



















Preview text:
        lOMoAR cPSD| 60752940 MỤC LỤC 
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ TÂM LÝ QUẢN TRỊ KINH DOANH......................1 
1.1 Một số vấn đề chung về tâm lý và tâm lý quản trị kinh doanh..........................1 
1.1.1. Khái niệm và vai trò của tâm lý...........................................................................1 
1.1.2.Khái niệm và quá trình phát triển của tâm lý quản trị kinh doanh.........................2  1.  2.Các  lý  thuyết  về  tâm  lý  quản  trị  kinh 
doanh......................................................11 
1.2.1.Lý thuyết quản trị cổ điển...................................................................................11 
1.2.2.Lý thuyết quản trị hành chính.............................................................................13 
1.2.3.Lý thuyết tâm lý xã hội trong quản trị.................................................................15 
1.2.4.Quan điểm về quản lý con người của các nhà quản trị Nhật Bản........................20  1. 
3.Đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu tâm lý quản trị kinh  doanh.......21 
1.3.1.Đối tượng, nhiệm vụ, nội dung tâm lý quản trị kinh doanh..........................21 
1.3.2.Phương pháp nghiên cứu tâm lý quản trị kinh doanh...................................22 
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 1................................................................................23 
CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM VÀ CÁC QUY LUẬT TÂM LÝ CÁ NHÂN....................28 
2.1. Đặc điểm tâm lý cá nhân....................................................................................28 
2.1.1. Xu hướng..........................................................................................................28 
2.1.2. Tính khí (Khí chất)...........................................................................................29 
2.1.3. Tính cách..........................................................................................................33 
2.1.4. Năng lực............................................................................................................34 
2.1.5. Cảm xúc và tình cảm........................................................................................35  2. 
2.Các quy luật tâm lý cá 
nhân................................................................................36 
2.2.1. Quy luật tâm lý hành vi.....................................................................................36 
2.2.2. Quy luật tâm lý lợi ích.......................................................................................37 
2.2.3. Quy luật tâm lý tình cảm...................................................................................38 
2.2.4. Quy luật tâm lý nhu cầu...................................................................................38 
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 2..............................................................................39 
CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM VÀ CÁC QUY LUẬT TÂM LÝ TẬP THỂ LAO ĐỘNG 44 
3.1. Những vấn đề chung về tập thể lao động..........................................................44 
3.1.1. Khái niệm và đặc điểm tập thể lao động...........................................................44      lOMoAR cPSD| 60752940
3.1.2.Phân loại và cấu trúc tập thể lao động..............................................................45 
3.1. 3.Các giai đoạn phát triển của tập thể lao 
động...................................................46 
3.2. Những hiện tượng và quy luật tâm lý phổ biến của tập thể lao  động.............47 
3.2.1.Quy luật truyền thống, tập quán........................................................................48 
3.2.2.Quy luật lan truyền tâm lý.................................................................................48 
3.2.3.Quy luật nhàm chán..........................................................................................49 
3.2.4.Quy luật tương phản..........................................................................................49 
3.2.5.Quy luật di chuyển.............................................................................................50 
3.2.6. Dư luận tập thể.................................................................................................50 
3.2. 7.Bầu không khí tâm lý trong tập thể lao 
động....................................................50 
3.3. Mâu thuẫn trong tập thể lao 
động.....................................................................51 
3.3.1.Khái niệm và bản chất của mâu thuẫn.............................................................51 
3.3.2.Các loại mâu thuẫn trong tập thể lao động.......................................................52 
3.3.3.Phương pháp giải quyết mâu thuẫn trong tập thể lao động.............................52 
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 3................................................................................53 
CHƯƠNG 4: TÂM LÝ TRONG HOẠT ĐỘNG LÃNH ĐẠO VÀ KINH DOANH...56 
4.1. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh và phẩm chất của nhà kinh doanh...............56 
4.1.1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động kinh doanh.......................................56 
4.1.1.1. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh...........................................................56 
4.1.2. Phẩm chất cần có của nhà kinh doanh...........................................................57 
4.2.Khái niệm và đặc điểm tâm lý của người lãnh đạo................................................57 
4.2.1. Khái niệm lãnh đạo và người lãnh đạo...........................................................57 
4.2.1.1.Người lãnh đạo...............................................................................................58  4.  2.Những  phẩm  chất  tâm  lý  của  người  lãnh 
đạo.........................................................58 4.2.1.Tính nguyên tắc của người lãnh 
đạo...............................................................59 
4.2.2.Tính nhạy cảm của người lãnh đạo.................................................................59      lOMoAR cPSD| 60752940
4.2. 3.Sự đòi hỏi cao đối với người dưới quyền.........................................................59 
4.2.4.Tính đúng mực, tự chủ có văn 
hóa..................................................................60 
4.3. Đặc điểm tâm lý của người mua...........................................................................61  4.3.1. Khái  niệm  và  vai  trò  của  người 
mua..............................................................61  4.3.2. Phân  loại  và  đặc  điểm  tâm  lý  của  người 
mua................................................61 4.2.5.Phẩm chất về tư tưởng, 
chính trị, đạo đức, tác phong...................................66 
4.4. Đặc điểm tâm lý của người bán............................................................................66 
4.4.1 Khái niệm và vai trò của người bán 
hàng.......................................................66 
4.4.2. Các nguyên tắc ứng xử nghề nghiệp của người bán hàng.............................67 
4.4.3. Phẩm chất tâm lý của người bán hàng...........................................................69 
4.5. Tâm lý trong hoạt động marketing........................................................................71  4.5.1. Tâm  lý  trong  nghiên  cứu  thiết  kế  sản  phẩm 
mới...........................................71  4.5.2. Tâm  lý  trong  định  giá  sản 
phẩm.....................................................................74  4.5.3. Tâm  lý  trong  quảng  cáo  kinh 
doanh...............................................................76  CÂU  HỎI  ÔN 
TẬP.....................................................................................................79 
CHƯƠNG 5: CÔNG BẰNG TRONG TỔ CHỨC VÀ STRESS TRONG CÔNG VIỆC 
.....................................................................................................................................83 
5.1. Sự công bằng trong tổ chức................................................................................83 
5.1.1. Khái niệm công bằng trong tổ 
chức.................................................................83 
5.1.2. Nhận thức của người lao động về công bằng trong tổ 
chức...........................83 
5.1.3. Các khía cạnh của công bằng trong tổ 
chức....................................................84 
5.2. Stress trong công việc.........................................................................................85 
5.2.1. Căng thẳng thần kinh và sức khoẻ tinh thần với công việc.............................85      lOMoAR cPSD| 60752940
5.2.2. Những ảnh hưởng của môi trường đến sức khoẻ tinh thần............................85 
5.2.3. Các biểu hiện chính của sức khoẻ tinh thần....................................................87 
5.2.4. Căng thẳng trong công việc..............................................................................88 
5.2.5. Mô hình của căng thẳng thần kinh trong tổ chức:..........................................88  CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 
5................................................................................92 
BÀI TẬP TÌNH HUỐNG............................................................................................95      lOMoAR cPSD| 60752940
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ TÂM LÝ QUẢN TRỊ KINH DOANH 
1.1 Một số vấn đề chung về tâm lý và tâm lý quản trị kinh doanh 
1.1.1. Khái niệm và vai trò của tâm lý  1.1.1.1.  Khái niệm tâm lý 
Có thể hiểu một cách khái quát nhất, tâm lý là những hiện tượng tinh thần xảy ra trong 
đầu óc con người, gắn liền, chi phối và điều khiển mọi hoạt động của con người. Theo 
cách hiểu này thì khái niệm tâm lý rất rộng: là nhận thức, trí tuệ, cảm xúc, tình cảm, ý chí, 
tính cách, ý thức và tự ý thức; là nhu cầu, năng lực, động cơ, hứng thú, khả năng sáng tạo, 
tâm thế xã hội và những định hướng giá trị… của con người. Tâm lý bao gồm 4 lĩnh vực 
cơ bản là: nhận thức, tình cảm - ý chí, giao tiếp và nhân cách. 
