hòa Pháp); các hình thức tư
hóa và tài chính cho giáo dục đại học tư; và cuối cùng, đề xuất một số ý tưởng cho hoạch định
chính sách giáo dục đại học tư ở Việt Nam.
Từ khóa: Mô hình; Giáo dục đại học tư; Sự tư hóa.
1. Mở đầu
Giáo dục đại học tư chịu nhiều thử thách
trong tiến trình phát triển của lịch sử, có lúc rất
Giáo dục đại học tư là một thực tiễn vừa cũ
khắc nghiệt bởi ý thức hệ và các quan điểm
vừa mới. Những trường đại học tư đầu tiên ra
chính trị, nhất là từ khi xuất hiện học thuyết
đời ở Châu Âu, kéo dài suốt nửa sau thời kỳ
“Nhà nước phúc lợi”. Chính vì vậy mà cho dù
Trung Cổ là kết quả khởi xướng của những tổ
có nguồn gốc từ rất xa trong lịch sử, phân khúc
chức phi chính phủ. Đấy là những trường đại
này trong hệ thống giáo dục đại học khắp nơi
học được thành lập theo sắc lệnh của hoàng gia
trên thế giới đều phát triển rất chậm và yếu ớt.
hoặc giáo hoàng, được trao cho một số quyền tự
Cho đến những năm 1980 của thế kỷ XX, giáo
chủ nhất định về tài chính và tổ chức.
dục đại học tư mới trở lại và cất cánh nhờ vào _______
sự gia tăng nhu cầu học tập đại học của người
dân, cùng lúc đó là sự khủng hoảng của nhà
 Tác giả liên hệ. ĐT.: 84-903576072. Email: nguyenhuyvi@gmail.com
nước phúc lợi mà Việt Nam là một ví dụ, buộc
https://doi.org/10.25073/2588-1159/vnuer.4147
các quốc gia phải tư duy lại cách thức quản trị 1 2
N.H. Vị, L.B. Sơn / Tạp chí Khoa học ĐHQ HN: Nghiên c u iáo dục, Tập 34, Số 3 (2018) 1-17
đại học, cách thức cung cấp tài chính cho giáo
được vận dụng để thiết kế những hệ thống, dục đại học...
những tổ chức thuộc lãnh vực xã hội và nhân
Bài viết này nghiên cứu thực tiễn thế giới
văn. Mô hình giáo dục đại học tư thục ở Việt
về giáo dục đại học tư trên các phương diện:
Nam mà bài này đang đề cập là một sự vận
định nghĩa quốc tế về giáo dục đại học tư; sơ
dụng mô hình nhận thức trong giáo dục đại học.
lược lịch sử ra đời và phát triển giáo dục đại
học tư (nghiên cứu trường hợp Nước Cộng hòa
Pháp); các hình thức tư hóa và tài chính cho
2. Định nghĩa quốc tế về giáo dục đại học tư
giáo dục đại học tư và cuối cùng là đề xuất một
số ý tưởng cho hoạch định chính sách giáo dục
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế
đại học tư ở Việt Nam.
(OCDE) đề xuất các định nghĩa sau liên quan
1. “Mô hình” là gì? Theo Từ điển bách
đến sự khác biệt giữa công và tư:
khoa Việt Nam (2002), NXB Từ điển Bách
Trường công là trường “được kiểm soát và
khoa, Hà Nội, về mặt ngữ nghĩa, “Mô hình
quản lý trực tiếp bởi chính quyền hoặc một cơ
nghĩa hẹp là mẫu, khuôn, tiêu chuẩn theo đó mà
quan phụ trách giáo dục công, hoặc trực tiếp
chế tạo ra sản phẩm hàng loạt; là thiết bị, cơ cấu
bởi một cơ quan của chính phủ, hoặc bởi một tổ
tái hiện hay bắt chước cấu tạo và hoạt động của
ch c lãnh đạo (hội đồng, ban...) mà phần lớn
cơ cấu khác ( của nguyên mẫu hay cái được mô
các thành viên của tổ ch c đó được bổ nhiệm
hình hóa) vì mục đích khoa học và sản xuất.
bởi nhà nước hoặc được bầu bởi cán bộ quản
Nghĩa rộng là hình ảnh (hình tượng, sơ đồ, sự
lý, giáo viên, nhân viên của nhà trường đó”.
mô tả, v.v…) ước lệ của một khách thể (hay
Trường tư là trường“được kiểm soát và
một hệ thống các khách thể, các quá trình hoặc
quản lý bởi một tổ ch c phi chính phủ (ví dụ hiện tượng)”;
như nhà thờ, công ty hoặc doanh nghiệp) mà ở
Cũng theo từ điển này, về mặt triết học,
đó, phần lớn các thành viên của ban lãnh đạo
khái niệm “Mô hình” được hiểu là: “sự biểu thị
không phải do nhà nước bổ nhiệm mà do các tổ
mối quan hệ giữa tri thức của con người về các ch c tư”.
khách thể và bản thân các khách thể đó. Mô
Như vậy, theo OECD, sự khác biệt
hình không chỉ là phương tiện mà còn là một
lớn/chính giữa trường công và trường tư là chủ
trong những hình thức của sự nhận thức của tri
thể quản lý và cơ chế quản lý khác nhau; từ đó
thức, là bản thân tri thức. Trong quan hệ với lý
dẫn đến cơ chế hình thành đội ngũ quản lý
thuyết, mô hình không chỉ là công cụ tìm kiếm khác nhau.
những khả năng thực hiện lý thuyết mà còn là
Giữa các trường tư với nhau, cũng cần thiết
công cụ kiểm tra mối liên hệ, quan hệ, cấu trúc,
phân biệt chúng: có một số trường mà hơn một
tính quy luật được diễn đạt trong lý thuyết ấy có
nửa nguồn lực do nhà nước tài trợ và một số
tồn tại thực hay không”.
trường khác gọi là “độc lập” (nghĩa là không
Một cách tiếp cận khác dưới góc độ thuật
phụ thuộc vào nguồn lực nhà nước). Ở nhiều
ngữ khoa học, mô hình được hiểu: “ là một đối
nước, không có sự khác biệt quá lớn giữa công
tượng được tạo ra tương tự với một đối tượng
và tư xét theo những trợ cấp quan trọng. Ví dụ
khác về một số mặt nào đó. Nếu gọi a là mô
như Anh, Hà Lan hoặc Úc, các trường đại học
hình của A, thì a là cái thể hiện, còn A là cái
thường được xem là công, cho dù về mặt kỹ
được thể hiện. Giữa cái thể hiện và cái được thể
thuật quản trị và pháp lý là tư, bởi vì nó phụ
hiện có một sự phản ánh không đầy đủ”. (Đặng
thuộc rất nhiều vào trợ cấp của nhà nước. Tất cả Bá Lãm, [1, trang 24]).
các trường, kể cả trường tư, cũng được xem là
Có thể xây dựng nhiều kiểu mô hình khác
trường công trong 06 hệ thống giáo dục như:
nhau tùy thuộc đối tượng và nhiệm vụ nghiên
Andorra, Bỉ (cộng đồng Pháp ngữ), Đan Mạch,
cứu; nói riêng trong lãnh vực giáo dục, kiểu
Phần Lan, Hi Lạp và Ý [2, 84].
hình nhận th c (conceptive model) thường
N.H. Vị, L.B. Sơn / Tạp chí Khoa học ĐHQ HN: Nghiên c u iáo dục, Tập 34, Số 3 (2018) 1-17 3
Đối chiếu với quan niệm của Việt Nam về
với toàn thể các trường đại học. Từ thực tế đó,
trường công và trường tư, thể hiện trong Luật
càng tiến xa trong lịch sử giáo dục đại học,
Giáo dục đại học năm 2012, khoản 2, tiết a và
quyền kiểm tra đại học của nhà nước càng tăng
b, Điều 7, chương I như sau:
lên. Xu hướng này đã đạt tới đỉnh vào thế kỷ
“Cơ sở giáo dục đại học công lập thuộc sở
XIX và đầu thế kỷ XX, khi mà nhà nước hiện
hữu nhà nước, do Nhà nước đầu tư, xây dựng
đại chính thức mở rộng phạm vi quyền hạn cơ sở vật chất”;
nhằm đặt giáo dục đại học dưới sự kiểm soát
“Cơ sở giáo dục đại học tư thục thuộc sở
của mình - tiến trình mà Neave (2000) [3] gọi là
hữu của tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề
“nhà nước hóa” giáo dục đại học. Giữa thế kỷ
nghiệp, tổ chức kinh tế tư nhân hoặc cá nhân,
XX, các trường đại học tư còn chưa tồn tại
do tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp,
trong phần lớn các hệ thống giáo dục đại học;
tổ chức kinh tế tư nhân hoặc cá nhân đầu tư,
một số nơi khác có trường đại học tư nhưng tầm
xây dựng cơ sở vật chất.”
quan trọng của nó tương đối yếu so với trường
Như vậy, với Việt Nam, sự khác biệt đại học công.
lớn/chính giữa trường công và trường tư là chủ
sở hữu; từ đó định hướng chính sách của Việt
3.1. Di sản Châu Âu và quyền bá chủ của lĩnh
Nam là phân biệt rõ trường tư vì lợi nhuận hay vực công
không vì lợi nhuận.
