-
Thông tin
-
Hỏi đáp
BÀI GIẢNG MÔN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH | Trường Đại học Kinh Tế - Luật
Quá trình hình thành và phát triển thị trường tài chính. Khái niệm và bản chất của thị trường tài chính. Chức năng thị trường tài chính. Phân loại thị trường tài chính. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Lý thuyết tài chính tiền tệ 76 tài liệu
Trường Đại học Kinh Tế - Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh 1.4 K tài liệu
BÀI GIẢNG MÔN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH | Trường Đại học Kinh Tế - Luật
Quá trình hình thành và phát triển thị trường tài chính. Khái niệm và bản chất của thị trường tài chính. Chức năng thị trường tài chính. Phân loại thị trường tài chính. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Lý thuyết tài chính tiền tệ 76 tài liệu
Trường: Trường Đại học Kinh Tế - Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh 1.4 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Trường Đại học Kinh Tế - Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45688262
BÀI GIẢNG MÔN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
1.1. Khái niệm, bản chất, chức năng của thị trường tài chính 1.1.1.
Quá trình hình thành và phát triển thị trường tài chính.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa và sự phân công lao động xã hội sâu sắc, trong
nền kinh tế xuất hiện hai nhóm người đối lập nhau: nhóm những người cần vốn, cần tìm nguồn tài trợ
cho hoạt động sản xuất kinh doanh và chi tiêu của mình và nhóm những người có vốn, cần cung ứng vốn của mình.
Cả hai nhóm này đều nhằm một mục đích nhất định nào đó. Vấn đề quan trọng là làm thế nào để
hai nhóm người này gặp gỡ nhau và thỏa mãn những nhu cầu của nhau. Sự việc sẽ không đơn giản
mà ngược lại rất phức tạp bởi vì hai nhóm người này có khoảng cách không gian và thời gian nên
không dễ gì biết được ai là người có vốn, ai là người cần vốn. Bởi vậy, xã hội nào, nền kinh tế nào mà
tìm được phương thức để người có vốn và người cần vốn gặp nhau hiệu quả, tối ưu thì xã hội đó, nền
kinh tế đó sẽ phát triển.
Có nhiều cách để người có vốn – người tiết kiệm và người cần vốn – người chi tiêu gặp nhau.
Song quy tụ có hai con đường cơ bản.
Tài chính gián tiếp
Con đường thứ nhất, được gọi là tài chính gián tiếp, bởi vì nó liên hệ đến một chủ thể thứ ba:
một trung gian tài chính đứng giữa người cho vay – (người tiết kiệm) và người đi vay – (người chi
tiêu) và giúp chuyển vốn từ người này sang người kia.
Các trung gian tài chính (NHTM và các tổ chức tín dụng) thực hiện điều này bằng cách vay vốn
của người cho vay, người tiết kiệm và sau đó sử dụng nguồn vốn này để cho người cần vốn – người
chi tiêu vay vốn. Ví dụ, một ngân hàng có thể nhận được vốn bằng cách phát hành một tài sản Nợ cho
công chúng ở dạng những món tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu… và sau đó, dùng vốn này để
thực hiện một tài sản Có qua việc cho vay hoặc qua việc mua trái phiếu công ty, kỳ phiếu, trái phiếu
Chính phủ trên thị trường tài chính. Kết quả cuối cùng là vốn đã được chuyển từ công chúng (những
người giúp đỡ của các trung gian tài chính (NHTM và các tổ chức tín dụng)
Ở đây, các trung gian tài chính không coi việc kinh doanh chuyển vốn từ người cho vay – người
tiết kiệm sang người vay – người chi tiêu làm trò vui. Bằng việc họ bán quyền sử dụng vốn với giá
bán (lãi suất cho vay) cao hơn giá mua (lãi suất huy động) và phần chênh lệch này hình thành lợi
nhuận của các NHTM và tổ chức tín dụng. Như vậy, nhờ quá trình tài chính gián tiếp, thông qua các
trung gian tài chính đã giúp làm lợi cho phần lớn những người có món tiết kiệm nhỏ bằng việc đem
lại cho họ thu nhập tiền lãi cao và có thể giúp những người vay các món tiền nhỏ, nay có thể vay
được tiền vốn mà họ khó có thể có được. Những người vay các món tiền lớn cũng được lợi bởi quá
trình trung gian tài chính nghĩa là có thể vay được nhiều vốn hơn trong thị trường tài chính. Không có lOMoAR cPSD| 45688262
trung gian tài chính, thị trường tài chính không thể có được lợi ích trọn vẹn. Đây là một sự tiến bộ
vượt bậc của quá trình luân chuyển vốn, vì nó giảm được chi phí cho cả hai bên có vốn và cần vốn
trong việc tìm gặp nhau, tạo ra cơ sở pháp lý cho lòng tin của người có vốn, quy mô huy động và sử
dụng vốn tăng lên gấp bội. Nhưng chỉ với cách này thì chưa đủ, chưa đáp ứng được nhu cầu to lớn về
vốn cho các doanh nghiệp và ngân sách nhà nước đặc biệt là vốn dài hạn.