Hoạt động tâm lý có cơ sở tự nhiên là hoạt động thần kinh và hoạt động nội tiết, được 
phát sinh thông qua hoạt động sống của từng người và gắn bó mật thiết với các quan hệ 
xã hội. Tâm lý của một người chỉ có thể phát triển bình thường, nếu thoả mãn hai điều 
kiện cơ bản: thứ nhất, người đó phải có bộ não bình thường; thứ hai, người đó phải có các 
mối quan hệ trong xã hội và thế giới tự nhiên. Thoát ly khỏi các mối quan hệ giữa con 
người với con người trong xã hội sẽ làm cho tâm lý mất đi bản tính người, vì bản chất con 
người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội. Tâm lý luôn gắn liền với mọi hoạt động nên 
diễn biến tâm lý bên trong mỗi cá nhân thường được biểu hiện ra bên ngoài thông qua lời 
nói, nét mặt, cử chỉ, hành động... Đây chính là cơ sở để người ta nhận biết tâm lý của đối 
tượng nào đó thông qua quan sát.  1.1.1.2.  Vai trò của tâm lý 
Trải qua quá trình hoạt động, để tồn tại và phát triển, con người phải không ngừng 
nhận thức các hiện tượng, sự vật, các mối quan hệ, các quy luật trong tự nhiên và xã hội, 
đồng thời bày tỏ thái độ của mình đối với chúng. Như vậy tâm lý đã thực hiện vai trò nhận 
thức, giúp con người phản ánh hiện thực tự nhiên, xã hội và bản thân. Sự phản ánh của 
tâm lý bị ảnh hưởng bởi các nhân tố chủ quan và khách quan, dẫn đến có sự khác nhau về 
sự hiểu biết và cảm xúc, tình cảm của mỗi cá nhân. Điều đó cho thấy tâm lý là hiện tượng 
có thật và nhờ nó mà con người có thể nhận thức được và có thái độ với thế giới xung  quanh mình. 
Tâm lý còn có vai trò định hướng và thúc đẩy hoạt động của con người. Nhờ có tâm 
lý, con người luôn xuất hiện nhu cầu, động cơ và mục đích hoạt động, qua đó thúc đẩy 
mọi hành động để thỏa mãn nhu cầu. Tâm lý điều khiển và điều chỉnh hoạt động của con 
người để đạt được mục đích, nhờ đó con người tồn tại và phát triển được trong môi trường  sống của mình.      lOMoAR cPSD| 60752940
Do tâm lý có vai trò quan trọng đối với con người, nên để nâng cao hiệu quả quản lý 
con người trong quản trị kinh doanh, đòi hỏi nhà quản trị phải nắm vững và vận dụng kiến 
thức tâm lý vào quản lý các cá nhân và tập thể lao động trong doanh nghiệp. 
1.1.2. Khái niệm và quá trình phát triển của tâm lý quản trị kinh doanh 
1.1.2.1. Quá trình phát triển của tâm lý học 
Tâm lý học là thuật ngữ có nguồn gốc từ hai từ Hy lạp cổ được phiên âm ra tiếng La 
tinh là “psychologie”. Từ “psyche” có nghĩa là “linh hồn” hay “tâm hồn”, còn từ 
“chologie” có nghĩa là “học thuyết” hay “khoa học”. Trên cơ sở này có thể hiểu tâm lý 
học là “khoa học về tâm hồn”, với đối tượng nghiên cứu là tâm lý con người. Cụ thể, tâm 
lý học nghiên cứu sự hình thành, vận hành và phát triển của các hiện tượng và quy luật 
tâm lý. Trong giai đoạn đầu của lịch sử phát triển, tâm lý học còn là một bộ phận của triết 
học. Sau khi con người nhận thức được sự tồn tại của “tâm hồn” và quan tâm nghiên cứu 
nó thì tâm lý học dần dần được tách ra trở thành một môn khoa học độc lập. 
Sau đây trình bày khái quát về quá trình phát triển của tâm lý học. 
Tâm lý học thời kỳ cổ đại 
Con người đã quan tâm đến các hiện tượng tâm lý ngay từ khi họ xuất hiện trên trái 
đất, cách đây khoảng 10 vạn năm. Trong các di chỉ của người nguyên thuỷ để lại cho thấy 
từ thời kỳ cổ đại đã có những quan niệm về cuộc sống của “hồn”, “phách” sau cái chết 
của con người. Trong các văn tự đầu tiên như các kinh của Ấn Độ cổ, người xưa đã có 
những nhận xét về tính chất của “hồn” và những ý tưởng sơ khai của thời kỳ tiền khoa 
học tâm lý. Trong thời kỳ cổ đại đã xuất hiện nhiều quan điểm và học thuyết khác nhau 
về tâm lý, do có các quan niệm khác nhau về triết học và tôn giáo. 
Học thuyết duy tâm cổ đại cho rằng tâm lý là hiện tượng hoàn toàn phi vật chất, là “phần 
hồn” đối lập với “phần xác”. Phần hồn do Thượng đế sinh ra và được đặt vào con người 
cụ thể khi mới chào đời. Khi con người chết đi thì chỉ có phần xác bị tiêu hủy, còn phần 
hồn sẽ bất tử, nó lìa khỏi xác và tiếp tục tồn tại đâu đó mà con người không thể biết được. 
Chẳng hạn, theo học thuyết của nhà triết học duy tâm cổ đại Hy Lạp Platông (428 - 347 
tr.CN), thì tâm hồn có trước, thực tại có sau. Tâm hồn do Thượng đế sinh ra. Tâm hồn trí 
tuệ nằm trong đầu và có ở giai cấp chủ nô; tâm hồn dũng cảm nằm trong ngực và có ở 
giai cấp quý tộc; tâm hồn khát vọng nằm ở bụng và có ở tầng lớp nô lệ. 
