lOMoARcPSD| 61099620
Sự hình thành phát triển của Tâm lý học quản được chia ra thành 3 giai đoạn:
Giai đoạn đầu (Thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20):
Đây là thời kỳ cách mạng công nghiệp khi các tổ chức, các công ty lớn phát triển dẫn
đến nhu cầu quản nhân lực tăng. Lúc này đây các nhà quản nhận ra rằng c yếu tố
tâm lý của người lao động như động lực, thái độ và sự hài lòng có tác động rất ln đối với
năng suất làm việc. trong giai đoạn này đây Frederick Winslow Taylor (1856 1915)
một trong những người tiên phong khi áp dụng các nguyên tắc khoa học vào quản lý.
Mặc không phải người học chuyên về lĩnh vực Tâm học nhưng ông đã đặt nền
móng cho việc nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả làm việc.
Frederick Winslow Taylor được mệnh danh là người khai sinh ra lý luận quản lý một cách
khoa học
a. Mary Paker Follet (1868- 1933)
Là nhà tâm rất quan tâm đến yếu tố tâm lý, xã hội của người lao động. cho rằng
trong quản cần phải quan tâm tới người lao động với toàn bộ đời sống của họ, không
chỉ quan tâm đến lới ích kinh tế mà còn phải quan tâm đến cả đời sống tinh thần và tình
cảm của họ. Bởi sự hoà hợp thống nhất giữa người quản người lao động sẽ
nền tảng cũng chính động lực cho sự phát triển của mọi tổ chức. Thực chất quản
là tạo ra mối quan hệ tốt đẹp đó…. M. Follet đề cao mối quan hệ con người đề cao sự
hợp tác, thống nhất giữa người lao động và người quản lý
Từ năm 1920 – 1930, Elton Mayo (1880 – 1949) đã thực hiện các nghiên cứu tại nhà máy
Hawthorne bao gồm các thí nghiệm về điều kiện làm việc, giờ làm việc, ánh sáng nhằm
lOMoARcPSD| 61099620
tìm hiểu cách chúng nh hưởng đến năng suất của công nhân. Mayo đã phát hiện rằng
khuyến khích bằng tiền không phải lúc nào cũng nâng cao năng suất lao động. Có một điều
đó quan trọng hơn nhiều so với tiền lương hoặc các điều kiện vật chất của công việc.
Ông đã đi đến một ch tiếp cận mới trong trong nghiên cứu đánh giá hành vi của con
người lao động: con người cần được xem xét trong toàn bộ hoàn cảnhhội của họ trong
môi trường mà họ sống và hoạt động (các yếu tố tâm lý, xã hội).
Muốn thay đổi được điều này, các nhà quản lý và lãnh đạo không chỉ cần phải quan tâm
đến hiệu quả công việc còn cần phải quan tâm đến cả tâm cảm xúc của nhân
viên. Chỉ như vậy hiệu quả làm các công nhân mới mới tăng lên. Giai đoạn hiện đại
(Thế kỷ 21)
Sự ra đời của chũ nghĩa Mác một bước ngoặt to lớn trong lịch sử nhân loại, các nhà kinh
điển của chũ nghĩa hội, trên sở nghiên cứu chũ nghĩa bản, đã đưa ra những
tưởng của mình về quản lý. V.I Lênin đã sớm chỉ thị về việc cần thiết quan tâm vận dụng
những tri thức tâm lý học vào trong lĩnh vực quản lý con người. Nhiều kết quả nghiên cứu
về tâm học quản được trình bày tại hội nghị tổ chức lao động khoa học. Ngay từ những
năm 60 các nghiệp, bên cạnh những chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế người ta đã yêu cầu
phải xác định cả những chỉ tiêu xã hội và chỉ tiêu tâm lý trong kế hoạch hàng năm.
Ở Việt nam bộ môn tâm lý học quản lý cũng được đưa vào giảng dạy tại trường Đảng cao
cấp Nguyễn Ái Quốc, sau đó dần dần đưa vào trường Đảng khu vực. Hiện nay tâm lý học
quản lý đang được nghiên cứu và giảng dạy tại một số trường đại học.
