



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61457685 Chương 1
KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC
1. Triết học và vấn đề cơ bản của triết học
a) Triết học và đối tượng của triết học - Quan niệm về triết học
Triết học ra đời vào khoảng thế kỷ VIII đến thế kỷ thứ VI (tr. CN) và đã đạt được
thành tựu rực rỡ trong các nền triết học Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại.
Theo gốc Hán tự, thuật ngữ “triết” được có nghĩa là “trí”, chỉ sự hiểu biết, nhận thức
sâu rộng về vũ trụ và nhân sinh. Trong văn hóa Ấn Độ, thuật ngữ “triết” là “darshana”, có
nghĩa là “chiêm ngưỡng” nhưng mang hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy
ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải, thấu đạt được chân lý về vũ trụ và nhân sinh.
Trong lịch sử tư tưởng phương Tây, thuật ngữ “triết học” lần đầu xuất hiện ở Hy Lạp cổ
đại. Nếu chuyển từ tiếng Hy Lạp cổ sang tiếng Latinh thì thuật ngữ triết học “philosophia”
gồm hai từ ghép: “philos” là “yêu thích” và “sophia” là sự thông thái; ý nghĩa của thuật
ngữ triết học là “ yêu mến sự thông thái”. Vì vậy, triết học được xem là hình thức cao nhất
của tri thức, vừa mang tính định hướng vừa nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý
của con người; còn “nhà triết học” (triết gia) được gọi là nhà thông thái, nhà tư tưởng -
người có khả năng nhận thức được chân lý và làm sáng tỏ bản chất của sự vật, hiện tượng...
Như vậy, dù ở phương Đông hay phương Tây, ở thời kỳ đầu hay sau này, người ta
đều quan niệm triết học là đỉnh cao của trí tuệ, là sự nhận thức sâu sắc thế về giới, nắm bắt
được chân lý, hiểu được bản chất của sự vật, hiện tượng. Thời gian xuất hiện và cách thức
sử dụng thuật ngữ triết học ở phương Đông và phương Tây tuy có khác nhau, song ý nghĩa,
mục đích và cách thức thể hiện cơ bản là giống nhau, thống nhất, đều chỉ hoạt động tinh
thần, thể hiện khả năng nhận thức, cách thức, phương pháp đánh giá của con người, nó tồn
tại với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, có
trình độ khái quát hoá và tư duy trừu tượng cao.
Theo quan điểm mácxít, triết học là hình thái ý thức xã hội đặc thù, là học thuyết
chung nhất về tồn tại và nhận thức; là khoa học về những quy luật chung nhất của sự vận lOMoAR cPSD| 61457685
động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Vì vậy, có thể quan niệm, triết học là hệ
thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người
trong thế giới ấy.
- Nguồn gốc ra đời của triết học
Triết học ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu của thực tiễn; nó có nguồn gốc nhận thức
và nguồn gốc xã hội. Về nguồn gốc nhận thức: Theo quan niệm của C.Mác và
Ph.Ăngghen, lịch sử loài người bắt đầu từ đâu thì lịch sử triết học bắt đầu từ đấy. Song, với
tư cách là tri thức lý luận chung nhất, triết học đồng loạt xuất hiện cả ở phương Đông và
phương Tây vào khoảng thế kỷ VIII - VI TCN, khi chế độ chiếm hữu nô lệ ra đời, trong xã
hội đã hình thành chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất; đã có giai cấp và nhà nước. Hệ
quả tất yếu của các yếu tố nêu trên là lao động trí óc tách khỏi lao động chân tay, tầng lớp
trí thức ra đời. Họ có điều kiện nghiên cứu, hệ thống hoá các quan điểm, quan niệm thành
học thuyết, lý luận. Vào thời kỳ này, triết gia đã xuất hiện và triết học được hình thành.
Chủ thể sáng tạo các học thuyết, lý luận triết học được lịch sử ghi nhận là Khổng Tử ở
Trung Quốc, Thích Ca Mâu Ni ở Ấn Độ, Talet ở Hy Lạp, v.v.. Nói cách khác, triết học chỉ
ra đời khi con người đã đạt đến trình độ trừu tượng hóa, khái quát hóa, hệ thống hóa để xây
dựng nên các học thuyết, các lý luận.
Sự ra đời của triết học gắn liền với nguồn gốc xã hội, tức là sự xuất hiện chế độ
chiếm hữu nô lệ - xã hội có giai cấp đầu tiên của nhân loại. Vào thời ấy, lao động đã phát
triển đến mức phải phân chia thành lao động trí óc và lao động chân tay, chế độ tư hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất, giai cấp và nhà nước lần lượt ra đời, làm cho triết học, tự nó mang
trong mình tính giai cấp sâu sắc, nó công khai tính đảng là phục vụ cho lợi ích của những
giai cấp, những lực lượng xã hội nhất định. Nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc lý luận có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Sự phân chia thành hai nguồn gốc như trên chỉ có tính chất tương đối.
- Vấn đề đối tượng triết học
Trong quá trình phát triển, đối tượng của triết học thay đổi theo từng giai đoạn lịch
sử. Khi mới ra đời, triết học thời cổ đại được gọi là “triết học tự nhiên”, bao hàm trong nó lOMoAR cPSD| 61457685
toàn bộ tri thức của nhân loại. Đây là nguyên nhân sâu xa làm nảy sinh quan niệm sau này
cho rằng, triết học là “khoa học của mọi khoa học”. Thời kỳ này, triết học đã đạt được
những thành tựu đáng kể. Hệ thống các quan điểm triết học đã ra đời và ảnh hưởng sâu sắc
đến sự phát triển của triết học các thời đại sau nó, thậm chí ảnh hưởng đến cả sự phát triển
của toán học, vật lý học, hóa học, thiên văn học và các ngành khoa học xã hội và nhân văn
như đạo đức học, mỹ học, dân tộc học , xã hội học, v.v..
Vào thời kỳ Trung cổ, ở Tây Âu, quyền lực của giáo hội bao trùm mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội, triết học trở thành “nô lệ” của thần học, được coi là “cây thánh giá bằng
vàng, ngự trị trên lâu đài nhận thức”. Vì thế, triết học chỉ còn nhiệm vụ là chứng minh sự
đúng đắn của Kinh thánh, luận giải và thuyết phục người ta tin tưởng vào Chúa Trời. Triết
học tự nhiên được thay thế bằng triết học kinh viện.
Vào thế kỷ XV - XVI, cùng với sự phát triển của các môn khoa học tự nhiên là sự
phục hồi tưởng triết học duy vật cổ đại. Triết học dần dần tách khỏi thần học và các khoa
học cụ thể, phát triển thành các bộ môn riêng biệt với các học thuyết về bản thể luận, vũ
trụ luận, tri thức luận, nhận thức luận, logic học, mỹ học, đạo đức học…
Vào thế kỷ XVII - XVIII, triết học duy vật dựa trên cơ sở tri thức của khoa học tự
nhiên thực nghiệm đã phát triển nhanh chóng và đóng vai trò tích cực trong đấu tranh chống
chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Đỉnh cao của sự phát triển triết học duy vật thời kỳ này là
ở Anh, Pháp, Hà Lan với những đại biểu tiêu biểu: Phranxi Bêcơn, Tômát Hốpxơ (Anh),
Điđrô, Henvêtiuýt, Hônbách (Pháp), Xpinôda (Hà Lan)…
Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, sự phát triển của các khoa học cụ thể và thành
tựu mà nó đạt được đã làm phá sản tham vọng của các nhà triết học muốn biến triết học
thành “khoa học của mọi khoa học”; trong số đó, triết học Hêghen là học thuyết triết học
cuối cùng mang tham vọng đó.