Học thuyết duy vật cổ đại có quan niệm ngược lại, tâm lý là vật chất, vận động và 
biến đổi theo quy luật của thế giới vật chất. Tâm lý không tách khỏi cơ thể và không phải 
là bất tử. Nhiều học thuyết mà điển hình là “thuyết nguyên tử luận” của Đêmôcrát (460 - 
370 tr.CN) cho rằng tâm lý được tạo ra từ các nguyên tử. Các học thuyết khác lại quan 
niệm tâm lý được tạo thành từ đất, nước, lửa, khí... Theo “thuyết khí chất” của Hypôcrát      lOMoAR cPSD| 60752940
(460 - 377 tr.CN), tâm lý được tạo thành bởi 4 chất trong cơ thể, gồm: “Máu” ở trong tim, 
màu đỏ, có thuộc tính nóng; “Chất tiết ra” ở trong não, màu trắng, có thuộc tính lạnh; 
“Chất tiết ra” ở trong gan, màu vàng, có thuộc tính khô và “Chất tiết ra” ở trong dạ dày, 
màu đen, có thuộc tính ướt. Trên cơ sở đó, Hypôcrát giải thích sự khác nhau về tâm lý 
giữa người này với người khác là do có sự khác nhau về tỷ lệ pha trộn của các chất nói 
trên và phân loại con người theo 4 nhóm khí chất, có biểu hiện tâm lý khác nhau như: 
nhóm khí chất có máu chiếm tỷ lệ trội hơn, biểu hiện sự nóng nảy, hăng hái, sôi nổi; nhóm 
khí chất có chất tiết ra trong não trội hơn, biểu hiện sự linh hoạt, sắc xảo, lạnh lung; nhóm 
khí chất có chất tiết ra trong gan trội hơn, biểu hiện sự điềm tĩnh, khô khan, cứng nhắc; 
nhóm khí chất có chất tiết ra trong dạ dày trội hơn, biểu hiện sự ưu tư, ướt át, đa cảm. 
Ngày nay, khoa học tâm lý vẫn nhất trí với cách phân loại con người theo khí chất 
của Hypôcrát, nhưng giải thích bản chất tâm lý của chúng một cách khoa học hơn, dựa 
trên học thuyết “Sinh lý và hoạt động thần kinh cấp cao” của I. Paplôp (1849 - 1936), sẽ  trình bày ở chương sau. 
Trong thời kỳ này, nhà tâm lý học cổ đại Arixtốt (384 - 322 tr.CN) đã viết cuốn sách 
“Bàn về tâm hồn”, được coi là cuốn sách tâm lý học đầu tiên của loài người. Phân tích tác 
phẩm này có thể thấy những quan niệm cơ bản về tâm hồn như sau: 
- Tâm hồn bao gồm cả tư duy, trí nhớ, tình cảm, các quá trình và trạng thái tâm lý, các 
hành động tác động vào thế giới bên ngoài. 
- Muốn hiểu tâm hồn thì phải nghiên cứu các mối quan hệ ngoài tâm hồn, giữa tâm hồn  và cơ thể. 
- Tâm hồn chỉ có ở các vật thể tự nhiên có sự sống, thể hiện qua định nghĩa: 
“Tâm hồn là cái tự đích của thân thể tự nhiên và có khả năng sống”. 
- Có 3 loại tâm hồn: tâm hồn dinh dưỡng đảm bảo chức năng nuôi dưỡng, sinh nở; tâm 
hồn cảm giác đảm nhận chức năng cảm thụ, mong ước và vận động; và tâm hồn suy 
nghĩ đảm nhận chức năng lý giải, lập luận, tưởng tượng. Theo Arixtốt, các loài thực 
vật chỉ có tâm hồn dinh dưỡng, các loài động vật có tâm hồn dinh dưỡng và tâm hồn 
cảm giác, còn con người có cả 3 loại tâm hồn trên. 
Tóm lại, trong thời kỳ cổ đại các nhà tâm lý đều quan tâm đặc biệt đến “tâm hồn” con 
người với quan niệm đó là một lĩnh vực riêng cần phải được nghiên cứu độc lập. Tuy 
nhiên, do hạn chế về trình độ phát triển của khoa học lúc đó, hệ thống quan điểm về tâm 
lý con người thời kỳ cổ đại còn mang nặng tính tự nhiên, tự phát, máy móc, phần lớn 
mang mầu sắc duy linh và mới dừng ở mức độ tiền khoa học. Trong thời kỳ cổ đại, tâm lý 
học vẫn là một bộ phận của triết học, chưa đủ điều kiện để tách ra thành một môn khoa 
học độc lập. Tâm lý học truyền thống      lOMoAR cPSD| 60752940
Sau thời kỳ cổ đại, tâm lý học tiếp tục phát triển sang thời kỳ tâm lý học truyền thống. 
Những thành tựu quan trọng của khoa học tâm lý trong thời kỳ này có thể tóm tắt như  sau: 
Thuyết nhị nguyên: Người đại diện cho phái "nhị nguyên luận" là R.Đêcác (1596 1650), 
cho rằng vật chất và tâm hồn là hai thực thể song song tồn tại. Ông coi cơ thể con người 
có phản xạ như một chiếc máy. Còn bản thể tinh thần, tâm lý con người thì không thể biết 
được. R.Đêcác cũng đặt cơ sở đầu tiên cho việc tìm ra cơ chế phản xạ trong hoạt động 
tâm lý. Nội dung cơ chế phản xạ có thể mô tả như sau: khi có một kích thích từ bên ngoài 
tác động vào một giác quan nào đó, sẽ gây ra một xung động thần kinh đáp lại, thông qua 
cử động phản xạ của một cơ quan nào đó trong cơ thể, gọi là cơ quan thực hiện phản xạ. 
Phát kiến về "phản xạ" của R.Đêcác đã được ứng dụng vào nghiên cứu cảm giác của con 
người bằng thực nghiệm 
- Nhà triết học Đức Vônphơ (1659 - 1754) đã cho xuất bản cuốn “Tâm lý học kinh 
nghiệm” vào năm 1732 và cuốn "Tâm lý học lý trí" vào năm 1734. Thuật ngữ "tâm 
lý học" đã được sử dụng lần đầu tiên trong các cuốn sách này. 
- Học thuyết tiến hóa của Đác-uyn (1909-1982): Học thuyết này là cơ sở để giải thích 
sự phát triển tâm lý của các loài sinh vật từ thấp đến cao và trai trò của tâm lý trong 
quá trình thích nghi với môi trường để tồn tại và phát triển của các loài sinh vật. 
