Bài giảng công pháp quốc tế | Trường Đại học Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
đốinội:thựchiệncácchứcnăngtrongphạmvilãnhthổquốcgia,điềuchỉnhcácquanhệgiữacáccá nhân và pháp nhân, giữa cá nhân với NN trong phạm vi lãnh thổ quốc gian ==> sử dụng hệ thống PLquốcgia. Tài liệu giúp bạn tham khảo và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Luật Thương mại quốc tế (65TMQT)
Trường: Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45936918 Đại học Luật Hà Nội Lớp: K14CCQ (2015 - 2018)
BÀI GIẢNG CÔNG PHÁP QUỐC TẾ
Thời lượng: 60 tiết Tài liệu: -
Giáo trình Luật Quốc tế 2016 - Đại học luật Hà Nội -
Hiến chương Liên hợp quốc -
Công ước Viên 1961 về quan hệ ngoại giao -
Công ước Viên 1963 về quan hệ lãnh sự -
Công ước Viên 1969 về luật điều ước quốc tế -
Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982
Vấn đề 1: Một số vấn đề lý luận chung về luật Quốc tế I. Khái niệm 1. Định nghĩa
- NN ra đời để thực hiện 02 chức năng:
+ đối nội: thực hiện các chức năng trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, điều chỉnh các quan hệ giữa các
cá nhân và pháp nhân, giữa cá nhân với NN trong phạm vi lãnh thổ quốc gian ==> sử dụng hệ thống PL quốc gia
+ đối ngoại: quan hệ với các quốc gia khác, các tổ chức quốc tế ==> sử dụng hệ thống PL quốc tế
- ĐN: Công pháp Quốc tế, hay Luật Quốc tế được hiểu là hệ thống các nguyên tắc, quy phạm PL do các
quốc gia và các chủ thể khác của luật Quốc tế thỏa thuận xây dựng nên trên cơ sở tự nguyện, bình
đẳng nhằm điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh giữa các quốc gia và các chủ thể đó trong mọi lĩnh
vực của đời sống quốc tế.
2. Các đặc trưng cơ bản của luật Quốc tế
a. Về đối tượng điều chỉnh
- Luật Quốc tế chỉ điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia và các chính phủ, không điều chỉnh các
mối quan hệ giữa các cá nhân và pháp nhân có yếu tố nước ngoài.
VD: người VN kết hôn với người nước ngoài, doanh nghiệp VN ký kết hợp đồng với doanh nghiệp
nước ngoài đều không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật Quốc tế (mà thuộc đối tượng điều chỉnh của
luật hôn nhân gia đình, luật thương mại, ở mục có yếu tố nước ngoài)
Chú ý: trong một số trường hợp đặc biệt thì cá nhân hay pháp nhân có thể tham gia vào quan hệ PL
luật Quốc tế, VD trong liên minh EU cho phép cá nhân có quyền khởi kiện các quốc gia, chẳng hạn khi
quốc gia đó không đảm bảo quyền cơ bản của con người. Tuy nhiên cá nhân hay pháp nhân đó không
được coi là chủ thể của luật Quốc tế b. Về chủ thể
- Một thực thể được coi là chủ thể của luật Quốc tế nếu thỏa mãn các yếu tố:
+ có tham gia vào các quan hệ PL quốc tế
+ có quyền và khả năng gánh vác nghĩa vụ quốc tế một cách độc lập
+ có khả năng gánh vác các trách nhiệm pháp lý quốc tế phát sinh từ chính hành vi của chủ thể đó
- Chủ thể của luật Quốc tế bao gồm: + các quốc gia 1 lOMoAR cPSD| 45936918
+ các tổ chức quốc tế liên chính phủ
+ các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết
+ một số chủ thể đặc biệt: Hồng Kông, Macau, Đài Loan, tòa thánh Vatican, ... (1) Chủ thể: Quốc gia
- Là chủ thể cơ bản và chủ yếu của luật Quốc tế
- Một thực thể được coi là 1 quốc gia khi có đủ 04 yếu tố:
+ có lãnh thổ xác định + có dân cư ổn định
+ có bộ máy quyền lực NN (chính phủ)
+ có khả năng độc lập khi tham gia vào các quan hệ PL quốc tế
- Chủ quyền quốc gia: là thuộc tính chính trị, pháp lý tự nhiên, vốn có của quốc gia, bao gồm quyền tối
cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ và quyền độc lập trong quan hệ quốc tế.
Tức là khi đã là quốc gia thì sẽ có chủ quyền, được thể hiện qua 2 khía cạnh:
+ quyền tối cao trong phạm vi lãnh thổ: quốc gia có toàn quyền thiết lập thể chế chính trị, chế độ xã
hội, có toàn quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trong phạm vi lãnh thổ của mình mà không bị các quốc gia khác tác động
+ quyền độc lập trong quan hệ quốc tế: có toàn quyền trong việc quyết định sẽ quan hệ với ai, ký kết
các điều ước quốc tế nào, ở lĩnh vực nào, mức độ đến đâu, ... hoàn toàn chỉ phụ thuộc vào ý chí của
quốc gia đó mà không bị tác động của bên ngoài
Chú ý: chủ quyền dân tộc là khái niệm hẹp hơn so với chủ quyền quốc gia, chủ quyền dân tộc là việc
dân tộc tự quyết định vận mệnh của mình.
Chú ý: Đài Loan không phải là quốc gia vì Đài Loan không có lãnh thổ xác định (về mặt pháp lý thì đảo
Đài Loan vẫn thuộc về Trung Quốc), mặc dù 3 yếu tố còn lại đều đáp ứng.
Đôi khi vẫn gặp thông tin “Vatican là quốc gia nhỏ nhất thế giới”, tuy nhiên thực chất Vatican
không phải là 1 quốc gia, vì không có lãnh thổ xác định (vẫn thuộc Italia). Mặt khác, dân cư Vatican
không ổn định, vì khi 1 người từ 1 quốc gia đến Vatican làm việc (VD mục đích tôn giáo) thì ngay lập
tức họ được cấp quốc tịch Vatican trong khi quốc tịch của họ vẫn còn, và khi kết thúc công việc, họ rời
khỏi Vatican thì ngay lập tức cũng không còn quốc tịch Vatican. Ngoài ra Vatican cũng không có bộ máy
quyền lực NN, mà chỉ có các thiết chế tôn giáo. Tuy nhiên Vatican vẫn có tư cách độc lập khi tham gia
vào các quan hệ PL quốc tế.
Chú ý: vấn đề công nhận quốc gia. Hiện vẫn còn có tranh luận về việc 1 thực thể đáp ứng đầy đủ 4
yếu tố trên thì có được coi là quốc gia không, việc không được các quốc gia khác công nhận sẽ ra sao
(VD trường hợp VN năm 1945 chưa được quốc gia nào công nhận, đến tận năm 1979 mới được gia
nhập Liên hợp quốc) ? Hiện có 2 học thuyết:
+ thuyết Cấu thành: 1 thực thể khi đã có đủ 4 yếu tố trên sẽ trở thành 1 quốc gia khi được hầu hết các quốc gia khác công nhận
+ thuyết Tuyên bố: 1 thực thể đáp ứng đủ 4 yếu tố trên thì sẽ thành 1 quốc gia, không cần biết các
quốc gia khác có công nhận hay không (quan điểm của VN theo thuyết Tuyên bố)
- Công nhận: là hành vi chính trị pháp lý của quốc gia nhằm công nhận chủ thể mới ra đời của luật
Quốc tế, thể hiện quan điểm muốn thiết lập quan hệ một cách toàn diện và đầy đủ với chủ thể / quốc gia đó.
Tính chính trị và tính pháp lý của việc công nhận quốc gia thể hiện ở:
+ Việc công nhận hay không công nhận 1 quốc gia không có ý nghĩa quyết định tới tư cách chủ thể
luật Quốc tế của quốc gia mới ra đời. (==> tính pháp lý) 2 lOMoAR cPSD| 45936918
Tuy nhiên việc không được công nhận sẽ có ảnh hưởng đến việc quan hệ quốc tế của quốc gia đó.
VD trường hợp VN do không được công nhận nên không thể tham gia Liên hợp quốc (cho đến năm
1979, trước đó VN được xếp vào nhóm “các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết”)
+ Việc 1 quốc gia mới ra đời cũng không đặt ra nghĩa vụ cho các quốc gia đã tồn tại phải tiến hành
công nhận quốc gia đó. (==> tính chính trị)
==> việc 1 quốc gia công nhận 1 quốc gia khác (mới thành lập) phụ thuộc vào lợi ích của việc công
nhận quốc gia đó (nếu tôi công nhận anh thì tôi sẽ được lợi gì và có thể có bất lợi gì)
VD với trường hợp Đài Loan hiện nay, rất nhiều quốc gia đã công nhận Đài Loan là 1 quốc gia (các
quốc gia phương Tây), trong khi cũng có nhiều quốc gia khác không coi Đài Loan là 1 quốc gia (các quốc
gia chịu ảnh hưởng của Trung Quốc như VN, Lào, Campuchia, ...)
+ Các thể loại công nhận: 2 thể loại
✓ Công nhận quốc gia: quốc gia được thành lập theo 2 con đường:
• Cách cổ điển: có 1 vùng lãnh thổ, con người đến ở, xã hội hình thành và phát triển đến mức
thành lập quốc gia. (Hiện nay thì không còn quốc gia nào hình thành bằng con đường này, lý
do vì tất cả các vùng lãnh thổ trên thế giới đều thuộc về 1 quốc gia nào đó)
• Thông qua cách mạng xã hội: ví dụ VN năm 1945 được hình thành sau CM tháng 8 (trước đó
được xếp vào nhóm Các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập) ==> đặt ra vấn đề công nhận từ các quốc gia khác
✓ Công nhận chính phủ: chính phủ là đại diện cho quốc gia, việc công nhận 1 chính phủ tức là
thừa nhận sự hơp pháp của chính phủ đó. Vấn đề công nhận chính phủ thường được đặt ra khi
chính phủ được thành lập theo con đường không hợp hiến (de-facto), tức là chính phủ vi hiến
(không được thành lập theo Hiến pháp của quốc gia đó, VD gần đây chính phủ quân sự ở Thái
Lan được thành lập sau cuộc đảo chính). Ngược lại là chính phủ hợp hiến (được thành lập theo
Hiến pháp) thì sẽ không đặt ra vấn đề phải công nhận.