Vào những năm 40 của thế kỷ thứ XIX, triết học Mác ra đời, C.Mác và Ph. Ăngghen
đã làm cuộc cách mạng trong triết học. Vì thế, triết học Mác đã đoạn tuyệt với các quan
niệm sai lầm khi coi triết học là “ khoa học của mọi khoa học”. Với thế giới quan duy vật
biện chứng, triết học Mác đã xác định đúng đắn đối tượng, chức năng, nhiệm vụ, phương lOMoAR cPSD| 61457685
pháp nghiên cứu của mình; đặt cơ sở khoa học cho các môn khoa học cụ thể phát triển. Với
tư cách là một khoa học, triết học Mác nghiên cứu những quy luật chung nhất của sự vận
động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
b) Vấn đề cơ bản của triết học và chức năng cơ bản của triết học - Vấn đề cơ bản của triết học
Tất cả các hiện tượng trong thế giới chỉ có thể hoặc là hiện tượng vật chất, tồn tại bên
ngoài ý thức chúng ta, hoặc là hiện tượng tinh thần tồn tại trong ý thức chúng ta. Mặc dù
các học thuyết triết học đề ra các quan niệm khác nhau về thế giới thì câu hỏi đặt ra cần trả
lời là: Thế giới tồn tại bên ngoài đầu óc con người có quan hệ như thế nào với thế giới tinh
thần tồn tại trong đầu óc con người? Tư duy của con người có khả năng hiểu biết tồn tại
thực của thế giới hay không? Có thể nói, bất kỳ trường phái triết học nào cũng có cái chung
là đề cập đến và giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Ở đâu, lúc nào việc nghiên
cứu được tiến hành một cách khái quát trên bình diện vấn đề quan hệ giữa vật chất và ý
thức thì lúc đó tư duy triết học được bắt đầu.
Vấn đề quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại và tư duy hay giữa tự nhiên và
tinh thần là vấn đề cơ bản của triết học. Đây là vấn đề cơ sở, nền tảng, xuyên suốt mọi học
thuyết triết học trong lịch sử, quyết định sự tồn tại của triết học. Kết quả và thái độ của việc
giải quyết vấn đề cơ bản triết học quyết định sự hình thành thế giới quan và phương pháp
luận của các triết gia, xác định bản chất của các trường phái triết học. Giải quyết vấn đề
này là cơ sở, điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học, đồng thời quyết
định cách xem xét các vấn đề khác trong đời sống xã hội.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt. Mặt thứ nhất trả lời câu hỏi: Giữa vật chất và
ý thức, giới tự nhiên và tinh thần cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái
nào? Mặt thứ hai trả lời câu hỏi: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
Tuỳ thuộc vào lời giải đáp cho câu hỏi thứ nhất, các học thuyết triết học khác nhau
chia thành hai trào lưu cơ bản là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. lOMoAR cPSD| 61457685
Chủ nghĩa duy vật khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau; thế giới vật chất tồn tại
một cách khách quan, độc lập với ý thức con người và không do ai sáng tạo ra; còn ý thức
là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người; không thể có tinh thần, ý thức nếu không có vật chất.
Hình thái lịch sử đầu tiên của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật chất phác, ngây
thơ thời cổ đại. Hình thái này đã xuất hiện ở nhiều dân tộc trên thế giới mà tiêu biểu là ở
các nước: Ấn Độ, Trung Quốc và Hy Lạp, La Mã cổ đại. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật
thời kỳ này chất phác, ngây thơ, xuất phát từ giới tự nhiên để giải thích thế giới. Quan điểm
đó nói chung là đúng đắn nhưng do khoa học chưa phát triển nên triết học chưa thể dựa
vào thành tựu của các bộ môn khoa học chuyên ngành. Do vậy, chủ nghĩa duy vật chưa thể
đứng vững trước sự tấn công của chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo, đặc biệt trong thời kỳ Trung cổ.
Hình thái thứ hai là chủ nghĩa duy vật, máy móc, siêu hình thế kỷ XVII -XVIII. Hình
thái này ra đời khi giai cấp tư sản đang lên, nhằm chống lại thế giới quan duy tâm, tôn giáo
của giai cấp phong kiến. Nhưng do ảnh hưởng của quan điểm máy móc, cơ học và phương
pháp mô tả, thực nghiệm, chia cắt nên chủ nghĩa duy vật không thoát khỏi quan điểm máy móc, siêu hình.
Quá trình đấu tranh khắc phục các thiếu sót máy móc, siêu hình và duy tâm khi xem
xét các hiện tượng xã hội của chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII-XVIII đồng thời là quá trình
ra đời của hình thái lịch sử thứ ba là chủ nghĩa duy vật biện chứng. Nó được xây dựng và
không ngừng phát triển trên cơ sở khoa học, công nghệ hiện đại và thực tiễn của thời đại mới.
Đối lập với chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm cho rằng, ý thức, tinh thần có trước
và là cơ sở cho sự tồn tại của giới tự nhiên, vật chất. Chủ nghĩa duy tâm cũng xuất hiện
ngay từ thời cổ đại và tồn tại dưới hai dạng chủ yếu: chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan.
Chủ nghĩa duy tâm khách quan với các đại biểu nổi tiếng: Platôn, Hêghen... cho rằng,
có một thực thể tinh thần ("lý tính thế giới"; "tinh thần tuyệt đối", "ý niệm tuyệt đối") là cái lOMoAR cPSD| 61457685
có trước thế giới vật chất, tồn tại ở bên ngoài con người và độc lập đối với con người, sản
sinh ra và quyết định tất cả các quá trình của thế giới vật chất.
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan với các đại biểu nổi tiếng: Béccơli, Hium, Phíchtơ, v.v.,
cho rằng cảm giác, ý thức của con người là cái có trước và quyết định sự tồn tại của mọi
sự vật, hiện tượng bên ngoài. Các sự vật, hiện tượng chỉ là "những tổng hợp của cảm giác",
là "phức hợp của các cảm giác". Do phủ nhận sự tồn tại của thế giới khách quan, chủ nghĩa
duy tâm chủ quan phủ nhận luôn cả tính quy luật khách quan của các sự vật, hiện tượng và
tất yếu dẫn đến chủ nghĩa duy ngã.
Cả hai dạng của chủ nghĩa duy tâm, tuy có khác nhau trong quan niệm cụ thể nhưng
đều thống nhất với nhau ở chỗ coi ý thức, tinh thần là cái có trước, là cái sản sinh ra và
quyết định vật chất. Vì vậy, tôn giáo thường sử dụng các học thuyết duy tâm làm cơ sở lý
luận cho các quan điểm của mình. Tuy nhiên, thế giới quan tôn giáo dựa trên cơ sở lòng
tin. Còn chủ nghĩa duy tâm triết học dựa trên cơ sở tri thức, là sản phẩm của tư duy lý tính
của con người. Do vậy, các học thuyết triết học duy tâm ít nhiều đều có những đóng góp
quan trọng vào sự phát triển tư tưởng triết học nhân loại.