- Đến thế kỷ XIX, tâm lý học phát triển với tư cách là khoa học thực nghiệm ở các nước 
Đức, Nga, Mỹ, Anh, Pháp... Phòng thí nghiệm tâm lý đầu tiền do Vuntơ, nhà tâm lý 
học người Đức thành lập tại Laixich vào năm 1819. Thực chất đây là phòng thí 
nghiệm sinh lý - tâm lý và đến thời kỳ này tâm lý học mới thực sự được coi là ngành 
khoa học độc lập với triết học, có đối tượng, phương pháp nghiên cứu, chức năng và 
nhiệm vụ riêng. Trong thời kỳ này, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ 
nghĩa duy vật tiếp tục diễn ra gay gắt xung quanh mối quan hệ giữa tâm và vật. 
- Các nhà triết học duy tâm chủ quan như Béccơli (1685 - 1753), E.Makhơ (1838 1916) 
cho rằng thế giới không có thực mà chỉ là sự "phức hợp các cảm giác chủ quan" của 
con người mà thôi. D.Hium (1811 - 1916) thì coi thế giới chỉ là những "kinh nghiệm 
chủ quan", còn việc giải thích kinh nghiệm là do đâu thì Hium cho rằng con người 
không thể biết. Vì vậy, người ta gọi Hium là người thuộc phái "bất khả tri". 
- Học thuyết duy tâm phát triển tới mức độ cao, thể hiện qua "Ý niệm tuyệt đối" của 
Hêghen. Đặc biệt là các nhà triết học và tâm lý học phương Tây như Spinnôda (1632 1667) coi 
tất cả vật chất đều có tư duy. Lametri (1709 - l751) là một trong các nhà sáng lập ra chủ nghĩa 
duy vật Pháp thừa nhận chỉ có cơ thể mới có cảm giác, còn Canbanic (1757 - 1808) thì cho rằng 
não tiết ra tư tưởng giống như gan tiết ra mật...      lOMoAR cPSD| 60752940
- Phơbách (1804 - 1872) là nhà duy vật lỗi lạc bậc nhất trước khi chủ nghĩa Mác ra 
đời, đã khẳng định tinh thần, tâm lý không thể tách rời khỏi bộ não con người và là 
sản phẩm vật chất phát triển tới mức độ cao.  Tâm lý học hiện đại 
Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thể kỷ XX, mặc dù đã trở thành một khoa học độc lập, song 
tâm lý học lại rơi vào cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về phương pháp luận và đi vào bế 
tắc. Bối cảnh đó đã đặt ra vấn đề tìm lối thoát cho tâm lý học như một nhu cầu khách 
quan, từ đó xuất hiện nhiều trường phái tâm lý học khác nhau ở nhiều nước và đưa khoa 
học tâm lý chuyển sang thời kỳ phát triển mới - Tâm lý học hiện đại. Nổi bật trong các 
trường phái tâm lý học thời kỳ này phải kể đến 3 trường phái tâm lý học khách quan (tâm 
lý học ghextan, tâm lý học hành vi, phân tâm học) và đỉnh cao của tâm lý học hiện đại là 
trường phái tâm lý học hoạt động (tâm lý học Mácxit). 
- Trường phái tâm lý học ghextan 
Ghextan có thể hiểu là một hình ảnh tâm lý có cấu trúc trọn vẹn, hoàn chỉnh và nó 
không phải được cấu tạo nên từ những phần tử, những phần (yếu tố) riêng biệt. Trong 
tiếng Đức, “gestalt” có nghĩa là toàn vẹn, cấu trúc, hình thái. Vì vậy, tâm lý học ghextan 
còn được gọi là tâm lý học cấu trúc, tâm lý học hình thái. 
Tâm lý học ghextan ra đời vào năm 1913, do 3 nhà tâm lý học người Đức là M. 
Wertheimer (1880 - 1943), V. Kohler (1887 - 1967) và K. Koffka (1886 - 1941) lập ra. 
Đây là trường phái chuyên nghiên cứu về tri giác, ngoài ra nó cũng nghiên cứu về tư duy 
của con người. Bằng kết quả thí nghiệm, các nhà tâm lý học thuộc trường phái ghextan 
đã đưa ra một cách tiếp cận mới về các hiện tượng tâm lý (tri giác, tư duy...), theo quan 
niệm: một tổ chức hoàn chỉnh không thể lấy ra được cái bộ phận, vì tính chất của cái bộ 
phận không mang trong nó tính chất của cái hoàn chỉnh. Một tổ chức hoàn chỉnh cũng 
không phải là tổng đơn giản của các bộ phận, các yếu tố tạo thành. 
Tâm lý học ghextan đã phát hiện ra những quy luật cơ bản của tri giác như Quy luật 
mối quan hệ giữa hình và nền: Hình là cái được sắp xếp gần hơn nền bởi tính hiệu quả 
của định vị chủ quan, hình nổi được là nhờ nền, vì vậy thay đổi nền sẽ dẫn đến những cảm 
nhận khác nhau về cùng một hình. Đây là những khám phá rất lý thú, giúp chúng ta hiểu 
rõ sự tác động của nền vào hình, làm xuất hiện những “ảo giác”; Quy luật bổ sung: Tri 
giác con người luôn có xu hướng bổ sung, làm cho hình ảnh tri giác được trọn vẹn, đẹp, 
hoàn chỉnh, hài hoà hơn. Ví dụ, nhìn một tam giác thiếu một góc, ta vẫn “thấy” nó là một 
tam giác đủ cả ba cạnh và ba góc. Điều này cho thấy, hình ảnh tri giác không chỉ là kết 
quả của tổng các kích thích hay của phản xạ này liên tưởng với phản xạ kia tại thời điểm 
đó, mà còn do con người tri giác sự vật hiện tượng bằng cả vốn sống, kinh nghiệm hoạt      lOMoAR cPSD| 60752940
động có từ trước; Quy luật về tính không đổi (tính ổn định): Hình ảnh tri giác có tính chất 
ổn định, nó phụ thuộc vào cảm tính con người, chứ không thay đổi theo các điều kiện hay 
kích thích khác nhau. Ví dụ, một cục phấn luôn được tri giác là cục phấn trắng, dù điều 
kiện ánh sáng có thay đổi, khi giữa trời nắng chói chang hay lúc tranh tối tranh sáng...T 
Tâm lý học ghextan cho rằng, các hình ảnh tâm lý có cùng cấu trúc với các quá trình 
sinh lý, cũng như với các khách thể vật lý. Não người phải có cấu trúc như thế nào đó để 
có thể chuyển các cấu trúc vật lý (các vật thể...) thành các cấu trúc tâm lý (hình ảnh tri 
giác...) thông qua khâu trung gian là các quá trình sinh lý của cơ thể. Và đi đến kết luận: 
vấn đề chủ yếu của hoạt động tư duy là quá trình cải tổ cấu trúc nhận thức để đạt được 
hiệu quả phản ánh cao hơn. 
