lOMoARcPSD| 61099620
LỜI NÓI ĐẦU --------------------------------
Tâm quản một phân ngành của khoa học tâm chuyên nghiên cứu những vấn đề
trong hoạt động quản nhằm làm cho hoạt động quản đạt được hiệu quả tối ưu, một môn
khoa học nghiên cứu về tâm con người. Đối với cán bộ lãnh đạo, quản các cấp, các ngành
những tri thức của tâm học quản rất quan trọng cần thiết để nâng cao chất lượng hiệu
quả trong công tác lãnh đạo, quản lý.
Tâm lý học quản lý nguồn gốc từ xa xưa, được loài người đúc kết trong nền văn hóa tinh
thần của con người như sử học, triết học, kinh tế học, đạo đức học, văn học dân gian, thậm chí ngay
trong các tôn giáo, số tử vi, tuồng chèo, kịch hát... Trong thế kỷ XXI, tâm lý quản lý trở thành một
trong những chuyên ngành tâm lý học ứng dụng mũi nhọn phát triển rộng khắp toàn cầu và không
thể thiếu được trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.
Trong chương trình đào tạo ngành Quản trị kinh doanh Marketing, tâm quản một môn
học bắt buộc thuộc phần kiến thức giáo dục đại cương với mục đích nhằm trang bị cho sinh viên
những vấn đề lý luận bản về tâm lý học nói chung và những kiến thức về tâm lý quản lý tức là
tâm lý của những người lãnh đạo, quản lý; tâm lý của những người bị lãnh đạo, quản lý; tâm lý tập
thể của những người bị lãnh đạo, quản lý. Qua đó góp phần nâng cao kỹ năng sống, kỹ năng ứng
xử, giao tiếp tạo điều kiện cải thiện và mở rộng các mối quan hệ giữa người học với các đối tượng
khác nhau trong xã hội.
Bài giảng môn học được kết cấu thành 5 chương, trong đó chương 1 giới thiệu những vấn đề
bản về tâm học nói chung tâm quản nói riêng. Chương 2 nghiên cứu về tâm người
lãnh đạo cũng như các yêu cầu đối với người lãnh đạo. Chương 3 nghiên cứu về tâm lý người lao
động nói chung và đặc điểm tâm lý của các loại người lao động. Chương 4 nghiên cứu về tập thể,
các giai đoạn phát triển của tập thể cũng như những hiện tượng và quy luật tâm lý xảy ra trong tập
thể. Chương 5 nghiên cứu về giao tiếp trong hoạt động quản lý, nghiên cứu đề xuất các biện pháp
nhằm nâng cao kỹ năng giao tiếp trong hoạt động quản lý.
Trong quá trình biên soạn, tác giả đã cố gắng bảo đảm nh khoa học, tính kế thừa các tài liệu về
tâm lý quản lý, tính hiện đại và phù hợp với thực tiễn Việt Nam, với những yêu cầu của sự nghiệp
đổi mới do Đảng ta lãnh đạo. Tuy nhiên, tâm quản một môn khoa học còn nhiều vấn đề
phức tạp, chưa được nhận thức thống nhất, chưa được nghiên cứu sâu sắc, vậy bài giảng khó
tránh khỏi được những thiếu sót. Tác giả mong nhận được những ý kiến đóng góp từ phía bạn đọc.
Xin trân trọng cảm ơn./.
Hà Nội, tháng 12 năm 2020
TH.S TRẦN ĐOÀN HẠNH
lOMoARcPSD| 61099620
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ……………………………………………………………………….1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÂM LÝ VÀ TÂM LÝ QUẢN LÝ...5
1.1 Tâm lý và các thuộc tính của tâm lý …………………………………………………..5
1.1.1 Khái niệm tâm lý ………………………………………………………………………5
1.1.2 Các hiện tượng tâm lý…………………………………………………………………..5
1.1.3 Các thuộc tính của tâm lý………………………………………………………………5
1.2 Tâm lý quản lý…………………………………………………………………………10
1.2.1 Khái niệm, đối tượng và phương pháp nghiên cứu…………………………………...10
1.2.2 Lịch sử hình thành…………………………………………………………………….11
1.2.3 Vai trò của yếu tố tâm lý trong quản lý……………………………………………….15
CHƯƠNG 2: TÂM LÝ NGƯỜI LÃNH ĐẠO …………………………….............................22
2.1 Người lãnh đạo…………………………………………………………………………22
2.1.1 Khái niệm người lãnh đạo…………………………………………………………….22
2.1.2 Sự khác biệt giữa lãnh đạo và quản lý……………………………………………….. 24
2.2. Nhân cách của người lãnh đạo………………………………………………….........25
2.2.1 Khái niệm nhân cách người lãnh đạo…………………………………………………25
2.2.2 Các thành tố trong nhân cách của người lãnh đạo…………………………………….25
2.2.3 Những con đường hình thành và phát triển nhân cách của người lãnh đạo………..... 29
2.3 Uy tín của người lãnh đạo …………………………………………….………………30
2.3.1 Khái niệm …………………………………………………………………………….30
2.3.2 Các thành tố trong uy tín của người lãnh đạo ………………………………………...32
2.3.3 Phân loại uy tín của người lãnh đạo ………………………………………………… 33
2.4 Kiểu người lãnh đạo và phong cách lãnh đạo ………………………………..……...35
2.4.1 Kiểu người lãnh đạo ………………………………………………………………….35
2.4.2 Phong cách lãnh đạo ………………………………………………………………… 37
2.5 Những phẩm chất và năng lực cần thiết của người lãnh đạo……………………….40
2.5.1 Đặt vấn đề……………………………………………………………………………..40
2.5.2 Những phẩm chất và năng lực cần thiết của người lãnh đạo………………………… 40
lOMoARcPSD| 61099620
CHƯƠNG 3: TÂM LÝ NGƯỜI LAO ĐỘNG...……. ………………………………………..60
3.1 Đặc điểm tâm lý của các loại người lao động………………………………. ……… 60
3.1.1 Đặc điểm tâm lý của người lao động theo độ tuổi …………………………………….60
3.1.2 Đặc điểm tâm lý của người lao động theo giới tính ………………………………….69
3.1.3 Đặc điểm tâm lý của người lao động theo vị thế trong tập thể ……………………….80
3.1.4 Đặc điểm tâm lý của người lao động theo lịch sử thành, bại ………………………….82
3.1.5 Đặc điểm tâm lý của người lao động theo ngành, nghề ………………………………83
3.1.6 Đặc điểm tâm lý của người lao động theo trình độ chuyên môn ……………………...83
3.1.7 Đặc điểm tâm lý của người lao động theo bản chất……………………………………84
3.1.8 Đặc điểm tâm lý của người lao động theo điều kiện kinh tế-xã hội hiện tại…………..84
3.1.9 Đặc điểm tâm lý của người lao động theo vị trí địa lý (điều kiện tự nhiên) nơi sinh
trưởng …………………………………………………………………………………………... 85
3.1.10 Đặc điểm tâm lý của người lao động theo điều kiện kinh tế-xã hội nơi sinh trưởng....86
3.1.11 Đặc điểm tâm lý của người lao động theo khí chất …………………………………..88
3.2 Nhu cầu và động cơ làm việc của người lao động……………………………………..89
3.2.1 Đặc điểm tâm lý của người lao động Việt nam trong thời kỳ mới …………………….89
3.2.2 Tạo và tăng cường động cơ làm việc của người lao động ……………………………..94
CHƯƠNG 4: TÂM LÝ TẬP THỂ...………………………………………………………….108
4.1 Tập thể và các giai đoạn phát triển của tập thể……………………………………...108
4.1.1 Khái niệm tập thể …………………………………………………………….. ……...108
4.1.2 Các giai đoạn phát triển của tập thể …………………………………………………..109
4.2 Một số hiện tượng tâm lý trong tập thể ……………………………………………...112
4.2.1 Thủ lĩnh trong tập thể ………………………………………………………………...112
4.2.2 Sự tương hợp tâm lý ………………………………………………………………….112
4.2.3 Bầu không khí tâm lý …………………………………………………………………113
4.2.4 Dư luận tập thể ………………………………………………………………………..114
4.2.5 Xung đột trong tập thể………………………………………………………………...117
4.2.6 Lây lan tâm lý trong tập thể ………………………………………………………….119
4.2.7 Truyền thống tập thể …………………………………………………………………120
4.2.8 Tâm trạng tập thể ……………………………………………………………………..121
4.2.9 Tâm lý đám đông………………………………………………………………….......121
lOMoARcPSD| 61099620
CHƯƠNG 5: TÂM LÝ GIAO TIẾP………………………………………………………….123
5.1 Những vấn đề lý luận chung về giao tiếp……………………………………………..123
5.1.1 Khái niệm giao tiếp……………………………………………………………………123
5.1.2 Vai trò của giao tiếp…………………………………………………………………...125
5.1.3 Chức năng của giao tiếp………………………………………………………………126
5.1.4 Các loại hình giao tiếp ………………………………………………………………..135
5.1.5 Các phương tiện giao tiếp …………………………………………………………….136
5.2 Giao tiếp trong hoạt động quản lý……………………………………………………136
5.2.1 Những nét đặc trưng của công tác quản lý………….………………………………...136
5.2.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến giao tiếp trong hoạt động quản lý………………………...144
5.2.3 Một số quy tắc giao tiếp trong hoạt động quản lý ……………………………………145
TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………………………………….....173
lOMoARcPSD| 61099620
CHƯƠNG 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÂM LÝ VÀ TÂM LÝ QUẢN
----------------------------------- 1.1 Tâm lý và các thuộc tính của tâm lý
1.1.1. Khái niệm tâm lý
Trong cuộc sống hàng ngày, nhiều người vẫn thường sử dụng từ "tâm lý" để nói về lòng người, về
cách xử của con người. Đó cách hiểu tâm cấp độ nhận thức thông thường. Trong tiếng
Việt thuật ngữ "tâm lý", "tâm hồn" được định nghĩa một cách tổng quát là ý nghĩ, tình cảm ... làm
thành đời sống nội tâm, thế giới bên trong của con người.
Theo nghĩa đời thường, chữ "tâm" được dùng với các cụm từ "nhân tâm","tâm đắc", "tâm địa",
"tâm can"... thường nghĩa như chữ "lòng", thiên về tình cảm còn chữ "hồn" thường để diễn
đạt tư tưởng, tinh thần, ý thức, ý chí của con người. "Tâm hồn", "tinh thần" luôn gắn liền với "thể
xác"... Trong tiếng La tinh "Psyche" "linh hồn", "tinh thần" "logos" học thuyết, "khoa
học". Vì thế "Tâm học" ( Psychologie) khoa học về tâm hồn. Nói một cách khái quát chung
nhất: Tâm bao gồm tất cả những hiện tượng tinh thần xảy ra trong đầu óc con người, gắn liền
và điều hành mọi hành động, hoạt động của con người.
m con người rất đa dạng, phong phú, ẩn tiềm tàng nhưng giữa chúng mối quan hệ
với nhau rất chặt chẽ. Tâm lý có sức mạnh vô cùng to lớn, nó có thể điều khiển và điều chỉnh hành
vi của con người.Tâm lý là hiện tượng rất quen thuộc, gần gũi nhưng cũng rất mênh mông, xa vời.
Tâm lý là "thế giới bên trong" vô cùng phức tạp, hấp dẫn, kỳ diệu, thậm chí kỳ lạ, huyền bí rất dễ
hiểu nhưng cũng cùng khó hiểu. Ngày nay, việc áp dụng những kiến thức tâm hiện đại vào
việc điều hành xã hội khơi dậy tiềm năng to lớn trong con người một yêu cầu cấp bách,
thiếu thì mọi hoạt động chắc chắn sẽ thất bại. Phần đông chúng ta đều biết điều đó, thể
giải khá rành mạch về điều đó; nhưng khi vào cuộc với trăm ngàn tình huống khó xử của muôn
mặt đời thường liên quan đến hiện tượng tâm lý thì lại tỏ ra lúng túng, thậm chí hết sức ngạc nhiên,
bất ngờ, không sao giải thích nổi. Khi bị ức chế quá mức, trong cơn điên của sự nóng giận dễ dẫn
đến những hành vi vô cùng phi lý.
Vậy TÂM LÝ là ? một thực thể hay chỉ một ảo ảnh ? Nó có thật hay không thật ? Do
đâu mà nó một sức mạnh to lớn như vậy ? Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, tâm lý là hiện
tượng tinh thần, nó tồn tại trong đầu chúng ta. hình ảnh chủ quan khi phản ánh thế giới khách
quan. Tâm chức năng của não bộ, chức năng của vật chất tổ chức cao, nhưng lại
không phải là vật chất, không thể sờ mó, cân, đong, đo, đếm được. Tâm lý có nguồn gốc ý thức,
sự tham gia của ý thức và chi phối của ý thức. Ngoài ra, hiện tượng tâm lý còn có những dấu hiệu
của thức, bao gồm những hiện tượng con người không nhận thức bản chất của hành vi,
mất khả năng định hướng, đôi khi hành động theo bản năng. Miền giao nhau giữa ý thức và thức
tiềm thức. Tiềm thức lúc đầu là do ý thức, nhưng được nhắc đi nhắc lại nhiều lần được khắc sâu,
ăn sâu, lắng sâu vào bên trong con người để biến thành tiềm thức. Tâm mang nhiều đặc trưng
của tiềm thức, khi tiềm thức đã quá sâu thì nó sẽ trở thành công thức tâm lý, tập quán và thói quen
tâm lý, muốn thay đổi không thể một sớm một chiều.
lOMoARcPSD| 61099620
1.1.2. Các hiện tượng tâm lý
Các hiện tượng tâm lý rất đa dạng, có thể phân loại chúng dựa trên cơ sở sau đây: 1.1.2.1. Phân
loại các hiện tượng tâm theo thời gian tồn tại vị trí tương đối của chúng trong nhân
cách.
Theo cách chia này các hiện tượng tâm lý gồm ba loại chính
Các quá trình tâm lý, các trạng thái tâm lý và các thuộc tính tâm lý.
Cụ thể
* Các quá trình tâm lý : là những hiện tượng tâm lý diễn ra trong thời gian tương đối ngắn, có mở
đầu, diễn biến, kết thúc tương đối rõ ràng. Người ta thường phân biệt thành ba quá trình tâm lý :
- Các quá trình nhận thức gồm cảm giác, tri giác, trí nhớ, tưởng tượng, tư duy.
- Các quá trình cảm xúc biểu thị sự vui mừng hay tức giận, dễ chịu hay khó chịu, nhiệt tình hay
thờ ơ ...
- Quá trình hành động ý chí.
* Các trạng thái tâm lý là những hiện tượng tâm lý diễn ra trong thời gian tương đối dài, việc
mở đầu và kết thúc không rõ ràng như chú ý, tâm trạng ...
* Các thuộc tính tâm lý là những hiện tượng tâm lý tương đối ổn định, khó hình thành và khó
mất đi, tạo thành những nét riêng của nhân cách. Người ta thường nói tới bốn nhóm thuộc tính tâm
lý cá nhân như xu hướng, tính cách, khí chất và năng lực.
1.1.2.2. Phân loại hiện tượng tâm lý dựa trên ý thức
- Các hiện tượng tâm lý có ý thức
- Các hiện tượng tâm lý chưa được ý thức
Chúng ta có nhiều nhận biết về các hiện tượng tâm lý có ý thức (được nhận thức hay tự giác). Còn
những hiện tượng tâm chưa được ý thức vẫn luôn diễn ra, nhưng ta không ý thức về nó, hoặc
dưới ý thức, chưa kịp ý thức. Một số tác giả nước ngoài còn chia ý thức thành hai mức: "vô thức"
là những lĩnh vực nằm ngoài ý thức, khó lọt vào lĩnh vực ý thức (một số bản năng vô thức, một số
hành động lỡ lời, lỡ chân tay, ngủ mơ, mộng du ...) mức độ " tiềm thức" những hiện tượng
bình thường nằm sâu trong ý thức, thỉnh thoảng trong những hoàn cảnh nhất định thể được ý
thức "chiếu rọi" tới.
1.1.2.3. Các hiện tượng tâm lý khác
- Hiện tượng tâm lý sống động : thể hiện trong hành vi hoạt động - Hiện tượng tâm lý tiềm tàng
: tích đọng trong sản phẩm của hoạt động.
- Hiện tượng tâm lý cá nhân : vui, buồn, giận dữ, lo âu ...
- Hiện tượng tâm lý xã hội : phong tục tập quán, tin đồn, dư luận...
lOMoARcPSD| 61099620
Như vậy, thế giới tâm của con người cùng đa dạng phức tạp. c hiện tượng tâm
nhiều cấp độ, mức độ khác nhau có quan hệ đan xen vào nhau, chuyển hoá cho nhau.
1.1.3 Các thuộc tính của tâm lý
Các thuộc tính tâm lý là những hiện tượng tâm lý tương đối ổn định, khó hình thành và khó
mất đi, tạo thành những nét riêng của nhân cách. Các thuộc tính tâm bao gồm: xu hướng, nh
cách, khí chất và năng lực.
1.1.3.1 Xu hướng
Xu hướng là một thuộc tính tâm phức hợp của cá nhân, bao gồm một hệ thống động cơ quy định
tính tích cực hoạt động của cá nhân và quy định sự lựa chọn thái độ của nó. Xu hướng thường biểu
hiện ở một số mặt chủ yếu như nhu cầu, hứng thú, thế giới quan, niềm tin ...
a. Nhu cầu: sự đòi hỏi tất yếu con người thấy cần thỏa mãn để tồn tại phát triển.