Vai trò rất hạn chế của các thực thể tư thục
Ta thấy, quan niệm của thế giới về phân
giữa lòng giáo dục đại học được lý giải là do
biệt trường công và trường tư chủ yếu dựa vào
nguồn gốc giáo dục đại học Châu Âu; người ta
cấu trúc quản trị; trong khi quan niệm của Việt
thấy, những trường đại học đầu tiên ra đời ở
Nam dựa chủ yếu vào quyền sở hữu. Đây là
Châu Âu vào cuối thế kỷ XI, được mở rộng
một khác biệt của Việt Nam
phát triển ra suốt nhiều thế kỷ sau đó, nhờ sự hỗ
trợ tài chính của các tổ chức tôn giáo và phi tôn
giáo. Sự hỗ trợ này có nhiều lý do khác nhau,
3. Sơ lược lịch sử ra đời và phát triển của
nhưng lý do hàng đầu là yêu cầu về cơ sở vật
giáo dục đại học tư trên thế giới
chất cần thiết cho sự vận hành và tồn tại của các
trường đại học. Bắt đầu sang thế kỷ XVIII, giáo
Xét về mặt thuật ngữ, giáo dục đại học tư
dục đại học chấu Âu dần thoát khỏi sự chi phối
(Enseignement supérieur privé/Private higher
của Nhà thờ và đồng hành với thế tục hơn; vai
education), được thể hiện cụ thể bằng những
trường đại học tư đầu tiên trên thế giới, mà nội
trò can thiệp của Nhà nước vào giáo dục đại
học càng gia tăng. Các trường đại học dần dần
hàm của chúng không có cùng nội hàm định
được xem là công cụ để đào tạo tinh hoa và
nghĩa như trường đại học tư mà ta nghe nói đến
ngày nay. Quả vậy, tất cả các trường đại học
thông qua đội ngũ tinh hoa này, nhà nước thực
thi quyền lực của mình. Để đào tạo những thành
khi đó đều có khuynh hướng công, mà căn cứ
viên mới cho nền hành chính, các nhà nước
vào đó, các trường đại học buộc phải báo cáo,
giải trình vừa với quyền lực tôn giáo vừa với
Châu Âu, nhất là Châu Âu lục địa bắt đầu sáng
lập các trường đại học mới và quy định rõ ràng
quyền lực nhà nước. Vào thời kỳ Trung cổ, sự
hơn đối với các trường đại học hiện có. Căng
phân chia giữa lĩnh vực công và tư không rõ
ràng như ngày nay, nhất là giữa các nhà nước
thẳng giữa quyền lực nhà nước thế tục và dòng
Tên thể hiện rõ nét suốt thế kỷ XVIII: Từ giữ
quân chủ Châu Âu và nhà thờ công giáo. Như
vai trò trung tâm đối với hệ thống giáo dục, các
thế, sự khác biệt giữa giáo dục đại học công và
tư cũng vì vậy mà không rõ ràng như ngày nay.
thầy tu dòng Tên bị thay thế dần bởi quyền lực
công trong nhiều nước ở Châu Âu.
Hiện nay, trường đại học tư bị quản lý chặt hơn
Trong thế kỷ XIX nổi lên hiện tượng ra đời
ngày xưa bởi quyền lực công, bởi vì nó cũng
phải đặt dưới sự quản lý của nhà nước như đối
của chế độ quan liêu bàn giấy, càng lúc càng
nặng nề, nó được thiết lập nhằm áp đặt quy chế 4
N.H. Vị, L.B. Sơn / Tạp chí Khoa học ĐHQ HN: Nghiên c u iáo dục, Tập 34, Số 3 (2018) 1-17
cho những chi tiết nhỏ nhất về tổ chức, về
vai trò của nó là thiết lập một cơ chế quản lý
chương trình, về tuyển dụng nhân sự và sinh
sâu vào đời sống đại học. Ở Châu Âu lục địa,
viên đại học. Chính tại Pháp, tiến trình quan
các bộ giáo dục đầu tiên xuất hiện vào thế kỷ
liêu hóa này đạt tới cực điểm với sự sáng lập
XIX, trong khi ở nước Anh, các bộ giáo dục lần
trường đại học theo kiểu mẫu Napoléon: Nhà
lượt ra đời và chỉ hoàn thành sau chiến tranh thế
nước chính thức can thiệp vào quản trị các đại
giới lần thứ hai; vì vậy, các trường đại học ngày
học chuyên ngành, các trường có trách nhiệm
càng có trách nhiệm phải báo cáo giải trình với
đóng góp vào quá trình xã hội hóa giáo dục đại
quyền lực công (Van Vught, 1989) [6]. Xu thế
học, nhưng đồng thời cũng phải thúc đẩy các
này đạt tới đỉnh trong suốt nhiều thập kỷ sau
thiết chế nhà nước (Neave et van Vught, 1994).
chiến tranh thế giới lần thứ hai, với cái mà
Kiểu mẫu đại học Napoléon ảnh hưởng suốt
người ta gọi là “tính đồng nhất pháp lý” (Neave
thời gian dài lên các hệ thống giáo dục đại học
et Van Vught, 1991): chính phủ xác định
khác, nhất là Tây Ban Nha và Ý. Song song với
chương trình giáo dục chuẩn để mỗi nhà trường
đó, kiểu mẫu đại học của nước Phổ (hoặc đại
đại học căn cứ vào đó và chịu trách nhiệm cung
học Humboldt) cho dù được thành lập vào đầu
ứng giáo dục đại học trong mỗi lĩnh vực đặc
những năm 1800, phản ứng lại kiểu mẫu
thù. Khuynh hướng này thể hiện rõ nét ở Châu
Napoléon nhằm bảo vệ sự tự do của đại học, thế Âu lục địa.
nhưng bản thân nó cũng mang đặc trưng ý chí
Sự qui định chặt chẽ của nhà nước đối với
mới của quyền lực công về thực thi quyền kiểm
giáo dục đại học không chỉ nhắm đến đặt tất cả
soát hành chính chặt chẽ lên đời sống đại học.
hệ thống giáo dục đại học dưới sự bình đẳng mà
Trong một số nước, quyền lực thường trực này
còn đảm bảo cho người tốt nghiệp đại học được
của nhà nước đã bắt đầu xấu đi suốt nhiều thập
thụ đắc những năng lực cần thiết để thực thi
kỷ đã qua của thế kỷ XX; vai trò của chính
chức trách hành chính công. Sự ảnh hưởng tăng
quyền nhà nước và địa phương được tăng
lên của nhà nước đối với giáo dục đại học được
cường; nhà nước và địa phương giao cho các
hình thành trong giới hạn rộng hơn bởi sự thiết
trường đại học chăm lo đào tạo đội ngũ tinh hoa
lập cấu trúc hành chính và chính trị hiện đại
cho xã hội. Song song với đó, đối với nhà nước
(Middleton, 1997) [7]. Với sự mở rộng vai trò
hiện đại, xuất hiện vào cuối những năm 1960,
kinh tế và xã hội của nhà nước mà người ta
một khi yêu cầu trường đại học phải đóng góp
quan sát được, nhất là sau thế chiến thứ hai,
vào quá trình đào tạo nguồn nhân lực có chất
quốc gia cần thiết phải có một đội ngũ nhân sự
lượng cao cho đất nước càng trở nên hiển
quản lý có hệ thống năng lực chắc chắn qua đào
nhiên, thì nhà nước càng cần phải tăng cường
tạo đại học. Nhu cầu chất lượng mang tính đặc
kiểm soát đời sống của trường đại học (xem
thù này đã tồn tại vào thế kỷ XIX, nhất là trong Neave, 2001) [4].
lĩnh vực luật và kỹ sư. Tuy nhiên, sự bành
Mối quan hệ mới giữa các trường đại học
trướng vai trò của nhà nước dẫn tới, nhất là sau
và nhà nước nổi lên vào thế kỷ XIX và kéo dài
1945, theo quan điểm lý thuyết nhà nước phúc
trong suốt phần lớn của thế kỷ XX, đã đặt các
lợi, các chính phủ tiến hành tuyển dụng một đội
trường đại học vào tình thế phụ thuộc nhiều vào
ngũ nhân lực thật sự có chất lượng cao: giáo
nhà nước (xem Wittrock, 1993) [5]. Sự phụ
viên, người lao động xã hội, bác sĩ, ý tá, kế
thuộc này đặc biệt rõ rệt ở Châu Âu, liên quan
toán... Suốt thời kỳ sau chiến tranh, quản lý
đến những chính sách trong lĩnh vực tài chính,
kinh tế vĩ mô về nhu cầu đã đòi hỏi các chính
quản lý và giáo dục. Vai trò tăng lên của quyền
phủ phải trang bị đội ngũ nhân lực trình độ cao
lực công trong cung cấp tài chính cho trường
về kinh tế. Nhà nước vì thế cũng trở thành
đại học đi cùng với sự giám sát và quản lý chặt
người sử dụng chính các nhân lực nghề nghiệp
chẽ. Một trong những dấu hiệu dễ thấy nhất của
qua đào tạo; và do đó, nhà nước phải dành mối
tiến trình này là sự kiện các bộ giáo dục hay cấu
bận tâm cho việc điều chỉnh nguồn cung về
trúc quản lý công có chức năng tương tự ra đời;
giáo dục đại học, đáp ứng nhu cầu của các cấu
N.H. Vị, L.B. Sơn / Tạp chí Khoa học ĐHQ HN: Nghiên c u iáo dục, Tập 34, Số 3 (2018) 1-17 5
trúc hành chính đang phổ biến, bằng cách điều
khoa tự trị. Những trường đại học đầu tiên của
chỉnh nội dung giảng dạy, thậm chí trong một
Bắc Phi chỉ ra đời vào thế kỷ XX, và phần lớn
số trường hợp điều chỉnh cả chương trình giảng
các trường đại học của Nam Sahara Châu Phi
dạy của giáo dục đại học.
được thành lập mới đây, thường thấy nhất là
Như vậy, nguồn gốc của giáo dục đại học
sau khi gia nhập vào các nước độc lập, sau
chính là sự phát triển của kinh tế thị trường đòi
chiến tranh thế giới lần thứ hai. Ở Châu Á,
hỏi lực lượng sản xuất phải thay đổi, cần đáp
những trường đại học đầu tiên ở phía Tây ra đời
ứng nguồn nhân lực trung, cao cấp mà dẫn đến
nửa thế kỷ XIX. Thế kỷ XIX, XX, việc học tập
nhu cầu đào tạo nghề mới (trung cấp, cao đẳng,
khoa học phương Tây được truyền bá song song
đại học phát triển cả về số lượng và chất lượng;
với ý tưởng về sự hấp lực của một nền văn hóa
từ đó, dẫn tới nhu cầu nảy sinh những chính
Phương Tây được mở rộng và cổ súy trên toàn
sách về quản lý, tài chính, giáo dục...) đối với
châu lục này. (Altbach et Umakoshi, 2004) [9]. giáo dục đại học.
