lOMoARcPSD| 61178690
ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ VÀ ĐÔ THỊ
BÀI GIẢNG
QUẢN TRỊ HỌC CĂN BẢN
Giảng viên: Th.S: Nghiêm Thị Lân
HÀ NỘI, 2018
lOMoARcPSD| 61178690
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ
Mục tiêu chương 1: Sau khi học xong, người học có thể:
- Trình bày được các khái niệm về quản trị, nhà quản trị.
- Trình bày được khái niệm và các loại hình văn hóa tổ chức.
- Trình bày được các nội dung cơ bản của các lý thuyết quản trị.
- Phân tích được bản chất của quản trị và nhà quản trị.
- Phân tích được các vai trò của nhà quản trị.
- Phân tích được sự ảnh hưởng của các yếu tố môi trường quản trị đến
tổ chức
1.1. Khái niệm và bản chất của quản trị, nhà quản trị
1.1.1. Quan niệm về quản trị
Quản trị một khái niệm rất rộng bao gồm nhiều nh vực. dụ quản tr
hành chính (trong các tổ chức hội), quản trị kinh doanh (trong các tổ chức kinh
tế). Trong lĩnh vực quản trị kinh doanh lại chia ra nhiều lĩnh vực: Quản trị tài chính,
quản trị nhân sự, quản trị Marketing, quản trị sản xuất...
Quản trị nói chung theo tiếng Anh là "Management" vừa có nghĩa là quản lý,
vừa nghĩa quản trị, nhưng hiện nay được dùng chủ yếu với nghĩa quản trị.
Tuy nhiên, khi dùng từ, theo thói quen, chúng ta coi thuật ngữ quản gắn liền với
với quản nhà nước, quản xã hội, tức quản tầm mô. Còn thuật ngữ quản
trị thường dùng ở phạm vi nhỏ hơn đối với một tổ chức, một doanh nghiệp.
Có rất nhiều quan niệm về quản trị:
- Quản trị các hoạt động được thực hiện nhằm bảo đảm sự hoàn
thànhcông việc qua những nỗ lực của những người khác; quản trị công tác phối
hợp hiệu quả các hoạt động của những người cộng sự khác cùng chung một tổ
lOMoARcPSD| 61178690
chức; - Quản trị sự tác động của chủ thể quản trị lên đối tượng quản trị nhằm
đạt được mục tiêu đề ra trong một môi trường luôn luôn biến động;
- Quản trị một qtrình nhằm đạt đến các mục tiêu đra bằng việc
phốihợp hữu hiệu các nguồn lực của doanh nghiệp; theo quan điểm hệ thống,
quản trị còn là việc thực hiện những hoạt động trong mỗi tổ chức một cách có ý
thức và liên tục. Quản trị trong một doanh nghiệp tồn tại trong một hệ thống bao
gồm các khâu, các phần, các bộ phận mối liên hệ khăng khít với nhau, tác
động qua lại lẫn nhau và thúc đẩy nhau phát triển.
- Quản trị một phương thức làm cho những hoạt động tiến tới mục
tiêu được hoàn thành với một hiệu quả cao, bằng thông qua những người khác.
Phương thức này bao gồm những chức năng hay hoạt động cơ bản mà nhà quản
trị có thể sử dụng, đó là hoạch định, tổ chức, điều khiển và kiểm tra.
Quản trị là những hoạt động cần thiết được thực hiện khi con người kết hợp
với nhau trong các tổ chức nhằm đạt được những mục tiêu chung.
Qua các quan điểm và khái niệm về quản trị nói trên chúng ta thể có một
số kết luận:
- Hoạt động quản trị là những hoạt động chỉ phát sinh khi con người kết
hợpvới nhau thành tổ chức và nó rất cần thiết.
- Lý do tồn tại của hoạt động quản trị chính là vì muốn có hiệu quả.
chỉkhi nào người ta quan tâm đến hiệu quả thì người ta mới quan tâm đến hoạt
động quản trị.
- Quản trị 4 chức năng chính là: hoạch định, tổ chức, điều khiển
kiểmtra.
1.1.2. Bản chất của quản trị
Mục tiêu của quản trị là tạo ra giá trị thặng tức tìm ra phương thức thích
hợp để thực hiện công việc nhằm đạt hiệu quả cao nhất với chi phí các nguồn lực ít
nhất. i chung, quản trị một quá trình phức tạp các nhà quản trị phải tiến
lOMoARcPSD| 61178690
hành nhiều hoạt động từ khâu đầu đến khâu cuối của một chu kỳ sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, thực chất của quản trị quản trị các yếu tố đầu vào, quá trình sản
xuất các yếu tố đầu ra theo chu trình quá trình hoạt động của một tổ chức, một doanh
nghiệp.
Những quan niệm trên cho khác nhau về cách diễn đạt, nhưng nhìn
chung đều thống nhất ở chỗ quản trị phải bao gồm ba yếu tố (điều kiện):
Thứ nhất: Phải có chủ thể quản trị là tác nhân tạo ra tác động quản trị và một
đối tượng quản trị tiếp. Đối tượng bị quản trị phải tiếp nhận sự tác động đó. Tác động
có thể chỉ một lần và cũng có thể nhiều lần.
Thứ hai: Phải một mục tiêu đặt ra cho cả chthể đối tượng. Mục tiêu
này là căn cứ để chủ thể tạo ra các tác động. Sự tác động của chủ thể quản trị lên đối
tượng quản trị được thực hiện trong một môi trường luôn luôn biến động. Về thuật
ngữ chthể quản trị, thể hiểu chủ thể quản trbao gồm một người hoặc nhiều
người, còn đối tượng quản trị một tổ chức, một tập thể con người, hoặc giới
sinh (máy móc, thiết bị đất đai, thông tin...).
Thứ ba: Phải một nguồn lực để chủ thể quản trị khai thác vận dụng trong
quá trình quản trị.
Ngoài ra, quản trị vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật
* Tính khoa học của quản trị
Quản trị một khoa học nó một lĩnh vực được nghiên cứu độc lập,
nghiên cứu các mối quan hệ quản trị trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp như:
+ Quan hệ giữa doanh nghiệp với môi trường
+ Quan hệ giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp khác
+ Quan hệ giữa doanh nghiệp với nhà nước
+ Quan hệ giữa doanh nghiệp với người lao động v.v…
lOMoARcPSD| 61178690
Các quan hệ y phải được xử theo đúng đòi hỏi khách quan vốn của
đời sống kinh tế-xã hội, qua nghiên cứu các quan hệ, quản trị cho phép đưa ra những
quyết định quản trị kinh doanh đúng đắn nhất.
Trong thực tiễn, một số kỹ thuật quản trị đã và đang được sử dụng.
VD: + Kỹ thuật lập ngân sách
+ Hạch toán giá thành
+ Lập kế hoạch và kiểm tra…
Ngày càng nhiều thành tựu của các lĩnh vực khoa học công nghệ khác được
ứng dụng vào hoạt động quản trị như:
+ Tâm lý học + Công nghệ thông tin
+ Toán học + Lý thuyết điều khiển và hệ thống
* Tính nghệ thuật của quản tr
Tính nghệ thuật của quản trị xuất phát từ tính đa dạng phong phú, tính muôn
hình muôn vcủa các sự vật và hiện tượng trong kinh tế - hội và trong quản trị.
Không phải mọi hiện tượng đều mang tính quy luật cũng không phải mọi quy luật
liên quan đến hoạt động của c tổ chức đều đã được nhận thức thành luận.
Quản trị là nghệ thuật vì nó phụ thuộc khá lớn vào kinh nghiệm những thuộc tính
tâm lý cá nhân của từng nhà quản trị, vào cơ may và vận rủi v.v. . .Những mối quan
hệ con người luôn luôn đòi hỏi nhà quản trị phải xử khéo léo linh hoạt. Nghệ thuật
quản trị được thể hiện ở sự nhạy bén, sáng tạo, ứng phó kịp thời với từng tình huống
cụ thể của nhà quản trị.
Nếu khoa học sự hiểu biết kiến thức hệ thống thì nghệ thuật sự tinh
lọc kiến thức để vận dụng phù hợp trong từng lĩnh vực, trong từng tình huống.
Ví dụ:
- Trong nghệ thuật sdụng người. trước hết phải hiểu đặc điểm tâm lí, năng
lực thực tế của con người, từ đó sử dụng họ vào việc gì, lĩnh vực gì, cấp bậc nào
lOMoARcPSD| 61178690
là phù hợp nhất; có như vậy mới phát huy hết khả năng và sự cống hiến nhiều nhất
của mỗi cá nhân cho tập thể.
- Nghệ thuật giáo dục con người. Giáo dục một con người thể thông qua
nhiều hình thức: khen chê, thuyết phục, tự phê bình phê bình, khen thưởng và
kỷ luật đều đòi hỏi ở tính nghệ thuật rất cao. Áp dụng hình thức, biện pháp giáo dục
không phù hợp chẳng những giúp cho người ta tiến bộ hơn ngược lại làm phản
tác dụng, tăng thêm tính tiêu cực trong tư tưởng và hành động.
- Nghệ thuật giao tiếp, đàm phán trong kinh doanh. Cũng đòi hỏi tính nghệ
thuật rất cao. Trong thực tế không phải người nào cũng có khả năng này, cùng một
việc như nhau đối với người này đàm phán thành công còn người khác thì thất bại.
- Nghệ thuật ra quyết định quản trị. Quyết định quản trị là một thông điệp biểu
hiện ý chí của nhà quản trị buộc đối tượng phải thi hành được diễn đạt bằng nhiều
hình thức như: văn bản chữ viết, lời nói, hành động, Ngoài đặc điểm chung của
quyết định quản trị mang tính mệnh lệnh, cưỡng chế ra thì mỗi hình thức của quyết
định lại những đặc điểm riêng, chẳng hạn như quyết định bằng lời không mang
tính bài bản, khuôn mẫu như quyết định bằng văn bản chữ viết nhưng lại đòi hỏi ở
tính sáng tạo, thích nghi và tính thuyết phục hơn.