Nhu cầu của con người có những đặc điểm cơ bản như:
- Nhu cầu bao giờ cũng có đối tượng. Khi nào nhu cầu gặp đối tượng có khả năng thoả mãn nó thì
lúc đó nhu cầu trở thành động cơ thúc đẩy con người hoạt động nhằm tới đối tượng.
- Nội dung của nhu cầu do những điều kiện và phương thức thoả mãn nó quy định.
- Nhu cầu có tính chu kỳ.
- Nhu cầu của con người khác nhu cầu của con vật, nhu cầu con người mang bản chất xã hội.
- Nhu cầu của con người rất đa dạng.
Để làm rõ hơn nhu cầu của con người nhà tâm lý học người Mỹ B.Maslow đã đưa ra 5 bậc thang
nhu cầu dạng hình chóp trong đó bao gồm: nhu cầu sinh lý, nhu cầu an toàn, nhu cầu giao tiếp, nhu
cầu được tôn trọng và nhu cầu tự khẳng định.
b. Hứng thú: là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, vừa có ý nghĩa đối với cuộc
sống, vừa khả năng mang lại xúc cảm cho nhân trong quá trình hoạt động. - Hứng thú
biểu hiện sự tập trung cao độ, sự say mê, bề rộng chiều sâu của hứng thú. Hứng thú
nảy sinh chủ yếu do tính hấp dẫn về mặt cảm xúc của nội dung hoạt động. - Hứng thú làm nảy
sinh khát vọng hành động, tăng sức làm việc, đặc biệt tăng tính tự giác, tích cực trong hoạt
động, vậy hứng thú làm tăng hiệu quả hoạt động. Cùng với nhu cầu, hứng thú một thành
phần trong hệ thống động cơ của nhân cách.
c. Lý tưởng: là một mục tiêu cao đẹp, một hình ảnh mẫu mực, tương đối hoàn chỉnh, có
sức lôi cuốn con người vươn tới nó.
- tưởng khác với ước chỗ, trong tưởng chứa đựng mặt nhận thức sâu sắc của chủ thể
về các điều kiện chủ quan khách quan để vươn tới tưởng, đồng thời chủ thể tình cảm
mãnh liệt đối với hình ảnh mẫu mực của mình. Chính vì thế, lý tưởng có sức mạnh lôi cuốn toàn
bộ cuộc sống con người vào các hoạt động vươn tới lý tưởng của mình. Tuy vậy, ước mơ có thể
là cơ sở cho sự hình thành lý tưởng cao đẹp sau này.
lOMoARcPSD| 61099620
- tưởng vừa có tính hiện thực, vừa có tính lãng mạn. Có tính hiện thực lý tưởng bao giờ cũng
được xây dựng từ nhiều "chất liệu" thực của đời sống. Song lý tưởng lại là hình ảnh mẫu mực
chưa trong hiện thực, cái chỉ có thể đạt được trong tương lai. tưởng phản ánh xu thế phát
triển của con người.
- Lý tưởng mang tính lịch sử và giai cấp.
- tưởng biểu hiện tập trung nhất của xu hướng nhân cách, chức năng xác định mục
tiêu, điều khiển toàn bộ hoạt động của con người, trực tiếp chi phối sự hình thành phát triển
tâm lý cá nhân.
d. Thế giới quan: là hệ thống các quan điểm về tự nhiên, xã hội và bản thân, xác định phương
châm hành động của con người. Thế giới quan khoa học là thế giới quan duy vật biện chứng mang
tính khoa học, tính nhất quán cao.
e. Niềm tin: là một sản phẩm của thế giới quan, là kết tinh các quan điểm, tri thức, rung cảm,
ý chí được con người thể nghiệm, trở thành chân lý bền vững trong mỗi cá nhân. Niềm tin tạo cho
con người nghị lực, ý chí để hành động theo quan điểm của mình, là lẽ sống của con người.
1.1.3.2 Tính cách
Tính cách một thuộc tính phức tạp của nhân, bao gồm một hệ thống thái độ của đối với
hiện thực và thể hiện trong hệ thống hành vi, cử chỉ, cách nói năng tương ứng.
Tính cách mang tính ổn định và bền vững, tính thống nhất đồng thời cũng mang tính độc đáo,
riêng biệt, điển hình cho mỗi cá nhân. thể, tính cách của cá nhân là sự thống nhất giữa cái chung
và cái riêng, cái điển hình và cái cá biệt. Tính cách của cá nhân chịu sự chế ước của xã hội.
* Cấu trúc của tính cách: tính cách có cấu trúc bao gồm: hệ thống thái độ và hệ thống hành vi, c
chỉ, cách nói năng tương ứng.
- Hệ thống thái độ của cá nhân bao gồm 4 mặt sau đây
+ Thái độ đối với tập thể xã hội, thể hiện qua nhiều nét tính cách như : lòng yêu nước, yêu
CNXH, thái độ chính trị, tinh thần đổi mới, tinh thần hợp tác cộng đồng ...
+ Thái độ đối với lao động, thể hiện ở những nét tính cách cụ thể như : lòng yêu lao động, cần cù,
sáng tạo, lao động có kỷ luật, tiết kiệm ...
+ Thái độ đối với mọi người thể hiện những nét tính cách như : lòng yêu thương con người theo
tinh thần nhân đạo, quý trọng con người, có tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái ...
+ Thái độ đối với bản thân, thể hiện những nét tính cách như : tính khiêm tốn, lòng tự trọng,
tinh thần tự phê bình.
- Hệ thống hành vi, cử chỉ, cách nói năng của cá nhân: đây sự thể hiện cụ thể ra bên ngoài của
hệ thống thái độ nói trên. Hệ thống hành vi, cử chỉ, cách nói năng rất đa dạng, chịu sự chi phối
của hệ thống thái độ. Người có tính cách tốt, nhất quán thì hệ thống thái độ sẽ tương ứng với hệ
thống hành vi, cử chỉ, cách nói năng. Trong đó, thái độ mặt nội dung, mặt chủ đạo, còn hành
lOMoARcPSD| 61099620
vi, cử chỉ, cách nói năng là hình thức biểu hiện của tính cách, chúng không tách rời nhau, thống
nhất hữu cơ với nhau.
Tính cách có quan hệ chặt chẽ với các thuộc tính, các phẩm chất khác của nhân cách như :
xu hướng, khí chất, tình cảm, ý chí, kỹ xảo, thói quen và vốn sống của cá nhân.
1.1.3.3 Khí chất
Khí chất là thuộc tính phức hợp của cá nhân, biểu hiện cường độ, tiến độ nhịp độ của các hoạt
động tâm lý, thể hiện sắc thái của hành vi, cử chỉ, cách nói năng của nhân. Khí chất sở
sinh các kiểu thần kinh, quy định nhịp độ, tiến độ của c hoạt động tâm lý. Đó nguyên
nhân gây ra sự khác biệt rõ rệt trong những đặc điểm bên ngoài của hành vi con người. Tuy nhiên,
khí chất mang bản chất xã hội.
* Các kiểu khí chất
Kiểu khí chất sự kết hợp khác nhau của những thuộc tính khí chất có quan hệ qua lại với nhau
1 cách có quy luật, có các loại khí chất như sau
- Kiểu khí chất hăng hái: người thuộc kiểu khí chất này thường là người hoạt bát, vui vẻ, yêu
đời, sống động, ham hiểu biết, cảm xúc không sâu, dễ hình thành và dễ thay đổi, nhận thức nhanh
nhưng cũng hay quên, tâm hồn hướng ngoại, cởi mở, dễ thích nghi với môi trường mới.
- Kiểu khí chất bình thản: người thuộc kiểu khí chất này thường người chậm chạp, điềm
tĩnh, chắc chắn, kiên trì, ưa sự ngăn nắp, trật tự, khả năng kiềm chế tốt, nhận thức chậm nhưng
chắc chắn, tình cảm khó hình thành nhưng sâu sắc, ít ưa cãi cọ và không thích ba hoa, có tình ý khi
khởi động hoạt động, khó thích nghi đối với môi trường mới.
- Kiểu khí chất nóng nảy: người kiểu khí chất này thường hành động nhanh, mạnh, hào
hứng, nhiệt tình, hay nh gay gắt, nóng nảy, mệnh lệnh, quyết đoán, dễ bị kích động, thẳng thắn,
chân tình, khả năng kiềm chế rất thấp ...
- Kiểu khí chất ưu tư: người kiểu khí chất này thường biểu hiện hoạt động chậm chạp,
chóng mệt mỏi, luôn hoài nghi, lo lắng, thiếu tự tin, hay u sầu, buồn bã, xúc cảm khó nảy sinh
nhưng rất sâu sắc, cường độ mạnh bền vững. kiểu khí chất này, con người thường sự
nhạy bén, tinh tế về cảm xúc, giàu ấn tượng, trong quan hệ thường mềm mỏng, tế nhị, nhã nhặn,
chu đáo vị tha, họ thường hay sống với nội tâm của mình (hướng nội), đặc biệt là khó thích nghi
đối với môi trường mới.
Tóm lại, mỗi kiểu khí chất trên đều có mặt mạnh, mặt yếu. Trên thực tế thường gặp ở một người
có những nét của kiểu khí chất nào đó chiếm ưu thế, nhưng đồng thời lại có những nét riêng lẻ nào
đó thuộc kiểu khí chất khác. Ngoài ra, còn những kiểu khí chất trung gian bao gồm nhiều đặc
tính của cả 4 kiểu khí chất trên. Mặc dù khí chất có cơ sở là các kiểu thần kinh nhưng khí chất vẫn
chịu sự chi phối của các đặc điểm xã hội, có thể biến đổi do rèn luyện và giáo dục.
1.1.3.4 Năng lực
lOMoARcPSD| 61099620
Năng lực tổ hợp các thuộc tính độc đáo của cá nhân phù hợp với những yêu cầu của một hoạt
động nhất định, đảm bảo cho hoạt động đó có kết quả tốt.
- Năng lực không phải một thuộc tính tâm xuất sắc nào đó tổ hợp các thuộc
tính tâm lý của cá nhân.
- Năng lực vừa là tiền đề, vừa là kết quả của hoạt động. Năng lực là điều kiện cho hoạt động
đạt kết quả nhưng đồng thời năng lực cũng phát triển ngay trong chính hoạt động ấy. - ng lực
sản phẩm của lịch sử. Sự phân công chuyên môn hoá lao động đã dẫn đến sự phân hoá
chuyên môn hoá năng lực người. Mặt khác, mỗi khi nền văn minh nhân loại dành được những
thành tựu mới thì lại xuất hiện ở con người những năng lực mới và những năng lực đã có trước đây
bây giờ chứa đựng một nội dung mới.
* Phân loại năng lực hai loại
- Năng lực chung: năng lực cần thiết cho nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau, những
điều kiện cần thiết để giúp cho nhiều lĩnh vực hoạt động đạt kết quả.
- Năng lực chuyên biệt: là sự thể hiện độc đáo các phẩm chất riêng biệt, có tính chuyên môn,
nhằm đáp ứng yêu cầu của một lĩnh vực hoạt động chuyên biệt với kết quả cao.
Hai loại năng lực này luôn bổ sung và hỗ trợ cho nhau
1.2 Tâm lý quản lý
1.2.1 Khái niệm, đối tượng và phương pháp nghiên cứu
1.2.1.1 Khái niệm và đối tượng nghiên cứu của tâm lý quản lý
m học quản nghiên cứu các hiện tượng tâm (tâm nhân, tâm hội) nảy sinh
trong hệ thống quản lý; chỉ ra những đặc điểm, quy luật tâm của người lãnh đạo, người bị lãnh
đạo tâm tập thể những người bị lãnh đạo. Mặt khác, còn nghiên cứu những yêu cầu v
phẩm chất năng lực, về uy tín phong cách người lãnh đạo để nâng cao hiệu quả hoạt động
lãnh đạo, quản lý.
* Nhiệm vụ của tâm lý học quản lý
Khi xác định nhiệm vụ của tâm lý học quản lý, không nên chỉ chú ý đến mục đích kinh tế mà còn
quan tâm đến cả mục đích giáo dục, nhân văn (tức phải chú ý đến việc phát huy nhân tố con
người, vì con người). Với mục đích trên, tâm học quản lý nhiệm vụ cơ bản là phân tích những
đặc điểm điều kiện của hoạt động quản với mục đích nâng cao hiệu quả của công tác trong
hệ thống quản lý. Ngoài ra nó còn có các nhiệm vụ sau
- Nghiên cứu những đặc điểm tâm lý cá nhân, tâm lý xã hội của các tập thể với tư cách là chủ thể
khách thể của quản lý, đặc biệt nghiên cứu những quy luật của c nhân tố tâm hội
thuận lợi cho hoạt động quản lý (uy tín, bầu không khí tâm lý, dư luận, tâm trạng tập thể
...)
- Nghiên cứu sở tâm học của việc nâng cao hiệu quả quản lý, lãnh đạo trong các lĩnh vực,
của việc nâng cao hiệu qủa hoạt động của cá nhân và tập thể lao động.
lOMoARcPSD| 61099620
- Nghiên cứu về đặc trưng hoạt động giao tiếp những phẩm chất nhân cách cần của người
lãnh đạo; xác định con đường hình thành, phát triển nhân cách; các kiểu người lãnh đạo cũng
như vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo.
- Nghiên cứu nhu cầu, động cơ lao động của tập thể; các định hướng giá trị hội, tâm thế của các
thành viên nhằm xác định cách thức tác động phù hợp để phát huy nhân tố con người trong quản
lý.
- Nghiên cứu những yếu tố tâm -sư phạm của việc đánh giá, tuyển chọn, sắp xếp, đào tạo cán
bộ, trong công tác tư tưởng và kiểm tra ...
1.2.1.2. Các phương pháp nghiên cứu của tâm lý học quản
một chuyên ngành của tâm học, tâm học quản sử dụng các phương pháp nghiên cứu
trong tâm lý học nói chung và của tâm lý học xã hội nói riêng như : quan sát, điều tra ( trò chuyện,
phỏng vấn, trắc nghiệm, thực nghiệm ...) ngoài ra tâm học quản lý còn sử dụng các phương pháp
sau:
- Phương pháp khái quát các nhận xét độc lập
Thực chất của phương pháp này là lấy ý kiến nhận xét độc lập của một số người (ở cấp trên, trong
ban lãnh đạo, trong tập thể quan) về một vấn đề tâm nào đó của người lãnh đạo. Trong phương
pháp này việc chọn đối tượng hỏi ý kiến có vai trò quan trọng.
- Phương pháp nghiên cứu qua kết quả, sản phẩm hoạt động
Thông qua kết quả, sản phẩm hoạt động như các biên bản, báo cáo, nghị quyết, kế hoạch, hiệu quả
công tác để đoán trước được các đặc điểm tâm lý, trình độ chuyên môn, ý chí, kỹ năng của chủ thể
hoạt động. Phân tích kết quả hoạt động của người lãnh đạo cần tách ra được đâu là kết quả của bản
thân người đó, đâu là kết quả của tập thể.
- Phương pháp trò chơi "sắm vai quản lý"
Để tiến hành phương pháp này, người ta xây dựng các nh huống trong quản lý và đưa từng người
nhập cuộc để giải quyết các tình huống đó. Qua cách thức giải quyết các tình huống mà biết được
chỗ mạnh, chỗ yếu của người lãnh đạo, của người muốn bổ nhiệm để có biện pháp, phương hướng
đào tạo, bồi dưỡng phù hợp.
- Phương pháp nghiên cứu tiểu sử hoạt động của người lãnh đạo, quản nổi tiếng. Đây là một
trong những phương pháp có giá trị thực tiễn rất lớn. Việc nghiên cứu tiểu sử hoạt động, những
thành công thất bại trong hoạt động quản lý, lãnh đạo của các chính khách, các nhà doanh
nghiệp chẳng những cho chúng ta thấy được những đức tính cần của các nhà tổ chức, lãnh
đạo chính trị, lãnh đạo các đoàn thể nhân dân, lãnh đạo doanh nghiệp ở các giai đoạn lịch sử-xã
hội khác nhau mà còn cho chúng ta biết thêm những kinh nghiệm, cách thức giải quyết các tình
huống đa dạng, phức tạp trong quản lý, lãnh đạo.
lOMoARcPSD| 61099620
1.2.2 Lịch sử hình thành tâm lý học quản lý
Ngay từ khi con người xuất hiện trên trái đất, tâm lý con người đã hình thành. Ở thời kỳ tiền khoa
học, những người đứng đầu các bộ lạc đã biết sử dụng những tri thức về con người được đúc rút
qua kinh nghiệm để tiến hành công việc của mình. hội loài người càng phát triển, sự hiểu biết
về con người, đời sống tâm lý, tinh thần của con người không chỉ được khám phá qua quan sát mà
còn bằng những cách thức tinh vi hơn và được lưu truyền từ đời này sang đời khác nhất qua ca
dao, tục ngữ, qua các u chuyện cổ tích sau đó trong binh thư yếu lược sử học kể cả
phương Đông phương Tây. Nói chung sự phát triển của tâm học quản được chia thành 4
giai đoạn sau
1. Vào thế kỷ IV-III TCN, nhà triết học phương Tây nổi tiếng Xôcrát, trong tập Nghị luận của
mình đã viết rằng: những người nào biết cách sử dụng con người sẽ điều khiển công việc, hoặc cá
nhân hay tập thể một cách sáng suốt. Trong khi những người không biết làm như vậy sẽ mắc sai
lầm trong việc tiến hành cả hai công việc này.