Để khắc phục nhược điểm trên và đảm bảo một lượng vốn lớn phù hợp với yêu cầu đầu tư phát
triển kinh tế, người ta đã tìm ra con đường thứ hai để người có vốn gặp người cần vốn, được gọi là tài
chính trực tiếp, có nghĩa là việc chuyển vốn từ người có vốn sang người cần vốn được tiến hành một
cách trực tiếp bằng cách người cần vốn phát hành các loại chứng khoán và bán cho người có vốn. Ở
đây, người mua chứng khoán là chủ sở hữu có quan hệ trực tiếp với người cần vốn, có quyền nhất
định phụ thuộc vào từng loại chứng khoán. Nếu người cần vốn là một Công ty cổ phần phát hành cổ
phiếu để huy động nguồn vốn góp hình thành vốn điều lệ Công ty, thì người mua cổ phiếu sẽ là chủ
một phần vốn của Công ty và có những quyền nhất định với Công ty như tham gia đại hội cổ đông,
quyền được biểu quyết, ứng cử Hội đồng quản trị và tham gia hoạch định chiến lược kinh doanh,
phân phối lợi nhuận…của Công ty, được hưởng cổ tức từ lợi nhuận hàng năm của Công ty cũng như
là tài sản khi Công ty giải thể. Do đó, họ phải quan tâm đến thực trạng hoạt động của công ty. Hoặc
các Công ty, các doanh nghiệp và nhà nước phát hành các loại chứng khoán nợ như tín phiếu, trái
phiếu…là hình thức vay nợ trực tiếp những người mua những chứng khoán nợ đó. Với cách này
người phát hành chứng khoán (người vay) phải cam kết trả lãi và vốn đúng theo quy định của hợp
đồng phát hành. Còn người có vốn có thể trực tiếp lựa chọn người mình muốn cho vay bằng cách
mua chứng khoán của người phát hành chứng khoán nợ phù hợp với yêu cầu và điều kiện của mình.
Người mua chứng khoán phải trực tiếp chịu rủi ro nếu mua phải chứng khoán của tổ chức làm ăn thua
lỗ hoặc phá sản. Đặc điểm chung của hai loại giấy chứng nhận góp vốn và chứng nhận nợ là có thể
chuyển nhượng, cho thừa kế, làm quà biếu và là hàng hóa mua bán trên một loại thị trường đặc biệt
gọi là thị trường tài chính.
Như vậy, sự ra đời và phát triển của các loại chứng khoán vốn và chứng nhận nợ - gọi chung là
chứng khoán, cũng như quá trình thương mại hóa các loại chứng khoán vừa thỏa mãn được yêu cầu
của người cần vốn và người có vốn, vừa là cơ sở để hình thành nên thị trường tài chính vì chúng
chính là hàng hóa được mua bán, giao dịch trên thị trường này. Hoạt động của thị trường tài chính
mang lại lợi ích cho cả hai chủ thể có vốn và cần vốn. Vì vậy có thể nói rằng thị trường tài chính là
nơi tạo ra môi trường thuận lợi để dung hòa lợi ích kinh tế khác nhau trên thị trường, là công cụ tài
trợ vốn cho sự phát triển kinh tế và là động lực để thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
1.1.2. Khái niệm và bản chất của thị trường tài chính
Như phân tích ở phần trên ta thấy, sự phát triển cao của nền kinh tế hàng hóa, với sự phân công
lao động xã hội sâu sắc đòi hỏi các chủ thể kinh tế phải năng động trong quá trình tìm kiếm và huy
động các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội. Trong khi đó, một bộ phận vốn nhàn rỗi lại có nhu cầu tái
đầu tư với lợi nhuận cao và an toàn. Cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa là quá trình đa lOMoAR cPSD| 45688262
dạng hóa hình thức luân chuyển vốn từ người có vốn sang người cần vốn, làm cho các công cụ tài
chính – đối tượng giao dịch trên thị trường tài chính ngày càng đa dạng và có khả năng dễ dàng
chuyển đổi quyền sở hữu. Đây là tiền đề quan trọng để hình thành thị trường tài chính.
Thị trường tài chính là thị trường trong đó nguồn tài chính được kết chuyển từ người có vốn dư
thừa sang người thiếu vốn. Thông qua việc trao đổi, mua bán tài sản tài chính, thị trường tài chính là
tổng hòa các mối quan hệ cung cầu về vốn.
Nếu hiểu một cách đơn giản, thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động mua bán các loại
giấy tờ có giá hay những người cung cấp tiền tệ đáp ứng nhu cầu của những người khác về tiền tệ để
sử dụng chúng, nó là chiếc cầu nối giữa cung và cầu vốn trong nền kinh tế, nơi gặp gỡ của các nguồn
vốn nhàn rỗi trong xã hội. Qua đó, hình thành nên giá mua và bán các loại cổ phiếu, trái phiếu, kỳ
phiếu, tín phiếu, giấy nợ ngắn hạn, dài hạn…hình thành nên giá cả của các loại vốn đầu tư bao gồm
lãi suất đi vay, lãi suất cho vay, lãi suất ngắn hạn, trung hạn, dài hạn…
Thị trường tài chính là môi trường trong đó hệ thống tài chính vận động. Do đó, đề cập đến thị
trường tài chính không chỉ đề cập đến phương thức giao dịch, công cụ tài chính được trao đổi mà còn
đề cập tới các chủ thể hoạt động và giám sát tại đó. Việc chuyển đổi quyền sở hữu và sử dụng các
nguồn tài chính trên thị trường tài chính thông qua các phương thức giao dịch và các công cụ tài chính nhất định.