Điều kiện để 1 chính phủ vi hiến được công nhận:
• Chính phủ đó được đa số cư dân quốc gia đó thừa nhận, ủng hộ
• Chính phủ đó phải đã và đang thiết lập quyền kiểm soát một cách thực sự trên toàn bộ
phạm vi lãnh thổ quốc gia đó
• Chính phủ đó phải có khả năng kiểm soát lãnh thổ quốc gia đó 1 cách lâu dài
Cách thức công nhận: thông thường nhất là gửi điện chúc mừng Chính phủ
+ Các hình thức công nhận: 03 hình thức
✓ Công nhận de-jure: là hình thức công nhận đầy đủ, chính thức và toàn diện nhất, thể hiện mong
muốn thiết lập quan hệ toàn diện, chính thức và đầy đủ giữa 2 quốc gia
✓ Công nhận de-facto: là hình thức công nhận chính thức nhưng chưa đầy đủ, thể hiện thái độ
thận trọng của quốc gia công nhận đối với các diễn biến tiếp theo của chủ thể mới (tức là công
nhận từng phần, có thể dẫn tới công nhận de-jure hoặc không công nhận nữa)
✓ Công nhận ad-hoc: tức là công nhận theo vụ việc. Chưa công nhận nhưng trong từng vụ việc cụ
thể thì sẽ công nhận. VD chỉ công nhận là quốc gia trong hợp tác thương mại
+ Các phương pháp công nhận: 2 phương pháp
✓ Công nhận minh thị: là hình thức công nhận công khai, minh bạch, như gửi điện chúc mừng,
tuyên bố, hoặc bằng các văn bản thể hiện rõ ràng việc công nhận quốc gia đó
✓ Công nhận mặc thị: không công nhận một cách công khai, mà bằng những hành động cụ thể để
có thể duy diễn rằng đã công nhận (tiếp bài trước) 3 lOMoAR cPSD| 45936918
- Kế thừa quốc gia: là việc 1 quốc gia thay thế cho 1 quốc gia khác trong vấn đề thực hiện quyền và
nghĩa vụ pháp lý quốc tế.
Kế thừa quốc gia được đặt ra khi có sự thay đổi về chủ quyền quốc gia một cách tuyệt đối, gồm:
+ thành lập quốc gia sau cách mạng xã hội, VD Liên Xô
+ thành lập quốc gia sau cách mạng giải phóng dân tộc như VN, Lào, Campuchia
+ thành lập quốc gia sau khi chia tách, sáp nhập Nội dung kế thừa:
+ kế thừa về lãnh thổ quốc gia: kể cả trường hợp lãnh thổ quốc gia bị chiếm đóng bất hợp pháp thì
quốc gia kế thừa vẫn có chủ quyền với phần lãnh thổ đó
+ kế thừa về tài sản quốc gia
+ kế thừa quyền và nghĩa vụ trong các điều ước quốc tế: các quốc gia mới thành lập có quyền kế thừa
hoặc không kế thừa các điều ước quốc tế mà quốc gia trước đây tham gia, có thể kế thừa toàn bộ hoặc
kế thừa có chọn lọc những điều ước quốc tế phù hợp với quốc gia mới thành lập. Tuy nhiên theo Công
ước Viên 1978 thì với điều ước quốc tế về Biên giới lãnh thổ thì quốc gia mới thành lập bắt buộc phải kế thừa.
Thực tế: năm 1945 Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, trong đó tuyên bố “bãi bỏ tất cả các điều
ước quốc tế mà Pháp đã ký liên quan đến VN”, nhưng đến năm 1999, khi đàm phán với Trung Quốc về
việc phân chia biên giới trên bộ thì VN lại đề nghị 2 bên tuân thủ theo Hiệp ước Pháp – Thanh 1858 về
phân định biên giới trên bộ Việt Nam – Trung Quốc
+ kế thừa về quy chế thành viên trong các điều ước quốc tế: chưa có quy định cụ thể, hiện thay thông
thường các tổ chức quốc tế sẽ kết nạp quốc gia mới thành lập như 1 thành viên mới
(2) Chủ thể: các tổ chức quốc tế liên chính phủ
- Là chủ thể hạn chế và phái sinh.
Câu hỏi: Vì sao nói quyền năng của tổ chức quốc tế liên chính phủ là hạn chế và phái sinh ?
Khác với chủ thể quốc gia là loại chủ thể cơ bản và chủ yếu của luật Quốc tế, vì tất cả các quan hệ PL
quốc tế ban đầu đều do các quốc gia đặt ra, các quốc gia đóng vai trò trung tâm trong PL quốc tế, quốc
gia là thực thể có quyền năng cơ bản và đầy đủ nhất (xuất phát từ thuộc tính chủ quyền quốc gia), cứ
có đầy đủ 4 yếu tổ là trở thành quốc gia và có đầy đủ quyền năng tham gia vào các quan hệ luật quốc
tế mà chỉ phụ thuộc vào ý chí của chính quốc gia đó.
Tổ chức quốc tế liên chính phủ không có quyền năng như quốc gia, mà quyền năng chủ thể của tổ
chức liên chính phủ do các quốc gia thành viên tự hạn chế 1 phần quyền năng chủ thể của mình để
trao cho tổ chức quốc tế liên chính phủ để đại diện cho các quốc gia thành viên để tham gia các quan
hệ PL quốc tế. Do đó quyền năng của tổ chức quốc tế không phải do tự thân mà có ==> quyền năng phái sinh.
Khác với quốc gia có thể tham gia bất kỳ quan hệ quốc tế trên bất kỳ lĩnh vực nào (chính trị, quân sự,
kinh tế, tôn giáo, văn hóa, ...), thì 1 tổ chức quốc tế chỉ tham gia vào 1 hoặc 1 số lĩnh vực nhất định, ví
dụ WTO chỉ tham gia trên lĩnh vực thương mại, NATO chỉ hoạt động trên lĩnh vực quân sự, Liên hợp
quốc chỉ hoạt động trên lĩnh vực duy trì hòa bình và an ninh trên thế giới, ASEAN chỉ hoạt động trên
lĩnh vực kinh tế và chính trị. Quyền năng của tổ chức quốc tế khi tham gia quan hệ quốc tế hoàn toàn
phụ thuộc vào các quốc gia thành viên ==> quyền năng hạn chế.
- Tổ chức quốc tế liên chính phủ là thực thể liên kết giữa các quốc gia và các tổ chức quốc tế trên cơ
sở 1 điều ước quốc tế nhằm hoạt động theo đúng mục đích và tôn chỉ của tổ chức đó.
Chú ý: chỉ có tổ chức quốc tế liên chính phủ mới là chủ thể của luật Quốc tế, còn tổ chức quốc tế phi
chính phủ không phải là chủ thể của luật Quốc tế. 4 lOMoAR cPSD| 45936918
- Phân biệt tổ chức quốc tế liên chính phủ và tổ chức quốc tế phi chính phủ:
Tổ chức quốc tế liên chính phủ
Tổ chức quốc tế phi chính phủ Ví dụ
Liên hợp quốc, Liên minh Châu Âu, Khối quân sự bắc Liên đoàn bóng đá thế giới đại tây dương (NATO)
(FIFA), Hội chữ thập đỏ quốc tế
Mục đích Hoạt động vì mục đích chính trị, kinh tế
Phi lợi nhuận, thường vì mục đích nhân đạo Thành
Là các quốc gia, trong 1 số trường hợp đặc biệt thì tổ Thường là cá nhân, pháp nhân viên
chức liên chính phủ này có thể là thành viên của tổ chức
liên chính phủ khác, VD liên minh châu Âu (EU) là thành
viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO)
Bộ máy Có bộ máy, cơ quan để duy trì hoạt động thường xuyên Không có bộ máy, cơ quan như tổ chức
của tổ chức, thường gồm cơ quan đoàn thể, cơ quan đại tổ chức liên chính phủ
diện, ủy ban thư ký, ...
(3) Chủ thể: các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết
- Hiện tại (năm 2016) trên thế giới chỉ còn duy nhất 1 chủ thể loại này là Palestin (liên hợp quốc đã
trao cho Palesin quy chế Nhà nước quan sát viên)
- Với chủ thể này, do không phải là quốc gia nên không có chủ quyền quốc gia, mà chỉ có chủ quyền dân tộc.
Chủ quyền dân tộc hạn chế so với chủ quyền quốc gia, các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự
quyết có các quyền năng:
+ được PL quốc tế bảo vệ
+ được nhận trợ giúp từ các quốc gia khác
+ có quyền đưa ra các quan điểm chính trị và tự quyết về vận mệnh dân tộc mình, trong đó có cả
quyền quyết định sử dụng sức mạnh vũ trang để đấu tranh giành độc lập tự do
+ có quyền thiết lập quan hệ với các chủ thể của luật quốc tế khác
(4) Chủ thể đặc biệt: Hồng Kông, Macau, Đài Loan, tòa thánh Vatican, ...
Chú ý: riêng với trường hợp Đài Loan thì trên thế giới chưa có quan điểm thống nhất, một số quốc gia
đã công nhận Đài Loan là 1 quốc gia (như các quốc gia châu Âu), một số quốc gia khác không công nhận
Đài Loan là 1 quốc gia. Thực tế trong nhiều tổ chức quốc tế thì cả Đài Loan và Trung Quốc đều là thành viên (như WTO)
c. Đặc trưng về sự hình thành luật quốc tế
- Thỏa thuận là con đường duy nhất để hình thành nên các quy phạm PL quốc tế. Khác với luật quốc
gia do cơ quan quyền lực NN ban hành.