Tư tưởng về quản con người nói chung những yêu cầu về người đứng đầu - cai trị dân nói
riêng còn được tìm thấy trong những quan điểm của nhà triết học cổ Hy Lạp Platon. Trên quan
điểm "Đức trị" Platon cho rằng, muốn trị nước phải đoàn kết dân lại, phải dân. Ông rất đề cao
vai trò của tầng lớp những người làm công việc cai trị dân. Theo ông, sức mạnh của giới cai trị dân
làm nên sức mạnh nhà nước, sự nhu nhược của họ là sự yếu kém của nhà nước. Nói cho cùng, tất
cả phụ thuộc vào người đứng đầu, mọi sự thay đổi đều xuất phát từ đây. Một chế độ suy vong
do lầm lỗi của những người đứng đầu. Mặt khác, ông cũng đòi hỏi rất cao ở đội ngũ này về phẩm
chất đạo đức năng lực. Theo ông, chỉ những bậc hiền triết mới làm được công việc cai trị
dân. Muốn vậy, phải ham hiểu biết, thành thật, tự chủ, biết điều độ, ít tham vọng về vật chất và đặc
biệt là phải được đào tạo kỹ lưỡng.
2. Phương đông cổ đại, nhất Trung Hoa Ấn Độ... cũng sớm xuất hiện những tưởng
về quản lý con người nói chung và về việc chú trọng những yếu tố tâm lý con người trong quản lý
nói riêng. Những tư tưởng về phép trị nước của Khổng Tử, Mạnh Tử, Hàn Phi Tử... theo đánh giá
của nhiều nhà nghiên cứu hiện đại vẫn còn ảnh hưởng sâu sắc và đậm nét trong phong cách quản
và văn hoá của nhiều nước châu Á nhất là ở Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam... Nếu như Khổng
Tử, Mạnh Tử và một số người khác chủ trương dùng "Đức trị" để cai trị dân theo nguyên tắc người
trên noi gương, kẻ dưới tự giác tuân theo; lấy phép nhân trị làm học thuyết quản lý xã hội ; khuyên
những người cai trị phải tu thân để trở thành người Nhân, biết làm điều nhân, xã hội hoá điều nhân
phát triển bằng nhân tâm thì Hàn Phi Tử, Thương Ưởng một số người khác lại chủ trương
quản lý xã hội bằng "Pháp trị". Hàn Phi Tử cho rằng, trong phép cai trị dân phải loại bỏ yếu tố nh
cảm, thân quen, phải dựa trên pháp luật mới có thể quản lý phát triển xã hội. Người cai trị dân
phải có những phẩm chất cơ bản là : khả năng kết hợp hài hoà giữa pháp - thuật - thế ; phải công
bằng, thưởng phạt công minh, "pháp không bỏ qua người tôn qúy, hình phạt không tránh quan đại
thần". Phải dựa vào "pháp" để chọn người, dùng người, cai trị người, phương pháp cai trị dân phải
biến đổi cho phù hợp với thời thế.
lOMoARcPSD| 61099620
3. Vào thế kỷ XVIII, nền văn minh công nghiệp ra đời đã tác động làm biến đổi tính
chất cơ bản toàn bộ đời sống xã hội con người mà trước tiên ở phương Tây. Thời kỳ "xã hội công
nghiệp" này đã tạo ra những tiền đề lý luận và thực tiễn, hình thành nhiều chuyên ngành khoa học
phục vụ cho những nhu cầu cấp thiết của xã hội.
Ngay từ thế kỷ XVIII, tưởng cho rằng việc quản các quá trình kinh tế-xã hội cần phải được
tiến hành một cách khoa học đã được một số người đề cập đến như Robert Owen (1771-1858)
trong việc dùng phương pháp "người giám sát im lặng", Charles Babbge (17921871) đã chú trọng
đến mối quan hệ giữa giới chủ và công nhân. Tuy nhiên, khoa học quản lý mới thực sự hình thành
với tư cách là một khoa học độc lập khi nhà quản lý học, nhà tâm lý học và tổ chức lao động người
Mỹ F.Taylor (1856-1915) làm cho các vấn đề của quản lý trở thành đối tượng của khoa học này và
được nghiên cứu một cách đầy đủ tương đối hệ thống. Năm 1911, khi "Những nguyên
quản lý khoa học" của F.Taylor được công bố đã mở ra "kỷ nguyên vàng" trong quản lý và ông đã
được gọi là "cha đẻ của thuyết quản lý theo khoa học".
Tư tưởng cơ bản về quản lý của F.Taylor bao gồm những vấn đề sau
- Chú trọng cải tạo các quan hệ trong quản (chú trọng quan hệ giữa người công nhân máy
móc, chú trọng "tính hợp lý" của hành vi và những thao tác của người lao động).
- Tiêu chuẩn hoá các công việc
- Chuyên môn hoá lao động
- Hình thành quan niệm "con người kinh tế"
Trên cùng quan niệm về con người với tư cách là con người kinh tế. Thuyết quản lý hành chính do
H.Fayol (1841-1925) nhà quản lý người Pháp cùng thời với F.Taylor cũng ra đời.
H.Fayol đã chú trọng áp dụng những vấn đề bản của khoa học quản trong lĩnh vực quản
nhà nước các tổ chức khác ngoài lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Ông là một trong những người
sớm đưa ra 5 yếu tố cơ bản của quản lý và đó cũng chính là 5 chức năng cơ bản của quản lý - đó
: dự tính (dự toán lập kế hoạch), tổ chức, điều khiển, phối hợp, kiểm tra. Với mục đích "khoa
học hoá" quản hành chính, ông đa đưa ra 16 quy tắc hướng dẫn được gọi " Những chức
trách quản của một tổ chức". Học thuyết về quản hành chính của ông ý nghĩa luận
thực tiễn to lớn đến nỗi người ta đánh giá ông là một Taylor của châu Á.
Học thuyết về quản lý của F.Taylor H.Fayol có ý nghĩa to lớn trong thực tiễn quản thời bấy
giờ, nhất trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Việc nghiên cứu tỉ mỉ, khoa học về thao tác lao
động, hợp lý hoá lao động sản xuất, chuyên môn hlao động, chú trọng khai thác nguồn nhân lực
đã đem lại lợi ích to lớn cho giới chủ bản. Song quan niệm con người - người công nhân
con người kinh tế, ham lợi ích vật chất, không khả năng độc lập sáng tạo, thiếu ý thức tổ chức
kỷ luật, bỏ qua những nhu cầu hội, tinh thần của con người nên đã dẫn tới mâu thuẫn gay gắt
giữa giới chủ giới thợ. Cũng từ đây xuất hiện nhu cầu cấp bách của thực tiễn quản là: cần
thiết phải có một chuyên ngành nghiên cứu những vấn đề thuộc về đời sống tinh thần, văn hoá và
xã hội của con người trong hệ thống quản lý.
lOMoARcPSD| 61099620
4. Tâm lý học quản với cách một chuyên ngành của tâm lý học ra đời vào những năm 20
của thế kỷ XX trên cơ sở trào lưu quản lý theo khoa học. Sự ra đời của tâm lý học quản lý gắn liền
với sự hình thành "Học thuyết quan hệ con người" do Elton Mayo (1880-1949) xây dựng một
số đóng góp của các nhà tâm học công nghiệp khác như Hugo Munsterberg - nhà tâm học
Đức đã phát triển tâm lý học ứng dụng trong nh vực quản các nghiệp ; nhà tâm học
M.Follet đã nghiên cứu về bản chất quyền lực trong quản mối quan hệ con người. Các ông
cho rằng, hiệu quả của lao động không chỉ tăng lên nhờ cách thức quản lý khoa học còn phụ
thuộc vào thực chất các mối quan hệ con người trong quản lý. Học thuyết "các mối quan hệ con
người" lưu ý các chủ doanh nghiệp tư bản hãy chú ý một cách nghiêm chỉnh đến tính chất các mối
quan hệ giữa người quản lý và công nhân, cần tiến hành những biện pháp đặc biệt để xây dựng bầu
không khí lành mạnh. Học thuyết của E.Mayo cũng giúp cho các chủ tư bản hiểu rằng : tình cảm,
tâm trạng, niềm tin c mối quan hcủa công nhân vai trò quan trọng đối với việc tăng lợi
nhuận cho họ. Tuy nhiên vì bản chất các mối quan hệ giữa chủ tư bản và công nhân mang tính chất
đối kháng nên trong chế độ tư bản chủ nghĩa, về nguyên tắc rất khó có thể xây dựng được các mối
quan hệ con người thực sự tốt đẹp, bình đẳng. Tâm học quản phương Tây, từ những năm
1930 đã phát triển theo xu hướng thực dụng. Đặc biệt sự ra đời phát triển của tâm học hành
vi đã ảnh hưởng lớn đến khoa học quản lý.
Chủ nghĩa Mác ra đời đã tạo một bước ngoặt to lớn đối với sự phát triển kinh tế, chính trị,
văn hoá, xã hội và khoa học của nhân loại. Tuy nhiên, vấn đề quản lý các quá trinh kinh tế-xã hội
theo mục tiêu của chủ nghĩa xã hội thực sự mới bắt đầu sau Cách mạng tháng 10 năm 1917 - khi
đất nước XHCN đầu tiên trên thế giới ra đời. Dưới sự lãnh đạo của V.I.Lênin, trong quá trình xây
dựng CNXH ở nước Nga Xô viết, khoa học quản lý cùng với tâm lý học quản lý và các khoa học
nhân văn khác mới thực sự được quan tâm và phát triển mạnh mẽ.
V.I.Lênin rất quan tâm đến khoa học quản coi đó một phương tiện, một công cụ tối quan
trọng để phát triển kinh tế-xã hội của đất nước XHCN. Quán triệt chỉ thị của người, nhà nước Nga
Viết đã sớm quan tâm vận dụng những tri thức tâm học, đặc biệt tâm học hội vào
lĩnh vực quản lý con người. Tháng 3/1924 Hội nghị lần thứ hai về tổ chức lao động khoa học được
tiến hành. Trong Hội nghị đã nhiều tác giả trình bày những kết quả nghiên cứu về tâm học
quản lý.
- Nghiên cứu những phẩm chất của người lãnh đạo, nhấn mạnh đến khả năng về tầm nhìn
xa, trông rộng, tính kiên trì, quyết đoán, khả năng kiềm chế bản thân...
- Nghiên cứu những yêu cầu tâm học của việc ra các chỉ thị, mệnh lệnh như : phải ngắn
gọn, rành mạch, chính xác, phù hợp với đặc điểm tâm lý của đối tượng, của người thực hiện.
Đến cuối những năm 50, đầu những năm 60 của thế kỷ XX lĩnh vực tâm học quản đặc biệt
được quan tâm. Trong các nghiệp người ta yêu cầu lãnh đạo phải xác định và đưa ra được những
chỉ tiêu hội tâm trong kế hoạch sản xuất, khắc phục tình trạng "kinh tế đơn thuần";
nghĩa là yêu cầu người lãnh đạo, quản lý phải quan tâm giải quyết những vấn đề phức hợp của con
người trong tập thể lao động như :
lOMoARcPSD| 61099620
+ Từng bước giảm bớt sự khác biệt về xã hội-kinh tế giữa lao động chân tay và lao động trí óc.
+ Xây dựng mối quan hệ đúng đắn giữa lãnh đạo tập thể; lãnh đạo với cấp dưới; nhân với
cá nhân; cá nhân với tập thể, xã hội...
+ Cải thiện sinh hoạt vật chất, văn hoá tinh thần cho những người lao động.
Việt Nam, khoa học tâm phát triển tương đối muộn. Mãi đến năm 1958 mới thành lập Bộ
môn Tâm lý giáo dục đầu tiên của cả nước thuộc trường Đại học sư phạm Hà nội I. Giáo trình Tâm
học đại cương, Tâm học lứa tuổi phạm đầu tiên được các tác giả Nguyễn Đức Minh,
Phạm Cốc, Đỗ Thị Xuân biên soạn đưa vào giảng dạy cho sinh viên khoa tâm giáo dục của
trường cũng như cho sinh viên các trường Đại học sư phạm trong cả nước. Những năm đầu 1980,
những kiến thức tâm học quản đã được đưa vào giảng dạy tại trường Đảng cao cấp Nguyễn
Ái Quốc (nay là Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh). Ngày 5/10/1987 Bộ môn tâm học
hội chính thức được thành lập. Giáo trình Tâm lý học xã hội trong công tác lãnh đạo, quản (sơ
thảo) do c giả Nguyễn Hải Khoát chủ biên chính thức ra đời đưa vào giảng dạy năm 1991.
Chương trình tâm học quản cũng được đưa dần vào các trường Đảng khu vực, trong đó
trường Nguyễn Ái Quốc. Ngay từ năm 1983, trong khoa kiến thức bổ trợ đã có dạy 1 số chuyên đề
tâm lý học.
Năm 1985-1986, ở trường Nguyễn Ái Quốc I đã đưa thành môn học và đến năm 1990 chính thức
khoa Tâm lý-xã hội học dân số. Tháng 6/1993, do yêu cầu phát triển của chuyên ngành
phân viện Hà Nội chính thức thành lập Khoa Tâm lý học và đầu tư cho việc xây dựng đội ngũ cán
bộ giảng dạy, biên soạn chương trình cho các hệ cử nhân chính trị, luận chính trị cao cấp, bồi
dưỡng và các lớp tại chức cho cán bộ chủ chốt các tỉnh. Hiện nay, tâm học quản lý là một môn
học không thể thiếu được trong chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chủ chốt các cấp, kể cả các
cán bộ làm công tác tổ chức, kiểm tra lãnh đạo các doanh nghiệp nhà nước thuộc Học viện chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh. Mặc ra đời muộn, song tâm học nói chung tâm học xã hội,
tâm học quản nói riêng Việt Nam đã thực sự phục vụ mục đích chính trị của Đảng ta, làm
tốt hai chức năng bản chức năng tư tưởng hệ và chứcng ứng dụng trong công cuộc đổi mới
đất nước ta.
Tâm lí học quản lí đã được giảng dạy tại nhiều trường đại học và cao đẳng ở nước ta trong
thời gian gần đây. Ở một số trường, Tâm lí học quản lí là một môn học cơ bản trong chương trình
đào tạo Đó là khoa Tâm lí học của Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Khoa Tâm lí - Giáo dục,
Đại học sư phạm Hà Nội, Khoa Tâm lí xã hội (nay là Viện Xã hội học và m lí học lãnh đạo quản
lí), Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa Tâm lí học (nay là Khoa hội học và Tâm
học lãnh đạo quản lí), Phân viện Hà Nội (nay là Học viện Chính trị khu vực I), Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa Tâm lí học quân sự, Học viện Chính trị quân sự,...
Tâm lí học quản lí cũng trở thành đề tài của nhiều công trình nghiên cứu khoa học của một
số viện nghiên cứu trường đại học. Đó Viện tâm học, Khoa tâm lí hội Khoa tâm
học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,... Điều đáng lưu ý là Tâm lí học quản lí đã đang
lOMoARcPSD| 61099620
trở thành đề tài nghiên cứu của một số khoá luận tốt nghiệp của sinh viên, luận văn Thạc sĩ, luận
án Tiến sĩ tâm lí học ở nước ta trong thời gian qua
1.2.3 Vai trò của yếu tố tâm lý trong lãnh đạo, quản lý và một số lĩnh vực khác
1.2.3.1. Bản chất của việc quản lý con người
Quản một hoạt động cần thiết cho tất cả các lĩnh vực của đời sống con người. đâu
con người tạo lập nên nhóm hội đó cần đến quản lí, bất kể đó nhóm không chính thức
hay nhóm chính thức, nhóm nhỏ hay nhóm lớn, nhóm bạn bè, gia đình hay các đoàn thể, tổ
chức xã hội, bất kể mục đích, nội dung hoạt động của nhóm đó là gì.
Hoạt động quản lý có một số đặc điểm như sau:
- Hoạt động quản lý chỉ được tiến hành trong một nhóm người;
- Hoạt động quản lý gồm công việc chỉ huy tạo điều kiện cho người khác
thực hiện công việc, cùng đạt được mục đích cho cả nhóm;
- Hoạt động quản gồm hai bộ phận cấu thành là chủ thể quản đối
tượng quản lý;
- Hoạt động quản lý chỉ liên quan đến quản lý con người;
- Hoạt động quản lý được hiểu như sự phối hợp có tổ chức và thống nhất.
Như chúng ta đã biết, việc quản lý con người, quản lý tập thể con người là nhiệm vụ chính
của việc quản không phải chỉ đối với toàn bộ hội còn đối với từng cấp, từng ngành,
từng tổ chức nằm trong phạm vi của nó. thể nói, con người vai trò chủ đạo trong hệ thống
quản lý. Trong lĩnh vực quản người ta xem xét con người hoạt động của con người trên ba
góc độ
+ Con người với tư cách là chủ thể quản lý
+ Con người với cách đối tượng quản
+ Quan hệ giữa chủ thể và đối tượng quản lý.