- Mọi quản trị suy cho cùng là quản trị con người. Hơn nữa, các nquản
trịvừa phải làm việc với những con người cụ thể, vừa phải làm việc với những nhóm
người, trong đó, ngoài yếu tố công việc, kỹ thuật còn yếu tố xã hội ràng buộc, làm
cho những mối quan hệ này khó lượng hoá nổi.
- Môi trường bên ngoài thường xuyên tác động tạo ra những mối quan hệqua
lại giữa doanh nghiệp và môi trường rất phức tạp và khó xác định. Nhận biết và xử
lý từng tình huống cụ thể không chỉ dừng lại ở lý luận mà bằng kinh nghiệm và trực
giác. Đó chính là tính nghệ thuật.
Với tư cách một nghề, quản trị là một nghệ thuật.
Với tư cách một hệ thống kiến thức có tổ chức => quản trị là một khoa học
lOMoARcPSD| 61178690
=> Hai mặt này không loại trừ nhau. Khoa học tiến bộ nghệ thuật hoàn
thiện.
1.1.3. Nhà quản trị
1.1.3.1. Khái niệm
Nhà quản trị làm việc trong một tổ chức nhưng không phải bất cứ thành viên
nào của một tổ chức cũng nhà quản trị. do đơn giản là các công việc quản
trị không phải tất cả mọi công việc của một tổ chức, thường chỉ những
hoạt động mang tính phối hợp, định hướng, lựa chọn, quyết định kết dính các
công việc trong một tổ chức lại với nhau để đạt mục tiêu chung của chính tổ chức
đó. Các thành viên trong mọi tổ chức thể chia làm hai loại: người thừa hành
nhà quản trị. Người thừa hành là những người trực tiếp thực hiện một ng tác
không trách nhiệm hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và giám sát hoạt động của những
người khác. Trái lại, các nhà quản trị trách nhiệm chỉ huy, điều khiển, giám sát
v.v... hoạt động của những người khác,... Nhà quản trị, phân biệt với những nhân
viên khác những người chịu trách nhiệm về công việc của những người khác tại
mọi cấp trong bất kỳ loại cơ sở nào.
Nhà quản trị là người điều khiển những công việc của những người khác.
Nhà quản trị những người đứng đầu một tổ chức hoặc những hoạt động
khác nhau trong tổ chức, chi phối hoạt động của những người dưới quyền bằng các
chức năng quản trị, được thể hiện thông qua các quyết định để thực hiện công việc
quản lý trong một tổ chức.
Nhà quản trị người giữ một chức vụ nhất định: Tổng giám đốc, phó tổng
giám đốc, trưởng phó các bộ phận, phòng, ban trong một doanh nghiệp.
Nhà quản trị người hành nghề chuyên nghiệp, tính chuyên môn cao do
đó cần phải có: Tri thức, Kinh nghiệm, Năng khiếu.
1.1.3.2. Cấp bậc quản trị trong một tổ chức
lOMoARcPSD| 61178690
Để dễ dàng cho việc nghiên cứu về quản trị, người ta thường chia các nhà
quản trị trong một tổ chức thành 3 cấp:
- Các nhà quản trị cấp cơ sở (first-line manager): tổ trưởng, đốc công…
- Các n quản trị cấp giữa (middle manager): trưởng phòng, trưởng ban,
cửahàng trưởng, quản đốc phân xưởng, trưởng khoa…
- Các nhà quản trị cấp cao: giám đốc, tổng giám đốc, giám đốc điều hành,
chủtịch hội đồng quản trị…
Nhà quản trị cấp slà những nhà quản trị cấp bậc cuối cùng trong hệ
thống cấp bậc của các nhà quản trị trong cùng một tổ chức. Thông thường trong các
sở sản xuất họ thường được gọi là tổ trưởng, trưởng nhóm, trưởng ca… với
cách là nhà quản trị nhiệm vụ của họ là hướng dẫn, đốc thúc, điều khiển công nhân
trong các công việc thường ngày để đưa đến sự hoàn thành mục tiêu chung của cả
tổ chức. Tuy nhiên, nhà quản trị cấp sở cũng thường người trực tiếp tham gia
các công việc sản xuất kinh doanh cụ thể như các nhân viên dưới quyền của họ.
Nhà quản trị cấp giữa là một khái niệm rộng, dùng để chỉ những cấp chỉ huy
trung gian, đứng trên các nhag quản trị cấp sở dưới cấp quản trị cao cấp. Đây
có thể là các trưởng phòng, cửa hàng trưởng, quản đốc phân xưởng… Với cương v
này, họ vừa quản trcác quản trị viên cấp sở thuộc quyền, vừa đồng thời điều
khiển c nhân viên khác. So với chức năng của quản trị viên cấp cơ sở, quản tr
viên cấp giữa có chức năng thực hiện các kế hoạch và chính sách của tổ chức bằng
cách phối hợp các công việc thực hiện nhằm hướng đến sự hoàn thành mục tiêu
chung.
Nhà quản trị cấp cao là một nhóm nhỏ các nhà quản trị ở cấp bậc tối cao của
tổ chức chịu trách nhiệm về thành quả cuối cùng của tổ chức. Chức năng chính của
các nquản trị cấp cao xây dựng chiến lược hành động và phát triển của tổ chức.
Chức danh của nhà quản trị cấp cao trong các đơn vị sản xuất kinh doanh thường là
chủ tịch, ủy viên hội đồng quản trị, tổng giám đốc, phó tổng giám đốc…
lOMoARcPSD| 61178690
Công việc của một nhà quản trị thay đổi tùy theo cấp bậc trong tổ chức. Tuy
nhiên sự khác nhau chỉ về trình độ chứ không phải về thể loại. Nhà quản trị nào cũng
đưa ra những quyết định về hoạch định, tổ chức, điều khiển kiểm tra. Nhưng cách
hoạch định của nhà quản trị cấp cơ sở thì khác với cách hoạch định của nhà quản trị
cấp cao. Vì vậy khi nói về những chức năng quản trị, ta phải nghĩ rằng chúng có thể
khác đi những cấp bậc khác nhau. Hơn nữa các cấp bậc khác nhau, thời gian thực
hiện những chức năng cũng thay đổi. Trong cùng một tổ chức, nhà quản trị cấp cao
dùng nhiều thời gian đhoạch định hơn một nhà quản trị cấp sở. Tương tự như
vậy, điều khiển là chức năng chủ yếu của người quản trị cấp cơ sở.
1.1.3.3. Kỹ năng của nhà quản trị
Theo Robert Katz, mỗi nhà quản trị đều cần 3 loại kỹ năng: Kỹ năng kỹ thuật
(technical skills), Kỹ năng nhân s (human skills), Kỹ năng duy (conceptual
skills).
- Kỹ năng kỹ thuật những khả năng cần thiết để thực hiện một công việc
cụthể, hay nói cách khác, là trình độ chuyên môn nghiệp vụ của nhà quản trị. Ví dụ
soạn thảo hợp đồng pháp lý kinh tế, thiết kế máy móc…
- Kỹ năng nhân sự liên quan đến khả năng cùng làm việc, động viên
điềukhiển con người tập thể trong nghiệp, những người đó thuộc cấp,
đồng nghiệp ngang hàng hay cấp trên. Kỹ năng nhân sự là tài năng đặc biệt của nhà
quản trị trong việc quan hệ với người khác để nhằm tạo thuận lợi thúc đẩy sự
hoàn thành công việc chung. dụ: biết cách thông đạt hữu hiệu, thái độ quan
tâm tích cực đến người khác khung cảnh làm việc, xây dựng không khí hợp tác
giữa mọi người cùng làm việc chung, biết cách động viên các nhân viên dưới quyền.
- Kỹ năng duy đòi hỏi nhà quản trị phải hiểu mức độ phức tạp của
môitrường biết cách giảm thiểu sự phức tạp đó xuống một mức độ có thể đối phó
được. Kỹ năng tư duy khó tiếp thu nhất và rất quan trọng đối với các nhà quản trị.
lOMoARcPSD| 61178690
Các nhà quản trị đều phải đủ ba loại kỹ năng trên nhưng tầm quan trọng
của mỗi loại kỹ năng tùy theo cấp bậc của nhà quản trị trong tổ chức. Nói chung, kỹ
năng kỹ thuật giảm dần sự quan trọng khi lên cao dần trong hệ thống cấp bậc của
các nhà quản trị. Ở cấp càng cao, các nquản trị càng cần phải có nhiều kỹ năng
duy chiến lược. Kỹ năng nhân sự cần thiết với tất cả các nhà quản trị ở mọi cấp.
1.1.3.4. Vai trò của nhà quản trị
Henry Mentzberg đã nghiên cứu nghiên cứu hoạt động bình thường của nhà
quản trị cho rằng mọi nhà quản trị đều phải thực hiện mười loại vai trò khác nhau.
Mười loại vai trò đó có thể tập trung trong 3 nhóm lớn:
a. Các vai trò quan hệ với con người
- Vai trò đại diện hay tượng trưng có tính chất nghi lễ trong tổ chức.
- Vai trò của người lãnh đạo đòi hỏi nhà quản trị phải phối hợp kiểm tracông
việc với nhân viên dưới quyền.
- Vai trò liên lạc quan hệ với người khác trong hay ngoài tổ chức để nhằmgóp
phần hoàn thành công việc được giao cho đơn vị của họ.
b. Các vai trò thông tin
- Vai trò thu thập tiếp nhận các thông tin liên quan đến tổ chức đến
hoạtđộng của đơn vị
- Vai trò truyền đạt (phổ biến) các thông tin liên hệ đến người liên quan,
cóthể là thuộc cấp, đồng cấp hoặc cấp cao.