Luật quốc tế đa phần gồm các quy phạm tùy nghi, khác với luật quốc gia đa phần là quy phạm mệnh
lệnh. Vì luật quốc gia là ý chí của giai cấp thống trị, còn luật quốc tế được hình thành trên con đường
thỏa thuận, không có quốc gia nào đứng trên quốc gia nào
- Đặc trưng về sự thực thi luật Quốc tế: luật Quốc tế khác với luật quốc gia ở chỗ luật Quốc tế không
có hệ thống các cơ quan để cưỡng chế thi hành PL. Các quy phạm PL quốc tế được đảm bảo thi hành
trên cơ sở cơ chế tự cưỡng chế. Tự cưỡng chế ở đây không phải là “tự tôi cưỡng chế tôi”, mà trong 5 lOMoAR cPSD| 45936918
quan hệ giữa các chủ thể với nhau thì các chủ thể tự cưỡng chế nhau để luật quốc tế được thi hành. Có
2 hình thức tự cưỡng chế:
+ cưỡng chế riêng lẻ: trong quan hệ song phương giữa 2 quốc gia thì các quốc gia tự áp dụng các
phương pháp để buộc bên kia phải thi hành
+ cưỡng chế tập thể: trong khuôn khổ các điều ước quốc tế đa phương, nếu 1 bên không tuân thủ thì
các bên còn lại sẽ áp dụng các biện pháp để buộc bên đó phải tuân thủ
Khác với luật quốc gia có hệ thống các cơ quan cưỡng chế thi hành như tòa án, viện kiểm sát, công án, cảnh sát, ...
Câu hỏi: với cơ chế tự cưỡng chế thì phải chăng luật quốc tế chỉ mang tính hình thức ?
Trả lời (tự trả lời): khi 1 quốc gia vi phạm luật quốc tế thì sẽ bị dư luận quốc tế lên án. Mặc dù dư luận
quốc tế không có tính cưỡng chế nhưng gây ảnh hưởng lớn đối với quốc gia bị lên án (tương tự như dư
luận xã hội trong quốc gia tuy không có tính cưỡng chế bắt buộc nhưng tác động lên đối tượng còn hơn
của sự trừng phạt của PL). Thực tế lịch sử cho thấy trong các tranh chấp quốc tế, nhất là giữa quốc gia
“nhỏ” với cường quốc, thì dù cường quốc có “thua” thì cường quốc cũng không bao giờ thừa nhận
“thua”, tuy nhiên cường quốc sẽ tìm cách cách khác để “bồi thường, bù đắp” cho nước nhỏ. Ví dụ
trường hợp Nicaragua kiện Mỹ năm 1986 ra Tòa án Công lý quốc tế, Mỹ bị xử thua và phải bồi thường,
Mỹ tuyên bố bác bỏ phán quyết của tòa, nhưng sau đó Mỹ dùng biện pháp viện trợ như 1 cách khác để
bồi thường cho Nicaragua. Hoặc với trường hợp Hội bảo vệ nạn nhân chất độc da cam của Việt Nam
kiện các công ty hóa chất, quân sự của Mỹ, dù không được phía Mỹ thừa nhận, nhưng phía Mỹ thông
qua nhiều tổ chức nhân đạo, giáo dục, y tế đã hỗ trợ cho VN rất nhiều (như chương trình học bổng Fullbright). (tiếp bài trước)
II. Quy phạm pháp luật luật Quốc tế 1. Định nghĩa
- Cũng giống như hệ thống PL quốc gia, quy phạm PL luật Quốc tế là thành tố nhỏ nhất tạo nên hệ thống PL Quốc tế
- Quy phạm PL luật Quốc tế là những quy tắc xử sự do các quốc gia và các chủ thể của luật Quốc tế
thỏa thuận xây dựng nên nhằm điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia và các chủ thể đó. 2. Phân loại
a. Căn cứ vào giá trị hiệu lực
- Quy phạm mệnh lệnh (jus cogens): là những quy phạm mang tính chất chủ đạo, bao trùm và có giá trị
bắt buộc chung đối với mọi chủ thể trong mọi lĩnh vực. Quy phạm jus cogens được coi là thước đo tính
hợp pháp của tất cả các nguyên tắc và quy phạm PL luật quốc tế
- Quy phạm thông thường (hay quy phạm tùy nghi): là những quy phạm PL có giá trị pháp lý bắt buộc
đối với các chủ thể luật Quốc tế, nhưng trong giới hạn cho phép thì các chủ thể có thể thỏa thuận và áp
dụng khác. (khác với quy phạm mệnh lệnh là các bên không được phép thỏa thuận khác với quy định)
Chú ý: quy phạm tùy nghi trong luật quốc tế khác với quy phạm tùy nghi trong luật quốc gia. Ví dụ:
+ Các quốc gia có quyền tuyên bố lãnh hải quốc gia mình không quá 12 hải lý tính từ đường cơ sở ==> quy phạm tùy nghi
+ Cấm sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế ==> quy phạm mệnh lệnh
+ Tại vùng trời quốc gia, mọi sự ra vào của tàu bay nước ngoài đều phải xin phép ==> quy phạm tùy
nghi (vì các quốc gia có thể thỏa thuận với nhau về việc xin phép như thế nào) 6 lOMoAR cPSD| 45936918
==> phân biệt quy phạm mệnh lệnh và quy phạm tùy nghi bằng cách quy phạm mệnh lệnh không cho
phép các chủ thể có bất kỳ sự thỏa thuận nào khác với quy phạm, còn quy phạm tùy nghi thì các chủ
thể có thể thỏa thuận khác với quy phạm (nhưng phải trong giới hạn cho phép).
Trong hệ thống luật Quốc tế, có rất ít quy phạm mệnh lệnh mà chủ yếu là quy phạm tùy nghi (do tính
chất thỏa thuận của luật quốc tế trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng giữa các quốc gia). Ngược lại với luật
quốc gia thì đa phần là quy phạm mệnh mệnh, rất ít quy phạm tùy nghi.
- Quy phạm mệnh lệnh trong hệ thống luật quốc tế chỉ bao gồm 2 nhóm:
+ nhóm 7 nguyên tắc cơ bản của luật Quốc tế,
+ nhóm các quy phạm của luật Quốc tế trong vấn đề bảo đảm các quyền cơ bản của con người
b. Căn cứ vào hình thức tồn tại
- Quy phạm điều ước quốc tế: tồn tại ở dạng văn bản
- Quy phạm tập quán quốc tế: tồn tại ở dạng phi văn bản
III. Mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia
Trong lịch sử tồn tại 2 học thuyết chính:
- Thuyết nhất nguyên: coi PL là 1 hệ thống duy nhất, gồm 2 bộ phận là PL quốc gia và PL quốc tế. Chia làm 2 phái: + ưu tiên PL quốc tế + ưu tiên PL quốc gia
- Thuyết nhị nguyên: coi PL quốc gia và PL quốc tế là 2 hệ thống PL độc lập, trong đó PL quốc gia chỉ
điều chỉnh các mối quan hệ trong nội bộ quốc gia, còn PL quốc tế điều chỉnh các mối quan hệ giữa các
quốc gia và vùng lãnh thổ với nhau
Cả 2 học thuyết trên đều không tiến bộ:
+ với thuyết nhất nguyên, thì nếu theo trường phái ưu tiên luật Quốc gia thì sẽ coi quyền lợi quốc gia
là tối cao, khi đó luật Quốc tế không còn có giá trị nếu mâu thuẫn với luật Quốc gia. Ở nhánh còn lại,
nếu coi luật Quốc tế là tối cao, thì cũng không hợp lý khi các quốc gia mạnh sẽ dễ dàng lấn át các quốc
gia yếu hơn (sẽ không còn tuân thủ nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng trong quan hệ quốc tế)
+ với thuyết nhị nguyên: dễ thấy không hợp lý vì dù là luật quốc gia hay luật quốc tế thì cũng đều do
1 chủ thể là quốc gia xây dựng nên để thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại của quốc gia, mà 2
chức năng này không thể tách rời nhau
Hiện nay, mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia được quan niệm như sau:
- Luật quốc tế và luật quốc gia là 2 hệ thống độc lập nhưng có mối quan hệ biện chứng với nhau:
+ luật quốc tế là cơ sở để hình thành và hoàn thiện hệ thống PL của các quốc gia. VD khi 1 quốc gia
trở thành thành viên của 1 tổ chức quốc tế, thì quốc gia đó phải rà soát và điều chỉnh lại hệ thống PL
của nước mình để phù hợp với luật quốc tế
+ các quy phạm PL quốc gia cũng góp phần hoàn thiện và phát triển hệ thống PL quốc tế. VD hầu hết
các tiêu chuẩn về môi trường của PL quốc tế đều xuất phát từ các tiêu chuẩn về môi trường của 1
quốc gia đi tiên phong trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, sau đó được các nước ủng hộ và nâng lên thành luật Quốc tế
Câu hỏi: so sánh luật quốc tế và luật quốc gia 7 lOMoAR cPSD| 45936918 Luật quốc gia Luật quốc tế Phạm vi
Mối quan hệ giữa cá nhân và pháp nhân Mối quan hệ giữa các quốc gia với nhau
điều chỉnh trong phạm vi lãnh thổ quốc gia
Hình thành Là ý chí của giai cấp thống trị
Hình thành bằng con đường thỏa thuận
giữa các quốc gia dựa trên nguyên tắc
bình đẳng, tự nguyện của các quốc gia Cơ chế
Có hệ thống cơ quan cưỡng chế thi hành
Không có hệ thống cơ quan cưỡng chế thi
cưỡng chế PL (tòa án, viện kiểm sát, công an, ...)
hành PL (tự cưỡng chế)
Quy phạm Chủ yếu là quy phạm mệnh lệnh, rất ít
Chủ yếu là quy phạm tùy nghi, rất ít quy quy phạm tùy nghi phạm mệnh lệnh
Câu hỏi: nếu có 1 vấn đề phát sinh mà luật quốc gia mâu thuẫn với luật quốc tế thì sẽ xử lý thế nào ?