Con người tập thể không thụ động trước tác động của quản lý, bởi vì mỗi con người đều ý
chí, có ý thức, có những lợi ích nhu cầu riêng, có nhận thức về các sự kiện. Trong hệ thống quản
lý, con người có thể tiếp nhận các quyết định quản lý, tuân theo các quyết định đó, và cũng có thể
không tiếp nhận hoặc tiếp nhận một mức độ nhất định. Chính thế, trong việc quản con người,
sự tác động lẫn nhau giữa hệ thống quản hệ thống bị quản không thể theo quy định cứng
nhắc mà mang tính linh hoạt, mềm dẻo. Vậy vấn đề đặt ra là có thể quản lý con người, điều chỉnh
được công việc và hành vi của con người hay không? Quản lý con người là quản lý cái gì?
Như chúng ta đã biết, con người sống trong xã hội không thể tách khỏi người khác và xã hội,
luôn có mối quan hệ gắn bó với người khác, với tập thể và với xã hội. Do đó, quản lý và lãnh đạo
con người trong hội chúng ta không thể tách rời khỏi quản tập thể, quản hội. Quản
con người một cách khoa học phải thiết lập được sự hài hoà, tối ưu giữa những lợi ích, nguyện
lOMoARcPSD| 61099620
vọng sự phát triển của nhân, của tập thể điều hoà được những yêu cầu của cá nhân, của
tập thể và xã hội đối với nhau.
Trong chủ nghĩa tư bản, dù có phát triển cao như hiện nay thì về cơ bản chức năng quản lý của nó
vẫn là giám sát, đàn áp, bóc lột người lao động, thao túng công việc và hành vi của con người. Vì
thế theo Các Mác, nó đã dần dần làm tha hoá con người, khiến con người thành “cỗ máy” chỉ biết
phục tùng.
Trong hội xã hội chủ nghĩa của chúng ta, việc quản con người và quản lý các tập thể lao động
trong mọi lĩnh vực của đời sống hội nghĩa tổ chức một cách hợp hoạt động của từng
người, của từng tập thể; là tổ chức có hiệu quả đời sống kinh tế, chính trị - xã hội và tinh thần của
họ; giáo dục con người Việt Nam thấm nhuần những quan điểm của Chủ nghĩa Mác nin và
tưởng Hồ Chí Minh; giúp họ sống làm việc theo pháp luật; theo quy định về đạo đức cách
mạng.
Quản lý con người là một công việc khó khăn, phức tạp không phải ai cũng có thể làm được. Với
quan điểm về bản chất quản lý con người như trên, chúng ta có thể luận giải nó qua các mặt cụ th
sau đây:
- Quản con người trước tiên phải c định được vị trí đúng đắn của mỗi người trong tập
thể, trong hệ thống xã hội, quy định chức năng, quyền hạn, nghĩa vụ vai trò xã hội của
họ; - Quản lý con người còn có nghĩa là đào tạo, bồi dưỡng con người; hướng dẫn, giúp đỡ
họ thực hiện vai trò hội, những chức năng, nghĩa vụ quyền hạn của họ với ch
một người công dân cách một chủ thể hoạt động vị trí của họ trong hệ thống tổ chức.
đây, vai trò vị trí của công tác giáo dục, đào tạo ý nghĩa cùng quan trọng được
Đảng ta coi là quốc sách hàng đầu;
- Quản con người còn nghĩa tạo ra cho mọi nhân (trước hết trong công việc
sinh hoạt) những điều kiện thuận lợi nhất để họ thực hiện tốt nhất vai trò xã hội của mình; gắn
sự nghiệp của mỗi cá nhân với sự nghiệp, lợi ích của tập thể, của dân tộc.
- Quản lí là những tác động có phương hướng, có mục đích rõ ràng của chủ thể quản lí.
- Quản lí là hoạt động trí tuệ mang tính sáng tạo cao.
- Quản lí là một khoa học và là một nghệ thuật.
+ Quản khoa học, vận dụng tri thức được hệ thống hoá, là sự vận dụng các quy
luật của chủ thể quản lí để giải quyết các vấn đề đặt ra.
+ Quản nghệ thuật: vì đây loại hoạt động đặc biệt - hoạt động này đòi hỏi phải vận
dụng hết sức khéo léo, linh hoạt sáng tạo những tri thức, những kinh nghiệm để tác động đến
đối tượng quản lí - các cá nhân cụ thể. Mỗi con người là một nhân cách, một thế giới tâm lí phong
phú và phức tạp.
- Quản lí đòi hỏi phải tuân theo những nguyên tắc nhất định.
- Hiệu quả của hoạt động quản phụ thuộc vào cấu tổ chức - việc đổi mới cơ.cấu tổ chức
để phù hợp với hoàn cảnh và mục tiêu quản lí.
lOMoARcPSD| 61099620
- Quản lí thực chất là quản lí con người, vì con người là yếu tố quyết định trong giải quyết các
vấn đề: Mọi thành công hay thất bại của tổ chức đều liên quan tới việc giải quyết các mối
quan hệ giữa những con người với nhau.
Muốn tạo điều kiện thuận lợi cho mỗi nhân trong tổ chức thực hiện vai trò hội của mình,
người lãnh đạo cần giúp họ thích nghi, hoà hợp với nhau, với tập thể nhằm tạo cho cá nhân vừa có
tính độc lập, sáng tạo vừa có mối quan hệ gắn hữu giữa họ các thành viên khác. Thực tế
cho thấy, có một số yếu tố của sự thích ứng, hoà nhập như sau:
+ Sự thích ứng về mặt thể chất, sinh lý, về những điều kiện của hoạt động; trình độ chuyên môn,
kỹ thuật; mức độ căng thẳng, thời gian làm việc,…
+ Sự thích ứng với nhau về mặt tâm lý: khí chất, tính cách, xu hướng, định hướng giá trị, hứng
thú, quan niệm, thói quen,… nhằm tạo ra không khí tâm lý tốt trong tập thể.
+ Sthích nghi (thích ứng) về mặt hội- tâm lý: sự thích ứng giữa nhân tập thể, đồng
nghiệp với lãnh đạo… giúp mọi người nhận thức chấp nhận tự giác các quy tắc, các giá trị,
tiêu chuẩn hành vi đã được quy định bởi tập thể và xã hội.
- Quản lý con người còn có nghĩa là thường xuyên kiểm tra xem mỗi người có thực hiện đúng vai
trò xã hội của mình hay không? Muốn làm được điều đó, cần thường xuyên tác động, uốn nắn
đánh giá đúng về kết qủa hoạt động của con người. Ở đây, sự khen – chê đúng đắn có một ý nghĩa
cùng quan trọng. Mặt khác, để có sự quan tâm đúng đắn, trong quá trình quản lý lãnh đạo, người
lãnh đạo cũng phải hiểu rằng, tập thể những người bị lãnh đạo thường có những đặc trưng tâm
chung như sau
+ Họ muốn có người lãnh đạo giỏi, công bằng, thẳng thắn và hiểu họ, thông cảm với họ;
+ Mọi người đều muốn có công việc ổn định, phát triển; muốn lãnh đạo thấy rõ vị trí, vai trò công
việc của họ đang làm;
+ Được lãnh đạo quan tâm, tin tưởng, tôn trọng những ý kiến và đề nghị của họ;
+ Lãnh đạo đánh giá đúng, thưởng phạt công minh;
+ Nơi làm việc được trang bị đủ tiện nghi;
+ Cơ quan có những tiêu chuẩn, chế độ đãi ngộ nhất định cả về tinh thần và vật chất,…
Những đặc trưng tâm lý chung trên đây là khách quan và có quan hệ trực tiếp tới ba nhân tố rất
cơ bản trong quản lý; giá trị của tổ chức, tương quan nhân sự trong tổ chức và nhiệm vụ của mỗi
người trong tổ chức.
Yếu tố giá trị của tổ chức thể hiện ở mục tiêu chung của hệ thống quản lý hội và mục tiêu riêng
của cơ quan, xí nghiệp. Chính hai mục tiêu này tạo nên cơ sở để thành lập tồn tại các cơ quan,
xí nghiệp… cũng như để thúc đẩy và chỉ đạo hoạt động của con người trong các cơ quan, tổ chức.
Để đạt được mục tiêu này, yêu cầu các thành viên phải trách nhiệm thực hiện các quy định về
chế độ hiệu suất làm việc, tôn trọng mọi quy chế của quan pháp luật của nhà nước. Yếu
tố giá trị của tổ chức n tác dụng hạn chế việc tự do hành động của nhân, giới hạn về xu
lOMoARcPSD| 61099620
hướng, nguyện vọng quá cao có thể dẫn nhân đến chỗ vi phạm nội quy, kỷ luật của cơ quan hay
pháp luật của Nhà nước.
Yếu tố tương quan nhân sự quy định thái độ sự tác động qua lại lẫn nhau của mọi người trong
quan, xí nghiệp. Đây là yếu tố quy định về cách cư xử, thái độ của các thành viên trong tổ chức;
tinh thần làm việc; sự tác động của các cấp lãnh đạo các đồng nghiệp đối với từng cá nhân để
phong cách làm việc của từng người phù hợp với phong cách của tập thể.
Yếu tố nhiệm vụ của mỗi người trong tổ chức quy định vị trí, quyền hạn, nhiệm vụ cũng như lợi
ích của từng nhân trong các quan, nghiệp. Ba nhân tố như: chức vụ, nhiệm vụ, quyền lợi
có liên quan chặt chẽ thống nhất với nhau sẽ tạo ra được sự công bằng, tính tích cực hoạt động của
nhân, tổ chức. Thực tế cho thấy nếu quyền lợi không tương xứng và bất công sẽ dẫn đến sự chán
nản, bất mãn hay chống đối ngầm, tạo ra sự mâu thuẫn trong tổ chức.
1.2.3.2. Vai trò của yếu tố tâm lý trong lãnh đạo, quản lý và một số lĩnh vực khác
Hoạt động quản lý có đối tượng là con người, là tập thể những con người có những đặc điểm tâm
lý cá nhân, tâm lý xã hội đa dạng, khác biệt nhau và chính những đặc điểm tâm lý đó lại ảnh hưởng
đến hiệu quả quá trình quản lý. Những kiến thức của tâm học nói chung của chuyên ngành
tâm lý học quản lý nói riêng có ý nghĩa thực tiễn và lý luận to lớn trong công tác quản lý, lãnh đạo.
Vai trò của nó thể hiện ở chỗ
- Giúp người lãnh đạo biết cách chuẩn đoán để hiểu tâm lý đối tượng bị lãnh đạo, giải thích
được những hành vi của mọi người dự đoán trước được những hành vi của cấp dưới để đánh
giá, sắp xếp cán bộ một cách hợp lý.
- Tâm lý học quản lý giúp nhà quản có cách thức nhận xét , đánh giá cán bộ một cách đúng
đắn, khách quan; tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có hiệu quả.
- Những tri thức của tâm học quản lý còn giúp cho người lãnh đạo biết cách tác động mềm
dẻo nhưng kiên quyết đến cấp dưới chỉ đạo được hành vi của họ; đoàn kết thống nhất tập thể
những con người dưới quyền.
- Giúp cho bản thân nhà lãnh đạo hiểu bản thân, có phương hướng, biện pháp tự bồi dưỡng
để hoàn thiện mình; hình thành uy tín cho bản thân.
- Những kiến thức của tâm học quản lý còn sở luận cho việc xây dựng nội dung,
chương trình và phương pháp đào tạo trong hệ thống Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và
các cơ sở đào tạo khác.
Như vậy, nếu xét về mặt nhận thức, tâm lý học quản lý giúp cho người làm công tác quản lý, lãnh
đạo các cấp, các ngành am hiểu những đặc điểm, quy luật chung của tâm lý cá nhân, tâm lý nhóm,
cộng đồng để biết cách đánh giá, tác động đến con người, biết cách đối nhân xử thế cũng như tập
hợp, thu hút được mọi người thực hiện mục tiêu quản lý. Ngoài ra những tri thức của tâm học
quản còn giúp cho nhà lãnh đạo tránh được những sai lầm của bản thân trong công tác tuyển
chọn, bổ nhiệm cán bộ, trong việc giao tiếp, ra quyết định quản lý,…
lOMoARcPSD| 61099620
Về ý nghĩa ứng dụng thực tiễn sự am hiểu tâm lý học nói chung và tâm lý học quản lý nói riêng
sẽ giúp nhà lãnh đạo nâng cao được hiệu quả quản lý; phát triển được tổ chức cũng như tạo điều
kiện cho mỗi nhân trong tổ chức phát huy hết những khả năng của bản thân. Việc am hiểu những
tri thức tâm lý học sẽ giúp nhà quản lý, lãnh đạo phát huy được sức mạnh sáng tạo của mọi người,
tạo ra được bầu không khí chung sống và làm việc lành mạnh trong tập thể cũng như đem lại niềm
vui, hạnh phúc cho mỗi người lao động chúng ta.
Lịch sử nhân loại cả phương Đông lẫn phương Tây cho thấy nhiều nhà lãnh đạo trên các lĩnh
vực đã gặp phải những sai lầm, thất bại chua xót thiếu những tri thức tâm học nói chung
tâm lý học quản lý nói riêng. Những sai lầm, thất bại đó không chỉ thể hiện trong quyết định quản
lý mà cả trong lời nói, hành vi ứng xử, trong việc biểu hiện qua nét mặt ,… đã dẫn đến hậu quả tai
hại cho bản thân và cho cộng đồng.
Lãnh đạo và quản lý thực chất là tác động có mục đích vào con người, khi tác động vào con người
thực chất là tác động vào tâm lý của họ. Không có một hoạt động nào của con người mà lại không
chịu sự tác động của các yếu tố tâm lý. Trong nhiều trường hợp, thành công hay thất bại - do tâm
lý, sung sướng hay đau khổ - do tâm lý, hạnh phúc hay bất hạnh - do tâm lý. Sức mạnh của yếu tố
tâm lý là sức mạnh của tư tưởng, sức mạnh của tinh thần. Tư tưởng đúng thì hành động đúng, tâm
lý định hướng hành vi, điều khiển hành vi, tâm lý có sức mạnh to lớn trong đời sống con người.
Tâm học hiện đại đã đạt được những thành tựu rất to lớn khi những kiến thức của
được đem áp dụng vào lãnh đạo và quản lý đã phát huy được tính tích cực, năng động, sáng tạo của
con người, làm tăng năng suất lao động, tăng chất lượng và hiệu quả. Ngày nay, không có một lĩnh
vực nào lại không cần đến những kiến thức tâm lý, không có công ty làm ăn phát đạt nào mà người
đứng đầu của không thể hiện mình như là một nhà tâm học sành sỏi. Những kiến thức của
tâm lý học hiện đại rất cần thiết cho cả cấp quản mô và vi mô. Tại sao lâu nay có những
chủ trương đường lối đúng nhưng không đi vào được cuộc sống ? Một trong những do quan
trọng là các tác giả xây dựng văn kiện thiếu những tri thức tâm lý ở tầm vĩ mô. Chỉ đứng ở góc độ
quyền lực cao ít nh toán đến điều kiện thực hiện cụ thể, ít hiểu biết những khó khăn, những
trở ngại của tâm lý đời thường nên các chỉ thị, nghị quyết ít có tính khả thi. Các chuyên gia chuyên
ngành chỉ thấy tính hợp của mục tiêu cụ thể, không nghiên cứu ngoại vi, không lường trước được
hết những hậu quả của nhiều tác động phụ có thể làm đảo ngược tính mục đích. Khi xây dựng các
văn kiện chung thì mắc phải tâm cầu toàn, muốn hoàn chỉnh, đưa vào quá nhiều vấn đề làm
loãng nội dung chính. Khi xây dựng các văn kiện dưới luật hoặc các thông tư hướng dẫn thực hiện
thì lại vướng tâm quyền lực cục bộ, lợi ích cục bộ sinh ra hiện tượng mâu thuẫn, chồng chéo,
chắp vá ...
Còn cấp quản vi mô, đó người cán bộ lãnh đạo cán bộ quản hàng ngày, hàng
giờ trực tiếp làm việc và tiếp xúc với người lao động. Những vấn đề tâm lý cá nhân tâm tập
thể phát sinh một cách thường xuyên trực tiếp. Nếu không được trang bị những kiến thức về tâm
quản tâm lao động tối thiểu cần thiết thì suốt ngày chỉ lo giải quyết những vướng mắc
trong quan hệ giữa con người với con người, không còn thời gian, sức lực và trí tuệ tập trung cho
nhiệm vụ chiến lược.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61099620
LỜI NÓI ĐẦU --------------------------------
Tâm lý quản lý là một phân ngành của khoa học tâm lý chuyên nghiên cứu những vấn đề
trong hoạt động quản lý nhằm làm cho hoạt động quản lý đạt được hiệu quả tối ưu, là một môn
khoa học nghiên cứu về tâm lý con người. Đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp, các ngành
những tri thức của tâm lý học quản lý rất quan trọng và cần thiết để nâng cao chất lượng và hiệu
quả trong công tác lãnh đạo, quản lý.
Tâm lý học quản lý có nguồn gốc từ xa xưa, được loài người đúc kết trong nền văn hóa tinh
thần của con người như sử học, triết học, kinh tế học, đạo đức học, văn học dân gian, thậm chí ngay
trong các tôn giáo, số tử vi, tuồng chèo, kịch hát... Trong thế kỷ XXI, tâm lý quản lý trở thành một
trong những chuyên ngành tâm lý học ứng dụng mũi nhọn phát triển rộng khắp toàn cầu và không
thể thiếu được trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.