Quả thực, sự ra đời của các trường đại học
Vai trò tăng lên của nhà nước trong giáo
theo kiểu mẫu các trường đại học Châu Âu diễn
dục đại học, sau năm 1945, nằm trong xu thế
ra khắp nơi trên thế giới; Thậm chí, nhiều
chung là khuyến khích phát triển sức mạnh nhà
trường đại học được thành lập vào thế kỷ XX
nước, nhất là ở các nước phương Tây. Vào thời
cũng thường phỏng theo kiểu mẫu các trường
kỳ này, sự gia tăng chi phí nhà nước cho giáo
đại học Châu Âu (Naeve, 2000) [3], bởi vì các
dục công cao đến nỗi mà nó lộ rõ một ý chí
thành viên của chính phủ quốc gia, thường là
vượt quá sự cần thiết đối với nhu cầu tăng
những người tốt nghiệp từ các trường đại học
trưởng về giáo dục đại học, nhằm làm cho hệ
Châu Âu, có khuynh hướng bắt chước cấu trúc
thống giáo dục được hưởng một ưu tiên thực tế
thiết chế của các trường gốc mà họ học (Neave
về chính sách và ngân sách. Chiến tranh thế
et van Vught, 1994). Sự ảnh hưởng của kiểu đại
giới lần thứ hai đã tạo ra bước ngoặt quyết định
học Châu Âu đôi khi cũng mang tính gián tiếp
này: chính phủ các nước ý thức rõ về sự cần
hoặc cải biến; đấy là trường hợp của các trường
thiết phải chuẩn bị một đội ngũ những người
đại học mà về cấu trúc tổ chức, thì phỏng theo
lao động chất lượng cao, đóng góp tiềm năng
phiên bản gốc kiểu Châu Âu, nhưng rồi sau đó
cho nghiên cứu khoa học thuộc lĩnh vực quân
lại tích hợp các ảnh hưởng và các đặc trưng
sự, kinh tế và xã hội. Giáo dục đại học vì thế đã
khác nhằm đáp ứng nhu cầu của địa phương và
trở thành một trong những ưu tiên của nhiều
yêu cầu về đào tạo tinh hoa cho đất nước, như
chính phủ (Wittrock et Wagner, 1996) [8]. Sự
trường hợp các trường đại học Bắc Mỹ và Nam
đa dạng và phức tạp của những kỳ vọng này đã
Mỹ vào thế kỷ XIX. Ở Bắc Mỹ, sự sáng lập nhà
dẫn đến sự phát triển liên tục và hỗ trợ giáo dục
nước liên bang đi kèm với sự trao quyền có giới
đại học trong suốt nửa sau thế kỷ XX- thời kỳ
hạn cho giáo dục đại học cũng tạo điều kiện
của bùng phát giáo dục đại học đại chúng ở
thuận lợi cho sự đa dạng hóa các trường đại học
Bắc Mỹ, Nhật và sau đó là TâyÂu.
so với kiểu Châu Âu nguyên bản. Sự tiến hóa
Vào đầu thế kỷ XX, phần lớn các trường
này làm nổi lên mô hình đại học “kiểu Mỹ”, mà
đại học tập trung ở Châu Âu và Châu Mỹ. Thật
ở đó có sự phân tầng rõ ràng, có thể đáp ứng
vậy, cho dù giáo dục đại học tồn tại từ rất lâu
mọi nhu cầu học tập sau trung học của nhân
trong thế giới Ả-Rập và Hồi giáo, ngoại trừ các
dân, đã được nhiều vùng khác nhau trên thế giới
trường dòng Hồi giáo, giữa thế kỷ XX, ở Trung
chấp nhận du nhập vào nửa sau thế kỷ XX
đông, nhưng số lượng các trường đại học vẫn (xem [10]).
còn rất ít. Tình trạng này cũng tương tự như ở
Châu Phi, Bắc Phi có một số trường thần học
3.2. Sự phát triển giáo dục đại học tư - Một
rất cổ xưa và nổi tiếng vì sự xuất sắc; ngược lại,
hiện tượng toàn cầu
giáo dục đại học phi tôn giáo chỉ xuất hiện vào
Vào cuối thế kỷ XX, khi nhu cầu học đại
thế kỷ XIX, với sự sáng lập một số viện và
học tăng cao của xã hội do sự phát triển tốc độ 6
N.H. Vị, L.B. Sơn / Tạp chí Khoa học ĐHQ HN: Nghiên c u iáo dục, Tập 34, Số 3 (2018) 1-17
nhanh của nền kinh tế - xã hội của thế giới, xu
như được xem là phương tiện để đối phó với xu
hướng đại chúng hóa giáo dục đại học trở thành
thế phát triển thế tục hóa giáo dục đại học ở các
một tất yếu trên phạm vi toàn cầu; trong khi đó
quốc gia, và qua đó, theo quan điểm của Nhà
nguồn lực ngân sách công chịu tải của các quốc
thờ thiên chúa giáo là muốn nhắm đến gìn giữ
gia đều có hạn. Mâu thuẫn nội tại này mặc
một phần ảnh hưởng chính trị và xã hội mà nó
nhiên dẫn đến giải pháp giáo dục đại học tư có từ ngày xưa.
được chú ý lựa chọn như một phương án chọn
Ở Bắc Mỹ, tôn giáo cũng góp phần rộng rãi
tất yếu, khách quan; từ đây, các hệ thống giáo
vào sự trỗi dậy của các trường đại học tư đầu
dục đại học nói chung cho phép lĩnh vực tư ít
tiên. Các trường đại học được thành lập trong nhiều được mở rộng.
và sau thời kỳ thuộc địa thường giữ gìn mối
Như thế, xét về bản chất, một khi kinh tế thị
quan hệ chặt chẽ với các giáo phái Tin lành
trường phát triển, phân hóa giàu nghèo ngày
khác nhau (Thelin, 2004) [12]. Trường đại học
càng tăng, trong khi tính chất nhà nước phúc lợi
đầu tiên trong số đó, được thành lập vào năm
ngày càng giảm, thì giáo dục trở thành dịch vụ.
1936 bởi Tòa án Massachusetts, ba năm sau đổi
Đấy chính là cơ sở/cơ hội cho giáo dục tư phát
tên thành “Harvard College” nhằm vinh danh
triển (cả phổ thông lẫn dạy nghề)
người hiến tặng hào phóng là John Harvard, và
Quả vậy, các trường đại học tư giữ vai trò
người đại diện pháp lý của nó là tòa án vào năm
ngày càng tăng trong suốt thế kỷ XX và xu thế
1650. Sự sáng lập trường Harvard kéo theo sau
này được thúc đẩy từ năm 1975. Thường thì các
đó một chuỗi các trường tương tự dọc suốt
trường đại học tư đầu tiên gắn với vai trò truyền bờ Đông.
thống của tôn giáo. Cho dù sự thế tục hóa và sự
Ở Canada, ngoại trừ trường dòng Quebec
phát triển của nhà nước hiện đại từ thế kỷ
và một vài trường dạy ngữ pháp, những trường
XVIII đã tạo ra các điều kiện không thuận lợi
đại học đầu tiên được thành lập vào cuối thế kỷ
cho sự phát triển của các trường có khuynh
XIX. Tuy nhiên, vào thế kỷ XIX, tôn giáo đã
hướng tôn giáo, thì các trường đại học tư đầu
mất đi phần lớn tầm ảnh hưởng của mình đối
tiên, ở nhiều nước vẫn được thành lập bởi tôn
với giáo dục đại học, cho dù một số trường vẫn
giáo, mà đứng đầu là các nhà thờ Thiên chúa
còn nhận tài trợ của tôn giáo nhưng nó lại vận
giáo. Ở miền Nam Việt Nam, trước năm 1975
hành theo cấu trúc quản trị phi tôn giáo
cũng có nhiều viện/trường đại học tư do các
(Hofstader, 1996) [13]. Hơn nữa, mặc dù được
giáo hội Công giáo, Phật giáo, Hòa Hảo, Cao
thành lập bởi những người sùng đạo nhưng các Đài thành lập.
trường đại học tư của Bắc Mỹ nhìn chung đã
Tôn giáo giữ vai trò đặc biệt quan trọng ở
mất đi phần lớn các yếu tố tôn giáo.
Châu Mỹ lục địa. Ở Châu Mỹ La tinh, những
Khác với Châu Âu và Bắc Mỹ, giáo dục đại
trường đại học tư được gọi là “làn sóng đầu
học tư thường ra đời vào thế kỷ XX. Những
tiên” (nghĩa là các trường được thành lập trước
trường đại học tư đầu tiên ở Trung Đông chỉ
thế kỷ XIX) phụ thuộc vào Nhà thờ thiên chúa
hình thành vào nửa cuối thế kỷ XIX. Trong suốt
giáo một cách rất rõ ràng (Levy, 1986) [11].
thế kỷ XX, nhất là sau độc lập, hầu như toàn bộ
Tuy nhiên với sự lên ngôi của nhà nước hiện
các trường đại học mới được thành lập trong
đại, phần lớn các trường đại học này, cuối cùng
các nước Ả Rập là trường công, bởi vì giáo dục
đặt dưới sự bảo hộ của nhà nước; giáo dục đại
đại học thường được xem là trách nhiệm của
học trở thành độc quyền của nhà nước cho đến
nhà nước: cũng giống như nhiều vùng khác trên
hết thế kỉ XIX. Thế nhưng, những năm 1920 và
thế giới, giáo dục đại học là công cụ để đào tạo
1930 đã đánh dấu sự trở lại, cho dù chậm nhưng
tinh hoa, nhất là những viên chức cao cấp. Các
chắc, của các trường đại học tư Thiên chúa giáo
trường đại học tư vì thế buộc phải đóng cửa
ở nhiều nước Châu Mỹ La tinh như Colombia,
hoặc không bao giờ ra đời. Ưu thế đại học công
Chi-lê, Bolivia và Peru. Sự sáng lập thế hệ mới
kéo dài mãi đến những năm 1980 và 1990,
các trường đại học tư Thiên chúa giáo dường
nhiều chính phủ khi ấy đã không còn khả năng
N.H. Vị, L.B. Sơn / Tạp chí Khoa học ĐHQ HN: Nghiên c u iáo dục, Tập 34, Số 3 (2018) 1-17 7
đáp ứng nhu cầu giáo dục đại học đang tăng lên
Châu Á: một trường vì lợi nhuận được thành
với cấp số mũ (UNESCO/OCDE, 2006) [14].
lập vào năm 1928 dưới tên gọi là Viện kế toán,
Đúng vậy, từ năm 1995 đến 2003, tỷ lệ người
sau đổi tên thành Trường Đại học Viễn Đông
học đại học gần như tăng gấp 3 ở Ai Cập và gần
năm 1934. Ở Trung Quốc và Nhật Bản, giáo
như gấp đôi ở Jordanie. Sự tăng cao nhu cầu đại
dục đại học tư phát triển rất sớm, vào buổi bình
học cho phép các trường đại học và các cơ sở
minh của thế kỷ XX, ít lâu sau khi thành lập
giáo dục đại học tư khác lại trỗi dậy và phát
những trường đại học công đầu tiên. Đến năm triểnrất nhanh.