Trả lời: sẽ ưu tiên áp dụng PL quốc tế. Vì trong mọi văn bản PL của VN đều quy định “trong trường hợp
các quy định của luật này trái với các điều ước quốc tế mà VN là thành viên thì ưu tiên áp dụng điều
ước quốc tế”. Đây cũng là quy định chung đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới. Có điều này là vì
xuất phát từ 1 trong các nguyên tắc cơ bản của luật Quốc tế: nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện
cam kết quốc tế, trong đó quy định “khi 1 quốc gia là thành viên của 1 tổ chức quốc tế, thì quốc gia đó
phải có nghĩa vụ tận tâm, thiện chí thực hiện trung thực, đầy đủ, ngay lập tức tất cả các nghĩa vụ của
mình; các quốc gia không được phép viện dẫn sự khác biệt giữa luật trong nước và luật quốc tế để từ
chối thực hiện cam kết quốc tế của mình”
Chú ý: cần hiểu là luật quốc tế có giá trị ưu tiên thi hành, chứ không phải luật quốc tế có giá trị pháp lý cao hơn luật quốc gia.
Câu hỏi: giữa luật quốc tế và luật quốc gia thì luật nào có giá trị pháp lý cao hơn.
Trả lời: đây là 2 hệ thống PL độc lập nên không thể so sánh hệ thống nào có giá trị pháp lý cao hơn.
Trong từng trường hợp cụ thể nếu luật quốc gia và luật quốc tế cùng quy định 1 vấn đề thì sẽ ưu tiên
sử dụng luật quốc tế.
Câu hỏi: nếu luật Quốc tế mâu thuẫn với Hiến pháp thì xử lý thế nào ?
Trả lời: Về mối quan hệ giữa luật Quốc tế với Hiến pháp, hiện nay các quốc gia có quan điểm khác
nhau: một số quốc gia cho rằng xuất phát từ nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện cam kết quốc tế
thì luật Quốc tế sẽ được ưu tiên thi hành ngay cả so với Hiến pháp; một số quốc gia khác lại coi luật
Quốc tế có giá trị ưu tiên thi hành nhưng vẫn phải ở sau Hiến pháp.
Thực tế Hiến pháp của các quốc gia trên thế giới đều ghi nhận rõ ràng vị trí của luật Quốc tế so
với Hiến pháp ở ngay trong văn bản Hiến pháp, trừ Việt Nam.
Lý lẽ của VN khi không đưa quy định về vị trí của luật Quốc tế trong Hiến pháp: VN có các văn
bản PL quy định về việc ký kết các điều ước quốc tế (mới nhất là Luật điều ước quốc tế 2016) trong
đó nêu rõ khi đàm phán để ký kết các điều ước quốc tế thì phải không được trái với Hiến pháp, do đó ở
VN sẽ không có chuyện ký kết điều ước quốc tế trái với Hiến pháp VN
Vấn đề 2: Nguồn của luật Quốc tế I. Khái niệm 8 lOMoAR cPSD| 45936918 1. Định nghĩa
- Nguồn của luật Quốc tế được hiểu là những hình thức chứa đựng hay biểu hiện sự tồn tại của các quy phạm PL quốc tế.
Chú ý: nguồn của luật Quốc tế có nghĩa rộng hơn so với nguồn của PL quốc gia (trong môn học Lý luận
NN và PL): nguồn trong luật quốc gia chỉ là những hình thức chứa đựng các quy phạm PL, còn nguồn
trong luật Quốc tế không chỉ là những hình thức chứa đựng các quy phạm PL luật Quốc tế mà còn gồm
cả những biểu hiện sự tồn tại của các quy phạm PL luật Quốc tế (hay còn gọi là những phương tiện bổ trợ nguồn).
Câu hỏi: Phương tiện bổ trợ nguồn có phải là nguồn của PL không ?
Trả lời: nếu với luật quốc gia thì là KHÔNG; nếu với luật quốc tế thì là CÓ
2. Căn cứ để xác định nguồn
II. Cấu trúc nguồn của luật Quốc tế
Nguồn của luật Quốc tế: - Nguồn cơ bản:
+ điều ước quốc tế (nguồn thành văn)
+ tập quán quốc tế (nguồn bất thành văn)
- Nguồn bổ trợ / Phương tiện bổ trợ nguồn: + nguyên tắc PL chung
+ phán quyết của Tòa án công lý quốc tế
+ nghị quyết của tổ chức quốc tế liên chính phủ
+ hành vi pháp lý đơn phương của quốc gia
+ các học thuyết của các học giả nổi tiếng về luật quốc tế
1. Điều ước quốc tế a. Khái niệm
- Là thỏa thuận bằng văn bản giữa các quốc gia và các chủ thể khác của luật Quốc tế trên cơ sở tự
nguyện, bình đẳng, nhằm điều chỉnh mối quan hệ mối quan hệ phát sinh giữa các quốc gia và các chủ
thể đó. (theo Công ước Viên 1969 về Điều ước quốc tế)
- Là loại nguồn cơ bản và chủ yếu của luật Quốc tế Ngày 25/08/2016
Giảng viên: cô Mạc Thị Hoài Thương (tiếp bài trước) b. Đặc điểm - Về hình thức:
+ về nguyên tắc, điều ước quốc tế phải tồn tại dưới dạng văn bản, nhưng có 1 ngoại lệ duy nhất, đó
là Điều ước quốc tế Quân tử có thể tồn tại dưới dạng bất thành văn. (điều ước Quân tử chỉ tồn tại sau
chiến tranh thế giới, đến nay hầu như không còn, điều ước Quân tử thường là các cam kết của các quốc
gia sau chiến tranh, các quốc gia đó cho rằng khi các quốc gia ký kết điều ước quốc tế thì các quốc gia
đó sẽ bằng danh dự và uy tín của quốc gia mình mà tôn trọng và thực thi các điều ước quốc tế đó, và
việc này không cần phải ký kết bằng văn bản) 9 lOMoAR cPSD| 45936918
+ điều ước quốc tế là 1 khái niệm chung (tương tự Văn bản luật trong hệ thống luật Quốc gia), tùy
vào từng trường hợp cụ thể mà điều ước quốc tế sẽ có tên gọi phù hợp: với điều ước để thành lập các
tổ chức quốc tế hay các cơ quan tài phán quốc tế thì sẽ có tên Hiến chương, Điều lệ, Quy chế; với điều
ước quốc tế về phân định biên giới, lãnh thổ thì sẽ có tên là Hiệp định, Công ước; nghị định thư, . . Tuy
nhiên, khác với quy định về tên gọi văn bản luật trong hệ thống luật quốc gia vốn được quy định rất rõ
(hiến pháp, luật, nghị định, thông tư, quyết định, chỉ thị . .), thì với luật quốc tế không có bất kỳ quy
định nào về việc đặt tên cho điều ước, việc đặt tên đó hoàn toàn do các bên thỏa thuận.
+ tên gọi của điều ước quốc tế không có giá trị phân định giá trị pháp lý cao hay thấp của điều ước
quốc tế (điều này khác với tên văn bản luật trong luật quốc gia)
+ một điều ước quốc tế thông thường được kết cấu 3 phần: mở đầu, nội dung, kết luận. Phần nội
dung của điều ước quốc tế gồm các điều khoản quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể. Cũng có
trường hợp nội dung của điều ước quốc tế không bao gồm bất cứ điều khoản nào, ví dụ Tuyên bố
thành lập tổ chức ASEAN - Về nội dung:
+ nội dung của điều ước quốc tế thông thường bao gồm các điều, khoản ghi nhận quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
+ nội dung khác: thời điểm bắt đầu phát sinh hiệu lực, thời điểm chấm dứt hiệu lực, có cho bảo lưu
không, có được mời các quốc gia khác gia nhập không, ...
c. Điều kiện để điều ước quốc tế có thể phát sinh hiệu lực
- Điều ước quốc tế phải thỏa mãn đủ 3 điều kiện sau thì mới phát sinh hiệu lực:
(1) Được ký kết trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng
(2) Nội dung của điều ước quốc tế phải phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật Quốc tế
(3) Phải được ký kết đúng trình tự, thủ tục và thẩm quyền
- Điều ước quốc tế sẽ vô hiệu tuyệt đối nếu vi phạm điều kiện (2). Tức là nếu điều ước quốc tế vi
phạm các quy phạm jus cogens thì sẽ bị vô hiệu ngay từ khi nó phát sinh hiệu lực. Còn nếu điều ước
quốc tế đã có rồi, sau đó mới có quy phạm jus cogens và chúng mâu thuẫn với nhau thì điều ước quốc
tế sẽ vô hiệu kể từ thời điểm quy phạm jus cogens có hiệu lực.
- Nếu vi phạm điều kiện (1) hoặc (3) thì điều ước quốc tế sẽ vô hiệu tương đối. Tức là vẫn được coi là
có hiệu lực nếu các bên vẫn đồng ý thực thi.
Chú ý: trình tự, thủ tục, và thẩm quyền ở đây là những quy định trong luật quốc gia khi quy định về
việc tham gia ký kết các điều ước quốc tế (mỗi quốc gia có thể có quy định khác nhau).
d. Trình tự ký kết điều ước quốc tế
Trải qua 2 giai đoạn:
- Giai đoạn hình thành văn bản điều ước, gồm các bước:
+ B1: đàm phán: các bên thỏa thuận, thương lượng về tất cả các nội dung về diều ước, bao gồm
quyền và nghĩa vụ của các bên, hiệu lực áp dụng, thời hạn, thời hiệu ...
+ B2: soạn thảo: có 2 cách: các bên sau khi đàm phán sẽ nhờ bên thứ 3 chuyên soạn thảo điều ước
quốc tế; hoặc các bên sẽ cùng nhau lập ra 1 ban soạn thảo gồm đại diện của mỗi bên; hoặc 1 trong các
bên soạn dự thảo sẵn điều ước và các bên còn lại sẽ đàm phán trên dự thảo đó
+ B3: thông qua: là thủ tục nhằm xác nhận văn bản điều ước đã phản ánh đúng nội dung mà các bên
đã đàm phán. Hành vi thông qua không thể hiện sự ràng buộc của điều ước quốc tế đối với quốc gia
mình, tuy nhiên không bên nào được tự ý sửa đổi bổ sung vào văn bản đó. Việc thông qua theo tỷ lệ như
thế nào (quá bán, quá 2/3, ...) hoàn toàn do các bên thỏa thuận. 10 lOMoAR cPSD| 45936918
Các bên thể hiện sự thông qua bằng cách ký nháy vào từng tờ của văn bản.