Chủ nghĩa duy vật có mối liên hệ chặt chẽ với các lực lượng, các giai cấp tiến bộ, cách
mạng và luôn gắn bó, quan hệ mật thiết với sự phát triển của khoa học. Chủ nghĩa duy tâm
có nguồn gốc xã hội là mối liên hệ với các lực lượng xã hội, các giai cấp phản tiến bộ,
nguồn gốc nhận thức của nó là tuyệt đối hoá một mặt của quá trình nhận thức, tách ý thức
ra khỏi thế giới vật chất.
Lịch sử triết học luôn luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm (hai đảng phái chính) tạo nên động lực bên trong của sự phát triển triết học, đồng
thời biểu hiện cuộc đấu tranh hệ tư tưởng của các giai cấp đối nghịch trong xã hội.
Các học thuyết triết học thuộc nhất nguyên luận (duy vật hoặc duy tâm) đều cho rằng,
thế giới chỉ có một nguồn gốc duy nhất, một trong hai thực thể (vật chất hoặc ý thức) là cái
có trước quyết định cái kia. Ngoài nhất nguyên luận còn có các học thuyết triết học nhị
nguyên luận, đó là các học thuyết cho rằng, vật chất và ý thức là hai nguyên thể song song
tồn tại, là hai nguồn gốc tạo nên thế giới. Ngoài ra, còn có cả những học thuyết triết học đa lOMoAR cPSD| 61457685
nguyên luận, cho rằng vạn vật là do vô số nguyên thể độc lập cấu thành. Các học thuyết
triết học nhị nguyên luận hoặc đa nguyên luận đều không triệt để khi giải quyết mặt thứ
nhất vấn đề cơ bản triết học; do đó thường sa vào chủ nghĩa duy tâm.
Đối với mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học, trả lời câu hỏi con người có khả năng
nhận thức được thế giới hay không, đa số các nhà triết học, cả duy vật và duy tâm đều trả
lời khẳng định, tức là thuộc trường phái "khả tri". Triết học gọi đó là tính đồng nhất của tư
duy và tồn tại. Các nhà triết học duy vật tìm cơ sở của sự đồng nhất đó ở vật chất, còn các
nhà triết học duy tâm tìm cơ sở đó ở ý thức, tinh thần. Các nhà triết học cho rằng, con người
không thể hiểu biết thế giới, học thuyết của họ được gọi là "thuyết không thể biết" (bất khả
tri). Thuyết không thể biết đã bị phê phán gay gắt. Đồng thời, chính thực tiễn của con người
đã bác bỏ thuyết không thể biết một cách triệt để nhất.
- Chức năng cơ bản của triết học
Cũng như mọi khoa học, triết học cùng một lúc thực hiện nhiều chức năng khác nhau.
Đó là các chức năng thế giới quan và phương pháp luận, chức năng nhận thức và giáo dục,
chức năng dự báo và phê phán... Tuy nhiên, chức năng thế giới quan và chức năng phương
pháp luận là hai chức năng cơ bản của triết học nói chung và là "thiên chức" của triết học Mác - Lênin nói riêng.
Chức năng thế giới quan: Trong thế giới, những vấn đề đặt ra và cần tìm lời giải đáp,
trước hết là những vấn đề thuộc về thế giới quan. Thế giới quan đóng vai trò đặc biệt quan
trọng trong cuộc sống của con người và xã hội loài người. Có thể ví thế giới quan như một
“thấu kính”, qua đó, con người nhìn nhận thế giới xung quanh cũng như xem xét bản thân
mình để từ đó, xác định cho mình mục đích, ý nghĩa cuộc sống và lựa chọn cách thức hoạt
động sao cho phù hợp để đạt được mục đích đặt ra. Đây là cơ sở đúng đắn để mỗi người
xây dựng nhân sinh quan, xác định lẽ sống một cách tích cực trong nhận thức và cải tạo thế
giới. Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới
quan phát triển như quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức
do các khoa học đưa lại. Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm về thế giới và về vị trí,
vai trò của con người trong thế giới đó. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan. lOMoAR cPSD| 61457685
Thế giới quan duy vật biện chứng có vai trò đặc biệt quan trọng. Trước hết, hệ thống
quan điểm duy vật mácxít là nhân tố định hướng cho con người nhận thức đúng đắn thế
giới hiện thực. Đây chính là “cặp kính” triết học để con người xem xét, nhận dạng thế giới,
xét đoán mọi sự vật, hiện tượng và xem xét chính mình. Nó giúp cho con người có cơ sở
khoa học đi sâu nhận thức bản chất của tự nhiên, xã hội và nhận thức được mục đích ý nghĩa của cuộc sống.
Thế giới quan duy vật biện chứng còn giúp con người hình thành quan điểm khoa
học định hướng mọi hoạt động. Từ đó giúp con người xác định thái độ và cả cách thức hoạt
động của mình. Trên một ý nghĩa nhất định, thế giới quan cũng đóng vai trò của phương
pháp luận. Giữa thế giới quan và phương pháp luận trong triết học có sự thống nhất hữu cơ.
Thế giới quan duy vật biện chứng nâng cao vai trò tích cực, sáng tạo của con người.
Thế giới quan đúng đắn chính là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực. Trình độ phát
triển về thế giới quan là tiêu chí quan trọng của sự trưởng thành cá nhân cũng như một
cộng đồng xã hội nhất định.
Các khoa học đều góp phần giúp con người hình thành thế giới quan đúng đắn. Trong
đó, thế giới quan triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới quan của
con người phát triển như một quá trình tự giác.
Thế giới quan duy vật biện chứng có vai trò là cơ sở khoa học để đấu tranh với các
loại thế giới quan duy tâm, tôn giáo, phản khoa học. Với bản chất khoa học và cách mạng,
thế giới quan duy vật biện chứng là hạt nhân của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và các
lực lượng tiến bộ, cách mạng, là cơ sở lý luận trong cuộc đấu tranh với các tư tưởng phản cách mạng, phản động.
Chức năng phương pháp luận: Phương pháp luận là hệ thống về những quan điểm,
những nguyên tắc xuất phát, những cách thức chung để thực hiện hoạt động nhận thức và
thực tiễn. Phương pháp luận cũng có nghĩa là lý luận về hệ thống phương pháp, là hệ thống
các quan điểm chỉ đạo việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp. lOMoAR cPSD| 61457685
Tuy không phải là một ngành khoa học độc lập nhưng phương pháp luận là một bộ
phận không thể thiếu trong bất kỳ một ngành khoa học nào. Xét phạm vi tác dụng của nó,
phương pháp luận có thể chia thành ba cấp độ: Phương pháp luận ngành, phương pháp luận
chung, phương pháp luận chung nhất. Phương pháp luận ngành (còn gọi là phương pháp
luận bộ môn) là phương pháp luận của một ngành khoa học cụ thể nào đó. Phương pháp
luận chung là phương pháp luận được sử dụng cho một số ngành khoa học. Phương pháp
luận chung nhất là phương pháp luận được dùng làm điểm xuất phát cho việc xác định các
phương pháp luận chung, các phương pháp luận ngành và các phương pháp hoạt động khác
của con người. Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới và vai
trò của con người trong thế giới đó; với việc nghiên cứu những quy luật chung của tự nhiên,
xã hội và tư duy, triết học thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất.