1949, gần 40% của con số 125 trường đại học
Ở Châu Phi, giáo dục đại học tư phát triển
và khoa trong trường đại học Trung Quốc thuộc
khá muộn. Ở miền Nam Sahara của Châu Phi
khu vực tư, một phần lớn trong số đó đã được
gần như không có trường đại học nào cho đến
thành lập trong suốt nửa sau của thế kỷ XIX.
nửa thế kỷ XX. Thật vậy, ngoài Trường Đại học
Lĩnh vực giáo dục đại học tư cũng bắt đầu phát
của Mũi Hảo Vọng (Cap de Bonne-Espérance)
triển nhanh ở các nước Châu Á khác, những
được thành lập ở Nam Phi vào năm 1873, tiếp
nước mà vai trò của giáo dục đại học tư rất hạn
sau đó là 02 trường đại học khác được thành lập
chế, thậm chí không có gì như Việt Nam (sau
vào buổi bình minh của thế kỷ XX. Đóng góp
năm 1975) hoặc Malaysia. Người ta cũng quan
của khối Thịnh vượng chung Anh vào giáo dục
sát thấy, ở một vài nước Châu Á, giáo dục đại
đại học Châu Phi còn rất hạn chế. Trong các
học tư không phải là một hiện tượng mới; mặt
nước thuộc địa của Pháp ở Châu Phi, những nỗ
khác, lĩnh vực giáo dục đại học tư chiếm hơn
lực theo đường hướng phát triển giáo dục đại
một nửa tổng số sinh viên ghi danh như trường
học còn yếu ớt. Chính bởi lý do đó mà ở Châu
hợp của Nhật Bản, Hàn Quốc hoặc Phi-líp-pin.
Phi, phần lớn các trường đại học tư chỉ mới ra
Một vài trong số các trường đại học tư của các
đời gần đây, nhất là từ những năm 1990. Sự nổi
nước này rất nổi tiếng.
lên của giáo dục đại học tư được lý giải bởi sự
Khi xem xét toàn thể các nước trong Tổ
phát triển chậm của giáo dục đại học công và
chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OCDE),
bởi những khó khăn tài chính mà nhiều chính
người ta thấy rằng Châu Âu suốt thời gian dài là
phủ các nước ở Châu Phi đang đối mặt và
pháo đài của giáo dục đại học công; ngày nay,
không có khả năng đáp ứng nhu cầu giáo dục
trong phần lớn các nước Châu Âu, một nửa sinh
đại học tăng nhanh. Sự phát triển của lĩnh vực
viên ghi danh vào các trường đại học công.
giáo dục đại học tư xuất hiện nhờ vào sự bùng
Thậm chí nhiều trường đại học có khuynh
nổ số lượng ghi danh vào đại học ở Kenya,
hướng tôn giáo tồn tại cho đến ngày hôm nay ở
Ouganda hoặc ở Zimbabwe, đặc biệt từ những
Châu Âu cuối cùng phần lớn cũng bị cơ chế tài
năm 1980 (Neave et Van Vught, 1994;
chính đồng hóa vào lĩnh vực công trong thế kỷ
UNESCO/OCED, 2006) [14]. Tuy nhiên sự đói
XX; Đấy là trường hợp của nhiều trường đại
nghèo kinh niên đã kìm hãm sự phát triển
học ở Hà Lan và Bỉ. Thậm chí trên giấy tờ, các
nhanh của lĩnh vực đại học tư trong nhiều nước
trường đại học này là trường tư, thế nhưng nó
Châu Phi; quả vậy, năm 2005, có 50% dân số
được cung cấp tài chính và giám sát giống như
Nam Sahara của Châu Phi sống dưới mức 1,25
bất kỳ trường đại học công nào khác trong hệ
đô la mỗi ngày (Ngân hàng thế giới, 2009).
thống và được coi là một mô hình đại học tư
Ở Châu Á, giáo dục đại học Tây Á phát
trung dung: trường đại học tư phụ thuộc nhà
triển vào thế kỷ XIX, lĩnh vực đại học tư nhanh
nước. Trường hợp này có nghĩa là, trường đại
chóng phát triển để rồi cuối cùng giữ vai trò
học tư thực thể về pháp lý trong việc điều hành,
trung tâm trong nhiều quốc gia (Shils et Robert,
nhưng 50% nguồn lực tài chính cơ bản hoặc
2004). Phi-líp-pin là nước Đông Nam Á đầu
nhiều hơn nữa lại do chính phủ tài trợ và đội
tiên phát triển trường đại học theo cảm hứng
ngũ giảng viên được trả thù lao từ một tổ chức
kiểu mẫu phương Tây và cũng là nước đi tiên
công. Người ta cũng nhận thấy, vai trò của các
phong trong lĩnh vực giáo dục đại học tư ở
trường đại học tư vẫn còn rất nhỏ trong nhiều 8
N.H. Vị, L.B. Sơn / Tạp chí Khoa học ĐHQ HN: Nghiên c u iáo dục, Tập 34, Số 3 (2018) 1-17
hệ thống giáo dục của Đông Âu bất chấp nỗ lực
kinh tế của quốc gia (Blöndal et Girouard,
thiết lập logic thị trường cho giáo dục đại học 2002) [16].
của các chính phủ ở khu vực này. (Teixeria và
Mặt khác, sự phát triển giáo dục đại học, cộng sự, 2004) [15].
trong cái nhìn rộng hơn còn có nguyên nhân từ
sự tiến triển tâm lý và thực tiễn cá nhân. Tấm
3.3. Những nhân tố khởi thủy sự phát triển của
bằng đại học luôn được xem như một sự đầu tư
giáo dục đại học tư
sáng suốt của cá nhân. Người có trình độ cao
Giáo dục đại học truyền thống được đặc
hơn thì năng suất lao động cũng cao hơn, điều
trưng bởi sự ngự trị của đại học công và sự quy
đó đã được thực chứng trong nhiều nước. Trong
định chặt chẽ của nhà nước, nhất là ở Châu Âu.
nhiều thập kỷ đã qua, ai cũng nuôi dưỡng ý
Đặc trưng này càng đậm nét hơn khi nhà nước
tưởng là người tốt nghiệp đại học có quyền
hiện đại phát triển đi cùng với ý chí quản lý sứ
tham vọng được trả thù lao cao và tìm kiếm
mệnh đại học của nhà nước. Từ quan điểm này,
việc làm một cách dễ dàng, nhất là trong tương
xét về mặt lịch sử, vai trò của giáo dục đại học
quan so sánh với những người tốt nghiệp ở trình
tư rất hạn chế cho đến 30 năm qua, giáo dục đại độ thấp.
học tư mới phát triển mạnh trên toàn thế giới.
Nhu cầu giáo dục đại học tăng cao và liên
Hiện tượng này đặc biệt thấy rõ ở Trung Âu,
tục đã làm nảy sinh hiện tượng “đại chúng hóa”
Đông Âu, Châu Mỹ La tinh và Đông Á. Cho dù
giáo dục đại học. Hiện tượng này không chỉ
tôn giáo góp phần quan trọng vào việc sáng lập
hiểu một cách đơn thuần thông qua số lượng
các trường đại học tư đầu tiên, nhất là tại Châu
ghi danh của sinh viên vào đại học tăng cao mà
Mỹ, thế nhưng sự phát triển hàng loạt mới đây
còn phải nhận thấy hệ thống giáo dục đại học
của đại học tư được nhìn nhận là do các yếu tố
đang ngày càng trở nên không đơn nhất và phức
khác. Chính bối cảnh thời đại đã tạc nên khuôn
tạp hơn. Để có khả năng đáp ứng nhu cầu ngày
mặt mới của giáo dục đại học thế giới suốt mấy
càng đa dạng, hệ thống giáo dục đại học phải đa thập kỷ qua.
dạng hóa chương trình đào tạo và kể cả hệ
Một trong những nhân tố chủ yếu giải thích
thống cũng phải đa dạng (Teicher, 1998) [17];
sự tăng trưởng của giáo dục đại học tư chính là
và chính sự đa dạng này cũng trở thành sự
sự tăng liên tục, không hề giảm của giáo dục
thách thức to lớn đối với chính sách giáo dục
đại học, ngay trong các nước hoặc những vùng
đại học. Mặt khác, đại chúng hóa giáo dục cũng
mà mới hôm qua, tiếp cận giáo dục đại học còn
có nghĩa rằng, phần lớn các chính phủ không
hạn chế, chỉ dành cho thiểu số. Tổng số sinh
còn khả năng và phải dừng can thiệp một cách
viên trên thế giới từ 68 triệu năm 1991 đã tăng
quá chi tiết vào đời sống giáo dục đại học
lên 132 triệu năm 2004 (UNESCO, 2006) [14].