Chức năng cơ bản nhất của thị trường tài chính là dẫn vốn từ người dư thừa vốn tới người cần
vốn. Thị trường tài chính tạo điều kiện thuận lợi nhất để cung cầu về vốn gặp nhau, từ đó tạo điều
kiện cho các nguồn tài chính dịch chuyển từ những người có vốn sang những người có khả năng sinh
lời trên những đồng vốn đó. Thị trường tài chính tạo điều kiện huy động các nguồn lực tài chính
trong nước và nước ngoài để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Như vậy, mức độ phát triển của thị
trường tài chính phản ảnh mức độ phát triển của nền kinh tế hàng hóa, đồng thời nó cũng góp phần
làm tăng năng suất và hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế.
Thị trường tài chính còn thể hiện chức năng giám sát thông qua sự vận động các nguồn tài
chính. Những chủ thể giao dịch trên thị trường tài chính muốn đạt được mục tiêu của mình thì phải
thực hiện quá trình kiểm tra, giám sát các nguồn tài chính thông qua nhiều kênh khác nhau. Hơn nữa,
các nguồn vốn trước khi đi vào lưu thông phải đạt được những tiêu chuẩn nhất định thông qua kiểm
tra, đánh giá của các cơ quan quản lý.
Thị trường tài chính không phải là nơi sinh ra giá trị, làm tăng giá trị mà nó chỉ thực hiện việc
san sẻ, phân phối lợi nhuận và rủi ro giữa các chủ thể giao dịch.
1.1.3. Chức năng thị trường tài chính
Sự tạo lập và phát triển thị trường tài chính đóng một vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp phát
triển kinh tế của các nước có nền kinh tế thị trường. Những đóng góp của thị trường tài chính đối với
nền kinh tế được thể hiện cụ thể trong những chức năng sau:
Chức năng huy động vốn của thị trường tài chính lOMoAR cPSD| 45688262
Với sự xuất hiện của thị trường tài chính chúng ta dễ dàng nhận thấy vai trò của nó trong việc
huy động vốn cho đầu tư. Qua thị trường sơ cấp cho phép “lấy” vốn và trực tiếp chuyển đổi khoản tiết
kiệm của các hộ gia đình thành các nguồn vốn dài hạn cho các xí nghiệp quốc doanh, các công ty, các
chính phủ…qua hai con đường:
Con đường thứ nhất (tài chính trực tiếp) những người đi vay vốn trực tiếp từ người cho vay
trong các thị trường tài chính bằng cách trao đổi với họ “chứng khoán” (công cụ của thị trường tài
chính), những chứng khoán này hoặc là những cổ phiếu (quyền sở hữu) đối với thu nhập hoặc tài sản
trong tương lai của người phát hành hoặc trái phiếu đối với các khoản nợ của người vay. Như vậy,
chứng khoán là tài sản Có đối với người mua chúng và là tài sản Nợ đối với người phát hành chúng.
Do đó, ta thấy rằng nếu không có thị trường tài chính thì sẽ rất khó chuyển vốn từ người không có cơ
hội đầu tư sang người có cơ hội đầu tư. Sự tồn tại của thị trường tài chính cũng có lợi ngay cả khi
người đi vay không có mục đích kinh doanh.
Thực hiện chức năng chuyển vốn từ những người không có cơ hội đầu tư sang người có cơ hội
đầu tư, thị trường tài chính giúp nâng cao năng suất và hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế.
Con đường thứ hai (tài chính gián tiếp) thông qua các trung gian tài chính (người thứ ba). Một
trung gian tài chính đứng giữa người cho vay và người vay. Những trung gian tài chính thực hiện việc
kinh doanh chuyển vốn từ người dư thừa sang người cần vốn bằng việc đặt một lãi suất cao hơn cho
các món vay so với lãi suất của các món mà họ đi vay để thu lợi nhuận. Nhưng điều quan trọng hơn
cả ở đây là hoạt động của các trung gian tài chính làm cho lãi suất phản ánh đúng quan hệ cung cầu
thị trường. Như vậy, nhờ hoạt động tài chính gián tiếp (được gọi là sự trung gian tài chính) thị trường
tài chính được vận hành.