- Vai trò phát ngôn cung cấp các thông tin cho các bphận trong cùng một
đơnvị hay cho các cơ quan bên ngoài.
c. Các vai trò quyết định
- Người chủ trì (doanh nhân): Hành động như một người tiên phong, cải tiếncác
hoạt động của tổ chức, phát triển các chương trình hành động. Việc này có thể được
lOMoARcPSD| 61178690
thực hiện bằng cách áp dụng một kthuật mới vào một tình huống cụ thể, hoặc nâng
cấp điều chỉnh một kỹ thuật đang áp dụng.
- Xử xáo trộn: thực hiện các điều chỉnh cần thiết khi tổ chức đối mặt
vớinhững khó khăn tiên liệu trước, những cuộc khủng hoảng… nhằm đưa tổ chức
sớm trở lại sự ổn định.
- Phân bố tài nguyên (nguồn lực): phân bổ ngân sách, nhân lực, thời
gian…Phân bổ tài nguyên một trong những vai trò quan trọng nhất trong quá trình
ra quyết định của nhà quản trị vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả quản lý.
- Thương lượng, đàm phán (thương thuyết): đi đến quyết định, nhà quản trịphải
xuất phát từ ý đồ để tiến hành thương lượng: về công việc, về triển khai mục tiêu,
về phân bổ nguồn lực, với đối tác, với khách hàng v.v…
1.2. Văn hóa tổ chức và môi trường quản trị
1.2.1. Văn hóa tổ chức
1.2.1.1. Khái niệm văn hóa tổ chức
nhiều định nghĩa về văn hóa của tổ chức khác nhau xuất phát từ những
khía cạnh tiếp cận khác nhau.
- Theo Edgar Schein, văn hóa tổ chức một thức về những giả thiết
nềntảng được sang tạo, được phát hiện, hay được phát triển bởi một nhóm người
nhất định khi họ hoạt động để đương đầu với những vấn đề khó khăn trong việc thích
nghi với môi trường bên ngoài và hội nhập với môi trường bên trong của nhóm,
hình này vận hành đủ tốt để được xem có giá trị thế được sử dụng để
giáo dục các thành viên mới nmột phương cách đúng đắn để nhận thức, để suy
nghĩ và để cảm nhận liên quan tới những vấn đề khó khăn đó.
- Theo Hellriegel Slogum, văn hóa tổ chức tính cách, cách thức suy
nghĩvà hành động trong tổ chức đó được chia sẻ bởi hầu hết các thành viên
được các thành viên mới học tập nếu họ muốn tồn tại và tiến bộ trong tổ chức đó.
lOMoARcPSD| 61178690
- Theo Deal Kennedy, văn hóa cách những công việc được thực
hiệntrong tổ chức.
Nói đến văn hóa tổ chức là nói đến:
- Một nhận thức chỉ tồn tại trong tập thể.
- Các nhân trong tổ chức đều khuynh hướng diễn tả văn hóa của tổ
chứcđo cùng một cách.
- Giúp người bên ngoài tổ chức phân biệt được tổ chức này với tổ chức khác.
- Chức năng của văn hóa tổ chức là:
+ Làm cho thành viên thích ứng với môi trường bên ngoài;
+ Giúp tổ chức thích nghi với môi trường hoạt động của mình;
+ Điều chỉnh hành vi của các thành viên phù hợp với hành vi được chấp
nhận trong tổ chức.
- Văn hóa tổ chức bao gồm:
+ Những giá trị cốt lõi: là những giá trị trung tâm của văn hóa tổ chức
phản ánh những giá trị liên quan đến công việc của 1 xã hội, 1 cộng đồng mà trong
đó tổ chức đang hoạt động.
+ Những chuẩn mực: là những qui tắc không chính thức về những hành
vi ứng xử được các thành viên trong nhóm chia sẻ và bị ràng buộc phải tuân thủ.
+ Những niềm tin: những điều thường được tin là đúng, trung thực…
+ Những huyền thoại: những câu chuyện liên quan đến các sự kiện
mang
tính tiêu biểu cho c thành viên thường được cấu để tạo thành những hình
ảnh lý tưởng.
+ Những nghi thức tập thể: những hoạt động tinh thần của tập thể
như
lễ hội…
lOMoARcPSD| 61178690
+ Những điều cấm kỵ: những tập quán của văn hóa tổ chức ngăn cấm
các thành viên không được phép làm hay nói vđiều đó như cấm hút thuốc nơi
làm việc, cấm mặc thiếu lịch sự trong công sở…
1.2.1.2. Các loại hình văn hóa tổ chức
Văn hóa của một tổ chức thể nhận biết được từng mức độ khác nhau. Đầu
tiên bề ngoài của văn hóa tổ chức được thể hiện qua những hoạt động mỹ thuật,
những kiến trúc, khẩu hiệu, biểu tượng của tổ chức… Tiếp theo bên trong văn hóa
tổ chức đó là những giá trị được các thành viêm chia sẻ và được thể hiện qua những
dấu hiệu, biểu tượng, ngôn ngữ, những biểu hiện… Cuối cùng phần cốt lõi của
văn hóa tổ chức, là những giả thiết nền tảng mà không phải thành viên nào trong tổ
chức cũng nhận biết được.
a. Dựa vào yếu tố hình thành, văn hóa tổ chức có thể nhận biết dưới 3 dạng:
- Thứ nhất, loại văn hóa tổ chức hướng vào tính của nhà lãnh đạo hoặc
tậpthể những nhà lãnh đạo mà những người này biết làm cho mình nổi bật lên và tất
cả hoạt động của tổ chức hình như được thực hiện qua vai trò của một người lãnh
đạo. Ví dụ tập đoàn Microsoft và biểu tượng của Bill Gate; tập đoàn Honda và nghị
lực của Solchino Honda…
- Thứ hai, loại văn hóa tổ chức hướng vào một hoạt động hay một nghề
nghiệp.Ví dụ các hãng hàng không thường sdụng hình tượng chiếc máy bay; ngành
du lịch Việt Nam thường sử dụng hình ảnh hoa sen – quốc hoa của Việt Nam để làm
biểu tượng…
- Thứ ba, loại văn hóa tổ chức tập trung vào cung cách ứng xcách ứng
xửmang tính chất cộng đồng, mang tính chất gia đình. Loại hình văn hóa này dựa
trên sở một sự hội hóa sâu rộng những giá trị, chuẩn mực được chia sẻ rộng
rãi. dụ văn hóa phổ biến các công ty Nhật Bản (người Nhật quan niệm thành
công nỗ lực của cả nhóm không ai thể tthành công; họ ng từ “chúng
tôi” thay cho từ “tôi”...); văn hóa tổ chức trong các công ty Hàn Quốc là làm việc và
giải trí là 2 thái cực cùng tồn tại…
lOMoARcPSD| 61178690
b. Dựa vào cơ sở xác lập mối quan hệ và liên hệ trong hệ thống văn hóa tổ chức
có thể chia văn hóa tổ chức thành 2 loại:
- Văn hóa cộng đồng: các thành viên nmột nhóm tình cảm anh em;
cácthành viên và tổ chức có sự cam kết lẫn nhau lâu dài và dựa vào những quyền lợi
tương hỗ; những thành viên lâu năm sẽ những người giúp đỡ tinh thần và đóng
vai trò mẫu mực cho các thành viên mới… Loại hình văn hóa này có thể nhìn thấy
ở các công ty Nhật Bản hoặc một số công ty của Mỹ như IBM, P&G…
- Văn hóa thị trường: mang tính trao đổi về quyền lợi nghĩa vụ khuyến
khíchsự độc lập chủ nghĩa nhân, thúc đẩy mọi người theo đuổi lợi ích của chính
mình; người lao động cũng không cam kết trung thành tổ chức cũng không hứa
hẹn đảm bảo đối với ng ăn việc làm; các mối quan hệ giữa đồng nghiệp thường
tách biệt, ít sự phối hợp giữa các thành viên…Loại hình văn hóa này thường thấy
ở các công ty Tây Âu và Bắc Mỹ.
1.2.2. Khái niệm và phân loại môi trường quản trị
1.2.2.1. Khái niệm
Môi trường quản trị những chế định, những yếu tố những thông lệ của
xã hội, tác động đến việc lựa chọn để ban hành các quyết định của nhà quản trị.
Theo nghĩa rộng: Môi trường quản trị tất cả các nhân tố bên trong bên
ngoài tổ chức, tác động trực tiếp hay gián tiếp đến các quyết định quản trị hoặc
hoạt động của tổ chức.
Theo nghĩa hẹp: Môi trường quản trị dùng để chỉ các định chế hay lực lượng
bên ngoài nhưng lại ảnh hưởng đến thành quả hoạt động về quản trị của tổ chức.
1.2.2.2. Phân loại môi trường quản trị
Để dễ nghiên cứu người ta chia môi trường quản trị thành 3 nhóm bản: Môi
trường vĩ mô, Môi trường trong ngành, Môi trường bên trong của tổ chức.
lOMoARcPSD| 61178690
Môi trường còn gọi tổng quát gồm tất cả những yếu tố ngoài t
chức nhưng khả năng ảnh hưởng mạnh tới tổ chức. Môi trường gồm các
yếu tố như:
- Yếu tố kinh tế
- Yếu tố chính trị và chính phủ
- Yếu tố văn hóa - xã hội
- Yếu tố tự nhiên
- Yếu tố kỹ thuật - công nghệ
Môi trường trong ngành còn gọi là môi trường vi mô, môi trường đặc thù bao
gồm các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp, quyết định tính chất và mức độ cạnh tranh
trong ngành kinh doanh đó. Môi trường đặc thù gồm các yếu tố sau:
- Yếu tố đối thủ cạnh tranh
- Yếu tố khách hàng
- Yếu tố người cung cấp
- Yếu tố các đối thủ tiềm ẩn
- Yếu tố sản phẩm thay thế
Môi trường bên trong của tổ chức bao gồm các yếu tố, các mối quan hệ bên
trong tổ chức quyết định lợi thế hạn chế của tchức. Môi trường bên trong tổ
chức bao gồm:
- Công tác quản trị nhân sự
- Hoạt động Marketing
- Công tác tài chính kế toán
- Hoạt động sản xuất tác nghiệp- Công tác nghiên cứu và phát triển
- Hệ thống thông tin.