(Neave và van Vught, 1991). Các nhà nước
Sự bùng nổ giáo dục đại học được duy trì bởi
buộc phải hướng về các dạng thức quản trị mới,
các yếu tố xã hội và cá nhân. Từ quan điểm
phù hợp hơn với những thách thức mới của giáo
chính sách công, các chính phủ dần dần ý thức
dục đại học đại chúng.
rõ sự cần thiết phải chuẩn bị đội ngũ nhân lực
Một nhân tố khác giúp chúng ta hiểu rõ hơn
chất lượng cao nhằm cải thiện năng lực cạnh
sự suy giảm tương đối của giáo dục đại học
tranh kinh tế của quốc gia. Các ngôn bản về
công: Sự bùng nổ của giáo dục đại học xảy ra
kinh tế gần đây, luôn khẳng định ý tưởng rằng,
gần đây lại trùng hợp với vấn đề tài chính của
chỉ có sự tích lũy vốn con người mới có thể cải
các quốc gia ngày càng khó khăn. Điều đó buộc
thiện được các triển vọng kinh tế. Trong thời
các quốc gia phải giảm bớt chi tiêu cho giáo
điểm mà toàn cầu hóa tăng lên với tốc độ
dục đại học. Tất cả các chính phủ, kể cả những
nhanh, việc cải thiện năng lực nghề nghiệp trở
những nước giàu đều phải đương đầu với khó
thành một trong những đòn bẩy cốt yếu để các
khăn về tài chính. Đối với các nước giàu, sự
nhà nước sử dụng nhằm cải thiện các thành tựu
khủng khoảng của “Nhà nước phúc lợi” đã dẫn
tới phải tư duy lại cách thức tài trợ truyền thống
N.H. Vị, L.B. Sơn / Tạp chí Khoa học ĐHQ HN: Nghiên c u iáo dục, Tập 34, Số 3 (2018) 1-17 9
cho giáo dục đại học, chủ yếu dựa vào tài trợ
các nước khác, nhà nước không còn lựa chọn
công. Đối với các nước tương đối giàu, những
nào khác là phải cải thiện tính hiệu quả của việc
ràng buộc về tài chính kết hợp với quân bình
trợ cấp nguồn lực công và quản lý các trường
ngân sách bấp bênh đã không cho phép thực
đại học công (Cave và cộng sự, 1990) [18].
hiện các dự án công nhằm thúc đẩy sự phát
Những lập luận ủng hộ sự phát triển giáo
triển giáo dục đại học.
dục đại học tư không chỉ được nhìn thấy ở các
Chủ nghĩa tân tự do đã neo sâu vào lịch sử
vấn đề liên quan đến tính hiệu quả trong mà còn
giáo dục giờ đây đang trở lại. Vào giữa những
cả những cuộc tranh luận về tính hiệu quả ngoài
năm 1950, Milton Friedmand đã bắt đầu đặt lại
của hệ thống giáo dục đại học (Levy, 2002)
vấn đề cái mà ông gọi là “Nhà nước hóa giáo
[19]. Lĩnh vực tư dường như có năng lực hơn
dục”. Trong tác phẩm của mình có tên là “Chủ
trong việc khai thác các cơ hội kinh doanh và
nghĩa tư bản và tự do” (1962), ông đã khơi mào
chiếm lĩnh thị trường nhờ vào tính linh hoạt
một cuộc tranh luận về vai trò riêng của thị
của quản lý tăng lên và khuynh hướng lợi
trường và chính phủ đối với giáo dục đại học.
nhuận rõ ràng hơn. Các trường đại học tư cho
Theo Friedmand, vai trò tài trợ của nhà nước
phép đa dạng hóa việc cung ứng giáo dục đại
nói chung không còn có lý trong lĩnh vực giáo
học theo quan điểm của các vùng địa lý mà nó
dục như giáo dục đại học, bởi vì giáo dục đại
phục vụ và những ngành học được đề nghị;và
học mang lại các lợi thế đáng kể như thu nhập
lĩnh vực tư cũng cho phép đáp ứng tốt hơn nhu
cao hơn cho người tốt nghiệp. Từ quan điểm
cầu của thị trường lao động (Geiger, 1986) [20].
này, Friedmand đã đưa ra một đề xuất gây tranh
Các tổ chức tôn giáo trong quá khứ có
cãi: thiết lập một hệ thống tài trợ dựa trên
nhiều ảnh hưởng, nay giữ vai trò đứng hàng thứ
những “chi phí giáo dục”. Theo Friedmand
hai trong làn sóng mới về tư hóa giáo dục đại
chuyển chi phí giáo dục đại học từ nhà nước
học (Levy, 1986 và 2006) [11, 21]. Nhưng các
sang người học cho phép tăng cường cạnh tranh
trường đại học có khuynh hướng tôn giáo chắc
giữa các trường đại học và hợp lý hóa việc sử
chắn sẽ lấy lại sức sống của mình tại một số dụng nguồn lực.
vùng trên thế giới, những vùng mà trước đây vì
Những lập luận này ngày càng trở nên hợp
lý do chính trị đã hạn chế hoặc ngăn cản sự phát
lý khi nhà nước phúc lợi lâm vào cuộc khủng
triển lĩnh vực tư như các nước Đông Âu chẳng
hoảng vào những năm 1980. Trong các nước
hạn (Wells và các cộng sự, 2007) [22].
thuộc Tổ chức hợp tác và Phát triển kinh tế và
Bảng 1. Những cột mốc chủ yếu về sự phát triển của giáo dục đại học tư trên thế giới
S phát trin của lĩnh vực tư Thi kì
S phát trin của lĩnh vực công Dấu hiệu Các vùng Động lực Động lực Các vùng Dấu hiệu cụ thể liên quan liên quan cụ thể
Ảnh hưởng Thế kỷ XVIII Sự phát triển của Nhà Nhà nước Làn sóng Châu Mỹ của nhà thờ nước hiện đại - Sự tăng cường hiện đại đầu La tinh Thiên chúa
cần thiết về đào tạo Châu Âu qui định tiên của đại giáo tinh hoa lục địa ngày càng học tư Ảnh hưởng rõ ràng Bắc Mỹ của tôn giáo hơn đối Tin lành với GDĐH Sứ
Nỗ lực đơn nhất hóa Châu Âu - mệnh/nhiêm Thế kỷ XIX
GDĐH của Nhà nước Châu Mỹ Nhà nước Phát triển vụ của đại
- Nhu cầu về đội ngũ La tinh và tăng cường đại học tư Châu Á học và
nhân lực có chất các nước kiểm tra Phương Tây lượng tăng cao Ả Rập các trường hóa ĐH 10
N.H. Vị, L.B. Sơn / Tạp chí Khoa học ĐHQ HN: Nghiên c u iáo dục, Tập 34, Số 3 (2018) 1-17 Nửa Sự tái trỗi đầu dậy của các Châu Mỹ Phản ứng lại thế kỷ trường ĐH La tinh thế tục hóa Những Đông Âu Bùng nổ tôn giáo Thế thập Thế Thừa nhận và Bắc Mỹ GDĐH kỷ kỷ sau kỷ tầm quan XX chiến XX trọng chiến tranh lược của GD - Đông - Ràng buộc ĐH - Nhu cầu Âu, Trung về tài chính tăng về đội Sự tái trỗi và Nam - Yêu cầu về ngũ nhân lực dậy và phát Âu tiếp cận Những chất lượng cao
triển nhanh - Châu Mỹ GDĐH và thập Xu thế thế Đại chúng của GDĐH La tinh tính hiệu quả kỷ gần giới hóa tư - Đông của GDĐH đây GDĐH Nam Á đối với cá - Châu Phi nhân - Yêu cầu cao về tính hiệu quả của nghiên cứu
Nguồn: OECD (2011) [23], Giáo dục đại học tầm nhìn đến 2030- Tập 2:
Thế giới hóa, Nghiên cứu và Đổi mới trong giáo dục đại học
4. Các hình thức tư hóa giáo dục đại học và cơ chế tài trợ cho giáo dục đại học tư
4.1. Hình th c tư hóa giáo dục
Cho dù ngày nay, tư duy tư hóa đang ngự trị khắp nơi trên toàn cầu, thì những chính sách tư hóa
dựa trên các quy luật của thị trường cũng không phải là một tổng thể bao hàm những thực tiễn như
nhau. Trên thực tế, học thuyết “Chủ nghĩa tân tự do” đã cho ra đời những dạng thức tư hóa khác
nhau. Một chuyên gia kinh tế giáo dục người Ấn Độ (Tilak, 2009) [24] đã nêu ra tính nhập nhằng của
thuật ngữ “tư hóa” (privatisation) có nhiều ý nghĩa khác nhau, tùy thuộc vào nguồn lực tài chính và
tầm quan trọng ít hay nhiều của các nhân tố công và tư trong cùng một hệ thống quốc gia. Tilak (2009
[24], p. 52) đề xuất cách phân loại 2 dạng thức khác nhau của tư hóa giáo dục: “tư hóa” (privatisation)
và “giả tư hóa” (pseudo-privatisation); gọi là “tư hóa” - đối với các cơ sở giáo dục do các thực thể tư
tổ chức các hoạt động thương mại, nhằm tìm kiếm nguồn lợi; và gọi là“giả tư hóa”- đối với các cơ sở
giáo dục do các thực thể tư quản lý nhưng chủ yếu nhận tài trợ của nhà nước.
Degefa (2011) quan tâm đến vai trò kết hợp nhà nước và thị trường trong tư hóa nhà trường và gợi
ý 4 cách thức tư hóa có thể rất hữu ích:
- Tư hóa với tư cách chia sẻ chi phí (Nhà nước cung cấp dịch vụ giáo dục đại học; tuy nhiên, cùng
với trợ cấp tài chính công của Nhà nước thì SV/người tiêu dùng phải chia sẻ bằng cách đóng góp chi phí tiêu thụ dịch vụ)
- Tư hóa thông qua áp dụng cách thức quản lý theo kiểu doanh nghiệp vào các trường đại học công;
- Tư hóa qua hệ thống chi phiếu giáo dục (các tổ chức tư cung cấp dịch vụ giáo dục đại học và nhà
nước tài trợ cho người thụ hưởng/SV bằng cách cấp chi phiếu giáo dục họ để họ lựa chọn dịch vụ thay
vì đầu tư trực tiếp cho các trường đại học)
- Tư hóa là sự nổi lên của lĩnh vực giáo dục phi nhà nước (các tổ chức tư cung cấp dịch vụ; đồng
thời đầu tư nguồn vốn, Nhà nước không tham gia).