Chức năng tiết kiệm
Thị trường tài chính cung cấp điểm sinh lợi cho tiết kiệm. Mục đích của tiết kiệm ngày hôm nay
là để có thể mua sắm được nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn vào ngày tương lai. Tuy nhiên sẽ có rất ít
động cơ khuyến khích tiết kiệm nếu vắng bóng một thị trường tài chính. Thông qua thị trường tài
chính, người tiết kiệm có thể kiếm được thu nhập dưới hình thức tiền lãi, cổ tức, tiền lời của vốn…
Khi những người chi tiêu cần thêm vốn của những người tiết kiệm, thị trường tài chính gửi tín hiệu
đến người tiết kiệm dưới hình thức tiết kiệm có lãi suất cao hơn nhằm động viên các đơn vị, cá nhân
thặng dư tiết kiệm nhiều hơn và tiêu dùng bớt đi. Ngược lại, khi người chi tiêu cần ít quỹ hơn thì lãi
suất có chiều hướng giảm bớt và sự luân lưu tiết kiệm cũng yếu đi.
Như vậy, thị trường tài chính cung cấp một cơ chế động viên tiết kiệm và tạo ra một luồng quỹ chảy vào đầu tư.
Chức năng thanh khoản:
Chức năng thanh khoản của thị trường tài chính được thực hiện nhờ vai trò của thị trường thứ
cấp. Ở đây, diễn ra việc mua đi, bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp. Nhờ
có sự mua đi bán lại mà luôn có sự chuyển sở hữu vốn kinh doanh từ người này sang người khác. Vậy
là thị trường tài chính cho phép huy động các khoản đầu tư dưới dạng các cổ phiếu và trái phiếu, lOMoAR cPSD| 45688262
nhưng đồng thời cũng dành cho người đầu tư khả năng “rút chân” ra khỏi thị trường, nghĩa là rút tiền
đầu tư khi cần, hoặc chuyển từ dạng đầu tư này sang dạng đầu tư khác một cách dễ dàng, thuận tiện
trong khi người phát hành (người huy động vốn) vẫn đảm bảo một lượng vốn ổn định để tiến hành sản xuất, kinh doanh.
1.2. Phân loại thị trường tài chính
Thị trường tài chính rất phong phú và đa dạng. Mỗi loại thị trường tài chính được hình thành có
những mục đích, chức năng nhất định tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, vào các công cụ và
phương thức giao dịch, vào đối tượng tham gia trên thị trường, tùy theo cách thức vận dụng của mỗi
nước trong việc tổ chức một mô hình thích hợp với bối cảnh nền kinh tế.
Dựa vào các tiêu thức khác nhau ta có thể phân loại thị trường tài chính như sau:
1.2.1. Căn cứ vào tính chất vận động vốn:
Thị trường công cụ nợ:
Thị trường công cụ nợ là thị trường trong đó người cần vốn huy động vốn dựa trên việc phát
hành các công cụ nợ (trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu…) Thực chất các công cụ nợ là thỏa thuận có tính
hợp đồng trong đó người vay vốn thanh toán cho người giữ công cụ một khoản tiền cố định trong
những khoảng thời gian nhất định (thanh toán lãi) cho tới thời điểm mãn hạn là lúc thực hiện đợt
thanh toán cuối cùng giá trị gốc. Người phát hành các công cụ nợ là người đi vay, còn người giữ công
cụ là người cho vay – chủ nợ của người phát hành.
Trên cơ sở kỳ hạn thanh toán, công cụ nợ được chia làm ba loại khác nhau: Công cụ nợ ngắn hạn Công cụ nợ trung hạn Công cụ nợ dài hạn
Tùy mỗi nước mà việc quy định thời hạn cho từng loại công cụ có thể khác nhau. Đặc điểm của
công cụ nợ là dựa trên quan hệ vay mượn, có thời hạn, lãi suất được ấn định trước và cố định, người
sở hữu công cụ nợ không có tiếng nói trong việc quản lý Công ty.
Thị trường công cụ vốn:
Là thị trường trong đó người cần vốn huy động vốn bằng cách phát hành các cổ phiếu bán cho
những người có vốn. Người nắm giữ cổ phiếu gọi là các cổ đông, họ góp vốn vào công ty để tiến
hành sản xuất kinh doanh với tinh thần lời ăn, lỗ chịu. Họ có quyền được chia phần trên lãi ròng và
tài sản của các công ty phát hành cổ phiếu. Như vậy, khác với công cụ nợ, cổ phiếu không có số lãi cố
định mà cổ tức phụ thuộc vào hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các công ty phát hành. Các cổ phiếu
này được coi là những chứng khoán dài hạn vì chúng không quy định thời gian mãn hạn. Người nắm
giữ cổ phiếu là chủ sở hữu công ty phát hành.
Sự khác biệt giữa hai thị trường trên thể hiện bản chất ở bản chất công cụ tài chính giao dịch
trên đó. Các công cụ nợ thường có một mức lãi suất cố định và thời hạn thanh toán được ấn định từ
trước, do đó, việc mua các công cụ nợ an toàn hơn và ít rủi ro hơn so với các cổ phiếu. Hơn nữa, công lOMoAR cPSD| 45688262
ty phải trả cho các chủ nợ trước khi chia lãi cổ phần và khi công ty phá sản thì tài sản thanh lý được
chia cho các chủ nợ trước khi trả cho các cổ đông.