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, không được xem thường hoặc tuyệt đối hoá
phương pháp luận triết học. Nếu xem thường phương pháp luận triết học sẽ sa vào tình
trạng mò mẫm, dễ mất phương hướng, thiếu chủ động, sáng tạo trong công tác. Ngược lại,
nếu tuyệt đối hoá vai trò của phương pháp luận triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều và
dễ bị vấp váp, thất bại. Bồi dưỡng phương pháp luận duy vật biện chứng giúp mỗi người
tránh được những sai lầm do chủ quan, duy ý chí và phương pháp tư duy siêu hình gây ra.
2. Sự hình thành, phát triển tư tưởng triết học trong lịch sử
a) Những vấn đề có tính quy luật của sự hình thành, phát triển tư tưởng triết học trong lịch sử
Trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, có thể nhận thấy lịch sử triết học có hai nhóm tính quy luật. Nhóm
tính quy luật phản ánh của lịch sử triết học được khái quát từ các điều kiện kinh tế, xã hội,
sự phát triển của văn hoá và khoa học trong các giai đoạn lịch sử khác nhau. Nhóm tính
quy luật giao lưu bao gồm giao lưu đồng loại và giao lưu khác loại. Giao lưu đồng loại bao
gồm giao lưu theo lịch đại, qua đó thấy được tính kế thừa, phát triển tư tưởng triết học nhân
loại theo chiều dọc của thời gian. Giao lưu theo đồng đại còn chỉ ra sự liên hệ, ảnh hưởng,
kế thừa, kết hợp các học thuyết triết học trong cùng một thời gian. Giao lưu khác loại bao lOMoAR cPSD| 61457685
gồm giao lưu giữa triết học với các hình thái ý thức xã hội khác, kể cả kế thừa các hình thái
ý thức xã hội có liên quan để phát triển và giao lưu, ảnh hưởng giữa các hệ thống triết học
khác nhau trong lịch sử. Theo đó, sự phát sinh, phát triển của lịch sử tư tưởng triết học chịu
sự quy định của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan mang tính quy luật.
Sự hình thành, phát triển của các tư tưởng, trào lưu triết học phụ thuộc vào điều kiện
kinh tế - xã hội và nhu cầu phát triển của thực tiễn xã hội. Dựa trên nguyên lý tồn tại xã
hội quyết định ý thức xã hội, sự phát triển của tư tưởng triết học trong lịch sử luôn phụ
thuộc vào tồn tại xã hội, mà trước hết là phụ thuộc vào sự phát triển của nền sản xuất vật
chất. Mặt khác, quan điểm, tư tưởng triết học là sự phản ánh nhu cầu phát triển của chính
thực tiễn xã hội. Vì vậy, nó phụ thuộc vào thực tiễn đấu tranh giai cấp, đấu tranh chính trị
- xã hội trong lịch sử. Thực tiễn lịch sử cho thấy, trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, triết
học chưa xuất hiện và cũng chưa có tư duy triết học với đúng nghĩa của nó, bởi vì, người
nguyên thuỷ chưa đủ sức tách mình ra khỏi giới tự nhiên, tồn tại như một xã hội. Triết học
chỉ thực sự xuất hiện khi điều kiện kinh tế - xã hội phát triển, khi trong xã hội có sự phân
công thành lao động trí óc và lao động chân tay; có sự phân chia giai cấp và đối kháng giai
cấp. Qua sự phản ánh thực tiễn, các nhà triết học đã hệ thống hóa các quan điểm, quan niệm
rời rạc thành học thuyết, lý luận triết học.
Sự hình thành, phát triển của các tư tưởng triết học phụ thuộc vào sự phát triển của
khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Trình độ phát triển của tư duy triết học nhân loại
phụ thuộc vào trình độ nhận thức chung của nhân loại, tức là phụ thuộc vào sự phát triển
của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Sự phát triển của khoa học, vừa là cơ sở, vừa là
điều kiện cho triết học phát triển. Ngược lại, sự phát triển của triết học vừa là kết quả, vừa
là cơ sở cho sự phát triển của các khoa học. Vì vậy, với tính cách là một khoa học, sự phát
triển của triết học tất yếu phải dựa vào sự phát triển của khoa học; mặt khác, triết học lại
có vai trò không thể thiếu đối với sự phát triển của các khoa học cụ thể. Thực tiễn lịch sử
cho thấy, điều kiện kinh tế - xã hội và trình độ phát triển khoa học là yếu tố xét đến cùng
quyết định nội dung các luận thuyết triết học và trong chừng mực, quyết định cả hình thức
thể hiện tư tưởng triết học. lOMoAR cPSD| 61457685
Sự hình thành, phát triển của các tư tưởng triết học phụ thuộc vào cuộc đấu tranh
giữa hai khuynh hướng triết học cơ bản - chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Đây là
vấn đề mang tính quy luật nội tại, xuyên suốt, quyết định trực tiếp đến sự phát triển của
triết học trong lịch sử. Quá trình phát triển của triết học trong lịch sử, đồng thời là quá trình
đấu tranh liên tục giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm; giữa khoa học và tôn giáo.
Trong quá trình đấu tranh với các học thuyết đối lập, mỗi học thuyết triết học cũng tự đấu
tranh để khẳng định mình và phát triển lên một trình độ mới. Quá trình đấu tranh giữa triết
học duy vật và triết học duy tâm trong lịch sử, cũng đồng thời là một quá trình giao lưu,
tác động giữa các trường phái, môn phái triết học với nhau. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm là đấu tranh giữa hai mặt đối lập cơ bản trong nội dung tư
tưởng triết học nhân loại. Thông qua cuộc đấu tranh đó mà triết học của mỗi thời đại có sự
phát triển mang tính độc lập tương đối so với sự phát triển của điều kiện kinh tế - xã hội,
chính trị, văn hoá và khoa học; làm cho mỗi hệ thống triết học có thể "vượt trước" hoặc
"thụt lùi" so với điều kiện vật chất của thời đại đó. Đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa duy tâm là "sợi chỉ đỏ" xuyên suốt toàn bộ lịch sử tư tưởng triết học, tạo thành
động lực bên trong lớn nhất của sự phát triển tư tưởng triết học nhân loại, là bản chất của
toàn bộ lịch sử tư tưởng triết học.