- Giai đoạn xác nhận sự ràng buộc của văn bản điều ước đối với quốc gia mình: thông qua các hành vi:
+ ký, có 3 hình thức ký:
✓ Ký tắt: là chữ ký của đại diện các bên khi tham gia đàm phán xây dựng văn bản điều ước, nhằm
xác nhận dự thảo văn bản điều ước quốc tế đã được thông qua. Ký tắt chưa làm phát sinh hiệu
lực của điều ước quốc tế.
✓ Ký ad referendum: cũng là chữ ký của người đại diện các quốc gia, nhưng có thể làm phát sinh
hiệu lực của điều ước quốc tế nếu có sự đồng ý tiếp theo của cơ quan NN có thẩm quyền của
quốc gia đó (khi đó chữ ký ad referendum sẽ trở thành ký đầy đủ)
✓ Ký đầy đủ (hay ký chính thức): là hình thức ký phổ biến nhất. Thông thường điều ước quốc tế
sẽ phát sinh hiệu lực ngay sau khi ký đầy đủ nếu các bên không có thỏa thuận khác, hoặc nếu
điều ước quốc tế không đòi hỏi phải thông qua thủ tục phê chuẩn hoặc phê duyệt
+ phê chuẩn, phê duyệt điều ước: là hành vi của cơ quan NN có thẩm quyền nhằm xác nhận sự ràng
buộc của văn bản điều ước đối với quốc gia mình.
Chú ý: phê chuẩn = phê duyệt , khác nhau ở thẩm quyền thực hiện:
Phê chuẩn: do cơ quan quyền lực NN thực hiện (Nghị viện, Quốc hội)
Phê duyệt: do Chính phủ thực hiện
==> tùy từng tính chất của điều ước quốc tế mà sẽ cần được phê chuẩn hoặc phê duyệt
Chú ý: không phải mọi điều ước quốc tế đều phải yêu cầu thủ tục phê chuẩn, phê duyệt, điều này
được quy định ngay trong nội dung điều ước. Có những điều ước quốc tế có hiệu lực ngay sau khi các
bên ký đầy đủ. Nếu trong nội dung điều ước có yêu cầu các bên phải phê chuẩn, phê duyệt thì thông
thường điều ước quốc tế sẽ có hiệu lực sau khi các bên trao đổi với nhau Thư phê chuẩn / Thư phê duyệt.
+ gia nhập điều ước quốc tế: là 1 hình thức đặc biệt của quá trình ký kết điều ước quốc tế, mà theo
hình thức này thì các quốc gia không tham gia vào quá trình hình thành văn bản điều ước mà chỉ tham
gia vào quá trình xác nhận sự ràng buộc của văn bản điều ước quốc tế đó đối với mình.
Đó là các trường hợp điều ước quốc tế đã hết thời hạn ký mà quốc gia đó vẫn chưa là thành viên,
hoặc điều ước quốc tế đã phát sinh hiệu lực mà quốc gia đó vẫn chưa là thành viên
Chú ý: ký >< ký kết
Ký: là 1 hành vi trong giai đoạn xác nhận sự ràng buộc của văn bản điều ước quốc tế với quốc gia
mình, tức là chỉ là 1 giai đoạn của ký kết.
Ký kết: là toàn bộ quá trình trên
e. Thẩm quyền ký kết điều ước quốc tế Gồm 2 nhóm:
- Đại diện đương nhiên:
+ nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu Chính phủ, bộ trưởng ngoại giao có quyền là đại diện đương
nhiên cho quốc gia, thực hiện bất kỳ hành vi nào trong toàn bộ quá trình ký kết điều ước quốc tế
+ người đứng đầu các cơ quan đại diện ngoại giao có quyền đại diện cho quốc gia mình trong việc
thông qua văn bản điều ước quốc tế giữa nước sở tại với nước mình.
+ người đại diện cho quốc gia tại các tổ chức quốc tế, hội nghị quốc tế có quyền đại diện cho quốc
gia mình trong việc thông qua văn bản của 1 điều ước quốc tế trong khuôn khổ của hội nghị hoặc tổ chức đó
Ngoài ra, những người đứng đầu các bộ, cơ quan ngang bộ có quyền ký kết những điều ước quốc tế
thuộc lĩnh vực của bộ, ngành mà không cần thư ủy nhiệm. 11 lOMoAR cPSD| 45936918
- Đại diện theo ủy quyền: ngoài các đối tượng trên thì phải trình thư ủy nhiệm khi tham gia vào quá
trình ký kết điều ước quốc tế
f. Hiệu lực của điều ước quốc tế
- Về thời điểm điều ước quốc tế bắt đầu phát sinh hiệu lực: theo thỏa thuận của các bên
- Thời điểm chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế:
+ với điều ước quốc tế có thời hạn: chấm dứt hiệu lực theo thời hạn đã thỏa thuận
+ với điều ước quốc tế vô thời hạn: chấm dứt hiệu lực khi xảy ra 1 số yếu tố khách quan, chủ quan
ảnh hưởng đến hiệu lực của điều ước quốc tế
✓ Các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến hiệu lực của điều ước quốc tế:
• Khi đối tượng của điều ước quốc tế không còn. Ví dụ điều ước về đối xử nhân đạo với tù
binh trong chiến tranh sẽ kết thúc khi chiến tranh kết thúc; điều ước giữa Hoa Kỳ với Việt
Nam về tìm kiếm người Mỹ mất tích sẽ kết thúc sau khi tìm thấy hết người Mỹ mất tích
• Khi xuất hiện sự thay đổi cơ bản về hoàn cảnh khách quan (rebussic stantibus) (khoản 2
Điều 62 Công ước Viên 1969 về Luật Điều ước quốc tế): theo đó khi có sự thay đổi cơ bản
về hoàn cảnh khách quan tại thời điểm các bên thực hiện nghĩa vụ điều ước so với thời
điểm các bên tiến hành ký kết mà hoàn cảnh này lại là cơ sở, điều kiện để các bên có thể
thực hiện nghĩa vụ của mình. Sự thay đổi đó hoàn toàn do nguyên nhân khách quan, không
do bên nào cố tình tạo ra và các bên cũng không thể dự liệu trước sự thay đổi đó tại thời
điểm ký kết. Khi đó 1 trong các bên có quyền viện dẫn sự thay đổi này để chấm dứt hoặc
tạm đình chỉ hiệu lực của điều ước.
Ví dụ: khi quốc gia thay đổi chế độ, VD khi chế độ Việt Nam Cộng hòa sụp đổ năm 1975,
hay VN tuyên bố độc lập năm 1945, Liên Xô sụp đổ 1991
Lưu ý: sự thay đổi cơ bản về hoàn cảnh khách quan không được áp dụng nếu:
o Sự thay đổi đó do 1 trong các bên cố tình tạo ra
o Không được áp dụng đối với các điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ
• Khi xuất hiện quy phạm jus cogens mới có nội dung mâu thuẫn với điều ước quốc tế.
✓ Các yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến điều ước quốc tế:
• Các bên thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế
• Khi 1 trong các bên có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của điều ước quốc tế thì bên
còn lại có thể viện dẫn sự vi phạm đó để từ chối thực hiện cam kết quốc tế của mình
• Bảo lưu điều ước quốc tế: là hành vi pháp lý đơn phương của 1 quốc gia dưới bất kể cách
thức hay tên gọi như thế nào nhằm thay đổi hiệu lực của 1 hoặc 1 số điều khoản của điều ước quốc tế.
Mục đích của bảo lưu: thông thường với 1 điều ước quốc tế (đa phương) thì càng muốn
nhiều quốc gia tham gia càng tốt, tuy nhiên càng nhiều quốc gia tham gia thì việc dung hòa
lợi ích quốc gia càng khó khăn. Do đó vừa để đảm bảo giá trị của điều ước mà vẫn đảm bảo
lợi ích quốc gia, chế định bảo lưu xuất hiện, đảm bảo 1 quốc gia vì lợi ích riêng của mình có
thể thay đổi 1 hoặc 1 số điều khoản của điều ước. Lưu ý:
o Bảo lưu điều ước quốc tế chỉ áp dụng đối với điều ước quốc tế đa phương, không áp
dụng đối với điều ước quốc tế song phương
o Hành vi bảo lưu của quốc gia chỉ được đưa ra vào giai đoạn xác nhận sự ràng buộc
của điều ước quốc tế mà không được đưa ra vào giai đoạn hình thành văn bản điều
ước. (Vì ở giai đoạn hình thành văn bản điều ước thì các bên vẫn có thể đàm phán
nội dung điều ước; còn ở giai đoạn xác nhận sự ràng buộc của điều ước tức là đã
thông qua văn bản điều ước và các bên không có quyền thay đổi nội dung điều ước) 12 lOMoAR cPSD| 45936918
o Bảo lưu là quyền của quốc gia khi tham gia các điều ước quốc tế, nhưng quyền này
có thể bị hạn chế trong các trường hợp sau:
▪ Đối với điều ước quốc tế có quy định cấm bảo lưu
▪ Điều ước quốc tế cho phép bảo lưu 1 số điều khoản nhưng điều khoản bảo
lưu quốc gia đưa ra không nằm trong những điều khoản đó
▪ Bảo lưu trái với đối tượng và mục đích của điều ước
o Hệ quả pháp lý của bảo lưu điều ước quốc tế: quan hệ giữa các thành viên của 1
điều ước sẽ thay đổi trong phạm vi có bảo lưu.
Ví dụ, trong 1 điều ước quốc tế đa phương về vấn đề an ninh, trong đó có điều
khoản “trong trường hợp trong lãnh thổ các quốc gia thành viên mà phát hiện 1 cá
nhân phạm tội ác quốc tế thì các quốc gia có nghĩa vụ dẫn độ quốc gia đó đến Tòa án
hình sự quốc tế để xét xử”. Quốc gia A đưa ra điều kiện bảo lưu điều ước “Tôi cam
kết sẽ dẫn độ cá nhân phạm tội ác quốc tế ra Tòa án hình sự quốc tế để xét xử, trừ
trường hợp cá nhân đó là công dân của nước tôi”, tức là chỉ đồng ý dẫn độ công dân
nước khác đến tòa án quốc tế, còn với công dân của mình thì sẽ xét xử bằng hệ thống
tòa án và luật pháp của quốc gia A. Khi đó các quốc gia khác có thể:
▪ Quốc gia B: Đồng ý để quốc gia đó bảo lưu: quan hệ điều ước giữa A và B vẫn
tồn tại, khi phát sinh vấn đề quan hệ giữa A và B về dẫn độ tội phạm thì sẽ
áp dụng điều khoản do A đưa ra thay cho điều khoản trong điều ước.