- Trường phái tâm lý học hành vi 
Trường phái tâm lý học hành vi ra đời vào năm 1913 ở Mỹ, do J. Watson (1878 - 
1958) sáng lập. Trường phái này lấy hành vi làm đối tượng nghiên cứu, đồng nhất hành 
vi con người với hành vi của động vật, bỏ qua các trạng thái của ý thức và các quá trình 
sinh lý, thần kinh. Hành vi được xem như tổ hợp các phản ứng của cơ thể trước các kích 
thích từ môi trường bên ngoài, theo công thức S – R (Stimul: kích thích, Reaction: phản 
ứng). Như vậy con người ở đây chỉ được xem như một thực thể sinh học, có phản ứng đáp 
lại một cách thụ động trước các kích thích của hoàn cảnh khách quan. Để tồn tại và phát 
triển, con người buộc phải hành động sao cho thích nghi với hoàn cảnh, nếu không nó sẽ 
bị đào thải. Công thức S – R có hạn chế là đã bỏ qua các yếu tố thuộc về chủ thể phản 
ứng, như cơ chế hoạt động thần kinh trong điều chỉnh hành vi, mối quan hệ bản chất của 
con người trong xã hội, lịch sử. 
- Trường phái phân tâm học 
Phân tâm học do S. Freud (1856 - 1939), bác sỹ thần kinh và tâm thần người Áo sáng 
lập, nên còn gọi là tâm lý học Freud. Trường phái này được xây dựng trên khái niệm vô 
thức: Mọi hoạt động tâm lý đều bắt nguồn từ vô thức và tuỳ thuộc vào tương quan giữa 
những lực lượng thôi thúc và ngăn cản, được biểu hiện ra theo những quy luật khác hẳn 
với ý thức. Một nội dung quan trọng của trường phái phân tâm học là xây dựng cấu trúc 
tâm lý cá nhân, dựa trên 3 “khối” có mối quan hệ mật thiết với nhau như sau: + Cái vô 
thức hay cái nó: là biểu hiện của di truyền và hoạt động theo nguyên tắc thoả mãn tối đa 
những nhu cầu bản năng (mang tính bẩm sinh) của cá nhân như tình dục, đói khát... Trong 
các loại vô thức thì đam mê tính dục có một vị trí đặc biệt quan trọng trong toàn bộ đời 
sống tâm lý của con người. Đam mê tính dục tạo ra nguồn năng lượng rất mạnh mẽ, gọi 
là libido - cội nguồn của tinh thần, nguyên nhân của mọi bệnh tâm thần cũng như khả      lOMoAR cPSD| 60752940
năng lao động sáng tạo ở con người. Xung lực phát ra từ cái nó thể hiện mục đích thực sự 
và là nguyên nhân cuối cùng của mọi hoạt động của con người. 
+ Cái siêu tôi: bao gồm các chuẩn mực, quy định, những ràng buộc, cấm kỵ của môi 
trường xã hội đối với cá nhân. Cái siêu tôi hoạt động theo nguyên tắc chèn ép, kiểm duyệt 
những xung lực phát ra từ cái nó và quyết định việc thoả mãn hay chưa thoả mãn ngay 
những đòi hỏi của những xung lực đó. Như vậy nhờ có cái siêu tôi mà các nhu cầu (bản 
năng) của cá nhân được thoả mãn trong phạm vi xã hội cho phép. 
+ Cái tôi: là cái trung gian, có chức năng làm cân bằng giữa cái nó và cái siêu tôi. Cái tôi 
hoạt động theo nguyên tắc hiện thực và nó chính là ý thức được kiểm soát của cá nhân. 
Cái tôi luôn trong tình trạng giằng co giữa đòi hỏi thoả mãn các nhu cầu bản năng và 
những điều ràng buộc, cấm kỵ của môi trường xã hội, do đó nó luôn trong tình trạng phải 
“điều hoà” để thích ứng, dẫn đến tâm lý cá nhân có diễn biến rất phức tạp. 
Nói chung cả ba trường phái trên đều có những đóng góp nhất định vào sự phát triển 
của khoa học tâm lý. Nhưng hạn chế cơ bản của chúng là đã sử dụng chân lý cục bộ làm 
nguyên lý phổ quát, vì thế sau 10 năm phát triển cả ba trường phái lại rơi vào bế tắc, dẫn 
đến sự ra đời của những trường phái "mới" như thuyết hành vi mới, thuyết S.Freud mới  và thuyết gestalt mới. 
Trường phái tâm lý học Mácxit 
Triết học Mác - Lênin ra đời đã tạo ra bước phát triển quan trọng của khoa học tâm 
lý, nó là cơ sở để xây dựng trường phái tâm lý học hoạt động. Khoảng đầu thế kỷ XX, tâm 
lý học mới xác định được đối tượng nghiên cứu một cách đúng đắn nhờ những đóng góp 
tích cực của các nhà tâm lý học Xô Viết, mà điển hình là L.X Vưgôtxki (1896 1934), 
X.L.Rubinxtêin (1902 - 1960), A.N.Lêônchiev (1903 - 1979), A.R.Luria (1902 1977)... 
Trường phái tâm lý học Mácxit lấy triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm cơ 
sở lý luận và phương pháp luận. Tâm lý học là một khoa học tổng hợp nên không thể một 
lúc có thể quán triệt và bao quát được tất cả các ngành và phân ngành, cả lý luận và thực 
tiễn, và cả những công trình nghiên cứu cụ thể. Về vấn đề này A.N.Lêônchiev đã có nhận 
xét quan trọng: "Ngày nay, nhà tâm lý học giống như một người thợ xây có trước mặt 
mình vô số vật liệu loại một, hơn nữa lại có cả toàn bộ những khối đã thành hình, nhưng 
lại không có bản thiết kế chung về công trình kiến trúc toàn bộ mà anh ta phải xây dựng. 
Phải chăng điều đó đã gây ra cái ấn tượng vô chính phủ trong lý luận tâm lý học”. Các 
nhà tâm lý học Mácxit coi tâm lý là sự phản ánh thế giới khách quan của bộ não thông 
qua hoạt động của con người. Tâm lý người mang tính chủ thể, có bản chất xã hội, được 
hình thành, phát triển và thể hiện trong hoạt động và trong các mối quan hệ của con người 
trong xã hội. Chính vì thế mà tâm lý học Mácxit được gọi là "tâm lý học hoạt động". Cũng      lOMoAR cPSD| 60752940
theo quan điểm của trường phái tâm lý này, tâm lý người không có sẵn và tự bộ óc cũng 
không “sản sinh" ra tâm lý, bộ óc là khí quan của tâm lý và tâm lý là chức năng của óc  người. 
Tóm lại, có thể thấy quá trình phát triển của tâm lý học gắn liền với sự phát triển của 
loài người, từ xa xưa cho đến ngày nay. Trong khoảng thời gian ấy, tâm lý học đã có tốc 
độ phát triển vô cùng mạnh mẽ cả về lượng và về chất, để đáp ứng những yêu cầu bức 
thiết của mỗi thời đại mà trọng tâm là sự phát triển của con người và xã hội. 