Thị trường công cụ phái sinh:
Thị trường công cụ phái sinh là thị trường phát hành và mua đi bán lại các chứng khoán phái
sinh. Đây là thị trường cao cấp, giao dịch những công cụ tài chính cao cấp như: chứng quyền, quyền
lựa chọn, hợp đồng tương lai…
1.2.2. Căn cứ vào cơ cấu thị trường:
Thị trường sơ cấp:
Thị trường sơ cấp là một thị trường tài chính giao dịch mua bán những chứng khoán mới phát
hành. Chính vì vậy, người ta còn gọi thị trường sơ cấp là thị trường của các chứng khoán mới phát
hành. Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà
đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành.
Thị trường sơ cấp có vai trò:
Chứng khoán hóa nguồn vốn cần huy động, vốn của Công ty được huy động thông qua việc phát hành chứng khoán.
Thực hiện quá trình chu chuyển tài chính trực tiếp, đưa các khoản tiền nhàn rỗi tạm thời trong
dân chúng vào đầu tư, chuyển tiền sang dạng vốn dài hạn.
Đặc điểm của thị trường sơ cấp:
Thị trường sơ cấp là thị trường không liên tục và là nơi duy nhất mà các chứng khoán đem lại
vốn cho người phát hành.
Những người bán trên thị trường sơ cấp được xác định thường là: Kho bạc Nhà nước, Ngân
hàng Nhà nước, các công ty phát hành, tập đoàn bảo lãnh phát hành.
Giá cả ban đầu của chứng khoán bị thiết định nhiều hơn là do thị trường xác định, thường là do
tổ chức phát hành quyết định và thường được in ngay trên chứng khoán (mệnh giá) Thị trường thứ cấp:
Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp:
Vai trò của thị trường thứ cấp:
Cung cấp thị trường, tạo ra những điều kiện dễ dàng để bán những công cụ tài chính, tức là nó
làm cho những công cụ này có tính “lỏng” thêm (tính thanh khoản). Tính “lỏng” thêm của những
công cụ này khiến chúng được ưa chuộng hơn và như thế làm dễ dàng thêm cho công ty phát hành
bán chúng ở thị trường sơ cấp.
Thị trường thứ cấp xác định giá của mỗi chứng khoán mà công ty phát hành bán ở thị trường sơ
cấp. Giá chứng khoán ở thị trường thứ cấp càng cao thì giá một Công ty phát hành sẽ nhận được cho
các chứng khoán của mình ở thị trường sơ cấp sẽ càng cao và như vậy công ty phát hành nhận được
tổng vốn đầu tư cao hơn.
Đặc điểm của thị trường thứ cấp: lOMoAR cPSD| 45688262
Trên thị trường thứ cấp, các khoản tiền thu được từ việc bán chứng khoán thuộc về các nhà đầu
tư và các nhà kinh doanh chứng khoán chứ không thuộc về nhà phát hành. Nói cách khác, các luồng
vốn không không chảy vào những người phát hành chứng khoán mà luân chuyển giữa những người
đầu tư chứng khoán trên thị trường. Thị trường thứ cấp mà một bộ phận quan trọng của thị trường
chứng khoán, gắn bó chặt chẽ với thị trường sơ cấp.
Giao dịch trên thị trường thứ cấp phản ánh nguyên tắc cạnh tranh tự do, giá chứng khoán trên
thị trường thứ cấp do cung và cầu quyết định.
Thị trường thứ cấp là thị trường hoạt động liên tục, các nhà đầu tư có thể mua và bán các chứng
khoán nhiều lần trên thị trường này.
Như vậy, sự khác nhau cơ bản giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp thể hiện ở chỗ: hoạt
động của thị trường sơ cấp làm tăng thêm vốn cho toàn bộ nền kinh tế còn hoạt động của thị trường
thứ cấp chỉ thực hiện việc chuyển đổi quyền sở hữu chứng khoán đã phát hành mà không làm tăng
thêm vốn cho nền kinh tế.
Hai thị trường này có mối quan hệ mật thiết với nhau được ví như hai bánh xe của một chiếc xe,
trong đó thị trường sơ cấp là cơ sở, là tiền đề, thị trường thứ cấp là động lực. Nếu không có thị trường
sơ cấp thì sẽ không có chứng khoán để lưu thông trên thị trường thứ cấp, và ngược lại, nếu không có
thị trường thứ cấp thì việc hoán chuyển các chứng khoán thành tiền sẽ là khó khăn, khiến cho người
đầu tư sẽ dè dặt khi mua chứng khoán, làm thu hẹp thị trường sơ cấp, hạn chế huy động vốn của các
chủ thể cần vốn trong nền kinh tế.
Việc phân biệt thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp chỉ có ý nghĩa về mặt lý thuyết. Trong
thực tế tổ chức thị trường, không có sự phân biệt đâu là thị trường sơ cấp, đâu là thị trường thứ cấp.
Nghĩa là, trong một thị trường vừa có giao dịch của thị trường sơ cấp, vừa có giao dịch của thị trường
thứ cấp, vừa có việc mua bán các loại chứng khoán mới phát hành, vừa có việc mua bán chứng khoán
theo tính chất mua đi bán lại.