Trong chương trình đào tạo ngành Quản trị kinh doanh và Marketing, tâm lý quản lý là một môn
học bắt buộc thuộc phần kiến thức giáo dục đại cương với mục đích nhằm trang bị cho sinh viên
những vấn đề lý luận cơ bản về tâm lý học nói chung và những kiến thức về tâm lý quản lý tức là
tâm lý của những người lãnh đạo, quản lý; tâm lý của những người bị lãnh đạo, quản lý; tâm lý tập
thể của những người bị lãnh đạo, quản lý. Qua đó góp phần nâng cao kỹ năng sống, kỹ năng ứng
xử, giao tiếp tạo điều kiện cải thiện và mở rộng các mối quan hệ giữa người học với các đối tượng khác nhau trong xã hội.
Bài giảng môn học được kết cấu thành 5 chương, trong đó chương 1 giới thiệu những vấn đề cơ
bản về tâm lý học nói chung và tâm lý quản lý nói riêng. Chương 2 nghiên cứu về tâm lý người
lãnh đạo cũng như các yêu cầu đối với người lãnh đạo. Chương 3 nghiên cứu về tâm lý người lao
động nói chung và đặc điểm tâm lý của các loại người lao động. Chương 4 nghiên cứu về tập thể,
các giai đoạn phát triển của tập thể cũng như những hiện tượng và quy luật tâm lý xảy ra trong tập
thể. Chương 5 nghiên cứu về giao tiếp trong hoạt động quản lý, nghiên cứu đề xuất các biện pháp
nhằm nâng cao kỹ năng giao tiếp trong hoạt động quản lý.
Trong quá trình biên soạn, tác giả đã cố gắng bảo đảm tính khoa học, tính kế thừa các tài liệu về
tâm lý quản lý, tính hiện đại và phù hợp với thực tiễn Việt Nam, với những yêu cầu của sự nghiệp
đổi mới do Đảng ta lãnh đạo. Tuy nhiên, tâm lý quản lý là một môn khoa học còn nhiều vấn đề
phức tạp, chưa được nhận thức thống nhất, chưa được nghiên cứu sâu sắc, vì vậy bài giảng khó
tránh khỏi được những thiếu sót. Tác giả mong nhận được những ý kiến đóng góp từ phía bạn đọc.
Xin trân trọng cảm ơn./.
Hà Nội, tháng 12 năm 2020
TH.S TRẦN ĐOÀN HẠNH lOMoAR cPSD| 61099620 MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ……………………………………………………………………….1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÂM LÝ VÀ TÂM LÝ QUẢN LÝ...5
1.1 Tâm lý và các thuộc tính của tâm lý …………………………………………………..5
1.1.1 Khái niệm tâm lý ………………………………………………………………………5
1.1.2 Các hiện tượng tâm lý…………………………………………………………………..5
1.1.3 Các thuộc tính của tâm lý………………………………………………………………5
1.2 Tâm lý quản lý…………………………………………………………………………10
1.2.1 Khái niệm, đối tượng và phương pháp nghiên cứu…………………………………...10
1.2.2 Lịch sử hình thành…………………………………………………………………….11
1.2.3 Vai trò của yếu tố tâm lý trong quản lý……………………………………………….15
CHƯƠNG 2: TÂM LÝ NGƯỜI LÃNH ĐẠO …………………………….............................22
2.1 Người lãnh đạo…………………………………………………………………………22
2.1.1 Khái niệm người lãnh đạo…………………………………………………………….22
2.1.2 Sự khác biệt giữa lãnh đạo và quản lý……………………………………………….. 24
2.2. Nhân cách của người lãnh đạo………………………………………………….........25
2.2.1 Khái niệm nhân cách người lãnh đạo…………………………………………………25
2.2.2 Các thành tố trong nhân cách của người lãnh đạo…………………………………….25
2.2.3 Những con đường hình thành và phát triển nhân cách của người lãnh đạo………..... 29
2.3 Uy tín của người lãnh đạo …………………………………………….………………30
2.3.1 Khái niệm …………………………………………………………………………….30
2.3.2 Các thành tố trong uy tín của người lãnh đạo ………………………………………...32
2.3.3 Phân loại uy tín của người lãnh đạo ………………………………………………… 33
2.4 Kiểu người lãnh đạo và phong cách lãnh đạo ………………………………..……...35
2.4.1 Kiểu người lãnh đạo ………………………………………………………………….35
2.4.2 Phong cách lãnh đạo ………………………………………………………………… 37
2.5 Những phẩm chất và năng lực cần thiết của người lãnh đạo……………………….40
2.5.1 Đặt vấn đề……………………………………………………………………………..40
2.5.2 Những phẩm chất và năng lực cần thiết của người lãnh đạo………………………… 40 lOMoAR cPSD| 61099620
CHƯƠNG 3: TÂM LÝ NGƯỜI LAO ĐỘNG...……. ………………………………………..60
3.1 Đặc điểm tâm lý của các loại người lao động………………………………. ……… 60
3.1.1 Đặc điểm tâm lý của người lao động theo độ tuổi …………………………………….60
3.1.2 Đặc điểm tâm lý của người lao động theo giới tính ………………………………….69
3.1.3 Đặc điểm tâm lý của người lao động theo vị thế trong tập thể ……………………….80
3.1.4 Đặc điểm tâm lý của người lao động theo lịch sử thành, bại ………………………….82
3.1.5 Đặc điểm tâm lý của người lao động theo ngành, nghề ………………………………83
3.1.6 Đặc điểm tâm lý của người lao động theo trình độ chuyên môn ……………………...83
3.1.7 Đặc điểm tâm lý của người lao động theo bản chất……………………………………84
3.1.8 Đặc điểm tâm lý của người lao động theo điều kiện kinh tế-xã hội hiện tại…………..84
3.1.9 Đặc điểm tâm lý của người lao động theo vị trí địa lý (điều kiện tự nhiên) nơi sinh
trưởng …………………………………………………………………………………………... 85
3.1.10 Đặc điểm tâm lý của người lao động theo điều kiện kinh tế-xã hội nơi sinh trưởng....86
3.1.11 Đặc điểm tâm lý của người lao động theo khí chất …………………………………..88
3.2 Nhu cầu và động cơ làm việc của người lao động……………………………………..89
3.2.1 Đặc điểm tâm lý của người lao động Việt nam trong thời kỳ mới …………………….89
3.2.2 Tạo và tăng cường động cơ làm việc của người lao động ……………………………..94
CHƯƠNG 4: TÂM LÝ TẬP THỂ...………………………………………………………….108
4.1 Tập thể và các giai đoạn phát triển của tập thể……………………………………...108
4.1.1 Khái niệm tập thể …………………………………………………………….. ……...108
4.1.2 Các giai đoạn phát triển của tập thể …………………………………………………..109
4.2 Một số hiện tượng tâm lý trong tập thể ……………………………………………...112
4.2.1 Thủ lĩnh trong tập thể ………………………………………………………………...112
4.2.2 Sự tương hợp tâm lý ………………………………………………………………….112
4.2.3 Bầu không khí tâm lý …………………………………………………………………113
4.2.4 Dư luận tập thể ………………………………………………………………………..114
4.2.5 Xung đột trong tập thể………………………………………………………………...117
4.2.6 Lây lan tâm lý trong tập thể ………………………………………………………….119
4.2.7 Truyền thống tập thể …………………………………………………………………120
4.2.8 Tâm trạng tập thể ……………………………………………………………………..121
4.2.9 Tâm lý đám đông………………………………………………………………….......121 lOMoAR cPSD| 61099620
CHƯƠNG 5: TÂM LÝ GIAO TIẾP………………………………………………………….123
5.1 Những vấn đề lý luận chung về giao tiếp……………………………………………..123
5.1.1 Khái niệm giao tiếp……………………………………………………………………123
5.1.2 Vai trò của giao tiếp…………………………………………………………………...125
5.1.3 Chức năng của giao tiếp………………………………………………………………126
5.1.4 Các loại hình giao tiếp ………………………………………………………………..135
5.1.5 Các phương tiện giao tiếp …………………………………………………………….136
5.2 Giao tiếp trong hoạt động quản lý……………………………………………………136
5.2.1 Những nét đặc trưng của công tác quản lý………….………………………………...136
5.2.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến giao tiếp trong hoạt động quản lý………………………...144
5.2.3 Một số quy tắc giao tiếp trong hoạt động quản lý ……………………………………145
TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………………………………….....173 lOMoAR cPSD| 61099620
CHƯƠNG 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÂM LÝ VÀ TÂM LÝ QUẢN
----------------------------------- 1.1 Tâm lý và các thuộc tính của tâm lý
1.1.1. Khái niệm tâm lý
Trong cuộc sống hàng ngày, nhiều người vẫn thường sử dụng từ "tâm lý" để nói về lòng người, về
cách cư xử của con người. Đó là cách hiểu tâm lý ở cấp độ nhận thức thông thường. Trong tiếng
Việt thuật ngữ "tâm lý", "tâm hồn" được định nghĩa một cách tổng quát là ý nghĩ, tình cảm ... làm
thành đời sống nội tâm, thế giới bên trong của con người.
Theo nghĩa đời thường, chữ "tâm" được dùng với các cụm từ "nhân tâm","tâm đắc", "tâm địa",
"tâm can"... thường có nghĩa như là chữ "lòng", thiên về tình cảm còn chữ "hồn" thường để diễn
đạt tư tưởng, tinh thần, ý thức, ý chí của con người. "Tâm hồn", "tinh thần" luôn gắn liền với "thể
xác"... Trong tiếng La tinh "Psyche" là "linh hồn", "tinh thần" và "logos" là học thuyết, là "khoa
học". Vì thế "Tâm lý học" ( Psychologie) là khoa học về tâm hồn. Nói một cách khái quát chung
nhất: Tâm lý bao gồm tất cả những hiện tượng tinh thần xảy ra trong đầu óc con người, gắn liền
và điều hành mọi hành động, hoạt động của con người.

Tâm lý con người rất đa dạng, phong phú, bí ẩn và tiềm tàng nhưng giữa chúng có mối quan hệ
với nhau rất chặt chẽ. Tâm lý có sức mạnh vô cùng to lớn, nó có thể điều khiển và điều chỉnh hành
vi của con người.Tâm lý là hiện tượng rất quen thuộc, gần gũi nhưng cũng rất mênh mông, xa vời.
Tâm lý là "thế giới bên trong" vô cùng phức tạp, hấp dẫn, kỳ diệu, thậm chí kỳ lạ, huyền bí rất dễ
hiểu nhưng cũng vô cùng khó hiểu. Ngày nay, việc áp dụng những kiến thức tâm lý hiện đại vào
việc điều hành xã hội và khơi dậy tiềm năng to lớn trong con người là một yêu cầu cấp bách, vì
thiếu nó thì mọi hoạt động chắc chắn sẽ thất bại. Phần đông chúng ta đều biết điều đó, có thể lý
giải khá rành mạch về điều đó; nhưng khi vào cuộc với trăm ngàn tình huống khó xử của muôn
mặt đời thường liên quan đến hiện tượng tâm lý thì lại tỏ ra lúng túng, thậm chí hết sức ngạc nhiên,
bất ngờ, không sao giải thích nổi. Khi bị ức chế quá mức, trong cơn điên của sự nóng giận dễ dẫn
đến những hành vi vô cùng phi lý.
Vậy TÂM LÝ là gì ? Là một thực thể hay chỉ là một ảo ảnh ? Nó có thật hay không có thật ? Do
đâu mà nó có một sức mạnh to lớn như vậy ? Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, tâm lý là hiện
tượng tinh thần, nó tồn tại trong đầu chúng ta. Nó là hình ảnh chủ quan khi phản ánh thế giới khách
quan. Tâm lý là chức năng của não bộ, là chức năng của vật chất có tổ chức cao, nhưng nó lại
không phải là vật chất, không thể sờ mó, cân, đong, đo, đếm được. Tâm lý có nguồn gốc ý thức, có
sự tham gia của ý thức và chi phối của ý thức. Ngoài ra, hiện tượng tâm lý còn có những dấu hiệu
của vô thức, bao gồm những hiện tượng mà con người không nhận thức rõ bản chất của hành vi,
mất khả năng định hướng, đôi khi hành động theo bản năng. Miền giao nhau giữa ý thức và vô thức
là tiềm thức. Tiềm thức lúc đầu là do ý thức, nhưng được nhắc đi nhắc lại nhiều lần được khắc sâu,
ăn sâu, lắng sâu vào bên trong con người để biến thành tiềm thức. Tâm lý mang nhiều đặc trưng
của tiềm thức, khi tiềm thức đã quá sâu thì nó sẽ trở thành công thức tâm lý, tập quán và thói quen
tâm lý, muốn thay đổi không thể một sớm một chiều. lOMoAR cPSD| 61099620
1.1.2. Các hiện tượng tâm lý
Các hiện tượng tâm lý rất đa dạng, có thể phân loại chúng dựa trên cơ sở sau đây: 1.1.2.1. Phân
loại các hiện tượng tâm lý theo thời gian tồn tại và vị trí tương đối của chúng trong nhân cách.
Theo cách chia này các hiện tượng tâm lý gồm ba loại chính
Các quá trình tâm lý, các trạng thái tâm lý và các thuộc tính tâm lý. Cụ thể
* Các quá trình tâm lý : là những hiện tượng tâm lý diễn ra trong thời gian tương đối ngắn, có mở
đầu, diễn biến, kết thúc tương đối rõ ràng. Người ta thường phân biệt thành ba quá trình tâm lý :
- Các quá trình nhận thức gồm cảm giác, tri giác, trí nhớ, tưởng tượng, tư duy.
- Các quá trình cảm xúc biểu thị sự vui mừng hay tức giận, dễ chịu hay khó chịu, nhiệt tình hay thờ ơ ...
- Quá trình hành động ý chí. *
Các trạng thái tâm lý là những hiện tượng tâm lý diễn ra trong thời gian tương đối dài, việc
mở đầu và kết thúc không rõ ràng như chú ý, tâm trạng ... *
Các thuộc tính tâm lý là những hiện tượng tâm lý tương đối ổn định, khó hình thành và khó
mất đi, tạo thành những nét riêng của nhân cách. Người ta thường nói tới bốn nhóm thuộc tính tâm
lý cá nhân như xu hướng, tính cách, khí chất và năng lực.
1.1.2.2. Phân loại hiện tượng tâm lý dựa trên ý thức
- Các hiện tượng tâm lý có ý thức
- Các hiện tượng tâm lý chưa được ý thức
Chúng ta có nhiều nhận biết về các hiện tượng tâm lý có ý thức (được nhận thức hay tự giác). Còn
những hiện tượng tâm lý chưa được ý thức vẫn luôn diễn ra, nhưng ta không ý thức về nó, hoặc
dưới ý thức, chưa kịp ý thức. Một số tác giả nước ngoài còn chia ý thức thành hai mức: "vô thức"
là những lĩnh vực nằm ngoài ý thức, khó lọt vào lĩnh vực ý thức (một số bản năng vô thức, một số
hành động lỡ lời, lỡ chân tay, ngủ mơ, mộng du ...) và mức độ " tiềm thức" là những hiện tượng
bình thường nằm sâu trong ý thức, thỉnh thoảng trong những hoàn cảnh nhất định có thể được ý thức "chiếu rọi" tới.
1.1.2.3. Các hiện tượng tâm lý khác
- Hiện tượng tâm lý sống động : thể hiện trong hành vi hoạt động - Hiện tượng tâm lý tiềm tàng
: tích đọng trong sản phẩm của hoạt động.
- Hiện tượng tâm lý cá nhân : vui, buồn, giận dữ, lo âu ...
- Hiện tượng tâm lý xã hội : phong tục tập quán, tin đồn, dư luận... lOMoAR cPSD| 61099620
Như vậy, thế giới tâm lý của con người vô cùng đa dạng và phức tạp. Các hiện tượng tâm lý có
nhiều cấp độ, mức độ khác nhau có quan hệ đan xen vào nhau, chuyển hoá cho nhau.
1.1.3 Các thuộc tính của tâm lý
Các thuộc tính tâm lý là những hiện tượng tâm lý tương đối ổn định, khó hình thành và khó
mất đi, tạo thành những nét riêng của nhân cách. Các thuộc tính tâm lý bao gồm: xu hướng, tính
cách, khí chất và năng lực. 1.1.3.1 Xu hướng
Xu hướng là một thuộc tính tâm lý phức hợp của cá nhân, bao gồm một hệ thống động cơ quy định
tính tích cực hoạt động của cá nhân và quy định sự lựa chọn thái độ của nó. Xu hướng thường biểu
hiện ở một số mặt chủ yếu như nhu cầu, hứng thú, thế giới quan, niềm tin ...
a. Nhu cầu: là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần thỏa mãn để tồn tại và phát triển.
Nhu cầu của con người có những đặc điểm cơ bản như:
- Nhu cầu bao giờ cũng có đối tượng. Khi nào nhu cầu gặp đối tượng có khả năng thoả mãn nó thì
lúc đó nhu cầu trở thành động cơ thúc đẩy con người hoạt động nhằm tới đối tượng.