1.2.3. Ảnh hưởng của môi trường đối với tổ chức
lOMoARcPSD| 61178690
1.2.3.1. Ảnh hưởng của môi trường vĩ mô đối với tổ chức
a. Yếu tố kinh tế
- những đặc điểm của hệ thống kinh tế trong đó các doanh
nghiệphoạt động.
- Bao gồm các yếu tố như:
+ Tăng trưởng kinh tế
+ Chính sách kinh tế quốc gia
+ Chu kỳ kinh doanh
+ Khuynh hướng toàn cầu hoá kinh doanh
Đây là yếu tố quan trọng nhất của môi trường vĩ mô, tác động mạnh mẽ nhất
tới môi trường bên trong của các loại hình tổ chức khác nhau. Các yếu tố môi trường
kinh tế bao gồm nguồn nhân lực; giá cả thị trường; năng suất lao động; chất lượng
của các nhà quản trị; chính sách tài chính và thuế của nhà nước... Các yếu tố kinh tế
là những yếu tố gây ra sự biến động của nền kinh tế, được phản ánh qua những chỉ
số như: tỷ lệ lạm phát, tổng sản phẩm trong nước, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, tỷ lthất
nghiệp, tỷ giá, lãi suất, quy mô ngân sách và cán cân thanh toán trong quan hệ mậu
dịch. Những biến động trong nền kinh tế vừa tạo hội, vừa tạo nguy cho các
nhà quản trị. Trong nền kinh tế của một nước thời kỳ tăng trưởng liên tục mức vừa
phải, nhiều công ty đã được mức cầu ngày càng tăng đối với đầu ra dễ dàng
tìm kiếm được nguồn tài nguyên hơn, để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.
Còn khi nền kinh tế thời kỳ suy thoái, mức cầu giảm sụt mạnh, tỷ lthất nghiệp tăng
lợi nhuận bị thu hẹp. Các tổ chức thường xuyên theo dõi sự biến động của các chỉ
số kinh tế chủ yếu để giảm đến mức tối thiểu những mối đe doạ và tận dụng những
hội tốt nhất. những tổ chức lại sdụng những dự đoán về tình hình kinh tế
tương lai để đưa ra những quyết định như nên mở rộng svật chất của nhà
máy không? Hay có nên xâm nhập thị trường mới không?...
lOMoARcPSD| 61178690
- Mỗi doanh nghiệp đều phải chú ý theo dõi sự biến động của từng yếu tố để
phân tích, dự đoán và tiến hành các biện pháp cần thiết để đối phó.
b. Yếu tố kỹ thuật công nghệ
Khoa học đem lại kiến thức, còn kỹ thuật công nghệ thì sử dụng kiến thức đó.
Kỹ thuật công nghệ ảnh hưởng rất lớn đến việc sản xuất ra các sản phẩm mới, máy
móc thiết bị mới, vật liệu và dịch vụ mới để nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường.
- Hầu như các hàng hoá được tạo ra hiện nay đều gắn với thành tựu khoa
họccông nghệ.
- Thực tế cho thấy doanh nghiệp nào nắm được kỹ thuật công nghệ và sớmứng
dụng nó vào kinh doanh, doanh nghiệp đó tồn tại và phát triển.
- Sự tác động của yếu tố kỹ thuật - công nghệ trên hai mặt:
+ Thứ nhất, những phát triển về công nghệ có thể tác động đến cách sử
dụng kiến thức kỹ thuật của một công ty trong việc sản xuất ra sản phẩm hoặc
dịch vụ, và trong việc thực hiện các công việc phân tích tài chính, các công việc văn
phòng. Ví dụ, việc phát minh ra công nghệ cáp quang thay cho công nghệ cáp đồng
trong lĩnh vực viễn thông đã làm cho tất cả các lĩnh vực hoạt động của thế giới thay
đổi nhanh chóng, tiết kiệm được chi phí, đem lại hiệu quả cao.
+ Thứ hai, những bước phát triển công nghệ cũng ảnh hưởng đến đặc
điểm sản phẩm hay dịch vụ của một tổ chức dụ như công suất của một hệ thống
máy tính hay độ nét độ sáng của hình ảnh trên tivi màu. Những lực lượng công
nghệ đòi hỏi nhà quản trị phải nắm bắt kịp thời với những bước phát triển mới nhất
ứng dụng nhanh những thành tựu đó để duy trì khả năng cạnh tranh của các tổ
chức. Các tổ chức cố gắng cập nhật nhanh sự thay đổi vcông nghệ thông qua những
liên hệ chặt chẽ với các tổ chức nghiên cứu và phát triển, các nhà khoa học những
cá nhân khác có liên quan đến việc phát triển công nghệ
=> Nhà quản trị phải nắm bắt kịp thời sphát triển công nghệ ứng dụng
để duy trì khả năng cạnh tranh trên thị trường.
lOMoARcPSD| 61178690
c. Yếu tố văn hoá- xã hội
Mỗi dân tộc đều có một hệ thống xã hội và văn hoá bao gồm phong cách ứng
xử, thể hiện bằng thái độ, niềm tin và các giá trị về mặt xã hội. Những mong muốn,
hy vọng, tri thức, giáo dục những tập tục của dân trong một hội luôn tác
động mạnh vào môi trường bên trong của tổ chức.
- Văn hoá hình thành nên thói quen tiêu dùng của các nhóm dân => liênquan
đến thói quen, sở thích, cư xử của khách hàng trên thị trường. Điều này ảnh hưởng
tới quan niệm, cách nhìn nhận, những quyết định về quản lý, sản xuất, kinh doanh
của một tổ chức.
- Văn hoá ảnh hưởng đến việc hình thành phát triển nền văn hoá
doanhnghiệp. Mỗi thành viên trong doanh nghiệp đều chịu ảnh hưởng của yếu tố
văn hoá nơi mình sinh ra và lớn lên. Khi họ tập hợp lại thì văn hoá doanh nghiệp có
sự đa dạng, sự bất đồng, sự mâu thuẫn tồn tại bên cạnh những giá trị cốt lõi truyền
thống của doanh nghiệp.
- Văn hoá quy định cách thức doanh nghiệp thể dùng để giao tiếp với
bênngoài như: có trung thực không? Có đảm bảo uy tín, giữ lời hứa không? Có tôn
trọng khách hàng không? nhiệt tình không? Điều này ảnh hưởng tới việc đào tạo
đội ngũ nhân viên về quan niệm, ý thức, trách nhiệm, phong cách giao tiếp với bên
ngoài.
=> Những tác động của văn hoá đến doanh nghiệp là rất lớn, nhà quản trị cần
nhận thức rõ những thách thức để có những quyết định đúng trong từng tình huống
cụ thể.
d. Yếu tố chính trị pháp luật
Yếu tố chính trị, pháp luật bao gồm hệ thống pháp luật các văn bản pháp
quy của nhà nước quy định. Các yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến việc điều chỉnh
hoạt động của tổ chức. Quan điểm, thái độ của các nchính trị trong quan hđối
ngoại, trong xu thế hội nhập quốc tế, đã tạo ra môi trường vĩ mô ảnh hưởng sâu sắc
lOMoARcPSD| 61178690
tới môi trường bên trong của tổ chức. Các yếu tố chính trị, pháp luật và điều tiết có
thể vừa có tác động hạn chế vừa tạo ra cơ hội cho tổ chức
- Đặc trưng nổi bật về sự tác động của môi trường chính trị - pháp luật đối
vớicác hoạt động kinh doanh thể hiện ở những mục đích mà thể chế chính trị nhắm
tới.
- Thể chế chính trị giữ vai trò định hướng chi phối toàn bộ các hoạt độngtrong
xã hội trong đó có hoạt động kinh doanh.
- Môi trường này gồm: pháp luật, các chính sách chế của Nhà nướcđối
với giới kinh doanh.
- Nhà quản trị cần lưu ý tới những yếu tố này để tiên đoán những thay đổi,quan
trọng về chính trị trong nước, khu vực và trên thế giới để có những quyết sách đúng
đắn.
e. Yếu tố môi trường tự nhiên
Bao gồm các yếu tố liên quan như: tài nguyên thiên nhiên, đất đai, khí hậu,
thời tiết… Thực tế cho thấy sự ô nhiễm không khí và môi trường xung quanh đã đến
mức báo động. Nhìn chung các yếu tố môi trường tự nhiên nh hưởng đến doanh
nghiệp thể hiện trên các mặt sau:
- Tạo ra thị trường cung ứng các yếu tố đầu vào cho các doanh nghiệp.
- Tác động đến dung lượng và cơ cấu thị trường hàng tiêu dùng.
- Tác động đến việc làm và thu nhập của các tầng lớp dân cư, do đó làm
ảnhhưởng đến sức mua và khả năng tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp. 1.2.3.1.
Ảnh hưởng của môi trường vi mô đối với tổ chức
a. Các đối thủ cạnh tranh
- Là những tổ chức hay cá nhân có khả năng thoả mãn nhu cầu của kháchhàng
mục tiêu của doanh nghiệp.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61178690
ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ VÀ ĐÔ THỊ BÀI GIẢNG
QUẢN TRỊ HỌC CĂN BẢN
Giảng viên: Th.S: Nghiêm Thị Lân HÀ NỘI, 2018 lOMoAR cPSD| 61178690
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ
Mục tiêu chương 1: Sau khi học xong, người học có thể:
- Trình bày được các khái niệm về quản trị, nhà quản trị.