▪ Quốc gia C: Phản đối bảo lưu, phản đối quan hệ điều ước: giữa C và A sẽ
không tồn tại quan hệ điều ước
▪ Quốc gia D: Phản đối bảo lưu, nhưng không phản đối quan hệ điều ước: giữa
D và A vẫn tồn tại quan hệ điều ước, nhưng với điều khoản bảo lưu do A đưa
ra sẽ không được áp dụng, khi vấn đề phát sinh thì A và D sẽ cùng đàm phán để giải quyết.
▪ Quốc gia E: Im lặng: các quốc gia được phép im lặng trong 12 tháng kể từ
ngày A đưa ra tuyên bố bảo lưu, nếu không có ý kiến thì được coi là đồng ý
- Hiệu lực của điều ước quốc tế đối với bên thứ 3: về nguyên tắc, điều ước quốc tế chỉ có giá trị pháp
lý ràng buộc đối với các bên là thành viên của điều ước mà không có hiệu lực đối với quốc gia thứ 3.
Tuy nhiên trong 1 số trường hợp đặc biệt, điều ước quốc tế có thể phát sinh hiệu lực đối với bên thứ 3, bao gồm:
+ điều ước quốc tế tạo ra quyền và nghĩa vụ cho bên thứ 3 và được bên thứ 3 đồng ý
+ điều ước quốc tế tạo ra hoàn cảnh khách quan: ví dụ trường hợp Công ước về luật biển quốc tế
1982, dù không phải tất cả các quốc gia đều là thành viên của Công ước, nhưng trong Công ước đó đưa
ra những quy định về vùng biển quốc tế, và các quốc gia không tham gia Công ước có thể áp dụng. Ví
dụ 2 quốc gia có cùng 1 eo biển ký kết với nhau về sử dụng eo biển đó, khi đó tàu thuyền các quốc gia
đó đi qua eo biển đó cũng phải tuân thủ quy định do 2 quốc gia đó đưa ra. Ví dụ các quốc gia ký kết với
nhau về phân chia Nam cực (chỉ có 1 số ít quốc gia được chia Nam cực) và tất cả các quốc gia khác phải tôn trọng.
+ điều ước quốc tế chứa đựng điều khoản tối huệ quốc: là về vấn đề quốc gia đãi ngộ người nước
ngoài, có 2 nhóm chế độ:
✓ Đãi ngộ quốc gia: tạo sự bình đẳng giữa người nước ngoài với công dân trong nước, người nước
ngoài trên lãnh thổ quốc gia được đối xử như với công dân của nước mình, trừ 1 số quyền như ứng cử, bầu cử.
✓ Đãi ngộ tối huệ quốc: quốc gia A dành cho quốc gia B khác quy chế tối huệ quốc tức là A cam
kết B sẽ được hưởng những quyền lợi và ưu đãi không kém phần thuận lợi hơn bất kỳ 1 quốc
gia thứ 3 nào đã, đang, và sẽ được hưởng trong tương lai 13 lOMoAR cPSD| 45936918 (tiếp bài trước)
g. Thực hiện điều ước quốc tế Có 2 cách:
- Áp dụng trực tiếp: coi văn bản điều ước như PL quốc gia và được áp dụng luôn (cách này ít khi được
các quốc gia sử dụng). VD Nghị quyết 71 của Quốc hội năm 2006 về phê chuẩn Nghị định thư gia nhập
WTO, trong đó ghi rõ (đây cũng là trường hợp duy nhất đến nay VN áp dụng trực tiếp PL quốc tế):
“Áp dụng trực tiếp các cam kết của Việt Nam được ghi tại Phụ lục đính kèm Nghị quyết này và các
cam kết khác của Việt Nam với Tổ chức thương mại thế giới được quy định đủ rõ, chi tiết trong Nghị
định thư, các Phụ lục đính kèm và Báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập Hiệp định thành
lập Tổ chức thương mại thế giới.
Trong trường hợp quy định của pháp luật Việt Nam không phù hợp với quy định của Hiệp định thành
lập Tổ chức thương mại thế giới, Nghị định thư và các tài liệu đính kèm thì áp dụng quy định của Hiệp
định thành lập Tổ chức thương mại thế giới, Nghị định thư và các tài liệu đính kèm.”
- Nội luật hóa: trên cơ sở các nghĩa vụ đã cam kết trong điều ước quốc tế, quốc gia ban hành văn bản
quy phạm PL trong nước để thực hiện các nghĩa vụ của mình (hầu hết các quốc gia chọn cách này). 2. Tập quán quốc tế
- Là những quy tắc xử sự hình thành trong thực tiễn đời sống PL quốc tế, được các quốc gia và các chủ
thể khác của luật Quốc tế áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần và được thừa nhận là luật.
- Để được coi là tập quán quốc tế, cần có 2 yếu tố:
+ vật chất: phải có quy tắc xử sự tồn tại trong thực tiễn đời sống PL quốc tế và quy tắc đó được áp
dụng lặp đi lặp lại nhiều lần
+ tinh thần: được hầu hết các quốc gia và các chủ thể PL quốc tế thừa nhận đó là luật
VD: + sứ thần (đoàn ngoại giao) của nước này đến nước khác sẽ được đón tiếp trọng thị, không được
chém, đánh sứ giả; hành vi chém sứ thần được coi là hành vi tuyên chiến. Cho đến nay quy tắc này vẫn
được tiếp tục ghi nhận và được pháp điển hóa vào Công ước Viên 1961 về quan hệ ngoại giao và Công
ước Viên 1963 về quan hệ lãnh sự.
+ Tàu thuyền nước ngoài có thể đi lại không gây hại qua vùng lãnh hải của 1 quốc gia mà không cần xin phép
Câu hỏi: điều kiện “được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần” là bao nhiêu lần ? và “được hầu hết các
quốc gia công nhận” là bao nhiêu quốc gia thì đủ ?
Trả lời: theo quan điểm trước kia thì để hình thành 1 tập quán quốc tế cần phải trải quan vài chục đến
hàng trăm năm. Còn theo quan điểm của PL quốc tế hiện đại thì con đường hình thành tập quán quốc
tế ngắn hơn rất nhiều, chỉ cần thấy 1 quy định trong 1 điều ước nào đó, hoặc phán quyết của tòa án
quốc tế, hoặc hành vi pháp lý đơn phương của quốc gia, ... mà chủ thể thấy phù hợp thì có thể viện dẫn như một tập quán.
- Mối quan hệ điều ước quốc tế và tập quán quốc tế: quan hệ biện chứng và tác động qua lại với nhau
+ điều ước quốc tế có thể là cơ sở cho sự hình thành tập quán quốc tế, ngược lại tập quán quốc tế
cũng có thể là cơ sở cho việc hình thành điều ước quốc tế
+ điều ước quốc tế có thể chấm dứt hiệu lực của tập quán quốc tế (VD các bên có thể thỏa thuận xác
lập điều ước không áp dụng tập quán), và ngược lại tập quán có thể chấm dứt hiệu lực của điều ước
quốc tế (rất ít khi xảy ra, thường là trường hợp tập quán hình thành nên quy phạm jus cogens, ngay khi
quy phạm jus cogens có hiệu lực thì tất cả các điều ước quốc tế có nội dung trái với quy phạm jus
cogens sẽ chấm dứt hiệu lực. VD quy phạm “Cấm sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong 14 lOMoAR cPSD| 45936918
quan hệ quốc tế” là quy phạm jus cogens mới hình thành từ năm 1945, trước đó luật quốc tế cổ đại có
quy phạm jus cogens về quyền được sử dụng chiến tranh “Bất kỳ quốc gia nào cũng có quyền sử dụng
sức mạnh vũ trang để giải quyết mọi tranh chấp liên quan đến mình”)
- So sánh điều ước quốc tế và Tập quán quốc tế:
Điều ước quốc tế
Tập quán quốc tế
Cùng là nguồn cơ bản của luật quốc tế, có giá trị pháp lý ngang nhau Thành văn Bất thành văn
Rõ ràng, minh bạch (vì phải trải qua quá trình Không rõ ràng, ít minh bạch
đàm phán giữa các bên, thể hiện được ý chí của các bên) Hình thành nhanh chóng Rất lâu
Có thể dễ dàng sửa đổi, bổ sung Rất khó để thay đổi
Đã được thực tiễn kiểm nghiệm, đã chứng tỏ
sự phù hợp với thực tiễn, khả năng ứng dụng rất cao
Câu hỏi: Khi gặp 1 vấn đề mà cả điều ước và tập quán đều điều chỉnh, mà điều ước lại mâu thuẫn với
tập quán, thì sẽ áp dụng thế nào ?
Trả lời: sẽ theo thỏa thuận của các bên, nếu 2 bên không thỏa thuận được thì sẽ ưu tiên áp dụng điều
ước. Vì điều ước có tính rõ ràng, minh bạch thể hiện được ý chí của các bên.
Chú ý: ở đây hiểu là điều ước quốc tế được “ưu tiên sử dụng” chứ không phải điều ước quốc tế có
giá trị pháp lý cao hơn.
3. Nguồn bổ trợ / Phương tiện bổ trợ nguồn của luật Quốc tế a. Nguyên tắc PL chung
- là những nguyên tắc PL mà cả luật Quốc tế và luật quốc gia đều thừa nhận.
VD: gây thiệt hại thì phải bồi thường, luật không có giá trị hồi tố, không ai phải là thẩm phán trong vụ
việc của chính mình, ...
b. Phán quyết của tòa án công lý quốc tế
- Tòa án công lý quốc tế (International Court of Justice – ICJ) có chức năng đưa ra các kết luận tư vấn
để các bên tham vấn, không mang tính chất cưỡng chế như đối với tòa án trong quốc gia.