- Nội dung của nhu cầu do những điều kiện và phương thức thoả mãn nó quy định.
- Nhu cầu có tính chu kỳ.
- Nhu cầu của con người khác nhu cầu của con vật, nhu cầu con người mang bản chất xã hội.
- Nhu cầu của con người rất đa dạng.
Để làm rõ hơn nhu cầu của con người nhà tâm lý học người Mỹ B.Maslow đã đưa ra 5 bậc thang
nhu cầu dạng hình chóp trong đó bao gồm: nhu cầu sinh lý, nhu cầu an toàn, nhu cầu giao tiếp, nhu
cầu được tôn trọng và nhu cầu tự khẳng định.
b. Hứng thú: là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, vừa có ý nghĩa đối với cuộc
sống, vừa có khả năng mang lại xúc cảm cho cá nhân trong quá trình hoạt động. - Hứng thú
biểu hiện ở sự tập trung cao độ, ở sự say mê, ở bề rộng và chiều sâu của hứng thú. Hứng thú
nảy sinh chủ yếu do tính hấp dẫn về mặt cảm xúc của nội dung hoạt động. - Hứng thú làm nảy
sinh khát vọng hành động, tăng sức làm việc, đặc biệt là tăng tính tự giác, tích cực trong hoạt
động, vì vậy hứng thú làm tăng hiệu quả hoạt động. Cùng với nhu cầu, hứng thú là một thành
phần trong hệ thống động cơ của nhân cách.
c. Lý tưởng: là một mục tiêu cao đẹp, một hình ảnh mẫu mực, tương đối hoàn chỉnh, có
sức lôi cuốn con người vươn tới nó.
- Lý tưởng khác với ước mơ ở chỗ, trong lý tưởng chứa đựng mặt nhận thức sâu sắc của chủ thể
về các điều kiện chủ quan và khách quan để vươn tới lý tưởng, đồng thời chủ thể có tình cảm
mãnh liệt đối với hình ảnh mẫu mực của mình. Chính vì thế, lý tưởng có sức mạnh lôi cuốn toàn
bộ cuộc sống con người vào các hoạt động vươn tới lý tưởng của mình. Tuy vậy, ước mơ có thể
là cơ sở cho sự hình thành lý tưởng cao đẹp sau này. lOMoAR cPSD| 61099620
- Lý tưởng vừa có tính hiện thực, vừa có tính lãng mạn. Có tính hiện thực vì lý tưởng bao giờ cũng
được xây dựng từ nhiều "chất liệu" có thực của đời sống. Song lý tưởng lại là hình ảnh mẫu mực
chưa có trong hiện thực, là cái chỉ có thể đạt được trong tương lai. Lý tưởng phản ánh xu thế phát triển của con người.
- Lý tưởng mang tính lịch sử và giai cấp.
- Lý tưởng là biểu hiện tập trung nhất của xu hướng nhân cách, nó có chức năng xác định mục
tiêu, điều khiển toàn bộ hoạt động của con người, trực tiếp chi phối sự hình thành và phát triển tâm lý cá nhân. d.
Thế giới quan: là hệ thống các quan điểm về tự nhiên, xã hội và bản thân, xác định phương
châm hành động của con người. Thế giới quan khoa học là thế giới quan duy vật biện chứng mang
tính khoa học, tính nhất quán cao. e.
Niềm tin: là một sản phẩm của thế giới quan, là kết tinh các quan điểm, tri thức, rung cảm,
ý chí được con người thể nghiệm, trở thành chân lý bền vững trong mỗi cá nhân. Niềm tin tạo cho
con người nghị lực, ý chí để hành động theo quan điểm của mình, là lẽ sống của con người. 1.1.3.2 Tính cách
Tính cách là một thuộc tính phức tạp của cá nhân, bao gồm một hệ thống thái độ của nó đối với
hiện thực và thể hiện trong hệ thống hành vi, cử chỉ, cách nói năng tương ứng.
Tính cách mang tính ổn định và bền vững, tính thống nhất và đồng thời cũng mang tính độc đáo,
riêng biệt, điển hình cho mỗi cá nhân. Vì thể, tính cách của cá nhân là sự thống nhất giữa cái chung
và cái riêng, cái điển hình và cái cá biệt. Tính cách của cá nhân chịu sự chế ước của xã hội.
* Cấu trúc của tính cách: tính cách có cấu trúc bao gồm: hệ thống thái độ và hệ thống hành vi, cử
chỉ, cách nói năng tương ứng.
- Hệ thống thái độ của cá nhân bao gồm 4 mặt sau đây
+ Thái độ đối với tập thể và xã hội, thể hiện qua nhiều nét tính cách như : lòng yêu nước, yêu
CNXH, thái độ chính trị, tinh thần đổi mới, tinh thần hợp tác cộng đồng ...
+ Thái độ đối với lao động, thể hiện ở những nét tính cách cụ thể như : lòng yêu lao động, cần cù,
sáng tạo, lao động có kỷ luật, tiết kiệm ...
+ Thái độ đối với mọi người thể hiện ở những nét tính cách như : lòng yêu thương con người theo
tinh thần nhân đạo, quý trọng con người, có tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái ...
+ Thái độ đối với bản thân, thể hiện ở những nét tính cách như : tính khiêm tốn, lòng tự trọng, tinh thần tự phê bình.
- Hệ thống hành vi, cử chỉ, cách nói năng của cá nhân: đây là sự thể hiện cụ thể ra bên ngoài của
hệ thống thái độ nói trên. Hệ thống hành vi, cử chỉ, cách nói năng rất đa dạng, chịu sự chi phối
của hệ thống thái độ. Người có tính cách tốt, nhất quán thì hệ thống thái độ sẽ tương ứng với hệ
thống hành vi, cử chỉ, cách nói năng. Trong đó, thái độ là mặt nội dung, mặt chủ đạo, còn hành lOMoAR cPSD| 61099620
vi, cử chỉ, cách nói năng là hình thức biểu hiện của tính cách, chúng không tách rời nhau, thống nhất hữu cơ với nhau.
Tính cách có quan hệ chặt chẽ với các thuộc tính, các phẩm chất khác của nhân cách như :
xu hướng, khí chất, tình cảm, ý chí, kỹ xảo, thói quen và vốn sống của cá nhân. 1.1.3.3 Khí chất
Khí chất là thuộc tính phức hợp của cá nhân, biểu hiện cường độ, tiến độ và nhịp độ của các hoạt
động tâm lý, thể hiện sắc thái của hành vi, cử chỉ, cách nói năng của cá nhân. Khí chất có cơ sở
sinh lý là các kiểu thần kinh, quy định nhịp độ, tiến độ của các hoạt động tâm lý. Đó là nguyên
nhân gây ra sự khác biệt rõ rệt trong những đặc điểm bên ngoài của hành vi con người. Tuy nhiên,
khí chất mang bản chất xã hội. * Các kiểu khí chất
Kiểu khí chất là sự kết hợp khác nhau của những thuộc tính khí chất có quan hệ qua lại với nhau
1 cách có quy luật, có các loại khí chất như sau -
Kiểu khí chất hăng hái: người thuộc kiểu khí chất này thường là người hoạt bát, vui vẻ, yêu
đời, sống động, ham hiểu biết, cảm xúc không sâu, dễ hình thành và dễ thay đổi, nhận thức nhanh
nhưng cũng hay quên, tâm hồn hướng ngoại, cởi mở, dễ thích nghi với môi trường mới. -
Kiểu khí chất bình thản: người thuộc kiểu khí chất này thường là người chậm chạp, điềm
tĩnh, chắc chắn, kiên trì, ưa sự ngăn nắp, trật tự, khả năng kiềm chế tốt, nhận thức chậm nhưng
chắc chắn, tình cảm khó hình thành nhưng sâu sắc, ít ưa cãi cọ và không thích ba hoa, có tình ý khi
khởi động hoạt động, khó thích nghi đối với môi trường mới. -
Kiểu khí chất nóng nảy: người có kiểu khí chất này thường hành động nhanh, mạnh, hào
hứng, nhiệt tình, hay có tính gay gắt, nóng nảy, mệnh lệnh, quyết đoán, dễ bị kích động, thẳng thắn,
chân tình, khả năng kiềm chế rất thấp ... -
Kiểu khí chất ưu tư: người có kiểu khí chất này thường biểu hiện hoạt động chậm chạp,
chóng mệt mỏi, luôn hoài nghi, lo lắng, thiếu tự tin, hay u sầu, buồn bã, xúc cảm khó nảy sinh
nhưng rất sâu sắc, có cường độ mạnh và bền vững. Ở kiểu khí chất này, con người thường có sự
nhạy bén, tinh tế về cảm xúc, giàu ấn tượng, trong quan hệ thường mềm mỏng, tế nhị, nhã nhặn,
chu đáo và vị tha, họ thường hay sống với nội tâm của mình (hướng nội), đặc biệt là khó thích nghi
đối với môi trường mới.
Tóm lại, mỗi kiểu khí chất trên đều có mặt mạnh, mặt yếu. Trên thực tế thường gặp ở một người
có những nét của kiểu khí chất nào đó chiếm ưu thế, nhưng đồng thời lại có những nét riêng lẻ nào
đó thuộc kiểu khí chất khác. Ngoài ra, còn có những kiểu khí chất trung gian bao gồm nhiều đặc
tính của cả 4 kiểu khí chất trên. Mặc dù khí chất có cơ sở là các kiểu thần kinh nhưng khí chất vẫn
chịu sự chi phối của các đặc điểm xã hội, có thể biến đổi do rèn luyện và giáo dục. 1.1.3.4 Năng lực lOMoAR cPSD| 61099620
Năng lực là tổ hợp các thuộc tính độc đáo của cá nhân phù hợp với những yêu cầu của một hoạt
động nhất định, đảm bảo cho hoạt động đó có kết quả tốt. -
Năng lực không phải là một thuộc tính tâm lý xuất sắc nào đó mà nó là tổ hợp các thuộc
tính tâm lý của cá nhân. -
Năng lực vừa là tiền đề, vừa là kết quả của hoạt động. Năng lực là điều kiện cho hoạt động
đạt kết quả nhưng đồng thời năng lực cũng phát triển ngay trong chính hoạt động ấy. - Năng lực
là sản phẩm của lịch sử. Sự phân công và chuyên môn hoá lao động đã dẫn đến sự phân hoá và
chuyên môn hoá năng lực người. Mặt khác, mỗi khi nền văn minh nhân loại dành được những
thành tựu mới thì lại xuất hiện ở con người những năng lực mới và những năng lực đã có trước đây
bây giờ chứa đựng một nội dung mới.
* Phân loại năng lực hai loại -
Năng lực chung: là năng lực cần thiết cho nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau, là những
điều kiện cần thiết để giúp cho nhiều lĩnh vực hoạt động đạt kết quả. -
Năng lực chuyên biệt: là sự thể hiện độc đáo các phẩm chất riêng biệt, có tính chuyên môn,
nhằm đáp ứng yêu cầu của một lĩnh vực hoạt động chuyên biệt với kết quả cao.
Hai loại năng lực này luôn bổ sung và hỗ trợ cho nhau
1.2 Tâm lý quản lý
1.2.1 Khái niệm, đối tượng và phương pháp nghiên cứu
1.2.1.1 Khái niệm và đối tượng nghiên cứu của tâm lý quản lý
Tâm lý học quản lý nghiên cứu các hiện tượng tâm lý (tâm lý cá nhân, tâm lý xã hội) nảy sinh
trong hệ thống quản lý; chỉ ra những đặc điểm, quy luật tâm lý của người lãnh đạo, người bị lãnh
đạo và tâm lý tập thể những người bị lãnh đạo. Mặt khác, nó còn nghiên cứu những yêu cầu về
phẩm chất và năng lực, về uy tín và phong cách người lãnh đạo để nâng cao hiệu quả hoạt động lãnh đạo, quản lý.
* Nhiệm vụ của tâm lý học quản lý
Khi xác định nhiệm vụ của tâm lý học quản lý, không nên chỉ chú ý đến mục đích kinh tế mà còn
quan tâm đến cả mục đích giáo dục, nhân văn (tức là phải chú ý đến việc phát huy nhân tố con
người, vì con người). Với mục đích trên, tâm lý học quản lý có nhiệm vụ cơ bản là phân tích những
đặc điểm và điều kiện của hoạt động quản lý với mục đích nâng cao hiệu quả của công tác trong
hệ thống quản lý. Ngoài ra nó còn có các nhiệm vụ sau
- Nghiên cứu những đặc điểm tâm lý cá nhân, tâm lý xã hội của các tập thể với tư cách là chủ thể
và khách thể của quản lý, đặc biệt là nghiên cứu những quy luật của các nhân tố tâm lý xã hội
thuận lợi cho hoạt động quản lý (uy tín, bầu không khí tâm lý, dư luận, tâm trạng tập thể ...)
- Nghiên cứu cơ sở tâm lý học của việc nâng cao hiệu quả quản lý, lãnh đạo trong các lĩnh vực,
của việc nâng cao hiệu qủa hoạt động của cá nhân và tập thể lao động. lOMoAR cPSD| 61099620
- Nghiên cứu về đặc trưng hoạt động giao tiếp và những phẩm chất nhân cách cần có của người
lãnh đạo; xác định con đường hình thành, phát triển nhân cách; các kiểu người lãnh đạo cũng
như vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo.
- Nghiên cứu nhu cầu, động cơ lao động của tập thể; các định hướng giá trị xã hội, tâm thế của các
thành viên nhằm xác định cách thức tác động phù hợp để phát huy nhân tố con người trong quản lý.
- Nghiên cứu những yếu tố tâm lý-sư phạm của việc đánh giá, tuyển chọn, sắp xếp, đào tạo cán
bộ, trong công tác tư tưởng và kiểm tra ...
1.2.1.2. Các phương pháp nghiên cứu của tâm lý học quản lý
Là một chuyên ngành của tâm lý học, tâm lý học quản lý sử dụng các phương pháp nghiên cứu
trong tâm lý học nói chung và của tâm lý học xã hội nói riêng như : quan sát, điều tra ( trò chuyện,
phỏng vấn, trắc nghiệm, thực nghiệm ...) ngoài ra tâm lý học quản lý còn sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp khái quát các nhận xét độc lập
Thực chất của phương pháp này là lấy ý kiến nhận xét độc lập của một số người (ở cấp trên, trong
ban lãnh đạo, trong tập thể cơ quan) về một vấn đề tâm lý nào đó của người lãnh đạo. Trong phương
pháp này việc chọn đối tượng hỏi ý kiến có vai trò quan trọng.
- Phương pháp nghiên cứu qua kết quả, sản phẩm hoạt động
Thông qua kết quả, sản phẩm hoạt động như các biên bản, báo cáo, nghị quyết, kế hoạch, hiệu quả
công tác để đoán trước được các đặc điểm tâm lý, trình độ chuyên môn, ý chí, kỹ năng của chủ thể
hoạt động. Phân tích kết quả hoạt động của người lãnh đạo cần tách ra được đâu là kết quả của bản
thân người đó, đâu là kết quả của tập thể.
- Phương pháp trò chơi "sắm vai quản lý"
Để tiến hành phương pháp này, người ta xây dựng các tình huống trong quản lý và đưa từng người
nhập cuộc để giải quyết các tình huống đó. Qua cách thức giải quyết các tình huống mà biết được
chỗ mạnh, chỗ yếu của người lãnh đạo, của người muốn bổ nhiệm để có biện pháp, phương hướng
đào tạo, bồi dưỡng phù hợp.
- Phương pháp nghiên cứu tiểu sử hoạt động của người lãnh đạo, quản lý nổi tiếng. Đây là một
trong những phương pháp có giá trị thực tiễn rất lớn. Việc nghiên cứu tiểu sử hoạt động, những
thành công và thất bại trong hoạt động quản lý, lãnh đạo của các chính khách, các nhà doanh
nghiệp chẳng những cho chúng ta thấy được những đức tính cần có của các nhà tổ chức, lãnh
đạo chính trị, lãnh đạo các đoàn thể nhân dân, lãnh đạo doanh nghiệp ở các giai đoạn lịch sử-xã
hội khác nhau mà còn cho chúng ta biết thêm những kinh nghiệm, cách thức giải quyết các tình
huống đa dạng, phức tạp trong quản lý, lãnh đạo. lOMoAR cPSD| 61099620
1.2.2 Lịch sử hình thành tâm lý học quản lý
Ngay từ khi con người xuất hiện trên trái đất, tâm lý con người đã hình thành. Ở thời kỳ tiền khoa
học, những người đứng đầu các bộ lạc đã biết sử dụng những tri thức về con người được đúc rút
qua kinh nghiệm để tiến hành công việc của mình. Xã hội loài người càng phát triển, sự hiểu biết
về con người, đời sống tâm lý, tinh thần của con người không chỉ được khám phá qua quan sát mà
còn bằng những cách thức tinh vi hơn và được lưu truyền từ đời này sang đời khác nhất là qua ca
dao, tục ngữ, qua các câu chuyện cổ tích và sau đó là trong binh thư yếu lược và sử học kể cả ở
phương Đông và phương Tây. Nói chung sự phát triển của tâm lý học quản lý được chia thành 4 giai đoạn sau 1.