- Trình bày được khái niệm và các loại hình văn hóa tổ chức.
- Trình bày được các nội dung cơ bản của các lý thuyết quản trị.
- Phân tích được bản chất của quản trị và nhà quản trị.
- Phân tích được các vai trò của nhà quản trị.
- Phân tích được sự ảnh hưởng của các yếu tố môi trường quản trị đến tổ chức
1.1. Khái niệm và bản chất của quản trị, nhà quản trị
1.1.1. Quan niệm về quản trị
Quản trị là một khái niệm rất rộng bao gồm nhiều lĩnh vực. Ví dụ quản trị
hành chính (trong các tổ chức xã hội), quản trị kinh doanh (trong các tổ chức kinh
tế). Trong lĩnh vực quản trị kinh doanh lại chia ra nhiều lĩnh vực: Quản trị tài chính,
quản trị nhân sự, quản trị Marketing, quản trị sản xuất...
Quản trị nói chung theo tiếng Anh là "Management" vừa có nghĩa là quản lý,
vừa có nghĩa là quản trị, nhưng hiện nay được dùng chủ yếu với nghĩa là quản trị.
Tuy nhiên, khi dùng từ, theo thói quen, chúng ta coi thuật ngữ quản lý gắn liền với
với quản lý nhà nước, quản lý xã hội, tức là quản lý ở tầm vĩ mô. Còn thuật ngữ quản
trị thường dùng ở phạm vi nhỏ hơn đối với một tổ chức, một doanh nghiệp.
Có rất nhiều quan niệm về quản trị:
- Quản trị là các hoạt động được thực hiện nhằm bảo đảm sự hoàn
thànhcông việc qua những nỗ lực của những người khác; quản trị là công tác phối
hợp có hiệu quả các hoạt động của những người cộng sự khác cùng chung một tổ lOMoAR cPSD| 61178690
chức; - Quản trị là sự tác động của chủ thể quản trị lên đối tượng quản trị nhằm
đạt được mục tiêu đề ra trong một môi trường luôn luôn biến động;
- Quản trị là một quá trình nhằm đạt đến các mục tiêu đề ra bằng việc
phốihợp hữu hiệu các nguồn lực của doanh nghiệp; theo quan điểm hệ thống,
quản trị còn là việc thực hiện những hoạt động trong mỗi tổ chức một cách có ý
thức và liên tục. Quản trị trong một doanh nghiệp tồn tại trong một hệ thống bao
gồm các khâu, các phần, các bộ phận có mối liên hệ khăng khít với nhau, tác
động qua lại lẫn nhau và thúc đẩy nhau phát triển.
- Quản trị là một phương thức làm cho những hoạt động tiến tới mục
tiêu được hoàn thành với một hiệu quả cao, bằng và thông qua những người khác.
Phương thức này bao gồm những chức năng hay hoạt động cơ bản mà nhà quản
trị có thể sử dụng, đó là hoạch định, tổ chức, điều khiển và kiểm tra.
Quản trị là những hoạt động cần thiết được thực hiện khi con người kết hợp
với nhau trong các tổ chức nhằm đạt được những mục tiêu chung.
 Qua các quan điểm và khái niệm về quản trị nói trên chúng ta có thể có một số kết luận:
- Hoạt động quản trị là những hoạt động chỉ phát sinh khi con người kết
hợpvới nhau thành tổ chức và nó rất cần thiết.
- Lý do tồn tại của hoạt động quản trị chính là vì muốn có hiệu quả. Và
chỉkhi nào người ta quan tâm đến hiệu quả thì người ta mới quan tâm đến hoạt động quản trị.
- Quản trị có 4 chức năng chính là: hoạch định, tổ chức, điều khiển và kiểmtra.
1.1.2. Bản chất của quản trị
Mục tiêu của quản trị là tạo ra giá trị thặng dư tức tìm ra phương thức thích
hợp để thực hiện công việc nhằm đạt hiệu quả cao nhất với chi phí các nguồn lực ít
nhất. Nói chung, quản trị là một quá trình phức tạp mà các nhà quản trị phải tiến lOMoAR cPSD| 61178690
hành nhiều hoạt động từ khâu đầu đến khâu cuối của một chu kỳ sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, thực chất của quản trị là quản trị các yếu tố đầu vào, quá trình sản
xuất các yếu tố đầu ra theo chu trình quá trình hoạt động của một tổ chức, một doanh nghiệp.
Những quan niệm trên cho dù có khác nhau về cách diễn đạt, nhưng nhìn
chung đều thống nhất ở chỗ quản trị phải bao gồm ba yếu tố (điều kiện):
Thứ nhất: Phải có chủ thể quản trị là tác nhân tạo ra tác động quản trị và một
đối tượng quản trị tiếp. Đối tượng bị quản trị phải tiếp nhận sự tác động đó. Tác động
có thể chỉ một lần và cũng có thể nhiều lần.
Thứ hai: Phải có một mục tiêu đặt ra cho cả chủ thể và đối tượng. Mục tiêu
này là căn cứ để chủ thể tạo ra các tác động. Sự tác động của chủ thể quản trị lên đối
tượng quản trị được thực hiện trong một môi trường luôn luôn biến động. Về thuật
ngữ chủ thể quản trị, có thể hiểu chủ thể quản trị bao gồm một người hoặc nhiều
người, còn đối tượng quản trị là một tổ chức, một tập thể con người, hoặc giới vô
sinh (máy móc, thiết bị đất đai, thông tin...).
Thứ ba: Phải có một nguồn lực để chủ thể quản trị khai thác và vận dụng trong quá trình quản trị.
Ngoài ra, quản trị vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật
* Tính khoa học của quản trị
Quản trị là một khoa học vì nó là một lĩnh vực được nghiên cứu độc lập, nó
nghiên cứu các mối quan hệ quản trị trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như:
+ Quan hệ giữa doanh nghiệp với môi trường
+ Quan hệ giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp khác
+ Quan hệ giữa doanh nghiệp với nhà nước
+ Quan hệ giữa doanh nghiệp với người lao động v.v… lOMoAR cPSD| 61178690
Các quan hệ này phải được xử lý theo đúng đòi hỏi khách quan vốn có của
đời sống kinh tế-xã hội, qua nghiên cứu các quan hệ, quản trị cho phép đưa ra những
quyết định quản trị kinh doanh đúng đắn nhất.
Trong thực tiễn, một số kỹ thuật quản trị đã và đang được sử dụng.
VD: + Kỹ thuật lập ngân sách + Hạch toán giá thành
+ Lập kế hoạch và kiểm tra…
Ngày càng có nhiều thành tựu của các lĩnh vực khoa học công nghệ khác được
ứng dụng vào hoạt động quản trị như: + Tâm lý học + Công nghệ thông tin + Toán học
+ Lý thuyết điều khiển và hệ thống
* Tính nghệ thuật của quản trị
Tính nghệ thuật của quản trị xuất phát từ tính đa dạng phong phú, tính muôn
hình muôn vẻ của các sự vật và hiện tượng trong kinh tế - xã hội và trong quản trị.
Không phải mọi hiện tượng đều mang tính quy luật và cũng không phải mọi quy luật
có liên quan đến hoạt động của các tổ chức đều đã được nhận thức thành lý luận.
Quản trị là nghệ thuật vì nó phụ thuộc khá lớn vào kinh nghiệm và những thuộc tính
tâm lý cá nhân của từng nhà quản trị, vào cơ may và vận rủi v.v. . .Những mối quan
hệ con người luôn luôn đòi hỏi nhà quản trị phải xử lý khéo léo linh hoạt. Nghệ thuật
quản trị được thể hiện ở sự nhạy bén, sáng tạo, ứng phó kịp thời với từng tình huống
cụ thể của nhà quản trị.
Nếu khoa học là sự hiểu biết kiến thức có hệ thống thì nghệ thuật là sự tinh
lọc kiến thức để vận dụng phù hợp trong từng lĩnh vực, trong từng tình huống. Ví dụ:
- Trong nghệ thuật sử dụng người. trước hết phải hiểu đặc điểm tâm lí, năng
lực thực tế của con người, từ đó sử dụng họ vào việc gì, lĩnh vực gì, ở cấp bậc nào lOMoAR cPSD| 61178690
là phù hợp nhất; có như vậy mới phát huy hết khả năng và sự cống hiến nhiều nhất
của mỗi cá nhân cho tập thể.
- Nghệ thuật giáo dục con người. Giáo dục một con người có thể thông qua
nhiều hình thức: khen – chê, thuyết phục, tự phê bình và phê bình, khen thưởng và
kỷ luật đều đòi hỏi ở tính nghệ thuật rất cao. Áp dụng hình thức, biện pháp giáo dục
không phù hợp chẳng những giúp cho người ta tiến bộ hơn mà ngược lại làm phản
tác dụng, tăng thêm tính tiêu cực trong tư tưởng và hành động.
- Nghệ thuật giao tiếp, đàm phán trong kinh doanh. Cũng đòi hỏi tính nghệ
thuật rất cao. Trong thực tế không phải người nào cũng có khả năng này, cùng một
việc như nhau đối với người này đàm phán thành công còn người khác thì thất bại.
- Nghệ thuật ra quyết định quản trị. Quyết định quản trị là một thông điệp biểu
hiện ý chí của nhà quản trị buộc đối tượng phải thi hành được diễn đạt bằng nhiều
hình thức như: văn bản chữ viết, lời nói, hành động, … Ngoài đặc điểm chung của
quyết định quản trị mang tính mệnh lệnh, cưỡng chế ra thì mỗi hình thức của quyết
định lại có những đặc điểm riêng, chẳng hạn như quyết định bằng lời không mang
tính bài bản, khuôn mẫu như quyết định bằng văn bản chữ viết nhưng lại đòi hỏi ở
tính sáng tạo, thích nghi và tính thuyết phục hơn.