Sau năm 1970 đến nay, ngành Tâm học quản lý trở thành lĩnh vực nghiên cứu chính thức
với các chuyên ngành trong tâm lý học như tổ chức, hành vi trong tổ chức và lãnh đạo. Các
nhà nghiên cứu đã phát triển các công cụ và kỹ thuật để đánh giá, cải thiện động lực, hiệu
suất và sự hài lòng của nhân viên.
Xã hội ngày càng phát triển, các nghiên cứu càng tập trung nhiều hơn vào vai trò của cảm
xúc và hành vi trong môi trường làm việc. Trong đó bao gồm các nghiên cứu về lãnh đạo,
các kỹ năng giao tiếp và làm việc nhóm.
- Năm 1911 xuất hiện hai trường phái nghiên cứu: + Trường phái nghiên cứu từ thực
tiễn: F. Taylor, năm 1911 đưa ra những nguyên lý quản lý khoa học, trong đó khẳng định
các yếu tố vật chất ảnh hưởng đến năng suất lao động: thời tiết, khí hậu, lương, thưởng,
ánh sáng, độ ầm, khói bụi… Elton Mayol (1880 - 1941) và cộng sự đưa ra học thuyết về
mối quan hệ giữa con người với nhau trong quản lý. K.Lewin đề cập đến thuyết động lực
của nhóm, đó là sự gắn bó giữa các thành viên trong nhóm 3 Thuyết “lãnh đạo theo hoàn
cảnh” của E.Fiedler. Peter Drucker đã đưa tư duy quản lí về với thực tại, tổng kết các tư
lOMoARcPSD| 61099620
tưởng quản lí, vạch ra một tổng thể hài hoà các tư tưởng đó, khéo léo bện chặt các tưởng
quản lí trước đó thành một mô hình phù hợp với thời hiện đại. + Trường phái nghiên cứu
từ lý luận: Năm 1911, H.Munsterberg (Đức) biên soạn đề cương môn học “Tâm lý quản
trị”
+ Trường phái nghiên cứu từ luận: Năm 1911, H.Munsterberg (Đức) biên soạn đề
cương môn học “Tâm lý quản trị”, trong đó đề cập đến việc tìm hiểu cả con người và tính
chất công việc để phân công công việc cho phù hợp. m 1912, được đưa vào giảng
dạy ở Đức và sau đó các nước khác. H.Munsterberg vừa giảng dạy, vừa kiểm nghiệm
trong thực tiễn để hoàn thiện chương trình môn học. - Sau năm 1945, xuất hiện hai trường
phái: Phương Đông Phương Tây: + Phương Tây: Douglas Mc.Gregor đưa ra hai học
thuyết: X Y với giả định trái ngược nhau về tính cách của người dưới quyền. Học
thuyết X cho rằng người lao động bản chất lười biếng nên phải thúc dục, kiểm tra,
thậm chí là đe dọa bằng roi vọt. Học thuyết Y cho rằng người lao động có bản chất là tốt
nên có thể trao toàn quyền cho họ. + Phương Đông: W. Ouchi đưa ra học thuyết Z và cho
rằng lười biếng hay chăm chỉ thái độ phụ thuộc vào cách đối xử của người quản
lý.