Vào thế kỷ IV-III TCN, nhà triết học phương Tây nổi tiếng Xôcrát, trong tập Nghị luận của
mình đã viết rằng: những người nào biết cách sử dụng con người sẽ điều khiển công việc, hoặc cá
nhân hay tập thể một cách sáng suốt. Trong khi những người không biết làm như vậy sẽ mắc sai
lầm trong việc tiến hành cả hai công việc này.
Tư tưởng về quản lý con người nói chung và những yêu cầu về người đứng đầu - cai trị dân nói
riêng còn được tìm thấy trong những quan điểm của nhà triết học cổ Hy Lạp Platon. Trên quan
điểm "Đức trị" Platon cho rằng, muốn trị nước phải đoàn kết dân lại, phải vì dân. Ông rất đề cao
vai trò của tầng lớp những người làm công việc cai trị dân. Theo ông, sức mạnh của giới cai trị dân
làm nên sức mạnh nhà nước, sự nhu nhược của họ là sự yếu kém của nhà nước. Nói cho cùng, tất
cả phụ thuộc vào người đứng đầu, mọi sự thay đổi đều xuất phát từ đây. Một chế độ suy vong là
do lầm lỗi của những người đứng đầu. Mặt khác, ông cũng đòi hỏi rất cao ở đội ngũ này về phẩm
chất đạo đức và năng lực. Theo ông, chỉ có những bậc hiền triết mới làm được công việc cai trị
dân. Muốn vậy, phải ham hiểu biết, thành thật, tự chủ, biết điều độ, ít tham vọng về vật chất và đặc
biệt là phải được đào tạo kỹ lưỡng. 2.
Ở Phương đông cổ đại, nhất là ở Trung Hoa và Ấn Độ... cũng sớm xuất hiện những tư tưởng
về quản lý con người nói chung và về việc chú trọng những yếu tố tâm lý con người trong quản lý
nói riêng. Những tư tưởng về phép trị nước của Khổng Tử, Mạnh Tử, Hàn Phi Tử... theo đánh giá
của nhiều nhà nghiên cứu hiện đại vẫn còn ảnh hưởng sâu sắc và đậm nét trong phong cách quản
lý và văn hoá của nhiều nước châu Á nhất là ở Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam... Nếu như Khổng
Tử, Mạnh Tử và một số người khác chủ trương dùng "Đức trị" để cai trị dân theo nguyên tắc người
trên noi gương, kẻ dưới tự giác tuân theo; lấy phép nhân trị làm học thuyết quản lý xã hội ; khuyên
những người cai trị phải tu thân để trở thành người Nhân, biết làm điều nhân, xã hội hoá điều nhân
và phát triển bằng nhân tâm thì Hàn Phi Tử, Thương Ưởng và một số người khác lại chủ trương
quản lý xã hội bằng "Pháp trị". Hàn Phi Tử cho rằng, trong phép cai trị dân phải loại bỏ yếu tố tình
cảm, thân quen, phải dựa trên pháp luật mới có thể quản lý và phát triển xã hội. Người cai trị dân
phải có những phẩm chất cơ bản là : khả năng kết hợp hài hoà giữa pháp - thuật - thế ; phải công
bằng, thưởng phạt công minh, "pháp không bỏ qua người tôn qúy, hình phạt không tránh quan đại
thần". Phải dựa vào "pháp" để chọn người, dùng người, cai trị người, phương pháp cai trị dân phải
biến đổi cho phù hợp với thời thế. lOMoAR cPSD| 61099620 3.
Vào thế kỷ XVIII, nền văn minh công nghiệp ra đời đã tác động và làm biến đổi có tính
chất cơ bản toàn bộ đời sống xã hội con người mà trước tiên ở phương Tây. Thời kỳ "xã hội công
nghiệp" này đã tạo ra những tiền đề lý luận và thực tiễn, hình thành nhiều chuyên ngành khoa học
phục vụ cho những nhu cầu cấp thiết của xã hội.
Ngay từ thế kỷ XVIII, tư tưởng cho rằng việc quản lý các quá trình kinh tế-xã hội cần phải được
tiến hành một cách khoa học đã được một số người đề cập đến như Robert Owen (1771-1858)
trong việc dùng phương pháp "người giám sát im lặng", Charles Babbge (17921871) đã chú trọng
đến mối quan hệ giữa giới chủ và công nhân. Tuy nhiên, khoa học quản lý mới thực sự hình thành
với tư cách là một khoa học độc lập khi nhà quản lý học, nhà tâm lý học và tổ chức lao động người
Mỹ F.Taylor (1856-1915) làm cho các vấn đề của quản lý trở thành đối tượng của khoa học này và
được nghiên cứu một cách đầy đủ và tương đối có hệ thống. Năm 1911, khi "Những nguyên lý
quản lý khoa học" của F.Taylor được công bố đã mở ra "kỷ nguyên vàng" trong quản lý và ông đã
được gọi là "cha đẻ của thuyết quản lý theo khoa học".
Tư tưởng cơ bản về quản lý của F.Taylor bao gồm những vấn đề sau
- Chú trọng cải tạo các quan hệ trong quản lý (chú trọng quan hệ giữa người công nhân và máy
móc, chú trọng "tính hợp lý" của hành vi và những thao tác của người lao động).
- Tiêu chuẩn hoá các công việc
- Chuyên môn hoá lao động
- Hình thành quan niệm "con người kinh tế"
Trên cùng quan niệm về con người với tư cách là con người kinh tế. Thuyết quản lý hành chính do
H.Fayol (1841-1925) nhà quản lý người Pháp cùng thời với F.Taylor cũng ra đời.
H.Fayol đã chú trọng áp dụng những vấn đề cơ bản của khoa học quản lý trong lĩnh vực quản lý
nhà nước và các tổ chức khác ngoài lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Ông là một trong những người
sớm đưa ra 5 yếu tố cơ bản của quản lý và đó cũng chính là 5 chức năng cơ bản của quản lý - đó là
: dự tính (dự toán và lập kế hoạch), tổ chức, điều khiển, phối hợp, kiểm tra. Với mục đích "khoa
học hoá" quản lý hành chính, ông đa đưa ra 16 quy tắc hướng dẫn và được gọi là " Những chức
trách quản lý của một tổ chức". Học thuyết về quản lý hành chính của ông có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn to lớn đến nỗi người ta đánh giá ông là một Taylor của châu Á.
Học thuyết về quản lý của F.Taylor và H.Fayol có ý nghĩa to lớn trong thực tiễn quản lý thời bấy
giờ, nhất là trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Việc nghiên cứu tỉ mỉ, khoa học về thao tác lao
động, hợp lý hoá lao động sản xuất, chuyên môn hoá lao động, chú trọng khai thác nguồn nhân lực
đã đem lại lợi ích to lớn cho giới chủ tư bản. Song vì quan niệm con người - người công nhân là
con người kinh tế, ham lợi ích vật chất, không có khả năng độc lập sáng tạo, thiếu ý thức tổ chức
kỷ luật, bỏ qua những nhu cầu xã hội, tinh thần của con người nên đã dẫn tới mâu thuẫn gay gắt
giữa giới chủ và giới thợ. Cũng từ đây xuất hiện nhu cầu cấp bách của thực tiễn quản lý là: cần
thiết phải có một chuyên ngành nghiên cứu những vấn đề thuộc về đời sống tinh thần, văn hoá và
xã hội của con người trong hệ thống quản lý. lOMoAR cPSD| 61099620
4. Tâm lý học quản lý với tư cách là một chuyên ngành của tâm lý học ra đời vào những năm 20
của thế kỷ XX trên cơ sở trào lưu quản lý theo khoa học. Sự ra đời của tâm lý học quản lý gắn liền
với sự hình thành "Học thuyết quan hệ con người" do Elton Mayo (1880-1949) xây dựng và một
số đóng góp của các nhà tâm lý học công nghiệp khác như Hugo Munsterberg - nhà tâm lý học
Đức đã phát triển tâm lý học ứng dụng trong lĩnh vực quản lý các xí nghiệp ; nhà tâm lý học
M.Follet đã nghiên cứu về bản chất quyền lực trong quản lý và mối quan hệ con người. Các ông
cho rằng, hiệu quả của lao động không chỉ tăng lên nhờ cách thức quản lý khoa học mà nó còn phụ
thuộc vào thực chất các mối quan hệ con người trong quản lý. Học thuyết "các mối quan hệ con
người" lưu ý các chủ doanh nghiệp tư bản hãy chú ý một cách nghiêm chỉnh đến tính chất các mối
quan hệ giữa người quản lý và công nhân, cần tiến hành những biện pháp đặc biệt để xây dựng bầu
không khí lành mạnh. Học thuyết của E.Mayo cũng giúp cho các chủ tư bản hiểu rằng : tình cảm,
tâm trạng, niềm tin và các mối quan hệ của công nhân có vai trò quan trọng đối với việc tăng lợi
nhuận cho họ. Tuy nhiên vì bản chất các mối quan hệ giữa chủ tư bản và công nhân mang tính chất
đối kháng nên trong chế độ tư bản chủ nghĩa, về nguyên tắc rất khó có thể xây dựng được các mối
quan hệ con người thực sự tốt đẹp, bình đẳng. Tâm lý học quản lý ở phương Tây, từ những năm
1930 đã phát triển theo xu hướng thực dụng. Đặc biệt sự ra đời và phát triển của tâm lý học hành
vi đã ảnh hưởng lớn đến khoa học quản lý.
Chủ nghĩa Mác ra đời đã tạo một bước ngoặt to lớn đối với sự phát triển kinh tế, chính trị,
văn hoá, xã hội và khoa học của nhân loại. Tuy nhiên, vấn đề quản lý các quá trinh kinh tế-xã hội
theo mục tiêu của chủ nghĩa xã hội thực sự mới bắt đầu sau Cách mạng tháng 10 năm 1917 - khi
đất nước XHCN đầu tiên trên thế giới ra đời. Dưới sự lãnh đạo của V.I.Lênin, trong quá trình xây
dựng CNXH ở nước Nga Xô viết, khoa học quản lý cùng với tâm lý học quản lý và các khoa học
nhân văn khác mới thực sự được quan tâm và phát triển mạnh mẽ.
V.I.Lênin rất quan tâm đến khoa học quản lý và coi đó là một phương tiện, một công cụ tối quan
trọng để phát triển kinh tế-xã hội của đất nước XHCN. Quán triệt chỉ thị của người, nhà nước Nga
Xô Viết đã sớm quan tâm vận dụng những tri thức tâm lý học, đặc biệt là tâm lý học xã hội vào
lĩnh vực quản lý con người. Tháng 3/1924 Hội nghị lần thứ hai về tổ chức lao động khoa học được
tiến hành. Trong Hội nghị đã có nhiều tác giả trình bày những kết quả nghiên cứu về tâm lý học quản lý. -
Nghiên cứu những phẩm chất của người lãnh đạo, nhấn mạnh đến khả năng về tầm nhìn
xa, trông rộng, tính kiên trì, quyết đoán, khả năng kiềm chế bản thân... -
Nghiên cứu những yêu cầu tâm lý học của việc ra các chỉ thị, mệnh lệnh như : phải ngắn
gọn, rành mạch, chính xác, phù hợp với đặc điểm tâm lý của đối tượng, của người thực hiện.
Đến cuối những năm 50, đầu những năm 60 của thế kỷ XX lĩnh vực tâm lý học quản lý đặc biệt
được quan tâm. Trong các xí nghiệp người ta yêu cầu lãnh đạo phải xác định và đưa ra được những
chỉ tiêu xã hội và tâm lý trong kế hoạch sản xuất, khắc phục tình trạng "kinh tế đơn thuần"; có
nghĩa là yêu cầu người lãnh đạo, quản lý phải quan tâm giải quyết những vấn đề phức hợp của con
người trong tập thể lao động như : lOMoAR cPSD| 61099620
+ Từng bước giảm bớt sự khác biệt về xã hội-kinh tế giữa lao động chân tay và lao động trí óc.
+ Xây dựng mối quan hệ đúng đắn giữa lãnh đạo và tập thể; lãnh đạo với cấp dưới; cá nhân với
cá nhân; cá nhân với tập thể, xã hội...
+ Cải thiện sinh hoạt vật chất, văn hoá tinh thần cho những người lao động.
Ở Việt Nam, khoa học tâm lý phát triển tương đối muộn. Mãi đến năm 1958 mới thành lập Bộ
môn Tâm lý giáo dục đầu tiên của cả nước thuộc trường Đại học sư phạm Hà nội I. Giáo trình Tâm
lý học đại cương, Tâm lý học lứa tuổi và sư phạm
đầu tiên được các tác giả Nguyễn Đức Minh,
Phạm Cốc, Đỗ Thị Xuân biên soạn và đưa vào giảng dạy cho sinh viên khoa tâm lý giáo dục của
trường cũng như cho sinh viên các trường Đại học sư phạm trong cả nước. Những năm đầu 1980,
những kiến thức tâm lý học quản lý đã được đưa vào giảng dạy tại trường Đảng cao cấp Nguyễn
Ái Quốc (nay là Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh). Ngày 5/10/1987 Bộ môn tâm lý học xã
hội chính thức được thành lập. Giáo trình Tâm lý học xã hội trong công tác lãnh đạo, quản lý (sơ
thảo) do tác giả Nguyễn Hải Khoát chủ biên chính thức ra đời và đưa vào giảng dạy năm 1991.
Chương trình tâm lý học quản lý cũng được đưa dần vào các trường Đảng khu vực, trong đó có
trường Nguyễn Ái Quốc. Ngay từ năm 1983, trong khoa kiến thức bổ trợ đã có dạy 1 số chuyên đề tâm lý học.
Năm 1985-1986, ở trường Nguyễn Ái Quốc I đã đưa thành môn học và đến năm 1990 chính thức
có khoa Tâm lý-xã hội học và dân số. Tháng 6/1993, do yêu cầu phát triển của chuyên ngành ở
phân viện Hà Nội chính thức thành lập Khoa Tâm lý học và đầu tư cho việc xây dựng đội ngũ cán
bộ giảng dạy, biên soạn chương trình cho các hệ cử nhân chính trị, lý luận chính trị cao cấp, bồi
dưỡng và các lớp tại chức cho cán bộ chủ chốt ở các tỉnh. Hiện nay, tâm lý học quản lý là một môn
học không thể thiếu được trong chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chủ chốt các cấp, kể cả các
cán bộ làm công tác tổ chức, kiểm tra và lãnh đạo các doanh nghiệp nhà nước thuộc Học viện chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh. Mặc dù ra đời muộn, song tâm lý học nói chung và tâm lý học xã hội,
tâm lý học quản lý nói riêng ở Việt Nam đã thực sự phục vụ mục đích chính trị của Đảng ta, làm
tốt hai chức năng cơ bản là chức năng tư tưởng hệ và chức năng ứng dụng trong công cuộc đổi mới đất nước ta.
Tâm lí học quản lí đã được giảng dạy tại nhiều trường đại học và cao đẳng ở nước ta trong
thời gian gần đây. Ở một số trường, Tâm lí học quản lí là một môn học cơ bản trong chương trình
đào tạo Đó là khoa Tâm lí học của Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Khoa Tâm lí - Giáo dục,
Đại học sư phạm Hà Nội, Khoa Tâm lí xã hội (nay là Viện Xã hội học và Tâm lí học lãnh đạo quản
lí), Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa Tâm lí học (nay là Khoa Xã hội học và Tâm
lí học lãnh đạo quản lí), Phân viện Hà Nội (nay là Học viện Chính trị khu vực I), Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa Tâm lí học quân sự, Học viện Chính trị quân sự,...
Tâm lí học quản lí cũng trở thành đề tài của nhiều công trình nghiên cứu khoa học của một
số viện nghiên cứu và trường đại học. Đó là Viện tâm lí học, Khoa tâm lí xã hội và Khoa tâm lí
học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,... Điều đáng lưu ý là Tâm lí học quản lí đã và đang lOMoAR cPSD| 61099620
trở thành đề tài nghiên cứu của một số khoá luận tốt nghiệp của sinh viên, luận văn Thạc sĩ, luận
án Tiến sĩ tâm lí học ở nước ta trong thời gian qua
1.2.3 Vai trò của yếu tố tâm lý trong lãnh đạo, quản lý và một số lĩnh vực khác
1.2.3.1. Bản chất của việc quản lý con người
Quản lí là một hoạt động cần thiết cho tất cả các lĩnh vực của đời sống con người. Ở đâu
con người tạo lập nên nhóm xã hội là ở đó cần đến quản lí, bất kể đó là nhóm không chính thức
hay nhóm chính thức, là nhóm nhỏ hay nhóm lớn, là nhóm bạn bè, gia đình hay các đoàn thể, tổ
chức xã hội, bất kể mục đích, nội dung hoạt động của nhóm đó là gì.
Hoạt động quản lý có một số đặc điểm như sau: -
Hoạt động quản lý chỉ được tiến hành trong một nhóm người; -
Hoạt động quản lý gồm công việc chỉ huy và tạo điều kiện cho người khác
thực hiện công việc, cùng đạt được mục đích cho cả nhóm; -
Hoạt động quản lý gồm hai bộ phận cấu thành là chủ thể quản lý và đối tượng quản lý; -
Hoạt động quản lý chỉ liên quan đến quản lý con người; -
Hoạt động quản lý được hiểu như sự phối hợp có tổ chức và thống nhất.