N.H. Vị, L.B. Sơn / Tạp chí Khoa học ĐHQ HN: Nghiên c u iáo dục, Tập 34, Số 3 (2018) 1-17 11
Tuy nhiên bản thân cách tiếp cận của Degefa cũng có vài hạn chế, bởi vì nó không tính đến bản chất
của tài sản và dịch vụ, cũng không hề tính đến cách thức mà theo đó dịch vụ được cung ứng và tiêu
thụ. Savas (2000) [25] gợi ý rằng tài sản và dịch vụ có thể được sắp xếp tùy theo sự độc quyền và
cách tiêu thụ. Tác giả phân biệt 04 kiểu tài sản: tài sản cá nhân (đặc trưng bởi độc quyền và tiêu thụ cá
nhân), tài sản của câu lạc bộ (độc quyền và tiêu thụ chung), tài sản chung (không độc quyền và tiêu
thụ cá nhân) và tài sản tập thể hoặc tài sản công (không độc quyền và tiêu thụ chung). Theo tác giả, tốt
nhất là một vài dịch vụ giao hẳn cho thị trường cung ứng, trong khi một số dịch vụ khác nhà nước cần thiết phải can thiệp.
StephenBall và DeborahYoudall (2007) [26] gợi ý rằng tư hóa có thể là ngoại sinh (exogène) hoặc nội
sinh (endogène) trong các trường công. Tư hóa nội sinh bao hàm sự nhập khẩu ý tưởng, kỹ thuật và
thực tiễn của lĩnh vực tư vào lĩnh vực công. Đó là nói đến dạng thức thương mại hóa, mà trong đó các
kỹ thuật quản lý vay mượn từ lĩnh vực tư được áp dụng vào các nhà trường công. Ở chiều ngược lại,
dạng thức tư hóa ngoại sinh đặt ra vấn đề mở cửa dịch vụ giáo dục công cho lĩnh vực tư vì lợi nhuận
tham gia, trong đó lĩnh vực tư tham gia đóng góp vào việc xây dựng, quản lý và thực hiện một số khía
cạnh của lĩnh vực công (BalletYoudall, 2007) [26]. Cách thức tư hóa ngoại sinh và tư hóa nội sinh kết
hợp chắc chắn sẽ tạo nên một vấn đề lý thuyết thú vị.
Theo các lập luận này, một vài chức năng và trách nhiệm của nhà nước đến nay nên tư hóa bằng
nhiều kỹ thuật khác nhau. Savas (2000) [25] sắp xếp các kỹ thuật này theo 03 phạm trù lớn: ỦY
QUYỀN, CHUYỂN GIAO và THAY THẾ. Trong trường hợp ủy quyền, xét về chức năng, nhà nước
chịu trách nhiệm hoàn toàn, nhưng lại giao hoạt động sản xuất cho lĩnh vực tư. Giao thầu công việc là
một ví dụ của ủy quyền mà qua đó chính phủ tư hóa hoạt động của mình bằng cách giao cho tổ chức tư
(vì lợi nhuận hoặc không vì lợi nhuận) thực hiện thông qua hợp đồng. Hợp đồng cho quyền khai thác
(một nhãn hiệu, một tên pháp lý) là một cách thức khác của tư hóa, trong đó chính phủ ủy quyền cho
một tổ chức tư quyền bán cho công chúng một sản phẩm hoặc một dịch vụ và nhà nước chịu trách
nhiệm chung thẩm. Ủy quyền cũng có thể là dạng thức trợ cấp mà chính phủ giao cho một thực thể tư
để nó chịu trách nhiệm về công việc phải làm. Thay vì tài trợ cho người hưởng trợ cấp dịch vụ, chính
phủ cũng có thể hỗ trợ trực tiếp, dưới dạng chi phiếu, cho những ai đáp ứng các điều kiện theo yêu
cầu, để những những người hưởng trợ cấp này mua dịch vụ của tổ chức tư mà trước đây do nhà nước cung cấp.
Một kỹ thuật tư hóa khác là nhằm vào việc chuyển giao một xí nghiệp, một chức năng hoặc tài
sản. Chính phủ chuyển giao trách nhiệm cho tổ chức tư. Một xí nghiệp được bán hoặc chuyển nhượng
mà vẫn hoạt động bình thường. Cách thức chuyển giao rất đa dạng, hoặc bán cho công ty tư, hoặc bán cổ phiếu cho nhà quản lý, cho
người lao động hoặc khách hàng của xí nghiệp.
Ngoài chuyển giao và ủy quyền, Savas gợi ý rằng tư hóa cũng có thể thực hiện thông qua việc thay
thế. Đây không phải là một cách thức tích cực của chính phủ, nó là “một tiến trình thụ động hơn hoặc
gián tiếp hơn mà thông qua đó, nhà nước ít nhiều được thay thế dần bởi lĩnh vực tư - có thể gọi đó là
sự suy giảm của nhà nước, trong chừng mực nào đó, thị trường phát triển để đáp ứng nhu cầu của
người tiêu thụ” (Savas, 2000, p. 132) [25]. Sự thay thế cũng có thể xảy ra hệ lụy là, người tiêu thụ tự họ
quyết định không dùng dịch vụ công nữa mà mua dịch vụ tư. Vai trò của chính phủ giảm theo tương ứng
cho dù họ có muốn hay không và lĩnh vực tư trở nên có vai trò quan trọng. Nhà nước quyết định từ bỏ
độc quyền và cho phép lĩnh vực tư cạnh tranh với các tổ chức của mình bởi kỳ vọng rằng, chính sự cạnh
tranh này sẽ làm cho các dịch vụ công trở nên hiệu quả hơn theo tinh thần của chủ nghĩa tân tự do.
4.2. Các cơ chế tài trợ cho giáo dục đại học tư
Người ta có thể tìm thấy nhiều ví dụ tương ứng cho mỗi trường hợp trong 03 dạng thức tư hóa - ủy
quyền, chuyển giao và thay thế - trong hệ thống giáo dục của các nước khác nhau. Trên thực tế, bởi 12
N.H. Vị, L.B. Sơn / Tạp chí Khoa học ĐHQ HN: Nghiên c u iáo dục, Tập 34, Số 3 (2018) 1-17
giáo dục ngày càng được xem như một lĩnh vực dịch vụ, nên những đặc trưng chủ yếu của nó không
khác gì các doanh nghiệp, phải tuân thủ theo các quy luật của thị trường. Dường như bây giờ hoạt
động dịch vụ gắn liền với học thuyết tân tự do mà trong đó, cải cách giáo dục ngày càng được nhận
thức theo thuật ngữ thị trường.
Quan niệm và thực tiễn của thế giới, nhất là ở Châu Âu, việc phân định giáo dục đại học công/tư
chỉ là vấn đề kỹ thuật, tồn tại trên giấy tờ. Trong khi đó, trên thực tế, nhiều trường đại học tư vẫn nhận
tài trợ từ chính phủ và ngược lại, các trường đại học công cũng có thể tiếp nhận tài trợ từ lĩnh vực tư
hoặc tư hóa theo nhiều cách khác như nghiên cứu của Degefa. Dịch chuyển quan niệm tư hóa vào lĩnh
vực giáo dục đại học, suốt những thập kỷ qua, chính phủ nhiều nước đã tiến hành thiết kế chính sách
tài chính cho giáo dục đại học nói chung và giáo dục đại học tư nói riêng theo nhiều hình thức khác
nhau, tùy thuộc vào đặc trưng của mỗi nước. Tuy nhiên, theo Benedetto Lepori (2008) [27], trong tác
phẩm “Những lựa chọn và khuynh hướng trong tài trợ cho các trường đại học ở Châu Âu”, có 04 con
đường cấp vốn/tài trợ chính yếu cho giáo dục đại học:
- Tài trợ cơ bản của nhà nước: là việc trợ cấp của nhà nước trên bình diện quốc gia. Nhà nước
cấp một gói kinh phí chi thường xuyên cho các trường đại học (lương cho người lao động thường
xuyên, cơ sở hạ tầng và một phần lớn chi cho sự vận hành). Theo truyền thống, nguồn lực tài chính
này là phần cơ bản của ngân sách.Trường hợp này thường thấy ở Đức, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ.
- Tài trợ theo dự án bởi nhà nước: các nguồn lực này được cấp theo các dự án nghiên cứu hoặc
theo các hoạt động dịch vụ, thường trong một khoảng thời gian nhất định và được cấp trực tiếp cho các
đơn vị trong trường đại học; các cơ quan tài chính kêu gọi các dự án cạnh tranh. Kiểu tài trợ này đã
được sử dụng cho các chương trình khung của Châu Âu. Ngoài ra, cũng tồn tại các tình huống trung
gian giữa tài trợ cơ bản và tài trợ theo dự án: đấy là trường hợp các nguồn lực dành cho các hoạt động
chuyên biệt đã tính trước trong hợp đồng giữa nhà nước và các trường đại học ở Pháp.
- Hợp đồng và hiến tặng của các công ty tư doanh: Hợp đồng thường phản ánh các hoạt động
nghiên cứu hoặc các dịch vụ của trường đại học phục vụ trực tiếp nhu cầu của doanh nghiệp. Hiến
tặng là tài sản hoặc các khoản tài chính mà các công ty tư doanh tự nguyện đóng góp/hỗ trợ vào ngân
sách và vốn tài sản của trường đại học một cách tự giác như một nghĩa cử có tính xã hội hóa.
- Cung cấp tài chính bởi sinh viên: Thường là thông qua học phí. Nguồn vốn này, một phần gián
tiếp đến từ nhà nước theo các cách thức khác nhau như học bổng, cho vay, chi phiếu giáo dục.
Chính sự kết hợp các con đường khác nhau này với các cách thức tài trợ tương ứng đã xác định và
nên làm rõ những đặc trưng kiểu mẫu cung cấp tài chính cho các trường đại học, kể cả trường đại học tư trên thế giới.