1.1.2.2. Khái niệm tâm lý quản trị kinh doanh  * Quản trị 
Dưới góc độ tâm lý có thể hiểu một cách khái quát: Quản trị là hoạt động giải quyết 
mối quan hệ giữa con người với con người theo những quy tắc và chuẩn mực xã hội, nhằm 
phục vụ cho lợi ích của con người và sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, theo các lĩnh 
vực nghiên cứu cụ thể người ta đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về quản trị, như:  - 
Quản trị là các hoạt động được thực hiện nhằm đảm bảo hoàn thành công việc thông 
qua nỗ lực của người khác.  - 
Quản trị là một hoạt động thiết yếu nhằm đảm bảo phối hợp có hiệu quả hoạt động 
của những cá nhân nhằm đạt được mục tiêu chung của tổ chức. 
Từ những định nghĩa trên, có thể đưa ra khái niệm: Quản trị là sự tác động có mục 
đích, có định hướng, có kế hoạch và có hệ thống từ chủ thể quản trị đến khách thể của nó, 
nhằm đạt được những mục tiêu đã đề ra. Hình 1.1 dưới đây là sơ đồ biểu diễn một cách 
khái quát khái niệm quản trị nêu trên. 
Như vậy, trong mỗi tổ chức thuộc mọi lĩnh vực, như: văn hóa, kinh doanh, quân sự, hành chính, 
đoàn thể... đều cần có hoạt động quản trị, nhằm xác định mục tiêu, nhiệm vụ của tổ chức 
và thực hiện việc phân công, phối hợp hoạt động giữa các bộ phận, cá nhân, nhằm đạt được 
mục tiêu một cách hiệu quả.  Chủ thể quản trị      Khách thể   
Hình 1.1. Sơ đồ biểu diễn khái niệm quản trị 
* Quản trị kinh doanh 
Quản trị kinh doanh là sự tác động liên tục, có tổ chức, có định hướng của nhà quản 
trị đến các cá nhân, tập thể lao động trong doanh nghiệp, nhằm sử dụng một cách tốt nhất      lOMoAR cPSD| 60752940
mọi tiềm năng và cơ hội để đạt được mục tiêu đề ra theo đúng luật pháp và chuẩn mực xã  hội. 
Sự tác động liên tục, có tổ chức, có mục đích của chủ thể doanh nghiệp chính là việc 
tổ chức thực hiện các chức năng của quản trị kinh doanh, nhằm phối hợp các mục tiêu và 
tạo ra động lực hoạt động cho người lao động trong doanh nghiệp. Việc sử dụng tốt nhất 
các tiềm năng, cơ hội của doanh nghiệp là sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực bên 
trong và luôn thích ứng với môi trường bên ngoài của doanh nghiệp trong điều kiện chấp 
nhận cạnh tranh và rủi ro trên thị trường. 
Thực chất của quản trị kinh doanh là sự kết hợp mọi nỗ lực của các cá nhân, tập thể 
lao động nhằm đạt được mục tiêu chung của doanh nghiệp, đồng thời đạt được mục đích 
hoạt động của mỗi thành viên trong doanh nghiệp một cách linh hoạt và hiệu quả nhất. 
Quản trị kinh doanh phải trả lời được những câu hỏi cơ bản như: sản xuất kinh doanh cái 
gì, sản xuất kinh doanh như thế nào, cạnh tranh với ai và cạnh tranh bằng cách nào, những 
rủi ro nào có thể xảy ra trong kinh doanh… Quản trị kinh doanh có các nhiệm vụ cơ bản  sau đây:  - 
Xác định mục tiêu, chiến lược, kế hoạch kinh doanh của tổ chức trong một giai đoạn  nhất định.  - 
Tổ chức hoạt động, đảm bảo sự phối hợp hài hòa các hoạt động cá nhân, bộ phận trong 
tổ chức nhằm đạt được hiệu quả lao động tối ưu.  - 
Trang bị cơ sở vật chất, phân công quản lý sử dụng chúng trong quá trình sản xuất kinh  doanh… 
Trong quá trình triển khai các nhiệm vụ trên, hoạt động quản trị kinh doanh đã thực 
hiện những chức năng chủ yếu là: hoạch định, tổ chức, quản lý và kiểm tra. Tuy nhiên, 
các nhà quản trị ở các cấp khác nhau cần có sự phân bố thời gian và công sức cho các 
chức năng quản trị một cách hợp lý, để có thể hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Chẳng 
hạn, các nhà quản trị cao cấp thường giành nhiều nỗ lực hơn cho chức năng hoạch định 
và tổ chức, trong khi các nhà quản trị trung gian và cơ sở lại mất nhiều thời gian hơn cho 
chức năng quản lý và kiểm tra. 
Tâm lý quản trị kinh doanh 
Tâm lý quản trị kinh doanh là một môn khoa học chuyên ngành, nghiên cứu ứng dụng 
các kiến thức tâm lý vào hoạt động quản trị kinh doanh, nhằm tác động vào tính tích cực 
của người lao động, thúc đẩy họ làm việc vì lợi ích của bản thân, tập thể lao động và 
toàn xã hội, đồng thời tác động vào tập thể lao động nhằm tạo nên bầu không khí tâm lý 
tích cực trong doanh nghiệp.      lOMoAR cPSD| 60752940
Trong lĩnh vực quản trị kinh doanh thì quản trị con người là phức tạp nhất và quan 
trọng nhất. Các nhà quản trị cần phải nghiên cứu các quy luật tâm lý diễn ra trong các cá 
nhân và trong tập thể lao động, từ đó tìm cách thúc đẩy các hoạt động tích cực, khuyến 
khích tính sáng tạo, nhằm không ngừng nâng cao năng suất và hiệu quả lao động của họ. 
Việc nghiên cứu ứng dụng môn tâm lý quản trị kinh doanh còn có tác dụng giúp cho 
nhà quản trị biết mình, biết người, để có thể quản lý tốt doanh nghiệp và giành thắng lợi  trong cạnh tranh. 
Biết mình có nghĩa là nhà quản trị đánh giá đúng về sản phẩm của mình, khả năng, 
sở trường của đội ngũ lao động và tiềm lực của doanh nghiệp, để không ngừng hoàn thiện 
sản phẩm, thỏa mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu thị trường. Biết mình còn có nghĩa là nhà 
quản trị nhận biết được mặt mạnh, mặt yếu để không ngừng hoàn thiện bản thân, góp phần 
nâng cao uy tín của nhà quản trị và doanh nghiệp. 
Biết người có nghĩa là nhà quản trị nắm được nhu cầu, sở thích thị hiếu, tâm trạng, thái 
độ, tính cách của khách hàng để định hướng và điều khiển hoạt động sản xuất kinh doanh 
của doanh nghiệp, nhằm đưa ra thị trường những hàng hoá, dịch vụ phù hợp và thỏa mãn 
nhu cầu, mong muốn của khách hàng và có ưu thế cạnh tranh... Biết người còn có nghĩa 
là nhà quản trị hiểu rõ mặt mạnh, mặt yếu của đối thủ cạnh tranh trên thị trường, những 
thay đổi của môi trường kinh doanh có thể tạo ra cơ hội hoặc thách thức đối với doanh 
nghiệp, nắm được tâm lý của lãnh đạo cấp trên để có thể đề ra mục tiêu, chiến lược kinh 
doanh đúng đắn, được cấp trên phê duyệt. 