Như chúng ta đã biết, việc quản lý con người, quản lý tập thể con người là nhiệm vụ chính
của việc quản lý không phải chỉ là đối với toàn bộ xã hội mà còn đối với từng cấp, từng ngành,
từng tổ chức nằm trong phạm vi của nó. Có thể nói, con người có vai trò chủ đạo trong hệ thống
quản lý. Trong lĩnh vực quản lý người ta xem xét con người và hoạt động của con người trên ba góc độ
+ Con người với tư cách là chủ thể quản lý
+ Con người với tư cách là đối tượng quản lý
+ Quan hệ giữa chủ thể và đối tượng quản lý.
Con người và tập thể không thụ động trước tác động của quản lý, bởi vì mỗi con người đều có ý
chí, có ý thức, có những lợi ích và nhu cầu riêng, có nhận thức về các sự kiện. Trong hệ thống quản
lý, con người có thể tiếp nhận các quyết định quản lý, tuân theo các quyết định đó, và cũng có thể
không tiếp nhận hoặc tiếp nhận ở một mức độ nhất định. Chính vì thế, trong việc quản lý con người,
sự tác động lẫn nhau giữa hệ thống quản lý và hệ thống bị quản lý không thể theo quy định cứng
nhắc mà mang tính linh hoạt, mềm dẻo. Vậy vấn đề đặt ra là có thể quản lý con người, điều chỉnh
được công việc và hành vi của con người hay không? Quản lý con người là quản lý cái gì?
Như chúng ta đã biết, con người sống trong xã hội không thể tách khỏi người khác và xã hội, mà
luôn có mối quan hệ gắn bó với người khác, với tập thể và với xã hội. Do đó, quản lý và lãnh đạo
con người trong xã hội chúng ta không thể tách rời khỏi quản lý tập thể, quản lý xã hội. Quản lý
con người một cách có khoa học là phải thiết lập được sự hài hoà, tối ưu giữa những lợi ích, nguyện lOMoAR cPSD| 61099620
vọng và sự phát triển của cá nhân, của tập thể và điều hoà được những yêu cầu của cá nhân, của
tập thể và xã hội đối với nhau.
Trong chủ nghĩa tư bản, dù có phát triển cao như hiện nay thì về cơ bản chức năng quản lý của nó
vẫn là giám sát, đàn áp, bóc lột người lao động, thao túng công việc và hành vi của con người. Vì
thế theo Các Mác, nó đã dần dần làm tha hoá con người, khiến con người thành “cỗ máy” chỉ biết phục tùng.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa của chúng ta, việc quản lý con người và quản lý các tập thể lao động
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội có nghĩa là tổ chức một cách hợp lý hoạt động của từng
người, của từng tập thể; là tổ chức có hiệu quả đời sống kinh tế, chính trị - xã hội và tinh thần của
họ; là giáo dục con người Việt Nam thấm nhuần những quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lê nin và
tư tưởng Hồ Chí Minh; giúp họ sống và làm việc theo pháp luật; theo quy định về đạo đức cách mạng.
Quản lý con người là một công việc khó khăn, phức tạp không phải ai cũng có thể làm được. Với
quan điểm về bản chất quản lý con người như trên, chúng ta có thể luận giải nó qua các mặt cụ thể sau đây:
- Quản lý con người trước tiên là phải xác định được vị trí đúng đắn của mỗi người trong tập
thể, trong hệ thống xã hội, quy định rõ chức năng, quyền hạn, nghĩa vụ và vai trò xã hội của
họ; - Quản lý con người còn có nghĩa là đào tạo, bồi dưỡng con người; hướng dẫn, giúp đỡ
họ thực hiện vai trò xã hội, những chức năng, nghĩa vụ và quyền hạn của họ với tư cách là
một người công dân và tư cách là một chủ thể hoạt động ở vị trí của họ trong hệ thống tổ chức.
Ở đây, vai trò và vị trí của công tác giáo dục, đào tạo có ý nghĩa vô cùng quan trọng được
Đảng ta coi là quốc sách hàng đầu;
- Quản lý con người còn có nghĩa là tạo ra cho mọi cá nhân (trước hết là trong công việc và
sinh hoạt) những điều kiện thuận lợi nhất để họ thực hiện tốt nhất vai trò xã hội của mình; gắn
sự nghiệp của mỗi cá nhân với sự nghiệp, lợi ích của tập thể, của dân tộc.
- Quản lí là những tác động có phương hướng, có mục đích rõ ràng của chủ thể quản lí.
- Quản lí là hoạt động trí tuệ mang tính sáng tạo cao.
- Quản lí là một khoa học và là một nghệ thuật.
+ Quản lý là khoa học, vì nó vận dụng tri thức được hệ thống hoá, là sự vận dụng các quy
luật của chủ thể quản lí để giải quyết các vấn đề đặt ra.
+ Quản lí là nghệ thuật: vì đây là loại hoạt động đặc biệt - hoạt động này đòi hỏi phải vận
dụng hết sức khéo léo, linh hoạt và sáng tạo những tri thức, những kinh nghiệm để tác động đến
đối tượng quản lí - các cá nhân cụ thể. Mỗi con người là một nhân cách, một thế giới tâm lí phong phú và phức tạp.
- Quản lí đòi hỏi phải tuân theo những nguyên tắc nhất định.
- Hiệu quả của hoạt động quản lí phụ thuộc vào cơ cấu tổ chức - việc đổi mới cơ.cấu tổ chức
để phù hợp với hoàn cảnh và mục tiêu quản lí. lOMoAR cPSD| 61099620
- Quản lí thực chất là quản lí con người, vì con người là yếu tố quyết định trong giải quyết các
vấn đề: Mọi thành công hay thất bại của tổ chức đều liên quan tới việc giải quyết các mối
quan hệ giữa những con người với nhau.
Muốn tạo điều kiện thuận lợi cho mỗi cá nhân trong tổ chức thực hiện vai trò xã hội của mình,
người lãnh đạo cần giúp họ thích nghi, hoà hợp với nhau, với tập thể nhằm tạo cho cá nhân vừa có
tính độc lập, sáng tạo vừa có mối quan hệ gắn bó hữu cơ giữa họ và các thành viên khác. Thực tế
cho thấy, có một số yếu tố của sự thích ứng, hoà nhập như sau:
+ Sự thích ứng về mặt thể chất, sinh lý, về những điều kiện của hoạt động; trình độ chuyên môn,
kỹ thuật; mức độ căng thẳng, thời gian làm việc,…
+ Sự thích ứng với nhau về mặt tâm lý: khí chất, tính cách, xu hướng, định hướng giá trị, hứng
thú, quan niệm, thói quen,… nhằm tạo ra không khí tâm lý tốt trong tập thể.
+ Sự thích nghi (thích ứng) về mặt xã hội- tâm lý: sự thích ứng giữa cá nhân và tập thể, đồng
nghiệp với lãnh đạo… giúp mọi người có nhận thức và chấp nhận tự giác các quy tắc, các giá trị,
tiêu chuẩn hành vi đã được quy định bởi tập thể và xã hội.
- Quản lý con người còn có nghĩa là thường xuyên kiểm tra xem mỗi người có thực hiện đúng vai
trò xã hội của mình hay không? Muốn làm được điều đó, cần thường xuyên tác động, uốn nắn và
đánh giá đúng về kết qủa hoạt động của con người. Ở đây, sự khen – chê đúng đắn có một ý nghĩa
vô cùng quan trọng. Mặt khác, để có sự quan tâm đúng đắn, trong quá trình quản lý lãnh đạo, người
lãnh đạo cũng phải hiểu rằng, tập thể những người bị lãnh đạo thường có những đặc trưng tâm lý chung như sau
+ Họ muốn có người lãnh đạo giỏi, công bằng, thẳng thắn và hiểu họ, thông cảm với họ;
+ Mọi người đều muốn có công việc ổn định, phát triển; muốn lãnh đạo thấy rõ vị trí, vai trò công việc của họ đang làm;
+ Được lãnh đạo quan tâm, tin tưởng, tôn trọng những ý kiến và đề nghị của họ;
+ Lãnh đạo đánh giá đúng, thưởng phạt công minh;
+ Nơi làm việc được trang bị đủ tiện nghi;
+ Cơ quan có những tiêu chuẩn, chế độ đãi ngộ nhất định cả về tinh thần và vật chất,…
Những đặc trưng tâm lý chung trên đây là khách quan và có quan hệ trực tiếp tới ba nhân tố rất
cơ bản trong quản lý; giá trị của tổ chức, tương quan nhân sự trong tổ chức và nhiệm vụ của mỗi người trong tổ chức.
Yếu tố giá trị của tổ chức thể hiện ở mục tiêu chung của hệ thống quản lý xã hội và mục tiêu riêng
của cơ quan, xí nghiệp. Chính hai mục tiêu này tạo nên cơ sở để thành lập và tồn tại các cơ quan,
xí nghiệp… cũng như để thúc đẩy và chỉ đạo hoạt động của con người trong các cơ quan, tổ chức.
Để đạt được mục tiêu này, yêu cầu các thành viên phải có trách nhiệm thực hiện các quy định về
chế độ và hiệu suất làm việc, tôn trọng mọi quy chế của cơ quan và pháp luật của nhà nước. Yếu
tố giá trị của tổ chức còn có tác dụng hạn chế việc tự do hành động của cá nhân, giới hạn về xu lOMoAR cPSD| 61099620
hướng, nguyện vọng quá cao có thể dẫn cá nhân đến chỗ vi phạm nội quy, kỷ luật của cơ quan hay
pháp luật của Nhà nước.
Yếu tố tương quan nhân sự quy định thái độ và sự tác động qua lại lẫn nhau của mọi người trong
cơ quan, xí nghiệp. Đây là yếu tố quy định về cách cư xử, thái độ của các thành viên trong tổ chức;
tinh thần làm việc; sự tác động của các cấp lãnh đạo và các đồng nghiệp đối với từng cá nhân để
phong cách làm việc của từng người phù hợp với phong cách của tập thể.
Yếu tố nhiệm vụ của mỗi người trong tổ chức quy định vị trí, quyền hạn, nhiệm vụ cũng như lợi
ích của từng cá nhân trong các cơ quan, xí nghiệp. Ba nhân tố như: chức vụ, nhiệm vụ, quyền lợi
có liên quan chặt chẽ thống nhất với nhau sẽ tạo ra được sự công bằng, tính tích cực hoạt động của
cá nhân, tổ chức. Thực tế cho thấy nếu quyền lợi không tương xứng và bất công sẽ dẫn đến sự chán
nản, bất mãn hay chống đối ngầm, tạo ra sự mâu thuẫn trong tổ chức.
1.2.3.2. Vai trò của yếu tố tâm lý trong lãnh đạo, quản lý và một số lĩnh vực khác
Hoạt động quản lý có đối tượng là con người, là tập thể những con người có những đặc điểm tâm
lý cá nhân, tâm lý xã hội đa dạng, khác biệt nhau và chính những đặc điểm tâm lý đó lại ảnh hưởng
đến hiệu quả quá trình quản lý. Những kiến thức của tâm lý học nói chung và của chuyên ngành
tâm lý học quản lý nói riêng có ý nghĩa thực tiễn và lý luận to lớn trong công tác quản lý, lãnh đạo.
Vai trò của nó thể hiện ở chỗ -
Giúp người lãnh đạo biết cách chuẩn đoán để hiểu tâm lý đối tượng bị lãnh đạo, giải thích
được những hành vi của mọi người và dự đoán trước được những hành vi của cấp dưới để đánh
giá, sắp xếp cán bộ một cách hợp lý. -
Tâm lý học quản lý giúp nhà quản lý có cách thức nhận xét , đánh giá cán bộ một cách đúng
đắn, khách quan; tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có hiệu quả. -
Những tri thức của tâm lý học quản lý còn giúp cho người lãnh đạo biết cách tác động mềm
dẻo nhưng kiên quyết đến cấp dưới và chỉ đạo được hành vi của họ; đoàn kết thống nhất tập thể
những con người dưới quyền. -
Giúp cho bản thân nhà lãnh đạo hiểu rõ bản thân, có phương hướng, biện pháp tự bồi dưỡng
để hoàn thiện mình; hình thành uy tín cho bản thân. -
Những kiến thức của tâm lý học quản lý còn là cơ sở lý luận cho việc xây dựng nội dung,
chương trình và phương pháp đào tạo trong hệ thống Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và
các cơ sở đào tạo khác.
Như vậy, nếu xét về mặt nhận thức, tâm lý học quản lý giúp cho người làm công tác quản lý, lãnh
đạo các cấp, các ngành am hiểu những đặc điểm, quy luật chung của tâm lý cá nhân, tâm lý nhóm,
cộng đồng để biết cách đánh giá, tác động đến con người, biết cách đối nhân xử thế cũng như tập
hợp, thu hút được mọi người thực hiện mục tiêu quản lý. Ngoài ra những tri thức của tâm lý học
quản lý còn giúp cho nhà lãnh đạo tránh được những sai lầm của bản thân trong công tác tuyển
chọn, bổ nhiệm cán bộ, trong việc giao tiếp, ra quyết định quản lý,… lOMoAR cPSD| 61099620
Về ý nghĩa ứng dụng và thực tiễn sự am hiểu tâm lý học nói chung và tâm lý học quản lý nói riêng
sẽ giúp nhà lãnh đạo nâng cao được hiệu quả quản lý; phát triển được tổ chức cũng như tạo điều
kiện cho mỗi cá nhân trong tổ chức phát huy hết những khả năng của bản thân. Việc am hiểu những
tri thức tâm lý học sẽ giúp nhà quản lý, lãnh đạo phát huy được sức mạnh sáng tạo của mọi người,
tạo ra được bầu không khí chung sống và làm việc lành mạnh trong tập thể cũng như đem lại niềm
vui, hạnh phúc cho mỗi người lao động chúng ta.
Lịch sử nhân loại cả ở phương Đông lẫn phương Tây cho thấy nhiều nhà lãnh đạo trên các lĩnh
vực đã gặp phải những sai lầm, thất bại chua xót vì thiếu những tri thức tâm lý học nói chung và
tâm lý học quản lý nói riêng. Những sai lầm, thất bại đó không chỉ thể hiện trong quyết định quản
lý mà cả trong lời nói, hành vi ứng xử, trong việc biểu hiện qua nét mặt ,… đã dẫn đến hậu quả tai
hại cho bản thân và cho cộng đồng.
Lãnh đạo và quản lý thực chất là tác động có mục đích vào con người, khi tác động vào con người
thực chất là tác động vào tâm lý của họ. Không có một hoạt động nào của con người mà lại không
chịu sự tác động của các yếu tố tâm lý. Trong nhiều trường hợp, thành công hay thất bại - do tâm
lý, sung sướng hay đau khổ - do tâm lý, hạnh phúc hay bất hạnh - do tâm lý. Sức mạnh của yếu tố
tâm lý là sức mạnh của tư tưởng, sức mạnh của tinh thần. Tư tưởng đúng thì hành động đúng, tâm
lý định hướng hành vi, điều khiển hành vi, tâm lý có sức mạnh to lớn trong đời sống con người.
Tâm lý học hiện đại đã đạt được những thành tựu rất to lớn khi những kiến thức của nó
được đem áp dụng vào lãnh đạo và quản lý đã phát huy được tính tích cực, năng động, sáng tạo của
con người, làm tăng năng suất lao động, tăng chất lượng và hiệu quả. Ngày nay, không có một lĩnh
vực nào lại không cần đến những kiến thức tâm lý, không có công ty làm ăn phát đạt nào mà người
đứng đầu của nó không thể hiện mình như là một nhà tâm lý học sành sỏi. Những kiến thức của
tâm lý học hiện đại rất cần thiết cho cả cấp quản lý vĩ mô và vi mô.
Tại sao lâu nay có những
chủ trương đường lối đúng nhưng không đi vào được cuộc sống ? Một trong những lý do quan
trọng là các tác giả xây dựng văn kiện thiếu những tri thức tâm lý ở tầm vĩ mô. Chỉ đứng ở góc độ
quyền lực cao mà ít tính toán đến điều kiện thực hiện cụ thể, ít hiểu biết những khó khăn, những
trở ngại của tâm lý đời thường nên các chỉ thị, nghị quyết ít có tính khả thi. Các chuyên gia chuyên
ngành chỉ thấy tính hợp lý của mục tiêu cụ thể, không nghiên cứu ngoại vi, không lường trước được
hết những hậu quả của nhiều tác động phụ có thể làm đảo ngược tính mục đích. Khi xây dựng các
văn kiện chung thì mắc phải tâm lý cầu toàn, muốn hoàn chỉnh, đưa vào quá nhiều vấn đề làm
loãng nội dung chính. Khi xây dựng các văn kiện dưới luật hoặc các thông tư hướng dẫn thực hiện
thì lại vướng tâm lý quyền lực cục bộ, lợi ích cục bộ sinh ra hiện tượng mâu thuẫn, chồng chéo, chắp vá ...
Còn ở cấp quản lý vi mô, ở đó người cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý hàng ngày, hàng
giờ trực tiếp làm việc và tiếp xúc với người lao động. Những vấn đề tâm lý cá nhân và tâm lý tập
thể phát sinh một cách thường xuyên và trực tiếp. Nếu không được trang bị những kiến thức về tâm
lý quản lý và tâm lý lao động tối thiểu cần thiết thì suốt ngày chỉ lo giải quyết những vướng mắc
trong quan hệ giữa con người với con người, không còn thời gian, sức lực và trí tuệ tập trung cho nhiệm vụ chiến lược.