- Đến cuối năm nhưng năm 50 đầu những năm 60 của kỷ XX, các nhà nghiêm cứu
lại quan tâm nhiều về vấn đề giảm bớt sự cách biệt giữa lao động trí óc lao động chân
tay; xây dựng mối quan hệ đúng đắn giữa lãnh đạo tập thể, lãnh đạo với cấp dưới,
nhân với nhân trong tập thể… từng bước cải thiện sinh hoạt vật chất, văn hóa, tinh thần
cho người lao động. - Những năm cuối thề kXX, đầu thế kỷ XXI xuất hiện nhiều công
trình nghiên cứu về Tâm lý học quản lý với rất nhiều cách tiếp cận khác nhau, trong đó các
cách tiếp cận phổ biến nhất thể kể đến của các nhà nghiên cứu thời kỳ này là: nghiên
cứu về nhân cách người quản lý; nghiên cứu sự khác biệt giữa người quản người
không
phải là quản lý; nghiên cứu sự tương quan giữa các thuộc tính trong nhân cách của người
quản với hiệu quả quản lý… - Đến thập niên 70 của thế kỷ XX, Tâm học quản
Liên phát triển khá mạnh. Người ta đã đề cập khá nhiều trong các tham luận khoa
học về tâm học đến việc lãnh đạo, quản trong hệ thống các trường Đảng đã đưa ra
chương trình giảng dạy bộ môn này một cách nghiêm túc. Các nhà tâm lí học Liên Xô tập
trung tìm hiểu các khía cạnh tâm lý của người lãnh đạo quản lý như: chức năng và cấu trúc
hoạt động quản của người lãnh đạo; những khía cạnh tâm - hội của việc ra quyết
định quản lí; phong cách của người lãnh đạo; những khía cạnh tâm của việc nâng cao
năng lực làm việc của người lãnh đạo quản lý; sự tương tác trên nhân cách; tâm nhóm
nhỏ; tâm của những quan hệ liên nhóm; tâm lí của các nhóm hội lớn… Ngày nay, Tâm
học quản càng được nhiều các nhà nghiên cứu, các nhà quản trên Thế giới quan
tâm. Đã đang rất nhiều cuốn sách lớn nhỏ, sách giáo khoa, bài báo chuyên ngành
lOMoARcPSD| 61099620
được viết, nhiều bài diễn văn, báo o được trình bày trong các hội nghị, hội thảo, lớp
học… Tâm lý học dần dần đi vào cuộc sống thực tiễn của con người một cách tự nhiên
tất yếu.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61099620
Sự hình thành và phát triển của Tâm lý học quản lý được chia ra thành 3 giai đoạn:
Giai đoạn đầu (Thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20):
Đây là thời kỳ cách mạng công nghiệp khi mà các tổ chức, các công ty lớn phát triển dẫn
đến nhu cầu quản lý nhân lực tăng. Lúc này đây các nhà quản lý nhận ra rằng các yếu tố
tâm lý của người lao động như động lực, thái độ và sự hài lòng có tác động rất lớn đối với
năng suất làm việc. Và trong giai đoạn này đây Frederick Winslow Taylor (1856 – 1915)
là một trong những người tiên phong khi áp dụng các nguyên tắc khoa học vào quản lý.
Mặc dù không phải là người học chuyên về lĩnh vực Tâm lý học nhưng ông đã đặt nền
móng cho việc nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả làm việc.
Frederick Winslow Taylor được mệnh danh là người khai sinh ra lý luận quản lý một cách khoa học 
a. Mary Paker Follet (1868- 1933)
Là nhà tâm lý rất quan tâm đến yếu tố tâm lý, xã hội của người lao động. Bà cho rằng
trong quản lý cần phải quan tâm tới người lao động với toàn bộ đời sống của họ, không
chỉ quan tâm đến lới ích kinh tế mà còn phải quan tâm đến cả đời sống tinh thần và tình
cảm của họ. Bởi vì sự hoà hợp thống nhất giữa người quản lý và người lao động sẽ là
nền tảng cũng chính là động lực cho sự phát triển của mọi tổ chức. Thực chất quản lý
là tạo ra mối quan hệ tốt đẹp đó…. M. Follet đề cao mối quan hệ con người đề cao sự
hợp tác, thống nhất giữa người lao động và người quản lý
Từ năm 1920 – 1930, Elton Mayo (1880 – 1949) đã thực hiện các nghiên cứu tại nhà máy
Hawthorne bao gồm các thí nghiệm về điều kiện làm việc, giờ làm việc, ánh sáng nhằm lOMoAR cPSD| 61099620
tìm hiểu cách chúng ảnh hưởng đến năng suất của công nhân. Mayo đã phát hiện rằng
khuyến khích bằng tiền không phải lúc nào cũng nâng cao năng suất lao động. Có một điều
gí đó quan trọng hơn nhiều so với tiền lương hoặc các điều kiện vật chất của công việc.