Mặt khác, vận dụng tâm lý quản trị kinh doanh còn giúp nhà quản trị giải quyết tốt 
những vấn đề liên quan trực tiếp đến người lao động như: tuyển dụng, bồi dưỡng, bố trí 
sử dụng lao động, xử lý các mâu thuẫn trong tập thể lao động, xây dựng văn hóa doanh  nghiệp... 
1.1.2.3. Khái quát về sự phát triển của tâm lý quản trị kinh doanh 
Tâm lý quản trị kinh doanh là một trong những chuyên ngành của tâm lý học, ra đời 
muộn hơn nhưng phát triển rất nhanh do yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội. Năm 1912, 
nhà tâm lý học người Đức H.Munsterberg là người đầu tiên giảng môn Tâm lý học quản 
trị kinh doanh tại Đức và sau đó tại Mỹ. Ý tưởng chính trong môn học này là nhà quản trị 
cần sử dụng những con người khác nhau về xu hướng, mục đích, tính khí, năng lực... sao 
cho phù hợp với từng loại công việc để nâng cao hiệu quả lao động của họ. Theo hướng 
này, ông đã nghiên cứu nhiều công trình khoa học và đưa ra các luận điểm khoa học, làm 
cơ sở cho việc hình thành môn xã hội học lao động và thực nghiệm xã hội sau này. Ngoài 
ra, Munsterberg còn nghiên cứu xây dựng hệ thống đo lường, được sử dụng trong lựa chọn      lOMoAR cPSD| 60752940
người vào học các nghề khác nhau và sau đó ý tưởng này đã ảnh hưởng rất lớn đến việc 
hình thành môn tâm lý học quản lý ở Mỹ. 
Sự phát triển khoa học công nghệ và kinh tế thị trường đã đặt ra vấn đề phải không ngừng 
nâng cao hiệu quả của hoạt động quản trị kinh doanh. Khi này các tổ chức ngày càng trở nên 
rộng lớn và phức tạp hơn, phải nắm giữ một số vốn khổng lồ và một đội ngũ lao động đông 
đảo. Kết quả kinh doanh phụ thuộc chủ yếu vào năng suất lao động và hiệu quả làm việc của 
các thành viên trong tổ chức. Do đó cần phải có đội ngũ các nhà quản trị doanh nghiệp có năng 
lực về quản lý và những người lao động có nghiệp vụ cao, có kỷ luật lao động và trung thành 
với doanh nghiệp. Để động viên người lao động làm việc tốt hơn, các nhà quản trị buộc phải 
tìm hiểu khoa học tâm lý và ứng dụng chúng vào trong hoạt động quản trị kinh doanh, để tìm 
ra giải pháp đáp ứng tốt nhất những nhu cầu bức thiết của họ, tạo động lực thúc đẩy họ lao động 
nhiệt tình, sáng tạo vì lợi ích bản thân, doanh nghiệp và xã hội. 
Như vậy, xuất phát từ những yêu cầu khách quan đặt ra trong thực tiễn, môn tâm lý 
quản trị kinh doanh đã ra đời và phát triển nhanh chóng trên thế giới. Thực tế cho thấy 
nhiều nhà quản trị doanh nghiệp ở Việt nam đã bước đầu nghiên cứu ứng dụng có hiệu 
quả môn tâm lý quản trị kinh doanh vào hoạt động quản lý doanh nghiệp, góp phần phát 
triển doanh nghiệp một cách ổn định và bền vững, trong điều kiện kinh tế thị trường và  hội nhập 
1.2. Các lý thuyết về tâm lý quản trị kinh doanh 
1.2.1. Lý thuyết quản trị cổ điển 
1.2.1.1. Lý thuyết của Taylor (1856 - 1915) 
Frederick Winslow Taylor (1856 - 1915) được thừa nhận là cha đẻ của lý thuyết quản 
lý theo khoa học và là người mở ra một "kỷ nguyên vàng" trong khoa học quản lý. Vốn 
là một công nhân và sau là kỹ sư trưởng của nhà máy Midvale, Taylor đã thấy được những 
nhược điểm của phương pháp quản lý đương thời, theo kiểu “trại lính". Phương pháp quản 
lý này đã dẫn đến năng suất lao động thấp, lãng phí lao động và tài nguyên. Từ năm 1901, 
ông thôi làm việc ở nhà máy để dành thời gian nghiên cứu và phổ biến lý thuyết quản lý 
theo khoa học của mình. Phương pháp quản lý của Taylor đã được ứng dụng nhanh chóng 
ở Mỹ, sau đó được áp dụng rộng rãi ở Anh và nhiều nước khác. 
Taylor đã đề xuất thay thế phương pháp quản lý kiểu "trại lính" bằng phương pháp quản 
lý có huấn luyện, có định mức, có hoạch định và phân công công việc cho từng người lao động 
một cách khoa học. Nhờ vậy năng suất lao động được nâng cao, phế phẩm giảm đáng kể. 
Những nguyên tắc cơ bản của lý thuyết Taylor là: 
- Xây dựng phương pháp khoa học để thực hiện có kết quả từng công việc cụ thể trong nhà  máy.      lOMoAR cPSD| 60752940
- Tuyển chọn, huấn luyện công nhân phù hợp với mỗi công việc. 
- Xây dựng định mức lao động và phân công, hợp tác lao động một cách khoa học. 
Từ những nguyên tắc trên, Taylor đã đề ra các biện pháp cụ thể như: nghiên cứu toàn 
bộ quy trình thực hiện công việc của người công nhân, sau đó chia nhỏ các công việc của 
họ ra thành các công đoạn khác nhau để tìm cách cải tiến, tối ưu hóa các thao tác và xây 
dựng hệ thống khuyến khích vật chất để kích thích người lao động (như trả công theo sản  phẩm). 
Mặc dù lý thuyết Taylor còn có những hạn chế như đã "máy móc hóa con người", cột 
chặt người lao động vào dây chuyền sản xuất để quản lý, tạo điều kiện cho giới chủ khai 
thác, vắt kiệt sức lao động của người công nhân..., song với những thành tựu to lớn của 
nó, lý thuyết Taylor vẫn được các nhà quản lý nghiên cứu áp dụng trong hoạt động quản 
trị kinh doanh, được thể hiện ở những điểm cơ bản sau: khi giao việc cho người lao động, 
nhà quản trị cần phải hình dung được công việc sẽ diễn ra như thế nào, có những thuận 
lợi và khó khăn gì. Trên cơ sở đó mà hướng dẫn, tạo điều kiện cho người lao động thực 
hiện tốt các nhiệm vụ được giao; phải chú ý phối hợp hoạt động giữa các cá nhân, bộ phận 
một cách nhịp nhàng, hiệu quả thì công việc kinh doanh mới đạt được kết quả mong muốn; 
cần quan tâm đến việc xây dựng định mức lao động và trả công hợp lý để kích thích người  lao động... 