- Mọi quản trị suy cho cùng là quản trị con người. Hơn nữa, các nhà quản
trịvừa phải làm việc với những con người cụ thể, vừa phải làm việc với những nhóm
người, trong đó, ngoài yếu tố công việc, kỹ thuật còn yếu tố xã hội ràng buộc, làm
cho những mối quan hệ này khó lượng hoá nổi.
- Môi trường bên ngoài thường xuyên tác động tạo ra những mối quan hệqua
lại giữa doanh nghiệp và môi trường rất phức tạp và khó xác định. Nhận biết và xử
lý từng tình huống cụ thể không chỉ dừng lại ở lý luận mà bằng kinh nghiệm và trực
giác. Đó chính là tính nghệ thuật.
Với tư cách một nghề, quản trị là một nghệ thuật.
Với tư cách một hệ thống kiến thức có tổ chức => quản trị là một khoa học lOMoAR cPSD| 61178690
=> Hai mặt này không loại trừ nhau. Khoa học tiến bộ → nghệ thuật hoàn thiện.
1.1.3. Nhà quản trị 1.1.3.1. Khái niệm
Nhà quản trị làm việc trong một tổ chức nhưng không phải bất cứ thành viên
nào của một tổ chức cũng là nhà quản trị. Lý do đơn giản là vì các công việc quản
trị không phải là tất cả mọi công việc của một tổ chức, mà nó thường chỉ là những
hoạt động mang tính phối hợp, định hướng, lựa chọn, quyết định và kết dính các
công việc trong một tổ chức lại với nhau để đạt mục tiêu chung của chính tổ chức
đó. Các thành viên trong mọi tổ chức có thể chia làm hai loại: người thừa hành và
nhà quản trị. Người thừa hành là những người trực tiếp thực hiện một công tác và
không có trách nhiệm hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và giám sát hoạt động của những
người khác. Trái lại, các nhà quản trị có trách nhiệm chỉ huy, điều khiển, giám sát
v.v... hoạt động của những người khác,... Nhà quản trị, phân biệt với những nhân
viên khác là những người chịu trách nhiệm về công việc của những người khác tại
mọi cấp trong bất kỳ loại cơ sở nào.
Nhà quản trị là người điều khiển những công việc của những người khác.
Nhà quản trị là những người đứng đầu một tổ chức hoặc những hoạt động
khác nhau trong tổ chức, chi phối hoạt động của những người dưới quyền bằng các
chức năng quản trị, được thể hiện thông qua các quyết định để thực hiện công việc
quản lý trong một tổ chức.
Nhà quản trị là người giữ một chức vụ nhất định: Tổng giám đốc, phó tổng
giám đốc, trưởng phó các bộ phận, phòng, ban trong một doanh nghiệp.
Nhà quản trị là người hành nghề chuyên nghiệp, có tính chuyên môn cao do
đó cần phải có: Tri thức, Kinh nghiệm, Năng khiếu.
1.1.3.2. Cấp bậc quản trị trong một tổ chức lOMoAR cPSD| 61178690
Để dễ dàng cho việc nghiên cứu về quản trị, người ta thường chia các nhà
quản trị trong một tổ chức thành 3 cấp:
- Các nhà quản trị cấp cơ sở (first-line manager): tổ trưởng, đốc công…
- Các nhà quản trị cấp giữa (middle manager): trưởng phòng, trưởng ban,
cửahàng trưởng, quản đốc phân xưởng, trưởng khoa…
- Các nhà quản trị cấp cao: giám đốc, tổng giám đốc, giám đốc điều hành,
chủtịch hội đồng quản trị…
Nhà quản trị cấp cơ sở là những nhà quản trị ở cấp bậc cuối cùng trong hệ
thống cấp bậc của các nhà quản trị trong cùng một tổ chức. Thông thường trong các
cơ sở sản xuất họ thường được gọi là tổ trưởng, trưởng nhóm, trưởng ca… với tư
cách là nhà quản trị nhiệm vụ của họ là hướng dẫn, đốc thúc, điều khiển công nhân
trong các công việc thường ngày để đưa đến sự hoàn thành mục tiêu chung của cả
tổ chức. Tuy nhiên, nhà quản trị cấp cơ sở cũng thường là người trực tiếp tham gia
các công việc sản xuất kinh doanh cụ thể như các nhân viên dưới quyền của họ.
Nhà quản trị cấp giữa là một khái niệm rộng, dùng để chỉ những cấp chỉ huy
trung gian, đứng trên các nhag quản trị cấp cơ sở và ở dưới cấp quản trị cao cấp. Đây
có thể là các trưởng phòng, cửa hàng trưởng, quản đốc phân xưởng… Với cương vị
này, họ vừa quản trị các quản trị viên cấp cơ sở thuộc quyền, vừa đồng thời điều
khiển các nhân viên khác. So với chức năng của quản trị viên cấp cơ sở, quản trị
viên cấp giữa có chức năng thực hiện các kế hoạch và chính sách của tổ chức bằng
cách phối hợp các công việc thực hiện nhằm hướng đến sự hoàn thành mục tiêu chung.
Nhà quản trị cấp cao là một nhóm nhỏ các nhà quản trị ở cấp bậc tối cao của
tổ chức chịu trách nhiệm về thành quả cuối cùng của tổ chức. Chức năng chính của
các nhà quản trị cấp cao là xây dựng chiến lược hành động và phát triển của tổ chức.
Chức danh của nhà quản trị cấp cao trong các đơn vị sản xuất kinh doanh thường là
chủ tịch, ủy viên hội đồng quản trị, tổng giám đốc, phó tổng giám đốc… lOMoAR cPSD| 61178690
Công việc của một nhà quản trị thay đổi tùy theo cấp bậc trong tổ chức. Tuy
nhiên sự khác nhau chỉ về trình độ chứ không phải về thể loại. Nhà quản trị nào cũng
đưa ra những quyết định về hoạch định, tổ chức, điều khiển và kiểm tra. Nhưng cách
hoạch định của nhà quản trị cấp cơ sở thì khác với cách hoạch định của nhà quản trị
cấp cao. Vì vậy khi nói về những chức năng quản trị, ta phải nghĩ rằng chúng có thể
khác đi ở những cấp bậc khác nhau. Hơn nữa ở các cấp bậc khác nhau, thời gian thực
hiện những chức năng cũng thay đổi. Trong cùng một tổ chức, nhà quản trị cấp cao
dùng nhiều thời gian để hoạch định hơn một nhà quản trị cấp cơ sở. Tương tự như
vậy, điều khiển là chức năng chủ yếu của người quản trị cấp cơ sở.
1.1.3.3. Kỹ năng của nhà quản trị
Theo Robert Katz, mỗi nhà quản trị đều cần 3 loại kỹ năng: Kỹ năng kỹ thuật
(technical skills), Kỹ năng nhân sự (human skills), Kỹ năng tư duy (conceptual skills).
- Kỹ năng kỹ thuật là những khả năng cần thiết để thực hiện một công việc
cụthể, hay nói cách khác, là trình độ chuyên môn nghiệp vụ của nhà quản trị. Ví dụ
soạn thảo hợp đồng pháp lý kinh tế, thiết kế máy móc…
- Kỹ năng nhân sự liên quan đến khả năng cùng làm việc, động viên và
điềukhiển con người và tập thể trong xí nghiệp, dù những người đó là thuộc cấp,
đồng nghiệp ngang hàng hay cấp trên. Kỹ năng nhân sự là tài năng đặc biệt của nhà
quản trị trong việc quan hệ với người khác để nhằm tạo thuận lợi và thúc đẩy sự
hoàn thành công việc chung. Ví dụ: biết cách thông đạt hữu hiệu, có thái độ quan
tâm tích cực đến người khác và khung cảnh làm việc, xây dựng không khí hợp tác
giữa mọi người cùng làm việc chung, biết cách động viên các nhân viên dưới quyền.
- Kỹ năng tư duy đòi hỏi nhà quản trị phải hiểu rõ mức độ phức tạp của
môitrường và biết cách giảm thiểu sự phức tạp đó xuống một mức độ có thể đối phó
được. Kỹ năng tư duy khó tiếp thu nhất và rất quan trọng đối với các nhà quản trị. lOMoAR cPSD| 61178690
Các nhà quản trị đều phải có đủ ba loại kỹ năng trên nhưng tầm quan trọng
của mỗi loại kỹ năng tùy theo cấp bậc của nhà quản trị trong tổ chức. Nói chung, kỹ
năng kỹ thuật giảm dần sự quan trọng khi lên cao dần trong hệ thống cấp bậc của
các nhà quản trị. Ở cấp càng cao, các nhà quản trị càng cần phải có nhiều kỹ năng tư
duy chiến lược. Kỹ năng nhân sự cần thiết với tất cả các nhà quản trị ở mọi cấp.
1.1.3.4. Vai trò của nhà quản trị
Henry Mentzberg đã nghiên cứu nghiên cứu hoạt động bình thường của nhà
quản trị và cho rằng mọi nhà quản trị đều phải thực hiện mười loại vai trò khác nhau.
Mười loại vai trò đó có thể tập trung trong 3 nhóm lớn:
a. Các vai trò quan hệ với con người
- Vai trò đại diện hay tượng trưng có tính chất nghi lễ trong tổ chức.
- Vai trò của người lãnh đạo đòi hỏi nhà quản trị phải phối hợp và kiểm tracông
việc với nhân viên dưới quyền.
- Vai trò liên lạc quan hệ với người khác ở trong hay ngoài tổ chức để nhằmgóp
phần hoàn thành công việc được giao cho đơn vị của họ. b. Các vai trò thông tin
- Vai trò thu thập và tiếp nhận các thông tin liên quan đến tổ chức và đến
hoạtđộng của đơn vị
- Vai trò truyền đạt (phổ biến) các thông tin liên hệ đến người có liên quan,
cóthể là thuộc cấp, đồng cấp hoặc cấp cao.