Phán quyết của tòa án quốc tế là đưa các các giải thích pháp luật để từ đó các bên có thể căn cứ để áp
dụng trong các tranh chấp.
- Các quốc gia và các chủ thể không có quyền yêu cầu Tòa án công lý đưa ra các kết luận tư vấn, thẩm
quyền yêu cầu thuộc về Đại hội đồng hay Hội đồng bảo an Liên hợp quốc
- Ngoài Tòa án công lý thì phán quyết của các cơ quan tài phán quốc tế khác cũng được coi là nguồn bổ
trợ. VD Tòa án Trọng tài La Hague về tranh chấp giữa CHND Trung Hoa và CH Philippines năm 2016 về
tranh chấp tại biển Đông. (tòa án này được thành lập theo Phụ lục 7 của Công ước Liên hợp quốc về
luật Biển, không giải quyết tranh chấp Trung Quốc và Philipin, mà Philipin yêu cầu Tòa trọng tài giải
thích thế nào là đảo, thế nào là đá, việc bồi đắp có làm thay đổi tính chất các thực thể đó không, giải
thích về đường lãnh hải, về chủ quyền về lãnh hải, quyền lịch sử, ...)
c. Nghị quyết của tổ chức quốc tế liên chính phủ
Gồm 2 loại Nghị quyết: 15 lOMoAR cPSD| 45936918
- Loại có tính bắt buộc: có giá trị pháp lý ràng buộc với tất cả các quốc gia thành viên của tổ chức đó
- Loại mang tính khuyến nghị: VD nghị quyết về bảo vệ môi trường
d. Hành vi pháp lý đơn phương của quốc gia
- Ví dụ: tiêu chuẩn về môi trường quốc tế hầu hết xuất phát từ tiêu chuẩn về môi trường của các quốc
gia phát triển, được các quốc gia khác học theo và được pháp điển hóa, được ghi nhận trong các điều ước quốc tế
e. Các học thuyết của các học giả nổi tiếng về luật quốc tế
- VD: học thuyết về Tự do biển cả
- Các học thuyết được thừa nhận, được áp dụng trong thực tế, và được pháp điển hóa, được ghi nhận
trong các điều ước quốc tế.
3. Mối quan hệ giữa nguồn cơ bản và nguồn bổ trợ
Câu hỏi trắc nghiệm: các câu khẳng định sau là Đúng / Sai:
(1) Chủ quyền quốc gia là yếu tố cơ bản cấu thành nên quốc gia
(2) Trong 1 số trường hợp đặc biệt, cá nhân, pháp nhân có thể trở thành chủ thể của luật Quốc tế
(3) Điều ước quốc tế chỉ có thể phát sinh hiệu lực sau khi các quốc gia tiến hành thủ tục phê chuẩn
(4) Điều ước quốc tế chỉ có giá trị pháp lý ràng buộc đối với các quốc gia thành viên mà không có
giá trị pháp lý ràng buộc đối với quốc gia thứ 3
(5) Quy phạm tùy nghi không có giá trị pháp lý bắt buộc đối với chủ thể của luật Quốc tế Trả lời: (1) Sai.
Chủ quyền quốc gia là thuộc tính chính trị, pháp lý tự nhiên, vốn có của quốc gia, bao gồm
quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ và quyền độc lập trong quan hệ quốc tế.
Bốn yếu tố cấu thành nên quốc gia gồm:
+ có lãnh thổ xác định + có dân cư ổn định
+ có bộ máy quyền lực NN (chính phủ)
+ có khả năng độc lập khi tham gia vào các quan hệ PL quốc tế
==> Do đó chủ quyền quốc gia không phải yếu tố cơ bản cấu thành nên quốc gia (2) Sai.
Một thực thể được coi là chủ thể của luật Quốc tế nếu thỏa mãn các yếu tố:
+ có tham gia vào các quan hệ PL quốc tế
+ có quyền và khả năng gánh vác nghĩa vụ quốc tế một cách độc lập
+ có khả năng gánh vác các trách nhiệm pháp lý quốc tế phát sinh từ chính hành vi của chủ thể đó
Mặc dù trong một số trường hợp đặc biệt, cá nhân, pháp nhân có thể tham gia vào quan hệ PL
quốc tế, VD trong liên minh châu Âu thì công dân có quyền kiện bất kỳ quốc gia nào bị coi là vi
phạm nhân quyền, tuy nhiên cá nhân, pháp nhân này không được coi là chủ thể của PL quốc tế
vì không đảm bảo khả năng gánh vác nghĩa vụ quốc tế một cách độc lập.
Chủ thể của luật Quốc tế bao gồm: + các quốc gia
+ các tổ chức quốc tế liên chính phủ
+ các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết
+ một số chủ thể đặc biệt: Hồng Kông, Macau, Đài Loan, tòa thánh Vatican, ... 16 lOMoAR cPSD| 45936918
(3) Sai. Theo Công ước Viên 1969 về điều ước quốc tế thì hiệu lực của điều ước quốc tế do các bên
thỏa thuận, có thể ngay sau khi ký đầy đủ, hoặc phải yêu cầu được phê chuẩn / phê duyệt
(4) Sai. Về nguyên tắc, điều ước quốc tế chỉ có giá trị pháp lý ràng buộc đối với các bên là thành
viên của điều ước mà không có hiệu lực đối với quốc gia thứ 3. Tuy nhiên trong 1 số trường hợp
đặc biệt, điều ước quốc tế có thể phát sinh hiệu lực đối với bên thứ 3, bao gồm:
+ điều ước quốc tế tạo ra quyền và nghĩa vụ cho bên thứ 3 và được bên thứ 3 đồng ý
+ điều ước quốc tế tạo ra hoàn cảnh khách quan
+ điều ước quốc tế chứa đựng điều khoản tối huệ quốc
(5) Sai. Vì quy phạm tùy nghi trong luật quốc tế là những quy phạm PL có giá trị pháp lý bắt buộc
đối với các chủ thể luật Quốc tế, nhưng trong giới hạn cho phép thì các chủ thể có thể thỏa thuận và áp dụng khác.
Vấn đề 3: Các nguyên tắc cơ bản của luật Quốc tế I. Khái niệm 1. Định nghĩa
- Nguyên tắc cơ bản của luật Quốc tế được hiểu là những tư tưởng chính trị, pháp lý mang tính chủ
đạo, bao trùm và có giá trị bắt buộc chung đối với mọi chủ thể trong mọi lĩnh vực của đời sống PL quốc tế.
- Có 7 nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế:
+ Nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia
+ Nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế
+ Nguyên tắc hòa bình trong giải quyết tranh chấp quốc tế
+ Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác
+ Nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế (pacta sunt servanda)
+ Nguyên tắc tôn trọng quyền dân tộc tự quyết
+ Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau 2. Đặc điểm
- Có tính mệnh lệnh bắt buộc chung: 7 nguyên tắc cơ bản này mang tính bắt buộc đối với mọi chủ thể
trong mọi lĩnh vực. Bảy nguyên tắc cơ bản này là thước đo tính hợp pháp của tất cả các quy phạm PL
khác cũng như tất cả các hành vi của các chủ thể PL luật quốc tế. Luật quốc tế đề cao sự thỏa thuận,
nhưng nếu sự thỏa thuận đó vi phạm bất kỳ nguyên tức nào trong 7 nguyên tắc cơ bản này thì đều bị
coi là vi phạm nghiêm trong PL quốc tế.
- Có tính phổ cập: nội dung của các nguyên tắc cơ bản này được ghi nhận trong hầu hết các điều ước
quốc tế. Văn bản pháp lý quốc tế quan trọng nhất ghi nhận 7 nguyên tắc này chính là Hiến chương Liên hợp quốc
- Có tính hệ thống: 7 nguyên tắc này có nội dung không độc lập với nhau, phải thực hiện được nguyên
tắc này thì mới thực hiện được nguyên tắc kia, và ngược lại. Ví dụ nguyên tắc cấm dùng vũ lực trong
quan hệ quốc tế và nguyên tắc hòa bình trong giải quyết tranh chấp quốc tế có liên quan chặt chẽ với
nhau: muốn dùng biện pháp hòa bình trong giải quyết tranh chấp quốc tế thì phải đảm bảo không
dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế, và ngược lại.
II. Nội dung của các nguyên tắc cơ bản
1. Nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia 17 lOMoAR cPSD| 45936918
- Đây là 1 trong 2 nguyên tắc truyền thống được hình thành từ luật quốc tế cổ đại (cùng với nguyên tắc
tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế), 5 nguyên tắc còn lại được hình thành trong giai đoạn
luật quốc tế hiện đại sau này.
- Chủ quyền quốc gia là thuộc tính chính trị, pháp lý tự nhiên, vốn có của quốc gia, bao gồm quyền tối
cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ và quyền độc lập trong quan hệ quốc tế
- Ngay từ thời cổ đại, luật pháp quốc tế đã thừa nhận các quốc gia đều bình đẳng về chủ quyền. Đến
pháp luật quốc tế hiện đại thì bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia là nền tảng quan trọng nhất
của quan hệ quốc tế hiện đại.
- Hiến chương Liên hợp quốc đã lấy nguyên tắc này làm cơ sở cho hoạt động của mình, được ghi nhận
trong Khoản 1 Điều 2 của Hiến chương: “Liên hợp quốc được xây dựng trên nguyên tắc bình đẳng chủ
quyền của tất cả các quốc gia thành viên”.