Sự hình thành, phát triển của tư tưởng triết học phụ thuộc vào cuộc đấu tranh giữa
hai phương pháp nhận thức trong lịch sử là phương pháp biện chứng và phương pháp siêu
hình. Lịch sử có nhiều cách trả lời khác nhau đối với vấn đề tồn tại của các sự vật, hiện
tượng trong thế giới xung quanh ta, nhưng đều quy về hai quan điểm chính đối lập nhau là
biện chứng và siêu hình. Sự phát triển của lịch sử triết học cũng chính là sự phát triển của
trình độ nhận thức, của phương pháp tư duy nhân loại, thông qua cuộc đấu tranh giữa biện
chứng và siêu hình. Đây cũng là sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập, tạo nên động lực bên
trong của sự phát triển tư tưởng triết học nhân loại. Đấu tranh giữa hai phương pháp biện
chứng và siêu hình gắn liền với cuộc đấu tranh giữa hai thế giới quan đối lập nhau là thế
giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm trong lịch sử triết học.
Quá trình hình thành, phát triển của tư tưởng triết học nhân loại phụ thuộc vào sự
kế thừa các tư tưởng triết học trong tiến trình lịch sử. Sự phát triển của ý thức xã hội luôn lOMoAR cPSD| 61457685
mang tính kế thừa và do vậy, với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, sự phát triển của
tư tưởng triết học trong lịch sử cũng luôn mang tính kế thừa. Đây là quy luật giao lưu tư
tưởng triết học theo chiều dọc của tiến trình lịch sử, là một phương thức tái tạo tư tưởng để
qua đó, triết học không ngừng phát triển. Triết học của mỗi thời đại lịch sử bao giờ cũng
dựa vào tài liệu lịch sử của triết học các thời đại trước, lấy đó làm tiền đề, điểm xuất phát
cho hệ thống triết học của mình. Tuy vậy, bao giờ nó cũng được chọn lọc, bổ sung và phát
triển phù hợp với điều kiện lịch sử mới. Đây chính là sự phủ định biện chứng, bao gồm duy
trì những giá trị tiềm thế và cải tạo có phê phán những thành tựu tư tưởng có giá trị. Nghĩa
là, quá trình phát triển của các trường phái, môn phái và hệ thống triết học trong lịch sử
luôn có sự kế thừa biện chứng.
Sự hình thành, phát triển của tư tưởng triết học phụ thuộc vào sự liên hệ, ảnh hưởng,
kế thừa, kết hợp giữa các học thuyết triết học trong mối quan hệ dân tộc và quốc tế. Tư
tưởng triết học nhân loại không phải là tổng số đơn thuần của các hệ thống triết học hình
thành trong lịch sử và cũng không phải các trường phái, hệ thống triết học ở từng nước,
từng khu vực tồn tại tách rời, độc lập với nhau. Những học thuyết triết học phát sinh và
phát triển ở mỗi nước, mỗi khu vực bằng các phương thức khác nhau, đều có mối quan hệ
nhất định; vừa chịu ảnh hưởng, vừa tác động trở lại những học thuyết triết học ở các nước
và khu vực khác. Đây chính là tính quy luật về sự giao lưu cùng loại, cùng thời đại lịch sử
của các tư tưởng triết học khác nhau ở các vùng, miền, các quốc gia, dân tộc khác nhau. Sự
phát triển đó là kết quả của sự thống nhất, liên hệ và tác động lẫn nhau giữa các tư tưởng
triết học trong mối quan hệ dân tộc và quốc tế.
Sự hình thành, phát triển của các tư tưởng triết học phụ thuộc vào mối quan hệ với
các hình thái tư tưởng chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật... Đây là tính
quy luật về sự giao lưu khác loại, giao lưu giữa hình thái ý thức triết học với các hình thái
ý thức xã hội khác. Đây là biểu hiện tính độc lập tương đối của ý thức xã hội, trong đó các
hình thái ý thức xã hội có mối quan hệ, tác động lẫn nhau. Các hình thái của ý thức xã hội,
như chính trị; pháp quyền, tôn giáo, đạo đức, nghệ thuật, v.v. luôn ảnh hưởng đến nội dung
của tư tưởng triết học. lOMoAR cPSD| 61457685
Song, trong nhiều trường hợp, hệ tư tưởng triết học lại trở thành cơ sở lý luận của hệ
tư tưởng chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo nghệ thuật. Nhờ sự giao lưu đồng loại và
khác loại mà một dân tộc có trình độ phát triển kinh tế không cao, nhưng vẫn có thể có
trình độ phát triển triết học vượt xa các dân tộc khác.
b) Sự ra đời và phát triển của triết học phương Đông
Quan niệm triết học phương Đông: Triết học phương Đông là quan niệm của các triết
gia phương Tây nhằm chỉ một khu vực chậm phát triển, không có triết học nên là đối tượng
cần phải “khai hoá”, truyền cái văn hoá, triết học phương Tây “văn minh” vào khu vực này.
Đây cũng là sự “giáo đầu” để hợp lý hoá các chủ trương về chính trị trước khi đi xâm lược,
mở rộng vùng thuộc địa của một số nước phương Tây.
Các triết gia phương Tây cho rằng, ở phương Đông không có các học thuyết nghiên
cứu về “bản thể luận, vũ trụ luận, tri thức luận và nhận thức luận”; do đó, ở phương Đông
không có triết học, hoặc nếu có thì đó cũng chỉ là thứ triết lý, không có hệ thống, không có cơ sở khoa học.
Quan niệm như trên là không đúng, không có cơ sở khoa học. Thực ra, từ điều kiện
lịch sử, mục đích, yêu cầu, nội dung và ý nghĩa của tư duy, lý luận, từ rất sớm, ở phương
Đông đã tồn tại và phát triển những nền triết học tiêu biểu như Ai Cập, Lưỡng Hà Babilon,
Ấn Độ, Trung Quốc; khi mà vào thời điểm đó, ở phương Tây, chưa có bút tích, dấu vết gì
về văn hoá. Nghiên cứu lịch sử triết học của các nước phương Đông, chúng ta hiểu rõ nhận định này.
- Một số đặc điểm chung của triết học phương Đông
Các mầm mống tư tưởng triết học ở các nước phương Đông xuất hiện từ rất sớm, vào
khoảng thiên niên kỷ thứ ba trước công nguyên, trong các nền văn minh nông nghiệp như
Ai Cập, Lưỡng Hà - Babilon, Ấn Độ, Trung Quốc.
Ngay từ khi mới xuất hiện và trong suốt thời kỳ Cổ, Trung đại, triết học phương
Đông đều lấy con người và các vấn đề liên quan đến con người làm đối tượng nghiên cứu, lOMoAR cPSD| 61457685
chẳng hạn: Triết học Trung Quốc đi sâu nghiên cứu các vấn đề chính trị, xã hội, đạo đức
và luân lý; triết học Ấn Độ đi sâu nghiên cứu các vấn đê tôn giáo và tâm linh.
Thế giới quan bao trùm của triết học phương Đông là duy tâm, cuộc đấu tranh giữa
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm có diễn ra, song không cân sức.Trong cuộc đấu
tranh đó, chủ nghĩa duy vật chỉ là yếu tố chống lại cả một hệ thống là chủ nghĩa duy tâm.
Đó là điều giải thích tại sao khoa học, kỹ thuật ra đời từ rất sớm ở phương Đông, song lại
không thể phát triển và phát huy tác dụng trong đời sống xã hội.