Ông đã đi đến một cách tiếp cận mới trong trong nghiên cứu đánh giá hành vi của con
người lao động: con người cần được xem xét trong toàn bộ hoàn cảnh xã hội của họ trong
môi trường mà họ sống và hoạt động (các yếu tố tâm lý, xã hội).
Muốn thay đổi được điều này, các nhà quản lý và lãnh đạo không chỉ cần phải quan tâm
đến hiệu quả công việc mà còn cần phải quan tâm đến cả tâm lý và cảm xúc của nhân
viên. Chỉ như vậy hiệu quả làm các công nhân mới mới tăng lên.  Giai đoạn hiện đại (Thế kỷ 21)
Sự ra đời của chũ nghĩa Mác là một bước ngoặt to lớn trong lịch sử nhân loại, các nhà kinh
điển của chũ nghĩa xã hội, trên cơ sở nghiên cứu chũ nghĩa tư bản, đã đưa ra những tư
tưởng của mình về quản lý. V.I Lênin đã sớm chỉ thị về việc cần thiết quan tâm vận dụng
những tri thức tâm lý học vào trong lĩnh vực quản lý con người. Nhiều kết quả nghiên cứu
về tâm lý học quản lý được trình bày tại hội nghị tổ chức lao động khoa học. Ngay từ những
năm 60 ở các xí nghiệp, bên cạnh những chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế người ta đã yêu cầu
phải xác định cả những chỉ tiêu xã hội và chỉ tiêu tâm lý trong kế hoạch hàng năm.
Ở Việt nam bộ môn tâm lý học quản lý cũng được đưa vào giảng dạy tại trường Đảng cao
cấp Nguyễn Ái Quốc, sau đó dần dần đưa vào trường Đảng khu vực. Hiện nay tâm lý học
quản lý đang được nghiên cứu và giảng dạy tại một số trường đại học.
Sau năm 1970 đến nay, ngành Tâm lý học quản lý trở thành lĩnh vực nghiên cứu chính thức
với các chuyên ngành trong tâm lý học như tổ chức, hành vi trong tổ chức và lãnh đạo. Các
nhà nghiên cứu đã phát triển các công cụ và kỹ thuật để đánh giá, cải thiện động lực, hiệu
suất và sự hài lòng của nhân viên.
Xã hội ngày càng phát triển, các nghiên cứu càng tập trung nhiều hơn vào vai trò của cảm
xúc và hành vi trong môi trường làm việc. Trong đó bao gồm các nghiên cứu về lãnh đạo,
các kỹ năng giao tiếp và làm việc nhóm. -
Năm 1911 xuất hiện hai trường phái nghiên cứu: + Trường phái nghiên cứu từ thực
tiễn:  F. Taylor, năm 1911 đưa ra những nguyên lý quản lý khoa học, trong đó khẳng định
các yếu tố vật chất ảnh hưởng đến năng suất lao động: thời tiết, khí hậu, lương, thưởng,
ánh sáng, độ ầm, khói bụi…  Elton Mayol (1880 - 1941) và cộng sự đưa ra học thuyết về
mối quan hệ giữa con người với nhau trong quản lý.  K.Lewin đề cập đến thuyết động lực
của nhóm, đó là sự gắn bó giữa các thành viên trong nhóm 3  Thuyết “lãnh đạo theo hoàn
cảnh” của E.Fiedler.  Peter Drucker đã đưa tư duy quản lí về với thực tại, tổng kết các tư lOMoAR cPSD| 61099620
tưởng quản lí, vạch ra một tổng thể hài hoà các tư tưởng đó, khéo léo bện chặt các tư tưởng
quản lí trước đó thành một mô hình phù hợp với thời hiện đại. + Trường phái nghiên cứu
từ lý luận:  Năm 1911, H.Munsterberg (Đức) biên soạn đề cương môn học “Tâm lý quản trị”
+ Trường phái nghiên cứu từ lý luận:  Năm 1911, H.Munsterberg (Đức) biên soạn đề