- Vai trò phát ngôn cung cấp các thông tin cho các bộ phận trong cùng một
đơnvị hay cho các cơ quan bên ngoài.
c. Các vai trò quyết định
- Người chủ trì (doanh nhân): Hành động như một người tiên phong, cải tiếncác
hoạt động của tổ chức, phát triển các chương trình hành động. Việc này có thể được lOMoAR cPSD| 61178690
thực hiện bằng cách áp dụng một kỹ thuật mới vào một tình huống cụ thể, hoặc nâng
cấp điều chỉnh một kỹ thuật đang áp dụng.
- Xử lý xáo trộn: thực hiện các điều chỉnh cần thiết khi tổ chức đối mặt
vớinhững khó khăn tiên liệu trước, những cuộc khủng hoảng… nhằm đưa tổ chức
sớm trở lại sự ổn định.
- Phân bố tài nguyên (nguồn lực): phân bổ ngân sách, nhân lực, thời
gian…Phân bổ tài nguyên là một trong những vai trò quan trọng nhất trong quá trình
ra quyết định của nhà quản trị vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả quản lý.
- Thương lượng, đàm phán (thương thuyết): đi đến quyết định, nhà quản trịphải
xuất phát từ ý đồ để tiến hành thương lượng: về công việc, về triển khai mục tiêu,
về phân bổ nguồn lực, với đối tác, với khách hàng v.v…
1.2. Văn hóa tổ chức và môi trường quản trị
1.2.1. Văn hóa tổ chức
1.2.1.1. Khái niệm văn hóa tổ chức
Có nhiều định nghĩa về văn hóa của tổ chức khác nhau xuất phát từ những
khía cạnh tiếp cận khác nhau.
- Theo Edgar Schein, văn hóa tổ chức là một mô thức về những giả thiết
nềntảng được sang tạo, được phát hiện, hay được phát triển bởi một nhóm người
nhất định khi họ hoạt động để đương đầu với những vấn đề khó khăn trong việc thích
nghi với môi trường bên ngoài và hội nhập với môi trường bên trong của nhóm, và
mô hình này vận hành đủ tốt để được xem là có giá trị và vì thế được sử dụng để
giáo dục các thành viên mới như là một phương cách đúng đắn để nhận thức, để suy
nghĩ và để cảm nhận liên quan tới những vấn đề khó khăn đó.
- Theo Hellriegel và Slogum, văn hóa tổ chức là tính cách, cách thức suy
nghĩvà hành động trong tổ chức đó và được chia sẻ bởi hầu hết các thành viên và
được các thành viên mới học tập nếu họ muốn tồn tại và tiến bộ trong tổ chức đó. lOMoAR cPSD| 61178690
- Theo Deal và Kennedy, văn hóa là cách mà những công việc được thực hiệntrong tổ chức.
 Nói đến văn hóa tổ chức là nói đến:
- Một nhận thức chỉ tồn tại trong tập thể.
- Các cá nhân trong tổ chức đều có khuynh hướng diễn tả văn hóa của tổ chứcđo cùng một cách.
- Giúp người bên ngoài tổ chức phân biệt được tổ chức này với tổ chức khác.
- Chức năng của văn hóa tổ chức là:
+ Làm cho thành viên thích ứng với môi trường bên ngoài;
+ Giúp tổ chức thích nghi với môi trường hoạt động của mình;
+ Điều chỉnh hành vi của các thành viên phù hợp với hành vi được chấp nhận trong tổ chức.
- Văn hóa tổ chức bao gồm:
+ Những giá trị cốt lõi: là những giá trị trung tâm của văn hóa tổ chức
phản ánh những giá trị liên quan đến công việc của 1 xã hội, 1 cộng đồng mà trong
đó tổ chức đang hoạt động.
+ Những chuẩn mực: là những qui tắc không chính thức về những hành
vi ứng xử được các thành viên trong nhóm chia sẻ và bị ràng buộc phải tuân thủ.
+ Những niềm tin: những điều thường được tin là đúng, trung thực…
+ Những huyền thoại: những câu chuyện liên quan đến các sự kiện mang
tính tiêu biểu cho các thành viên và thường được hư cấu để tạo thành những hình ảnh lý tưởng.
+ Những nghi thức tập thể: là những hoạt động tinh thần của tập thể như lễ hội… lOMoAR cPSD| 61178690
+ Những điều cấm kỵ: là những tập quán của văn hóa tổ chức ngăn cấm
các thành viên không được phép làm hay nói về điều gì đó như cấm hút thuốc nơi
làm việc, cấm mặc thiếu lịch sự trong công sở…
1.2.1.2. Các loại hình văn hóa tổ chức
Văn hóa của một tổ chức có thể nhận biết được ở từng mức độ khác nhau. Đầu
tiên là bề ngoài của văn hóa tổ chức được thể hiện qua những hoạt động mỹ thuật,
những kiến trúc, khẩu hiệu, biểu tượng của tổ chức… Tiếp theo là bên trong văn hóa
tổ chức đó là những giá trị được các thành viêm chia sẻ và được thể hiện qua những
dấu hiệu, biểu tượng, ngôn ngữ, những biểu hiện… Cuối cùng là phần cốt lõi của
văn hóa tổ chức, là những giả thiết nền tảng mà không phải thành viên nào trong tổ
chức cũng nhận biết được.
a. Dựa vào yếu tố hình thành, văn hóa tổ chức có thể nhận biết dưới 3 dạng:
- Thứ nhất, loại văn hóa tổ chức hướng vào cá tính của nhà lãnh đạo hoặc
tậpthể những nhà lãnh đạo mà những người này biết làm cho mình nổi bật lên và tất
cả hoạt động của tổ chức hình như được thực hiện qua vai trò của một người lãnh
đạo. Ví dụ tập đoàn Microsoft và biểu tượng của Bill Gate; tập đoàn Honda và nghị lực của Solchino Honda…
- Thứ hai, loại văn hóa tổ chức hướng vào một hoạt động hay một nghề
nghiệp.Ví dụ các hãng hàng không thường sử dụng hình tượng chiếc máy bay; ngành
du lịch Việt Nam thường sử dụng hình ảnh hoa sen – quốc hoa của Việt Nam để làm biểu tượng…
- Thứ ba, loại văn hóa tổ chức tập trung vào cung cách ứng xử và cách ứng
xửmang tính chất cộng đồng, mang tính chất gia đình. Loại hình văn hóa này dựa
trên cơ sở một sự xã hội hóa sâu rộng những giá trị, chuẩn mực được chia sẻ rộng
rãi. Ví dụ văn hóa phổ biến ở các công ty Nhật Bản (người Nhật quan niệm thành
công là nỗ lực của cả nhóm và không ai có thể tự thành công; họ dùng từ “chúng
tôi” thay cho từ “tôi”...); văn hóa tổ chức trong các công ty Hàn Quốc là làm việc và
giải trí là 2 thái cực cùng tồn tại… lOMoAR cPSD| 61178690
b. Dựa vào cơ sở xác lập mối quan hệ và liên hệ trong hệ thống văn hóa tổ chức
có thể chia văn hóa tổ chức thành 2 loại:
- Văn hóa cộng đồng: các thành viên như là một nhóm có tình cảm anh em;
cácthành viên và tổ chức có sự cam kết lẫn nhau lâu dài và dựa vào những quyền lợi
tương hỗ; những thành viên lâu năm sẽ là những người giúp đỡ tinh thần và đóng
vai trò mẫu mực cho các thành viên mới… Loại hình văn hóa này có thể nhìn thấy
ở các công ty Nhật Bản hoặc một số công ty của Mỹ như IBM, P&G…
- Văn hóa thị trường: mang tính trao đổi về quyền lợi và nghĩa vụ khuyến
khíchsự độc lập và chủ nghĩa cá nhân, thúc đẩy mọi người theo đuổi lợi ích của chính
mình; người lao động cũng không cam kết trung thành và tổ chức cũng không hứa
hẹn đảm bảo đối với công ăn việc làm; các mối quan hệ giữa đồng nghiệp thường
tách biệt, ít có sự phối hợp giữa các thành viên…Loại hình văn hóa này thường thấy
ở các công ty Tây Âu và Bắc Mỹ.
1.2.2. Khái niệm và phân loại môi trường quản trị 1.2.2.1. Khái niệm
Môi trường quản trị là những chế định, những yếu tố và những thông lệ của
xã hội, tác động đến việc lựa chọn để ban hành các quyết định của nhà quản trị.
Theo nghĩa rộng: Môi trường quản trị là tất cả các nhân tố bên trong và bên
ngoài tổ chức, có tác động trực tiếp hay gián tiếp đến các quyết định quản trị hoặc
hoạt động của tổ chức.
Theo nghĩa hẹp: Môi trường quản trị dùng để chỉ các định chế hay lực lượng
ở bên ngoài nhưng lại có ảnh hưởng đến thành quả hoạt động về quản trị của tổ chức.
1.2.2.2. Phân loại môi trường quản trị
Để dễ nghiên cứu người ta chia môi trường quản trị thành 3 nhóm cơ bản: Môi
trường vĩ mô, Môi trường trong ngành, Môi trường bên trong của tổ chức. lOMoAR cPSD| 61178690
Môi trường vĩ mô còn gọi là tổng quát gồm tất cả những yếu tố ở ngoài tổ
chức nhưng có khả năng ảnh hưởng mạnh tới tổ chức. Môi trường vĩ mô gồm các yếu tố như: - Yếu tố kinh tế -
Yếu tố chính trị và chính phủ -
Yếu tố văn hóa - xã hội - Yếu tố tự nhiên -
Yếu tố kỹ thuật - công nghệ
Môi trường trong ngành còn gọi là môi trường vi mô, môi trường đặc thù bao
gồm các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp, quyết định tính chất và mức độ cạnh tranh
trong ngành kinh doanh đó. Môi trường đặc thù gồm các yếu tố sau: -
Yếu tố đối thủ cạnh tranh - Yếu tố khách hàng -
Yếu tố người cung cấp -
Yếu tố các đối thủ tiềm ẩn -
Yếu tố sản phẩm thay thế
Môi trường bên trong của tổ chức bao gồm các yếu tố, các mối quan hệ bên
trong tổ chức quyết định lợi thế và hạn chế của tổ chức. Môi trường bên trong tổ chức bao gồm: -
Công tác quản trị nhân sự - Hoạt động Marketing -
Công tác tài chính kế toán -
Hoạt động sản xuất tác nghiệp- Công tác nghiên cứu và phát triển - Hệ thống thông tin.