Tuy nhiên, điểm cần chú ý là phải coi trọng thị trường sơ cấp, vì đây là thị trường phát hành, là
hoạt động tạo vốn cho đơn vị phát hành, đồng thời phải giám sát chặt chẽ thị trường thứ cấp, không
để tình trạng đầu cơ lũng đoạn thị trường để bảo vệ thị trường tài chính trở thành công cụ hữu dụng của nền kinh tế.
1.3. Vai trò của thị trường tài chính
Thị trường tài chính góp phần nâng cao năng suất và hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế:
Bất kỳ nền kinh tế nào, trong quá trình phát triển bao giờ cũng phải đối đầu với sự khan hiếm của các
nguồn lực. Sản xuất lớn, không những đòi hỏi sự tập trung kỹ năng, tay nghề, nhân lực, vật liệu mà
còn đặt ra sự cần thiết và cấp bách về nhu cầu sử dụng các nguồn tài nguyên ấy một cách tiết kiệm và
hiệu quả nhất. Lãng phí trở thành kẻ thù của hiệu quả, của năng suất cao ở tất cả mọi phạm vi từ vĩ
mô đến vi mô. TTTC là sản phẩm tất yếu của sự đòi hỏi tập trung tài nguyên cho sản xuất lớn và lOMoAR cPSD| 45688262
chống lãng phí dưới mọi hình thức. Với chức năng dồn vốn và chức năng tiết kiệm, TTTC đã tạo điều
kiện huy động các nguồn lực trong xã hội để phục vụ cho sự sáng tạo ra của cải nhiều dạng cho đời
sống con người, kéo các cá nhân trở thành những nhà đầu tư tận dụng mọi nguồn lực nhỏ nhất, thúc
đẩy hoạt động sáng tạo sản phẩm và dịch vụ.
Đối với ngân sách Nhà nước, việc bù đắp khoản bội chi hoặc có vốn để xây dựng các công trình công
cộng bằng cách vay nợ trên TTTC thay vì phát hành thêm giấy bạc ngân hàng vào lưu thông là biện
pháp hết sức quan trọng, bởi vì làm như vậy thì vừa có thể kiềm chế lạm phát vừa có thể tăng trưởng
được nền kinh tế. Tất nhiên là mức Nhà nước vay nợ dân cũng có giới hạn bởi vì đây là khoản vay
nợ, Nhà nước có trách nhiệm trả cả vốn và lãi cho những ai mua chứng khoán Nhà nước mà nguồn
trả nợ lại là các khoản thu của Ngân sách, chủ yếu là thuế.
Như vậy, thị trường tài chính đã góp phần nâng cao năng suất và hiệu quả của nền kinh tế, cải thiện
mức sống của người tiêu dùng bằng cách tiêu thụ vốn thừa (tiền để dành) và giúp những người tiết
kiệm chọn thời điểm tốt cho việc mua sắm của họ. Thông qua thị trường tài chính giúp các nhà kinh
doanh có thể tập trung và sử dụng các nguồn tài nguyên vào quá trình sản xuất lớn hơn một cách tiết
kiệm và có hiệu quả nhất, tạo ra việc làm cho nhiều người lao động.
Tóm lại, một thị trường tài chính hoạt động có hiệu quả sẽ tận dụng được ở mức cao nhất mọi nguồn
vốn tiềm tang trong nước và từ nước ngoài để phát triển kinh tế và cải thiện đời sống của nhân dân.
TTTC tạo môi trường thuận lợi để dung hòa các lợi ích kinh tế của các chủ thể kinh tế khác trên thị trường.
Thông qua những cuộc đấu giá tập trung giữa các nguồn cung và nguồn cầu, cơ chế thị trường sẽ hình
thành giá cả tốt nhất, có lợi cho cả người bán và người mua, đảm bảo sự công bằng trên thị trường.
Những thuận lợi có được chỉ cho riêng cá nhân trên sự thiệt hại của kẻ khác là không thể chấp nhận
và không bao giờ tồn tại lâu dài trên thị trường. Các cá nhân hay cộng đồng chỉ có thể tìm thấy sự
phát triển tốt nhất cho chính mình trong sự hỗ trợ để các cá nhân hoặc cộng đồng khác cùng phát
triển. Nếu thiếu TTTC hoặc TTTC kém phát triển, điều kiện để cung cầu gặp gỡ, cọ xát sẽ bị hạn chế,
do đó không thể có mức giá phản ánh đầy đủ chính xác sức mua, sức bán. Chính vì thế, người ta xem
thị trường tài chính là nơi tạo môi trường thuận lợi để dung hòa các lợi ích kinh tế của các chủ thể
kinh tế khác nhau trên thị trường.
TTTC là công cụ giúp định giá trị doanh nghiệp:
Hệ quả của việc định giá, mua bán chứng khoán trên thị trường tài chính là sự đánh giá lại các tài sản
tài chính của từng tác nhân kinh tế tham gia vào thị trường. Như vậy, thị trường tài chính ngoài việc
thường xuyên cung cấp các chỉ số tài chính về trạng thái “sức khỏe” của nền kinh tế, nó còn cho phép
xác định một cách khách quan giá trị của từng doanh nghiệp tham gia thị trường.