Trong báo cáo của Isabelle và cộng sự trình Bộ trưởng Bộ giáo dục quốc gia, giáo dục đại học và
nghiên cứu có tên là “Giáo dục đại học tư, những đề nghị về cách thức quan hệ mới với nhà
nước” [2, trang 100] nêu rõ hơn về những cách thức mà nhà nước tài trợ cho giáo dục đại học tư,
ngoài nguồn vốn của lĩnh vực tư bao gồm:
- Tài trợ kinh phí cho sự vận hành hoặc đầu tư, cấp đất;
- Sử dụng miễn phí trang thiết bị, bất động sản và tiếp cận thông tin;
- Thiết lập các công cụ pháp lývà cơ chế tài chính nhằm khuyến khích các doanh nghiệp hoặc các
nhà đầu tư quan tâm đến sứ mệnh giáo dục đại học tư;
- Cấp học bổng, cho sinh viên vay (nhằm bổ sung vào các chi phí mà các trường yêu cầu);
- Chịu trách nhiệm trả lương một phần hay toàn bộ;
- Giúp đỡ, hỗ trợ nghiên cứu.
N.H. Vị, L.B. Sơn / Tạp chí Khoa học ĐHQ HN: Nghiên c u iáo dục, Tập 34, Số 3 (2018) 1-17 13
Bảng 2. Tổng quan về các cơ chế tài chính cho trường đại học \\ Các Doanh nghiệp
Hợp đồng Hiến tặng
Nhà nước/Địa phương Hợp đồng Trường Đại học Cấp vốn cơ bản Học phí Sinh viên
Học bổng/Tài trợ
Nguồn: Theo L. Benedetto (2008) [27], Các lựa chọn và khuynh hướng
trong cấp vốn cho các trường đại học ở Châu Âu.
5. Kinh nghiệm đối với Việt Nam
- Các văn bản pháp lý vừa không rõ ràng,
vừa không phù hợp với thực tiễn Việt Nam và
Giáo dục đại học Việt Nam ngày nay, về
xu thế hội nhập quốc tế; vừa khó hiểu không chỉ
bản chất, gần như không còn thuần túy là đại
đối với các cơ sở giáo dục đại học tư mà còn cả
học công theo quan niệm của Talis, Degefa...
đối với công chúng, nhất là sinh viên và phụ
như đã trình bày ở trên, trừ các trường Công an,
huynh học sinh - những người quyết định lựa
Quân đội, trường Sư phạm và một số ngành sư
chọn dịch vụ giáo dục đại học cho con em họ.
phạm trong các trường đại học có đào tạo giáo
Vẫn còn khoảng cách giữa khung pháp lý
viên. Tuy vậy, về mặt pháp lý, việc phân định
(thường không theo kịp thực tiễn) với sự phát
giáo dục đại học công hoặc tư chủ yếu dựa vào
triển quá nhanh của giáo dục đại học trong suốt
tiêu chí chủ sở hữu như Điều 7 của Luật Giáo
mấy thập niên qua mà đến nay đã đạt ngưỡng
dục đại học năm 2012. Cho nên, đã đến lúc và
giáo dục đại học đại chúng.
rất cần thiết phải xem xét, điều chỉnh lại mối
- Những qui định cứng nhắc về mở trường,
quan hệ giữa Nhà nước và giáo dục đại học tư
mở ngành, v.v…; đồng thời với ưu thế của giáo
nhằm phát huy ảnh hưởng của lĩnh vực này,
dục đại học công mà phần nhiều do chính sách
một cấu phần quan trọng trong hệ thống giáo
tạo ra đã làm cho các nhà đầu tư cảm thấy bất
dục đại học Việt Nam như quan niệm giáo dục
an khi muốn tham gia vào lĩnh vực giáo đục đại
đại học tư cập nhật của thế giới. học tư.
Thực trạng cho thấy, mối quan hệ Nhà nước
Từ kinh nghiệm thực tiễn giáo dục đại học
với giáo dục đại học tư ở Việt Nam hiện nay
tư của thế giới, định hướng nghiên cứu và vận
chứa đựng quá nhiều nghịch lý như:
dụng vào Việt Nam, chúng tôi đề xuất điều
- Khung pháp lý còn nhiều ràng buộc, nút
chỉnh lại mối quan hệ giữa Nhà nước và giáo
thắt khiến cho giáo dục đại học tư khó phát
dục đại học tư theo các hướng như sau:
triển. Nỗ lực lập pháp trong suốt gần 03 thập kỷ
5.1. Xác định lại vai trò của Nhà nước đối với
qua theo định hướng khai thông giáo dục đại
giáo dục đại học
học tư rất đáng được ghi nhận nhưng trên thực
tế kết quả đạt được chưa tương xứng với tiềm
- Việt Nam không nằm ngoài xu thế chung
năng của lĩnh vực này, phần lớn là do thái độ
của thế giới về phát triển giáo dục đại học, cho
ngập ngừng của những nhà hoạch định chính
nên, chuyển đổi vai trò của Nhà nước từ kiểm
sách - những người đã bị đóng khung trong tư
soát sang giám sát, hỗ trợ giáo dục đại học trở
duy cũ, có phần ít cởi mở về quan niệm lợi ích
thành tất yếu. Theo đó, Nhà nước giữ vai trò
tư, vẫn nặng về phía xem giáo dục là một phạm
thiết kế các công cụ chính sách; tác động, điều trù phúc lợi.
tiết giáo dục đại học bằng các chính sách
khung; tạo lập sân chơi công bằng, bình đẳng 14
N.H. Vị, L.B. Sơn / Tạp chí Khoa học ĐHQ HN: Nghiên c u iáo dục, Tập 34, Số 3 (2018) 1-17
cho giáo dục đại học công lẫn tư, không phân
trường đại học và 14% theo tổng số sinh viên biệt đối xử. vào năm 2016 [28].
- Mối quan hệ giữa Nhà nước và giáo dục
Điều này phản ánh thái độ nước đôi của các
đại học tư sẽ không bao giờ đạt tới mục tiêu kỳ
nhà hoạch định chính sách giáo dục Việt Nam
vọng nếu nó không được xây dựng trên các căn
như đã nêu ở trên, đã kìm hãm sự phát triển
cứ pháp lý rõ ràng. Từ kinh nghiệm của thế
giáo dục đại học tư. Biểu hiện cụ thể nhất là
giới, có thể rút ra những nguyên tắc chỉ đạo
chấp nhận tư hóa giáo dục đại học công (bằng
nhằm thể chế hóa mục tiêu giáo dục đại học tư
cách cho phép giáo dục đại học công thu phí
một cách rõ ràng hơn, như là:
một số chương trình đào tạo, đáp ứng nhu cầu
+ Phân biệt rõ giữa đại học tư vì lợi nhuận
của thị trường lao động) đã gây ra khó khăn đến
và không vì lợi nhuận. Giáo dục đại học tư phải
việc phát triển giáo dục đại học tư.
cam kết với Nhà nước về thực thi sứ mệnh phục
Cũng theo nhóm tác giả nêu trên, số lượng
vụ lợi ích chung của quốc gia, chia sẻ và hợp sinh viên tại các
tác có trách nhiệm với giáo dục đại học công;
Các trường đại học tư tại Đông Á chiếm tỉ
+ Thiết lập và vận hành hiệu quả các cơ chế
lệ lớn, như tại Hàn Quốc (2011), 81% là sinh
về công khai, minh bạch; quyền tự chủ, trách
viên đại học tư; con số tương ứng tại một số
nhiệm giải trình; đảm bảo và kiểm định chất
nước có tỉ lệ cao là Indonesia (2011): 62%,
lượng; phân tầng, xếp hạng; đồng thời buộc
Trung Quốc (2011): 63%, Philippines (2011):
phải tuân thủ các qui định chung, không kể giáo 63%...
dục đại học công hay tư.
Trong xu thế này, Việt Nam cũng phải tính
tới chiến lược phát triển giáo dục đại học tư
5.2. Thiết lập cơ chế tài chính công bằng hơn
bằng 01 trong 02 cách sau: (1) Hạn chế chỉ tiêu
- Giáo dục đại học tư cũng phải được Nhà
tuyển sinh các trường đại học công hằng năm
theo lộ trình, chỉ tiêu tuyển sinh các trường
nước cấp ngân sách như giáo dục đại học công
công chủ yếu tập trung cho các trường trọng
nếu đảm bảo các điều kiện theo yêu cầu của nhà
điểm quốc gia; chuyển số chỉ tiêu tuyển sinh
nước. Thiết lập cơ chế cạnh tranh và thông qua
giảm tương ứng từ các trường đại học công
đó, giáo dục đại học tư giành lấy trợ cấp của
sang các trường đại học tư, phấn đấu để các
nhà nước về hoạt động đào tạo và nghiên cứu.
trường đại học tư đạt tới tỷ lệ tuyển sinh hằng
- Thực hiện cơ chế cấp phát tài chính theo
năm vào khoảng 35 - 40%, khoảng một nửa so
nguyên tắc chuyển từ cấp trực tiếp cho trường
với các nước Đông Á và (2) Thực hiện cơ chế
đại học (dựa trên tổng chỉ tiêu tuyển sinh) sang
cấp phát chi phiếu giáo dục để người học lựa
chi phiếu giáo dục cho người học nhằm tạo ra
chọn nhằm tạo ra sân chơi bình đẳng để cả các
sự cạnh tranh về cung chương trình đào tạo
trường đại học công và đại học tư cạnh tranh
(nhằm tăng năng lực cho người tốt nghiệp, đáp thu hút người học.
ứng nhu cầu của thị trường lao động) thay vì
5.4. Đa dạng hóa giáo dục tư sau trung học
cạnh tranh về cầu như hiện nay.