cương môn học “Tâm lý quản trị”, trong đó đề cập đến việc tìm hiểu cả con người và tính
chất công việc để phân công công việc cho phù hợp.  Năm 1912, nó được đưa vào giảng
dạy ở Đức và sau đó là các nước khác.  H.Munsterberg vừa giảng dạy, vừa kiểm nghiệm
trong thực tiễn để hoàn thiện chương trình môn học. - Sau năm 1945, xuất hiện hai trường
phái: Phương Đông và Phương Tây: + Phương Tây: Douglas Mc.Gregor đưa ra hai học
thuyết: X và Y với giả định trái ngược nhau về tính cách của người dưới quyền.  Học
thuyết X cho rằng người lao động có bản chất là lười biếng nên phải thúc dục, kiểm tra,
thậm chí là đe dọa bằng roi vọt.  Học thuyết Y cho rằng người lao động có bản chất là tốt
nên có thể trao toàn quyền cho họ. + Phương Đông: W. Ouchi đưa ra học thuyết Z và cho
rằng lười biếng hay chăm chỉ là thái độ và nó phụ thuộc vào cách đối xử của người quản lý. -
Đến cuối năm nhưng năm 50 đầu những năm 60 của kỷ XX, các nhà nghiêm cứu
lại quan tâm nhiều về vấn đề giảm bớt sự cách biệt giữa lao động trí óc và lao động chân
tay; xây dựng mối quan hệ đúng đắn giữa lãnh đạo và tập thể, lãnh đạo với cấp dưới, cá
nhân với cá nhân trong tập thể… từng bước cải thiện sinh hoạt vật chất, văn hóa, tinh thần
cho người lao động. - Những năm cuối thề kỷ XX, đầu thế kỷ XXI xuất hiện nhiều công
trình nghiên cứu về Tâm lý học quản lý với rất nhiều cách tiếp cận khác nhau, trong đó các
cách tiếp cận phổ biến nhất có thể kể đến của các nhà nghiên cứu thời kỳ này là: nghiên
cứu về nhân cách người quản lý; nghiên cứu sự khác biệt giữa người quản lý và người không
phải là quản lý; nghiên cứu sự tương quan giữa các thuộc tính trong nhân cách của người
quản lý với hiệu quả quản lý… - Đến thập niên 70 của thế kỷ XX, Tâm lý học quản lý ở
Liên Xô cũ phát triển khá mạnh. Người ta đã đề cập khá nhiều trong các tham luận khoa
học về tâm lý học đến việc lãnh đạo, quản lý trong hệ thống các trường Đảng đã đưa ra
chương trình giảng dạy bộ môn này một cách nghiêm túc. Các nhà tâm lí học Liên Xô tập
trung tìm hiểu các khía cạnh tâm lý của người lãnh đạo quản lý như: chức năng và cấu trúc
hoạt động quản lí của người lãnh đạo; những khía cạnh tâm lí - xã hội của việc ra quyết
định quản lí; phong cách của người lãnh đạo; những khía cạnh tâm lí của việc nâng cao
năng lực làm việc của người lãnh đạo quản lý; sự tương tác trên nhân cách; tâm lí nhóm
nhỏ; tâm lí của những quan hệ liên nhóm; tâm lí của các nhóm xã hội lớn… Ngày nay, Tâm
lý học quản lý càng được nhiều các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý trên Thế giới quan
tâm. Đã và đang có rất nhiều cuốn sách lớn nhỏ, sách giáo khoa, bài báo chuyên ngành lOMoAR cPSD| 61099620
được viết, nhiều bài diễn văn, báo cáo được trình bày trong các hội nghị, hội thảo, lớp
học… Tâm lý học dần dần đi vào cuộc sống thực tiễn của con người một cách tự nhiên và tất yếu.