Nhờ chức năng này, người đầu tư có được phương hướng đầu tư vốn rõ ràng hơn, các nhà quản lý có
được quyết sách cụ thể hơn để phát triển doanh nghiệp của mình trong tương lai. Còn đối với các
Chính phủ, đặc biệt các Chính phủ ở các nền kinh tế chuyển đổi sẽ có được căn cứ thực tiễn để tiến
hành tư nhân hóa, cổ phần hóa hay thanh lý doanh nghiệp thuộc sở hữu của mình. lOMoAR cPSD| 45688262
TTTC khuyến khích cạnh tranh và tăng hiệu quả kinh doanh.
Kết quả biến động chỉ số chứng khoán trên thị trường tác động trực tiếp đến uy tín của doanh nghiệp
đã phát hành ra chứng khoán đó.
Một cổ phiếu lên giá liên tục không những làm tăng giá trị tài sản của công ty là còn làm tăng uy tín
của nó trên thị trường. Ngược lại, một cổ phiếu xuống giá liên tục không những làm giảm giá trị tài
sản mà còn làm giảm uy tín của các doanh nghiệp trên thương trường. Nếu so sánh giá cổ phiếu và
trái phiếu của công ty này so với công ty khác cùng lĩnh vực đầu tư, có thể giá cổ phiếu và trái phiếu
của công ty này cao hơn công ty khác. Điều đó sẽ thúc đẩy các công ty có giá cổ phiếu và trái phiếu
hạ hoặc thấp hơn phải tự xem xét lại hoạt động của công ty mình để xem hiệu quả sản xuất nhằm
cạnh tranh với các đối thủ trên thương trường.
Ngoài những vai trò trên, các thị trường tài chính còn có những vai trò sau:
Phản ánh và thúc đẩy trình độ xã hội hóa sản xuất.
Quyết định cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư vốn.
Tạo lập cơ chế bơm tiền – hút tiền hợp lý nhanh nhạy, góp phần tăng trưởng kinh tế.
Bà đỡ cho sự ra đời những xí nghiệp mới đầy sức sống.
Là sợi dây chuyền chuyển giao thực hiện về mặt kinh tế giữa người sở hữu và người sử dụng.
Là công cụ để hòa nhập vào nền kinh tế thế giới
Chương 2: CÁC CÔNG CỤ GIAO DỊCH THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
2.1. Công cụ tài chính giao dịch trên thị trường vốn
Như đã trình bày ở chương 1, thị trường tài chính là thị trường thực hiện giao dịch mua, bán các
loại tài sản tài chính (financial assets). Các loại tài sản này thường được xem như là các công cụ hay
hàng hóa giao dịch trên thị trường tài chính (financial instruments). Người ta có thể dựa vào thời hạn
để phân loại các loại tài sản tài chính này và dựa vào từng loại tài sản tài chính này để phân loại thị
trường tài chính một cách tương ứng.
Một cách tổng quát, có thể phân các công cụ giao dịch trên thị trường tài chính thành 3 loại:
Các công cụ giao dịch trên thị trường vốn hay thị trường chứng
khoán. Các công cụ giao dịch trên thị trường tiền tệ Các công cụ tài chính phái sinh.
Trong chương này sẽ lần lượt xem xét chi tiết hơn về từng loại công cụ tài chính được giao dịch
trên từng loại thị trường cụ thể. Đầu tiên là các công cụ giao dịch trên thị trường vốn hay thị trường chứng khoán. 2.1.1. Khái niệm:
Các công cụ tài chính giao dịch trên thị trường vốn hay thị trường chứng khoán thường được
gọi là chứng khoán (securities). Chứng khoán được xem như là hàng hóa của thị trường vốn. Chứng
khoán là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu chứng lOMoAR cPSD| 45688262
khoán đối với tài sản hoặc vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán nói chung có thể bao gồm trái
phiếu, cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư và chứng khoán phái sinh.
Các công dụng của Chứng khoán:
- Chứng khoán là phương tiện huy động, tập trung nguồn tài chính đối với chủ thể cần nguồn tài chính.
- Chứng khoán là phương tiện đầu tư sinh lời đối với chủ thể có nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi
- Các chứng khoán được sử dụng làm vật thế chấp, trả nợ tiền vay ngân hàng hoặc có thể mua
bán trên thị trường tài chính, điều này làm tăng tính lỏng cho chứng khoán. 2.1.2. Phân loại
- Căn cứ vào nội dung có thể chia ra thành chứng khoán nợ và chứng khoán vốn:
+ Chứng khoán nợ: Là chứng nhận Nợ do Nhà nước hoặc các doanh nghiệp phát hành khi
cần huy động vốn cho mục đích tài trợ dài hạn. Điển hình của chứng khoán Nợ là các loại trái phiếu.
+ Chứng khoán vốn: Là chứng nhận sự góp vốn kinh doanh vào các công ty cổ phần. Đó là
các loại cổ phiếu bao gồm cổ phiếu thường hay còn gọi là cổ phiếu phổ thông và cổ phiếu ưu đãi.