1.2.3. Ảnh hưởng của môi trường đối với tổ chức lOMoAR cPSD| 61178690
1.2.3.1. Ảnh hưởng của môi trường vĩ mô đối với tổ chức a. Yếu tố kinh tế
- Là những đặc điểm của hệ thống kinh tế mà trong đó các doanh nghiệphoạt động.
- Bao gồm các yếu tố như: + Tăng trưởng kinh tế
+ Chính sách kinh tế quốc gia + Chu kỳ kinh doanh
+ Khuynh hướng toàn cầu hoá kinh doanh
Đây là yếu tố quan trọng nhất của môi trường vĩ mô, tác động mạnh mẽ nhất
tới môi trường bên trong của các loại hình tổ chức khác nhau. Các yếu tố môi trường
kinh tế bao gồm nguồn nhân lực; giá cả thị trường; năng suất lao động; chất lượng
của các nhà quản trị; chính sách tài chính và thuế của nhà nước... Các yếu tố kinh tế
là những yếu tố gây ra sự biến động của nền kinh tế, được phản ánh qua những chỉ
số như: tỷ lệ lạm phát, tổng sản phẩm trong nước, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ thất
nghiệp, tỷ giá, lãi suất, quy mô ngân sách và cán cân thanh toán trong quan hệ mậu
dịch. Những biến động trong nền kinh tế vừa tạo cơ hội, vừa tạo nguy cơ cho các
nhà quản trị. Trong nền kinh tế của một nước thời kỳ tăng trưởng liên tục ở mức vừa
phải, nhiều công ty đã có được mức cầu ngày càng tăng đối với đầu ra và dễ dàng
tìm kiếm được nguồn tài nguyên hơn, để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.
Còn khi nền kinh tế thời kỳ suy thoái, mức cầu giảm sụt mạnh, tỷ lệ thất nghiệp tăng
và lợi nhuận bị thu hẹp. Các tổ chức thường xuyên theo dõi sự biến động của các chỉ
số kinh tế chủ yếu để giảm đến mức tối thiểu những mối đe doạ và tận dụng những
cơ hội tốt nhất. Có những tổ chức lại sử dụng những dự đoán về tình hình kinh tế
tương lai để đưa ra những quyết định như có nên mở rộng cơ sở vật chất của nhà
máy không? Hay có nên xâm nhập thị trường mới không?... lOMoAR cPSD| 61178690
- Mỗi doanh nghiệp đều phải chú ý theo dõi sự biến động của từng yếu tố để
phân tích, dự đoán và tiến hành các biện pháp cần thiết để đối phó.
b. Yếu tố kỹ thuật công nghệ
Khoa học đem lại kiến thức, còn kỹ thuật công nghệ thì sử dụng kiến thức đó.
Kỹ thuật công nghệ ảnh hưởng rất lớn đến việc sản xuất ra các sản phẩm mới, máy
móc thiết bị mới, vật liệu và dịch vụ mới để nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường.
- Hầu như các hàng hoá được tạo ra hiện nay đều gắn với thành tựu khoa họccông nghệ.
- Thực tế cho thấy doanh nghiệp nào nắm được kỹ thuật công nghệ và sớmứng
dụng nó vào kinh doanh, doanh nghiệp đó tồn tại và phát triển.
- Sự tác động của yếu tố kỹ thuật - công nghệ trên hai mặt:
+ Thứ nhất, những phát triển về công nghệ có thể tác động đến cách sử
dụng kiến thức và kỹ thuật của một công ty trong việc sản xuất ra sản phẩm hoặc
dịch vụ, và trong việc thực hiện các công việc phân tích tài chính, các công việc văn
phòng. Ví dụ, việc phát minh ra công nghệ cáp quang thay cho công nghệ cáp đồng
trong lĩnh vực viễn thông đã làm cho tất cả các lĩnh vực hoạt động của thế giới thay
đổi nhanh chóng, tiết kiệm được chi phí, đem lại hiệu quả cao.
+ Thứ hai, những bước phát triển công nghệ cũng ảnh hưởng đến đặc
điểm sản phẩm hay dịch vụ của một tổ chức ví dụ như công suất của một hệ thống
máy tính hay độ nét và độ sáng của hình ảnh trên tivi màu. Những lực lượng công
nghệ đòi hỏi nhà quản trị phải nắm bắt kịp thời với những bước phát triển mới nhất
và ứng dụng nhanh những thành tựu đó để duy trì khả năng cạnh tranh của các tổ
chức. Các tổ chức cố gắng cập nhật nhanh sự thay đổi về công nghệ thông qua những
liên hệ chặt chẽ với các tổ chức nghiên cứu và phát triển, các nhà khoa học và những
cá nhân khác có liên quan đến việc phát triển công nghệ
=> Nhà quản trị phải nắm bắt kịp thời sự phát triển công nghệ và ứng dụng nó
để duy trì khả năng cạnh tranh trên thị trường. lOMoAR cPSD| 61178690
c. Yếu tố văn hoá- xã hội
Mỗi dân tộc đều có một hệ thống xã hội và văn hoá bao gồm phong cách ứng
xử, thể hiện bằng thái độ, niềm tin và các giá trị về mặt xã hội. Những mong muốn,
hy vọng, tri thức, giáo dục và những tập tục của dân cư trong một xã hội luôn tác
động mạnh vào môi trường bên trong của tổ chức.
- Văn hoá hình thành nên thói quen tiêu dùng của các nhóm dân cư => liênquan
đến thói quen, sở thích, cư xử của khách hàng trên thị trường. Điều này ảnh hưởng
tới quan niệm, cách nhìn nhận, những quyết định về quản lý, sản xuất, kinh doanh của một tổ chức.
- Văn hoá ảnh hưởng đến việc hình thành và phát triển nền văn hoá
doanhnghiệp. Mỗi thành viên trong doanh nghiệp đều chịu ảnh hưởng của yếu tố
văn hoá nơi mình sinh ra và lớn lên. Khi họ tập hợp lại thì văn hoá doanh nghiệp có
sự đa dạng, sự bất đồng, sự mâu thuẫn tồn tại bên cạnh những giá trị cốt lõi truyền thống của doanh nghiệp.
- Văn hoá quy định cách thức mà doanh nghiệp có thể dùng để giao tiếp với
bênngoài như: có trung thực không? Có đảm bảo uy tín, giữ lời hứa không? Có tôn
trọng khách hàng không? Có nhiệt tình không? Điều này ảnh hưởng tới việc đào tạo
đội ngũ nhân viên về quan niệm, ý thức, trách nhiệm, phong cách giao tiếp với bên ngoài.
=> Những tác động của văn hoá đến doanh nghiệp là rất lớn, nhà quản trị cần
nhận thức rõ những thách thức để có những quyết định đúng trong từng tình huống cụ thể.
d. Yếu tố chính trị pháp luật
Yếu tố chính trị, pháp luật bao gồm hệ thống pháp luật và các văn bản pháp
quy của nhà nước quy định. Các yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến việc điều chỉnh
hoạt động của tổ chức. Quan điểm, thái độ của các nhà chính trị trong quan hệ đối
ngoại, trong xu thế hội nhập quốc tế, đã tạo ra môi trường vĩ mô ảnh hưởng sâu sắc lOMoAR cPSD| 61178690
tới môi trường bên trong của tổ chức. Các yếu tố chính trị, pháp luật và điều tiết có
thể vừa có tác động hạn chế vừa tạo ra cơ hội cho tổ chức
- Đặc trưng nổi bật về sự tác động của môi trường chính trị - pháp luật đối
vớicác hoạt động kinh doanh thể hiện ở những mục đích mà thể chế chính trị nhắm tới.
- Thể chế chính trị giữ vai trò định hướng chi phối toàn bộ các hoạt độngtrong
xã hội trong đó có hoạt động kinh doanh.
- Môi trường này gồm: pháp luật, các chính sách và cơ chế của Nhà nướcđối với giới kinh doanh.
- Nhà quản trị cần lưu ý tới những yếu tố này để tiên đoán những thay đổi,quan
trọng về chính trị trong nước, khu vực và trên thế giới để có những quyết sách đúng đắn.
e. Yếu tố môi trường tự nhiên
Bao gồm các yếu tố liên quan như: tài nguyên thiên nhiên, đất đai, khí hậu,
thời tiết… Thực tế cho thấy sự ô nhiễm không khí và môi trường xung quanh đã đến
mức báo động. Nhìn chung các yếu tố môi trường tự nhiên ảnh hưởng đến doanh
nghiệp thể hiện trên các mặt sau: -
Tạo ra thị trường cung ứng các yếu tố đầu vào cho các doanh nghiệp. -
Tác động đến dung lượng và cơ cấu thị trường hàng tiêu dùng. -
Tác động đến việc làm và thu nhập của các tầng lớp dân cư, do đó làm
ảnhhưởng đến sức mua và khả năng tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp. 1.2.3.1.
Ảnh hưởng của môi trường vi mô đối với tổ chức
a. Các đối thủ cạnh tranh
- Là những tổ chức hay cá nhân có khả năng thoả mãn nhu cầu của kháchhàng
mục tiêu của doanh nghiệp.