Sự phân chia niên đại, thời kỳ của triết học phương Đông thường theo các triều đại
phong kiến là phù hợp với sự tồn tại, phát triển và suy tàn của các triều đại vua chúa; vì
vậy, rất khó phân chia niên đại, thời kỳ của triết học phương Đông theo các hình thái kinh
tế - xã hội như ở phương Tây. Bởi vì, ở phương Đông, trong suốt thời gian tồn tại, phát
triển, đã không diễn ra cuộc cách mạng xã hội nào (tính đến cuộc cách mạng Tân Hợi năm
1911 ở Trung Quốc) mà chỉ có sự thay đổi các triều đại phong kiến. Do đó, các đời sau,
đều lấy học thuyết của đời trước làm cơ sở để bổ sung, làm phong phú thêm trên cơ sở “đẽo
gọt” một số nội dung cho phù hợp với thời đại của mình, cho nên có chuyện, sau Nho của
Khổng Phu Tử thường gọi “Nho nguyên thuỷ”, “Nho tiên Tần”, còn có Hán Nho, Tuỳ Nho,
Đường Nho, Tống Nho, Minh Nho, Thanh Nho.
Khuynh hướng chung của triết học phương Đông là hướng nội, các nhà triết học
thường xuất phát từ nhân sinh quan để giải thích thế giới quan, từ đời sống thực tiễn xã hội
để giải thích các hiện tượng tự nhiên, sự biến đổi của vũ trụ và thế giới bên ngoài.
Tính đại chúng và tính nhân dân của triết học phương Đông là một nét nổi bật. Triết
học phương Đông ra đời từ văn hoá dân gian, thường là sản phẩm của tập thể hơn là tính
cá nhân, mọi khái quát lý luận khi đã thành mục tiêu hành động và thường là phương châm
chỉ đạo cuộc sống thì khi ấy, ai là tác giả, người sáng tác đều không cần thiết. Do đó, các
triết lý nhân sinh và tư duy triết học đều rất cụ thể, không cầu kỳ, dài dòng, lý luận nhiều,
song sức sống lại rất bền vững, thiết thực, giá trị chỉ đạo hành động khá tốt...
Nghiên cứu sự ra đời và phát triển của triết học Ấn Độ Cổ, Trung đại chúng ta sẽ thấy
rõ cơ sở khoa học của những nhận định trên. lOMoAR cPSD| 61457685
Ngay từ khi mới ra đời và suốt cả quá trình tồn tại, phát triển, triết học Ấn Độ hướng
trọng tâm vào nghiên cứu, luận giải các vấn đề nhân sinh dưới góc độ tôn giáo và tâm linh.
Do vậy, nói đến triết học Ấn Độ là nói đến các vấn đề tôn giáo, tâm linh; mỗi trường phái
triết học Ấn Độ đồng thời là một tôn giáo; nhà triết học đồng thời là đạo sĩ. Xu hướng
chung, nổi trội của triết học Ấn Độ là “hướng nội”, các nhà triết học đều có chung một
mục đích là đi tìm cái Đại ngã trong cái Tiểu ngã của một thực thể cá nhân, lấy cái bên
trong để giải thích cái bên ngoài. Do đó, sự phản tỉnh nhân sinh là nét độc đáo và là ưu thế
của hầu hết các học thuyết triết học Ấn Độ, làm cho triết học Ấn Độ có sắc thái riêng,
không dễ mài mòn qua năm tháng, thời gian, không dễ hoà đồng, lẫn lộn với các học thuyết khác.
Tư duy triết học của người Ấn Độ có tính trừu tượng và khái quát cao, thường được
đúc kết, cô đọng từ những cá nhân có bộ óc “siêu phàm”; họ mong muốn và đi tìm hạnh
phúc ở “kiếp sau”, “thế giới bên kia’, không bị vẩn đục và vương vấn bởi bụi trần; do đó,
óc suy tưởng và trí tưởng tượng của người Ấn Độ rất phát triển, những “niết bàn”, “toà
sen”, “thế giới cực lạc” là kết quả của sự phát triển tư duy trừu tượng của họ.
Tính bút chiến, chiến đấu và phê phán trong triết học Ấn Độ là khá rõ ràng nhưng
không triệt để. Hầu hết các trường phái triết học Ấn Độ đều biến đổi theo xu hướng từ vô
thần đến hữu thần, từ ít nhiều duy vật đến duy tâm hay nhị nguyên. Điều đó phản ánh trạng
thái trì trệ của “phương thức sản xuất châu Á” ở Ấn Độ vào triết học, đến lượt mình, triết
học lại trở thành một trong những nguyên nhân của trạng thái trì trệ đó. Đó cũng là điều
giải thích tại sao trong suốt chiều dài hàng ngàn năm của lịch sử ở Ấn Độ đã không diễn ra
cuộc cách mạng xã hội nào; và do đó, trong lĩnh vực triết học cũng không diễn ra cuộc cách
mạng nào, không có việc lật đổ học thuyết, trường phái triết học. Trong khi giải quyết nhiều
vấn đề nhân sinh quan và thế giới quan, triết học Ấn Độ đã thể hiện tính biện chứng khá
sâu sắc, đã đưa lại nhiều đóng góp quý báu vào kho tàng di sản triết học của nhân loại.
Sự giống nhau và khác nhau cơ bản giữa các trường phái triết học chính thống trong
triết học Ấn Độ Cổ, Trung đại: Căn cứ vào sự phân chia trong kinh Veđa, những trường
phái nào về cơ bản thống nhất với kinh Veđa, thừa nhận vai trò của Brahman thì được coi lOMoAR cPSD| 61457685
là trường phái chính thống. Ngược lại, các trường phái nào có tư tưởng trái ngược, chống
lại kinh Veđa, không thừa nhận Brahman được coi là các trường phái không chính thống - tà đạo.
Các trường phái chính thống có cùng thời gian xuất hiện và chịu ảnh hưởng lớn của tư
tưởng tôn giáo; thừa nhận các chân lý trong kinh Veđa và vai trò tối cao của Brahman; đều
thống nhất giữa tư tưởng triết học với tư tưởng tôn giáo; đều có tư tưởng “hướng nội” chứ
không phải hướng ngoại như các tôn giáo ở phương Tây; cùng xu hướng lý giải và thực
hành những vấn đề nhân sinh dưới góc độ tâm linh nhằm đạt tới sự giải thoát; đều đề cao
tính kế tục, không gạt bỏ các hệ thống triết học trước đó; đều được thừa nhận là giáo lý
quốc gia, được sử dụng và truyền bá rộng rãi.
Tuy nhiên, giữa các trường phái chính thống có những điểm khác nhau.
Samkhya sơ kỳ có tư tưởng duy vật và biện chứng về bản nguyên hiện hữu; về hậu kỳ lại
ngả sang khuynh hướng nhị nguyên. Mimansa lúc sơ kỳ không thừa nhận sự tồn tại của
thần, chống lại quan điểm duy tâm, song vào thời hậu kỳ lại thừa nhận sự tồn tại của thần.