- Nội dung nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia:
+ các quốc gia bình đẳng về mặt pháp lý
+ mỗi quốc gia có chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ
+ mỗi quốc gia có nghĩa vụ tôn trọng quyền năng chủ thể của các quốc gia khác
+ sự toàn vẹn về lãnh thổ và tính độc lập về chính trị là bất di bất dịch
+ mỗi quốc gia có quyền tự do lựa chọn và phát triển chế độ chính trị, xã hội, kinh tế, và văn hóa của mình
+ mỗi quốc gia có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ và tận tâm các nghĩa vụ quốc tế của mình và tồn tại hòa
bình cùng các quốc gia khác
Chú ý: bình đẳng không phải là cào bằng, mà là bình đẳng tương ứng giữa quyền và nghĩa vụ. Ví dụ 5
quốc gia trong Hội đồng bảo an LHQ có nhiều quyền hơn hẳn các quốc gia khác, tuy nhiên họ cũng phải
gánh vác những trách nhiệm vô cùng to lớn, hơn rất nhiều so với các quốc gia khác, như nghĩa vụ tài
chính, nghĩa vụ đóng góp lực lượng vũ trang để duy trì hòa bình và an ninh trên toàn thế giới,. . Hơn nữa
khi tham gia các điều ước quốc tế, các thành viên đều cam kết tự nguyện chấp hành điều ước ==> bình đẳng tự nguyện - Ngoại lệ:
+ trường hợp các quốc gia bị hạn chế chủ quyền do có hành vi vi phạm nghiêm trọng PL quốc tế. VD
Irắc bị cấm vận xuất khẩu dầu mỏ, chỉ được đổi dầu lấy lương thực (da xâm lược Coet); Triền Tiên bị
cấm vận do vi phạm điều ước không phổ biến vũ khí hạt nhân
Chú ý: việc hạn chế chủ quyền ở đây phải do Liên hợp quốc thực hiện (thông qua Nghị quyết của
LHQ), không phải là trường hợp 1 hay một số quốc gia áp dụng lệnh trừng phạt với 1 quốc gia. VD Nga
bị các nước phương Tây trừng phạt do xâm lược Ucraina
+ trường hợp quốc gia tự hạn chế chủ quyền: đây là trường hợp quốc gia tuyên bố trung lập. Có 2 loại trung lập:
✓ Trung lập tạm thời: tức là giữ thái độ trong lập trong 1 vụ việc cụ thể
✓ Trung lập vĩnh viễn: không tham gia vào bất kỳ tổ chức chính trị nào, và trong tất cả các cuộc
tranh chấp quốc tế thì không được bày tỏ chính kiến, không được tham gia vào bất kỳ phe phái
nào. Ví dụ Thụy Sỹ là quốc gia trung lập. (tuy nhiên hiện nay đang có sự tranh cãi về tính trung
lập của Thụy Sỹ do Thụy Sỹ đã làm đơn xin gia nhập EU)
2. Nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế
- Đây là nguyên tắc jus cogens mới được đưa vào luật quốc tế từ năm 1945. Trước đó 1 nguyên tắc jus
cogens từ luật quốc tế cổ đại là quyền được sử dụng chiến tranh: “Bất kỳ quốc gia nào cũng có quyền
sử dụng sức mạnh vũ trang để giải quyết mọi tranh chấp liên quan đến mình”. 18 lOMoAR cPSD| 45936918
- Khoản 4 Điều 2 của Hiến chương LHQ 1970: Tất cả các quốc gia thành viên Liên hợp quốc từ bỏ đe
dọa bằng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế nhằm chống lại sự bất khả xâm phạm về
lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào cũng như bằng cách khác trái với những mục
đích của Liên hợp quốc.
- Nội dung của nguyên tắc này:
+ cấm xâm chiếm lãnh thổ quốc gia khác trái với các quy định của luật quốc tế
+ cấm các hành vi trấn áp bằng vũ lực
+ không được cho quốc gia khác sử dụng lãnh thổ nước mình để tiến hành xâm lược chống lại quốc gia thứ ba
+ không tổ chức, xúi giục, giúp đỡ hay tham gia vào nội chiến hay các hành vi khủng bố tại quốc gia khác
+ không tổ chức hoặc khuyến khích việc tổ chức các băng nhóm vũ trang, lực lượng vũ trang phi chính
quy, lính đánh thuê để đột nhập vào lãnh thổ quốc gia khác
- Dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực:
+ theo nghĩa trước đây là dùng sức mạnh vũ trang hoặc đe dọa sử dụng sức mạnh vũ trang để buộc
quốc gia khác phải theo ý mình
+ theo nghĩa hiện đại: là dùng sức mạnh vũ trang và phi vũ trang như sức mạnh kinh tế, chính trị, ...
để buộc quốc gia khác phải phục tùng mình - Ngoại lệ:
+ khi quốc gia thực hiện quyền tự vệ hợp pháp
+ khi quốc gia sử dụng sức mạnh vũ trang để trừng phạt quốc gia có hành vi vi phạm nghiêm trọng PL
quốc tế theo Nghị quyết của Hội đồng bảo an LHQ
+ các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết có quyền sử dụng sức mạnh vũ trang để giành
quyền dân tộc tự quyết của mình
Câu hỏi: Trường hợp 1 quốc gia tập trận sát biên giới một quốc gia khác thì có bị coi là đe dọa dùng vũ lực ?
Trả lời: Không. Vì quốc gia có quyền tối cao trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mình (tất nhiên phải đảm
bảo không ảnh hưởng đến láng giềng như không để đạn bay sang lãnh thổ láng giềng). Trừ trường hợp
2 quốc gia đã thỏa thuận với nhau về vùng biên giới phi quân sự (thường sau khi đàm phán phân chia
lãnh thổ), khi đó nếu tập trận trong vùng phi quân sự sẽ bị coi là đe dọa dùng vũ lực.
- Khi nào được tự vệ hợp pháp:
+ phải bị tấn công trước
+ hành vi tự vệ phải tương ứng với hành vi tấn công
+ ngay khi thực hiện hành vi tự vệ, quốc gia phải thông báo cho Hội đồng bảo an LHQ, và hành vi tự
vệ này phải chấm dứt ngay lập tức khi Hội đồng bảo an áp dụng các biện pháp cần thiết tạm thời
3. Nguyên tắc hòa bình trong giải quyết tranh chấp quốc tế
- Tranh chấp quốc tế là những hoàn cảnh thực tế mà các quốc gia và các chủ thể khác của luật Quốc tế
có quan điểm mâu thuẫn trái ngược nhau, đồng thời có những yêu cầu đòi hỏi về mặt lợi ích trái ngược
nhau không thể dung hòa cần phải được giải quyết bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở PL quốc tế
- Khoản 3 Điều 2 Hiến chương LHQ: Tất cả các thành viên của Liên hợp quốc giải quyết các tranh chấp
quốc tế của họ bằng biện pháp hoà bình, sao cho không tổn hại đến hoà bình, an ninh quốc tế và công lý
- Nội dung của nguyên tắc: khi có tranh chấp quốc tế nảy sinh, các quốc gia có nghĩa vụ phải giải quyết
bằng biện pháp hòa bình. 19 lOMoAR cPSD| 45936918
Theo Hiến chương LHQ, các biện pháp hòa bình gồm: đàm phán, trung gian, hòa giải, thông qua ủy ban
điều tra, thông qua ủy ban hòa giải, thông qua cơ quan tài phán quốc tế.
Chú ý: trong thực tế các quốc gia có thể sử dụng các biện khác miễn không phải là sử dụng vũ lực, VD
có thể sử dụng biện pháp môi giới để giải quyết tranh chấp (giống với môi giới trong thương mại) - Ngoại lệ: không có (tiếp bài trước)
4. Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác
- Công việc nội bộ của quốc gia được hiểu là những công việc thuộc thẩm quyền tự quyết của quốc gia.
Nó không chỉ bao hàm các công việc trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, mà còn bao hàm các công việc
nằm ngoài phạm vi lãnh thổ nhưng thuộc thẩm quyền tự quyết của quốc gia.
- Khoản 7 Điều 2 Hiến chương LHQ: “Hiến chương này hoàn toàn không cho phép Liên hợp quốc được
can thiệp vào những công việc thực chất thuộc thẩm quyền nội bộ của bất cứ quốc gia nào, và không đòi
hỏi các thành viên của Liên hợp quốc phải đưa những công việc loại này ra giải quyết theo quy định của Hiến chương.” - Nội dung:
+ cấm can thiệp vũ trang và các hình thức can thiệp hoặc đe dọa can thiệp khác nhằm chống lại chủ
quyền, nền tảng chính trị kinh tế, văn hóa, xã hội của quốc gia
+ cấm dùng các biện pháp kinh tế, chính trị và các biện pháp khác để bắt buộc quốc gia khác phụ thuộc mình
+ cấm tổ chức, khuyến khích các phần tử phá hoại hoặc khủng bố nhằm lật đổ chính quyền của quốc gia khác
+ cấm can thiệp vào cuộc đấu tranh nội bộ ở quốc gia khác
+ tôn trọng quyền của mỗi quốc gia tự chọn cho mình chế độ chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa phù
hợp với nguyện vọng của dân tộc.
- Trên cơ sở chủ quyền, quốc gia có toàn quyền quyết định mọi việc đối nội, đối ngoại của quốc gia
mình, nhưng phải phù hợp với luật quốc tế, nhất là trong các lĩnh vực nhân quyền, nhân đạo, kinh tế
quốc tế, môi trường, ... - Ngoại lệ:
+ khi quốc gia có hành vi vi phạm nghiêm trọng các quyền cơ bản của con người thì các quốc gia khác
có quyền áp dụng các biện pháp nhằm can thiệp, bảo đảm các quyền, giá trị chung của con người. VD
năm 1979 tại Campuchia xảy ra nạn diệt chủng ==> xâm phạm quyền cơ bản của con người (quyền
được sống) nên quốc gia khác có quyền can thiệp.
+ khi trong nội bộ quốc gia xảy ra các cuộc xung đột vũ trang mà các cuộc xung đột này có nguy cơ lan
rộng gây ảnh hưởng đến hòa bình và an ninh quốc tế thì trên cơ sở Nghị quyết của Hội đồng bảo an
LHQ, các quốc gia khác có quyền can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia đó
+ 1 quốc gia có quyền can thiệp vào nội bộ 1 quốc gia khác nếu quốc gia đó yêu cầu
Chú ý: để xác định 1 quốc gia “có hành vi vi phạm nghiêm trọng các quyền cơ bản của con người”, hiện
nay luật quốc tế chưa có quy định rõ ràng ==> các quốc gia có thể lợi dụng điểm này để can thiệp vào
nội bộ của nước khác (dưới chiêu bài “can thiệp nhân đạo”).
5. Nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế (pacta sunt servanda) 20