Đặc trưng cơ bản của đại chúng hóa giáo
5.3. Chính sách mở rộng tuyển sinh đối với giáo
dục đại học là đa dạng hóa nhu cầu và đa dạng dục đại học tư
hóa hệ thống. Giáo dục đại học Việt Nam đang
Nghiên cứu của nhóm tác giả Đàm Quang
bước đầu chuyển tiếp sang giai đoạn đại học đại
Minh, Hoàng Anh Đức, Phạm Hiệp công bố
chúng. Vì vậy, phải có những điều chỉnh chiến
năm 2018 cho biết, sau 30 năm xuất hiện với
lược cần thiết để thực hiện bước chuyển này
danh nghĩa đại học dân lập và 12 năm xuất hiện
thành công mà không dẫn đến rối loạn hệ
với danh nghĩa đại học tư thục, cũng mới chỉ
thống, trong đó việc thay đổi nhận thức về giáo
đóng góp số lượng rất ít: 28% theo tổng số
dục đại học tư là có ý nghĩa rất quan trọng (xem
[1]). Sự đa dạng nhu cầu giáo dục sau trung học
N.H. Vị, L.B. Sơn / Tạp chí Khoa học ĐHQ HN: Nghiên c u iáo dục, Tập 34, Số 3 (2018) 1-17 15
không nhất thiết chỉ là giáo dục đại học, mà còn
dục đại học công thông qua áp dụng tư duy, kỹ
giáo dục nghề nghiệp với các khóa trình ngắn
thuật quản lý của lĩnh vực tư và cơ chế
hạn, chi phí thấp hơn, cách thức tổ chức linh cạnh tranh.
hoạt, mềm dẻo hơn phù hợp với sự biến động
thường xuyên của thị trường lao động sẽ thu hút
một lượng lớn thí sinh vào phân khúc này trong
Tài liệu tham khảo
những thập kỷ đến (xem [10]), nhất là trong
điều kiện công nghệ phát triển của cuộc cách
[1] Phạm Phụ (2005), Về khuôn mặt mới của iáo
mạng công nghiệp 4.0. Tái cấu trúc hệ thống
dục đại học Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia
giáo dục đại học theo định hướng đa dạng hóa
thành phố Hồ Chí Minh.
bằng cách xem xét và chuyển giao phân hệ giáo [2] Roussel Isabelle (2015), L’enseignement
dục nghề nghiệp về lại Bộ Giáo dục và Đào tạo
supérieur privé: propositions pour un nouveau 0
để thống nhất quản lý, dễ điều tiết và thực hiện
mode de relations avec l’État, Rapport N 5
phân luồng sau trung học thuận lợi, bảo đảm
2015-047, Juin 2015 - Ministère del’Éducation
nationale, de l’Enseignement supérieur et de
tính khoa học và hệ thống trong quản trị đào tạo la Recherche.
nguồn nhân lực hơn. Đa dạng hóa hệ thống còn
[3] Neave, G. (2000), “Universities’ Responsibilities
là thiết kế các công cụ chính sách phù hợp để
to Society: An Historical Exploration of an
khuyến khích, cổ vũ các nhà đầu tư đầu tư vào
Enduring Issue”, in Neave (éd.), The Universities’
phân khúc này theo tinh thần giáo dục đại học
Responsibilities to Society - International
không phải là một dạng dịch vụ công thuần túy Perspectives, Pergamon/Elsevier, Londres, [1, trang 168]. pp. 1-28.
[4] Neave, G. (2001), “The European Dimension in
Higher Education: An Excursion into the Modern
Use of Historical Analogues”, in J. Huisman, P. 6. Kết luận
Maassen et G. Neave (éd.) Higher Education and
the Nation State; Oxford: Pergamon, pp. 13-73.
Trong vài thập kỷ đã qua, mô hìnhgiáo dục
[5] Wittrock, B. (1993), “The Modern University: the
đại học tư đã phát triển đặc biệt ấn tượng trên
Three Transformations”, in Rothblatt and
phạm vi toàn cầu. Nhiều quốc gia, đặc biệt các
Wittrock (éd.), The European and American
quốc gia ở Châu Âu liên tục cải cách chính sách
University since 1800-Historical and Sociological
đối với hệ thống giáo dục đại học nói chung và
Essays, Cambridge University Press, Cambridge, pp. 303-62.
giáo dục đại học tư nói riêng. Tuy nhiên, điểm
[6] Van Vught, F. (éd) (1989),
chung trong quan niệm và thực tiễn đổi mới Governmental
Strategies and Innovations in Higher Education,
chính sách của các nước là cải thiện mối quan Jessica Kingsley, Londres.
hệ giữa nhà nước và giáo dục đại học theo
[7] Middleton, Roger (1997), Government Versus the
hướng giảm sự can thiệp của nhà nước, đồng
Market: The Growth of the Public Sector,
thời tăng quyền tự trị/tự chủ cho giáo dục
Economic Management and British Economic đại học.
Performance, Edward Elgar, Aldershot.
Dù muốn hay không, các quốc gia phải
[8] Wittrock, B. et W. Peter (1996), “Social Science
chấp nhận xu thế tư hóa giáo dục đại học và
and the Building of the Early Welfare State:
xem đó như giải pháp duy nhất và tốt nhất
Toward a Comparison of Statist and Non-Statist
Western Societies”, in Dietrich Rueschemeyer et
nhằm đáp ứng nhu cầu bùng nổ của giáo dục
Theda Skocpol (éd.) States, Social Knowledge
đại học: giảm bớt áp lực tài chính của nhà nước
and the Origins of Modern Social Policies,
đối với giáo dục đại học; đa dạng hóa về cung Princeton University Press, Princeton,
ứng chương trình đào tạo và phương thức tiếp New Jersey.
cận giáo dục đại học, đáp ứng nhu cầu đa dạng
[9] Altbach, Philip et T. Umakoshi (éd.) (2004),
về đào tạo sau trung học của người học; góp
Asian Universities - Historical Perspectives and
phần cải thiện chất lượng và hiệu quả của giáo
Contemporary Challenge s; John Hopkins Press. 16
N.H. Vị, L.B. Sơn / Tạp chí Khoa học ĐHQ HN: Nghiên c u iáo dục, Tập 34, Số 3 (2018) 1-17
[10] Nguyễn Huy Vị (2011), Mô hình trường Cao
Emerging Roles”, PROPHE (Program for
đẳng cộng đồng ở Việt Nam, NXB Dân trí,
Research on Private Higher Education) Working Hà Nội. Paper #1.
[11] Levy, D.C. (1986), Higher Education and the
[20] Geiger, R. (1986), Private Sectors in Higher
State in Latin America: Private Challenges to
Education, Ann Arbor, The University of
Public Dominance, University of Chicago Press, Michigan Press. Chicago.
[21] Levy, D.C. (2006), “An Introductory Global
[12] Thelin, J.R. (2004), A History of American Higher
Overview: The Private Fit to Salient Higher Education, Baltimore, John Hopkins
Education Tendencies”, PROPHE Working University Press. Paper #7.
[13] Hofstadter, R. (1996), Academic Freedom in the
[22] Wells, P.J., J. Sadlak et L. Vlăsceanu (éd) (2007),
Age of College, Transaction Publishers, New
The Rising Role and Relevance of Private Higher Brunswick. Education in Europe; UNESCO-CEPES,
[14] UNESCO/OCDE (2006), Education Trends in Bucarest.
Perspective - Analysis of the World Education
[23] OECD (2011), L’enseignement supérieur à
Indicators, Institut de Statistique de l’UNESCO,
l’horizon 2030 - Volume 2: Mondalisation, La
OCDE, World Education Indicators Programme.
recherche et l’innovation dans l’enseignement,
[15] Teixeira, P., D. Dill, B. Jongbloed et A. Amaral Édition OCDE.
(éd.) (2004), The Rising Strength of Markets in
[24] Tilak, J.B.G.(2009), Higher education: a public
Higher Education, Kluwer, Dordrecht.
good or a commodity for trade?, Springer
[16] Blöndal S., S. Field et N. Girouard (2002),
International Publishing AG. Part of Springer
Investment In Human Capital Through Post- Nature.
Compulsory Education and Training: Selected
[25] Savas (2000), Privatisation and Public - Private
Efficiency And Equity Aspects, Département des
Partnerships, academia.edu.
affaires économiques de l’OCDE, document de
[26] Ball, J.S et Youdell,D. (2007), Higher travail No 333.
privatisation in public education, Education [17] Teichler, U. (1988), th Changing Patterns of
International 5 World Congress July 2007.
the Higher Education System: The Experience
[27] L. Benedetto (2008), Options et tandances dans le
of Three Decades, Jessica Kingsley Publishers,
financement des uni versités en Europe, Critique Londres. internationale, 2008/2 (n 3 0 9)- CAIRN.INFO.
[18] Cave, M., M. Kogan et R. Smith (1990), Output
[28] Đàm Quang Minh, Hoàng Anh Đức, Phạm Hiệp
and Performance Measurement in Government.
(2018), Ai sở hữu bao nhiêu tiền và liệu còn đất
The State of the Art (Jessica Kinsgley, Londres).
cho tay chơi mới (Báo Tuổi trẻ số ra ngày
[19] Levy, D.C. (2002), “Unanticipated Development: 23/5/2018).
Perspectives on Private Higher Education’s
Private Higher Education Model-World Practices and Lessons for Vietnam Nguyen Huy Vi1, Le Bat Son2
1Ho Chi Minh City University of Social Sciences and Humanities,
10-12 Dinh Tien Hoang, Ho Chi Minh City, Vietnam
2Phu Yen University, 18 Tran Phu, Tuy Hoa, Phu Yen, Vietnam
Abstract: The private higher education system has been facing many challenges in the history of
its development, which was harshly handled by the differentpoints of view of political regimes. The
N.H. Vị, L.B. Sơn / Tạp chí Khoa học ĐHQ HN: Nghiên c u iáo dục, Tập 34, Số 3 (2018) 1-17 17
system in the general higher education system in all over the world has slowly and weakly improved.
Until the 80s of the 20th century, the system revived and obviously developed thanks to the increasing
educating demand although many countries were facing financial difficulties to support it. In Vietnam,
the private higher education system appeared by 1975 in the south, but this model and the its
regulations had been forgottenuntil the beginning ofthe 90s of 20th century.
This research is evaluating the present higher education system in different aspects that are the
international definition of private higher education, brief history and the development of the system in
Republic of France as an example, privatization forms and finance for the system, and suggestions to
define policies for the system in Vietnam.
Keywords: Model; Private Higher Education; Privatization.