Vedanta là triết học duy tâm chủ quan, đề cao Brahman, coi Brahman là tồn tại duy nhất,
vào thời hậu kỳ lại ngả sang duy tâm khách quan.Yoga đề cao nguyên lý hợp nhất vũ trụ
nơi mỗi cá thể; vì vậy, họ khẳng định, bằng tu luyện có thể làm chủ và điều khiển được
môi trường, vạn vật, đạt được sự tự do tuyệt đối. Nyaya - Vaisesika là hai phái theo thuyết
nguyên tử luận và lôgíchh học; thừa nhận sự tồn tại của bốn yếu tố: đất, nước, lửa, gió
(Anu), đồng thời, cũng thừa nhận sự tồn tại của những linh hồn (Ya); điều phối sự thống
nhất này là yếu tố thứ ba mang tính chất siêu nhiên. Với yếu tố này, họ đã chuyển từ lập
trường duy vật sang lập trường duy tâm.
Trong triết học Ấn Độ Cổ, Trung đại, tư tưởng triết học của Phật giáo có một vị trí
rất quan trọng. Về bản thể luận: Phật giáo đưa ra tư tưởng “nhất thiết duy tâm tạo” hay
“vạn pháp duy tâm” (mọi sự vật hiện tượng từ tâm mà sinh ra, phụ thuộc vào sự diễn biến
của hoàn cảnh, điều kiện cụ thể); “tam giới duy thức” (ba thế giới: sắc giới, dục giới và vô
sắc giới đều do ý thức quyết định); “tư tưởng vô thường” (mọi sự vật hiện tượng luôn biến
đổi không ngừng); “vô ngã” (mọi sự vật hiện tượng, kể cả con người không có tự tính, lOMoAR cPSD| 61457685
không có trường sinh) và luật nhân duyên quả báo (có nhân tất sinh quả, nhưng kết quả thế
nào còn phụ thuộc vào duyên khởi).
Về nhân sinh: Phật giáo đưa ra tư tưởng luân hồi và nghiệp báo, tứ diệu đế, thập nhị
nhân duyên và niết bàn. “Luân hồi nghiệp báo” là giáo lý của nhà Phật dựa theo luật nhân
quả. Con người sau khi chết có thể tái kiếp (luân hồi) trở lại sáu kiếp là: tiên, nhân, atula,
súc sinh, quỷ, địa ngục, và mười tám tầng địa ngục. Tái sinh luân hồi không dứt. Thuyết
luân hồi nghiệp báo không thừa nhận có linh hồn bất tử. Phật giáo chỉ ra lối thoát khỏi luân
hồi ở thuyết tứ diệu đế. Phật giáo là một tôn giáo nên nó có những thiếu sót, tiêu cực về
mặt khoa học và nhân sinh quan. Trong lịch sử và cho đến ngày nay, Phật giáo là tôn giáo
duy nhất chống lại thần quyền. Xét một cách toàn bộ, tư tưởng triết học Phật giáo đứng
trên lập trường duy tâm chủ quan, song có một số tư tưởng mang yếu tố duy vật và biện
chứng cực kỳ sâu sắc. Phật giáo là tiếng nói chống lại chế độ đẳng cấp khắc nghiệt, tố cáo
bất công, đòi tự do tư tưởng và bình đẳng xã hội; nói lên khát vọng giải phóng con người
thoát khỏi những bi kịch cuộc đời; nêu cao thiện tâm, bình đẳng, bác ái cho mọi người.
Sự ra đời và phát triển của triết học Trung Quốc cổ, trung đại: Trong lịch sử triết học
phương Đông, triết học Trung Quốc thời kỳ cổ, trung đại có một vị trí rất quan trọng. Triết
học Trung Quốc thuộc loại hình triết học chính trị - xã hội, mang đậm tính nhân văn nhân
đạo; ngay từ lúc mới ra đời và trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, triết học Trung Quốc
đều hướng vào giải quyết các vấn đề chính trị, xã hội, đạo đức và luân lý, lấy con người,
lợi ích của con người và xã hội người làm trung tâm ứng xử, giải quyết.Trong khi đó thì
triết học Ấn Độ lại hướng nguồn sống của mình vào giải quyết các vấn đề tôn giáo và tâm linh.
Tư tưởng xuyên suốt chiều dài lịch sử Trung Quốc là tư tưởng “Thiên nhân hợp nhất”,
“vạn vật đồng nhất thể”. Sự thống nhất con người với thế giới là sự thống nhất toàn bộ,
triệt để, cả thể xác và tinh thần, cả đời sống nhận thức cũng như đời sống luân lý, đạo đức;
thế giới được xem là “cái một”, là “thái cực”, thì con người cũng được xem là “một thái
cực” - “đạo trời và đạo người”. Trong khi đó, “Thiên nhân hợp nhất” trong triết học Ấn Độ
có một số điểm khác. Sự thống nhất của con người với thế giới chỉ được xem xét nhiều ở lOMoAR cPSD| 61457685
lĩnh vực đời sống tâm linh. Do vậy, triết học Trung Quốc thường là những trường phái triết
học nhập thế, còn triết học Ấn Độ thường là những trường phái triết học xuất thế.
Với tính cách là những trường phái triết học chính trị - xã hội, đạo - xã hội, tư duy
của hầu hết các trường phái triết học Trung Quốc là rất cụ thể, có nhiều yếu tố dân sinh,
trực quan tâm linh, luôn hướng vào giải quyết các vấn đề thường nhật, bức thiết đang xảy
ra. Do đó, các yếu tố duy lý triết học thường ít được quan tâm, tuy về sau này, các trường
phái triết học Trung Quốc có tiếp thu, kế thừa tư tưởng triết học của các trường phái khác
để bổ sung, nâng tầm cao của tư duy duy lý trong triết học của mình. Ở Ấn Độ thì ngược
lại, mới đầu yếu tố triết học cao, song về sau, nó càng được “thế tục hoá” nên có yếu tố dân
sinh nhiều hơn dù rằng đó là khuynh hướng tâm linh, ma thuật.
Cuộc đấu tranh giữa hai đường lối triết học duy vật chống duy tâm có diễn ra trong
triết học Trung Quốc, song đó chỉ là yếu tố chống lại hệ thống. Thế giới quan duy tâm, tôn
giáo bao trùm triết học Trung Quốc thời kỳ cổ, trung đại. Tuy nhiên, sự phát triển của
khuynh hướng này cũng rất khác nhau. Nho giáo từ chỗ ngả nghiêng giữa duy tâm và duy
vật phát triển sang duy tâm nhất nguyên. Lão giáo từ duy vật nhất nguyên phát triển thành
hai phái: duy vật duy lý và duy tâm tôn giáo có ma thuật. Ở Ấn Độ lại có một số điểm khác,
mới đầu, hầu hết các trường phái triết học có tư tưởng duy vật, song về sau này, đã chuyển
dần sang chủ nghĩa duy tâm và trở thành xu hướng phát triển chính trong triết học Ấn Độ.
Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo là ba dòng chủ đạo kiến tạo nên hệ tư tưởng phong
kiến Trung Quốc, song trên thực tế, Nho giáo vẫn là dòng chủ đạo, đóng vai trò thống trị
hệ tư tưởng phong kiến Trung Quốc. Đây là trường phái triết học “nhập thế”, có lẽ vì thế,
tính bảo thủ của triết học Trung Quốc ít hơn nếu so sánh với triết học Ấn Độ (dù rằng cả
hai trường phái triết học phương Đông đều bảo thủ hơn triết học Tây Âu).