1.2.1.2. Lý thuyết của Henry Lawrence Gantt (1861 - 1919) 
Henry L.Gantt cùng làm việc với Taylor với tư cách là trợ lý cho Taylor lúc ông là kỹ 
sư trưởng. Sau đó, hai ông đã cộng tác chặt chẽ với nhau trong nghiên cứu lý thuyết quản  lý theo khoa học. 
Lý thuyết của Gantt tập trung vào tính dân chủ trong công nghiệp và ông là người 
luôn cố gắng làm cho ngành khoa học quản lý mang tính nhân đạo. Theo ông, định nghĩa 
chân thực nhất của dân chủ thực sự là tổ chức những hoạt động của con người hài hòa với 
các quy luật tự nhiên, sao cho mỗi cá nhân đều có cơ hội để phát huy năng lực của mình 
ở mức cao nhất. Ngoài việc trả lương theo sản phẩm, Gantt đã bổ sung hệ thống tiền 
thưởng để kích thích lao động. Gantt còn nổi tiếng qua đề xuất một loại biểu đồ đặc biệt 
mang tên "biểu đồ quyết toán hàng ngày", dùng để kiểm tra cập nhật số lượng sản phẩm 
được sản xuất ra. Đây là phát minh làm tiền đề cho biểu đồ Gantt ra đời năm 1917 - một 
đóng góp to lớn của ông trong thời điểm chiến tranh bùng nổ. Biểu đồ cho thấy sản lượng 
dự tính (số lượng đặt ra), tiến trình của công việc (tức là số lượng được hoàn thành) và tỷ 
lệ giao hàng (số lượng xuất kho) tính theo thời gian (quản lý theo dòng thời gian). Đây là 
sự đóng góp đáng kể nhất cho khoa học quản lý trong thời kỳ này. Tóm lại, lý thuyết quản      lOMoAR cPSD| 60752940
lý của Gantt quan tâm nhiều đến khia cạnh lợi ích để kích thích người lao động và nghiên 
cứu nâng cao hiệu quả tổ chức sản xuất. 
1.2.1.3. Lý thuyết của Frank Bunker Gilbreth (1868 - 1924) và F.Lilian (1878 -  1972) 
Gilbreth đã cùng với Taylor và Gantt hợp thành bộ ba đặt nền móng cho sự ra đời của 
phương pháp quản lý theo khoa học. 
Gilbreth và vợ ông, bà Frank Lilian, đã rất tâm đầu ý hợp trong các công trình nghiên cứu. 
Gilbreth đã cho xuất bản những tác phẩm như: phương pháp xây dựng ngoài trời (1808), 
phương pháp bê tông (1908), phương pháp nề (1909), nghiên cứu cử động (1911), sơ lược 
về phương pháp quản lý theo khoa học (1912). Ông còn cộng tác với vợ viết cuốn nghiên 
cứu về mệt mỏi (1916), nghiên cứu cử động cùng với các tính chất của nó (1917). Ngoài 
ra, Gilbreth đã nghiên cứu các dàn giáo có thể điều chỉnh được. Tìm cách tăng năng suất 
lao động bằng biện pháp giảm động tác thừa, đặc biệt trong xây dựng, ông đã nghiên cứu 
giảm từ 14 thao tác khi xây gạch xuống còn 4 thao tác rưỡi. Theo đó một thợ nề có thể 
xây 2.700 viên gạch thay vì 1.000 viên trước đây. Các công trình của Gilbreth tập trung 
vào nghiên cứu các cử động đưa đến cách tốt nhất để làm một công việc. Những người 
tham gia nghiên cứu còn có C.G.Barth, S.E.Thomson, H.Emerson... 
Tóm lại, các lý thuyết thuộc trường phái quản trị cổ điển nêu trên đều tìm cách đưa 
ra các phương pháp quản trị kinh doanh và tổ chức lao động có tính chất thuần túy khoa 
học, nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, song chúng có hạn chế là đã máy móc hóa con 
người, quá đề cao việc kích thích lao động bằng lợi ích vật chất, chưa quan tâm đúng mức 
đến tâm lý của người lao động. 
1.2.2. Lý thuyết quản trị hành chính 
1.2.2.1. Lý thuyết của Henry Fayol (1841 - 1925) 
H. Fayol (người Pháp) đã trình bày quan niệm về quản trị một cách hệ thống, mang 
tính tổng hợp và cao cấp hơn Taylor. Theo ông, hoạt động sản xuất kinh doanh có thể chia  làm 6 nhóm chủ yếu sau:  - Kỹ thuật/sản xuất      lOMoAR cPSD| 60752940 -  -  Tiếp thị  Tài chính 
- Quản lý tài sản và nhân viên        lOMoAR cPSD| 60752940 -  -  Kế hoạch, thống kê 
Những hoạt động quản trị tổng hợp, bao gồm: kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ huy, phối  hợp và kiểm tra. 
Trên cơ sở đó, Fayol đã xây dựng lý thuyết quản trị theo tổ chức của mình, với 14  nguyên tắc sau:  1. Phân chia công việc 
2. Quyền hạn gắn với trách nhiệm  3. Kỷ luật  4. Thống nhất chỉ huy 
5. Thống nhất điều khiển 
6. Cá nhân phụ thuộc tổ chức  7. Thù lao tương xứng  8. Tập trung thẩm quyền  9. Tuân thủ thứ bậc  10. Trật tự  11. Công bằng  12. Ổn định  13. Tính sáng tạo  14. Tính đồng đội 
1.2.3.2.Lý thuyết của Mc.Weber (1864 - 1920) 
Mc.Weber là nhà xã hội học, đã có nhiều đóng góp cho khoa học quản lý ở tầm vĩ 
mô. Lý thuyết của Weber còn được gọi là lý thuyết hành chính trong quản trị kinh doanh. 
Theo lý thuyết này, để quản trị kinh doanh có hiệu quả cần phải xây dựng một cơ cấu tổ 
chức chặt chẽ, đề ra hệ thống các quy định, luật lệ và chính sách hợp lý, phân công nhiệm 
vụ cho cấp dưới phải căn cứ vào chức vụ, quyền hạn của họ và phải tuân theo các quy  định đã đề ra. 
1.2.3.3. Lý thuyết của Luther Glich và Lydal Urwich 
Lý thuyết này được công bố vào năm 1937, dựa trên các chức năng của nhà quản 
trị, đề xuất quản trị theo các nội dung sau đây: 
- Bố trí đúng người vào bộ máy tổ chức 
- Phải có một nhà quản lý cao cấp nhất trong tổ chức nắm giữ gốc của quyền hành