Nhìn chung, các trường phái triết học Trung Quốc lại đồng loạt xuất hiện vào thời
Xuân Thu, phát triển mạnh trong thời Chiến Quốc để lại những thành tựu rất quan trọng.
Xuất phát từ tình hình trên, các trường phái triết học do những bậc tài trí đứng đầu đồng
loạt xuất hiện. Sử sách Trung Quốc gọi thời kỳ này là thời kỳ “bách gia chư tử” ,“bách gia
tranh minh”, nghĩa là “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”. Tuy có hàng trăm trường phái lOMoAR cPSD| 61457685
xuất hiện, nhưng phổ biến và sâu sắc nhất chỉ có 9 trường phái, gọi Cửu lưu: 1. Nho gia,
người sáng lập là Khổng Tử; 2. Đạo gia, người sáng lập là Lão Tử; 3. Mặc gia, người sáng
lập là Mặc Địch; 4. Danh gia, người sáng lập là Huệ Thi và Công Tôn Long; 5. Tung Hoành
gia, người sáng lập là Tô Tần và Trương Nghi; 6. Âm Dương gia, người sáng lập là Trâu
Diễn; 7. Pháp gia, người sáng lập là Hàn Phi Tử; 8. Nông gia, (có ý kiến cho là Tiểu thuyết
gia); 9. Tạp gia. Trong số các trường phái nêu trên thì chỉ có 7 trường phái đầu là có tư
tưởng triết học sâu sắc.
Các nhà triết học, các trường phái triết học Trung Quốc đều mong muốn góp tiếng
nói, đem một giải pháp, kiến giải một con đường để lập lại trật tự xã hội đang bị “loạn
lạc”, biến xã hội từ loạn thành trị như thời Tây Chu. Chẳng hạn: Nho giáo chủ trương dùng
điều nhân, lễ, chính danh để đưa xã hội từ loạn về trị như thời Xuân Thu; còn Pháp gia thì
lại chủ trương dùng pháp luật để cai trị, thống nhất Trung Quốc…Đó cũng là điều giải thích
tại sao các trường phái triết học Trung Quốc lại có khuynh hướng “nhập thế” rõ nét và gắn
với các vấn đề nhân sinh, chính trị, xã hội và đạo đức.
Tiêu biểu trong các trường phái triết học ở Trung Quốc cổ, trung đại là Nho gia, Pháp
gia, Đạo gia và Mặc gia. Lược khảo cơ sở hình thành và nội dung tư tưởng triết học cơ bản
của các trường phái nêu trên sẽ thấy rõ nhận định này.
Tư tưởng triết học của Khổng Tử và học phái Nho gia thể hiện rõ nét trong các bộ
sách: Kinh thi, Kinh thư, Kinh dịch, Kinh lễ, Kinh nhạc…và soạn Kinh Xuân thu (đến thời
nhà Tần, Kinh nhạc bị thất truyền chỉ còn ngũ kinh). Những lời dạy của Khổng Tử được
các môn đệ chép lại làm thành bốn bộ sách: “Luận ngữ”, “Đại học” (do Tăng Sâm viết),
“Chung Dung” (do Tử Tư viết) và “Mạnh Tử” (do Mạnh Tử viết). Các bộ kinh sách đó đều
trở thành kinh điển của nhà Nho. Với việc hệ thống hoá những tri thức tư tưởng đời trước
và trình bày quan điểm nhân, lễ và chính danh, Khổng tử đã xây dựng nên học thuyết đạo
đức - chính trị nổi tiếng là Nho giáo.: Sau khi Khổng Tử qua đời, tư tưởng triết học Nho
giáo tiếp tục phát triển qua các học trò của ông là Mạnh Tử (327 - 298 tr. CN), Tuân Tử
(298 - 238 tr. CN), Hán Nho và Đổng Trọng Thư (180 - 105 tr. CN), Trương Tải (1020 -
1076), Trình Hạo (1032 - 1085), Trình Di (1033 - 1108), Chu Hi (1130 - 1200), v.v.. lOMoAR cPSD| 61457685
Tư tưởng cơ bản của triết học Đạo gia: Đạo gia là trường phái triết học có nhiều yếu
tố duy vật và biện chứng sơ khai, phản ánh tư tưởng của một tầng lớp tri thức và quý tộc
nhỏ bị đại quý tộc và địa chủ chèn ép nên từ bỏ điều lợi, xuất thế, lánh đời, ẩn dật để bảo
toàn sinh mệnh...Đạo gia có nhiều nhánh. Mỗi nhánh có màu sắc riêng nhưng giống nhau
ở chỗ: đều chán ghét xã hội đương thời và đời sống bon chen, xu nịnh, phê phán danh lợi,
đề cao lợi ích cá nhân bằng cách quay trở về với thiên nhiên, thuận theo tự nhiên.
Tư tưởng của Đạo gia thể hiện tập trung ở phạm trù đạo và đức, phản ánh thế giới
quan duy vật và biện chứng tự phát của trường phái này. Đạo là bản thể, là cội nguồn sinh
ra trời đất, vạn vật. Đó là lượng vật chất vô cùng rộng lớn và vận động không ngừng mà
sinh ra trời, đất, người và vạn vật. Đạo là cái khởi nguyên - cái ban đầu, thống nhất nên gọi
là “cái một”. Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật, vạn vật sinh đến vô
cực lại quay về Đạo. Đức là thế lực tiềm tàng của Đạo ở thế giới hiện hữu, phụ thuộc vào
Đạo, Đức là mọi tính chất của các sự vật, hiện tượng. Do vậy, đạo là bản thể, bản chất tiềm
ẩn ở bên trong. Còn đức là tính chất thế lực của đạo, biểu hiện ra bên ngoài. Nhờ đức mà
người ta biết có đạo. Vì vậy, Đạo gia phủ nhận quỷ thần, đề cao sự vận hành của quy luật,
trật tự của tự nhiên.
Tư tưởng biện chứng của Đạo gia thể hiện ở chỗ: vạn vật luôn biến đổi không ngừng
theo quy luật phản phục âm - dương; Đạo gia đưa ra nhiều luận điểm về tính tương đối của
sự vật, hiện tượng và sự chuyển hoá của các mặt đối lập như phúc - hoạ, cao - thấp, thiện -
ác…Với học thuyết “vô danh”, Đạo gia đã khẳng định: Con người có khả năng nhận thức.
Khả năng nhận thức đó đến đâu là phụ thuộc vào quá trình tổng hợp, tích luỹ những danh
từ, khái niệm ấy tạo nên. Hiểu Đạo lý là mục tiêu của nhận thức. Muốn vậy, phải quay lại
con đường trực giác tâm linh, tức là quay về với tự nhiên, thuận theo quy luật tự nhiên,
sống hoà mình vào thiên nhiên. Sau khi Lão Tử qua đời, tư tưởng triết học Đạo gia tiếp tục
phát triển qua các đai biểu: Dương Chu (khoảng 395 - 335 TCN), Trang Tử (khoảng 369 - 288 TCN)...
Tư tưởng cơ bản của triết học Mặc gia là tin tưởng tuyệt đối vào thiện ý của trời,
trời thương yêu con người và luôn mong muốn con người hạnh phúc. Vì thế, Mặc Tử và