- Căn cứ vào hình thức có thể chia chứng khoán thành chứng khoán vô danh và chứng khoán ký danh.
+ Chứng khoán vô danh: Là loại chứng khoán nợ hoặc chứng khoán vốn mà trên đó không ghi
tên người sở hữu.
+ Chứng khoán ký danh: Là loại chứng khoán có ghi tên người sở hữu, được ghi trực tiếp trên
tờ sở hữu. Việc chuyển quyền sở hữu chứng khoán này có phần khó khăn hơn, ngay cả khi được sự
đồng ý của cơ quan phát hành ra nó.
- Căn cứ vào lợi tức chứng khoán có thể chia chứng khoán thành chứng khoán có lợi tức cố
định và chứng khoán có lợi tức không cố định.
+ Chứng khoán có lợi tức cố định: Là loại chứng khoán cho phép người cầm giữ loại chứng
khoán này được hưởng lợi tức cố định theo tỷ lệ lãi suất tính trên mệnh giá chứng khoán. Điển hình
cho loại chứng khoán này là các loại trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi
+ Chứng khoán có lợi tức không cố định: Là loại chứng khoán mà nhà đầu tư được quyền
hưởng lợi tức thay đổi tùy theo tình hình kết quả kinh doanh của công ty phát hành, lợi tức có thể cao
hơn nhiều so với mức lãi suất cố định. Các loại chứng khoán này thường mang tính rủi ro cao và
không ổn định. Điển hình cho các loại chứng khoán này là cổ phiếu thường của các công ty cổ phần.
Ví dụ: Cổ phiếu của ngân hàng Eximbank là EIB, Sacombank là STB, Vietinbank là CTB,
Vietcombank là VCB… 2.1.3. Chứng khoán nợ - Khái niệm: lOMoAR cPSD| 45688262
Chứng khoán nợ hay trái phiếu là giấy chứng nhận nợ dài hạn do Chính phủ hay doanh nghiệp
phát hành cam kết với người cho vay (người mua trái phiếu) rằng sẽ chi trả lợi tức định kỳ và hoàn lại
vốn gốc cho người cầm giữ trái phiếu ở thời điểm đáo hạn.
Trên giấy chứng nhận nợ này có ghi mệnh giá, lãi suất được hưởng và thời hạn đáo hạn của
chứng khoán nợ (trái phiếu).
- Những yếu tố đặc trưng của trái phiếu
+ Mệnh giá (Par value): Là giá trị danh nghĩa của trái phiếu được in ngay trên tờ phiếu, đại
diện cho số vốn gốc được hoàn trả cho trái chủ tại thời điểm đáo hạn.
Ở Việt Nam mệnh giá của trái phiếu được ấn định là 100.000đ và các mệnh giá khác là bội số
của 100.000đ. Mệnh giá của trái phiếu được xác định phụ thuộc vào số tiền huy động trong kỳ và số trái phiếu phát hành.
Ví dụ: Công ty A muốn huy động 10 tỷ đồng, bằng cách phát hành 10.000 trái phiếu, vì vậy mỗi
trái phiếu có mệnh giá là bằng 10.000.000.000đ/10.000 = 1.000.000đ
+ Lãi suất trái phiếu: Là lãi suất danh nghĩa (Coupon interest rates) của trái phiếu quy định
mức lãi mà nhà đầu tư được hưởng hằng năm.
Thông thường có hai phương thức trả lãi: trả lãi hàng năm và trả lãi 6 tháng một lần. Mỗi trái
phiếu có ghi lãi suất của tổ chức phát hành cam kết sẽ thanh toán cho chủ sở hữu trái phiếu một số
tiền lãi vào một ngày xác định và có thể theo định kỳ.
Trái phiếu phát hành với một tỷ lệ lãi suất danh nghĩa được xác định bởi các điều kiện thị
trường tại thời điểm chào bán trái phiếu. Lãi suất thường được công bố theo tỷ lệ phần trăm so với
mệnh giá của trái phiếu. Số tiền lãi mà nhà đầu tư nhận được hàng năm bằng lãi suất trái phiếu nhân
với mệnh giá trái phiếu.
Ví dụ: Công ty A nói trên công bố mức lãi suất trái phiếu trả hàng năm là 9%. Như vậy hàng
năm trái chủ nhận được số tiền lãi là: 1.000.000đ ˣ 9% = 90.000đ
+ Giá mua trái phiếu: Là khoản tiền thực tế mà người mua bỏ ra để có được quyền sở hữu trái
phiếu. Giá mua có thể bằng mệnh giá (Par value), có thể cao hơn mệnh giá (Premium)hoặc thấp hơn
mệnh giá (Discount). Tuy nhiên, dù giá mua là loại giá nào thì tiền lãi luôn được xác định theo mệnh
giá trái phiếu. Và đến ngày đáo hạn, người nắm giữ trái phiếu sẽ được trả lại vốn gốc bằng với mệnh giá trái phiếu.
+ Thời hạn của trái phiếu: Là số năm mà theo đó người phát hành hứa hẹn đáp ứng những
điều kiện của nghĩa vụ. Thời hạn của một trái phiếu là ngày chấm dứt sự tồn tại của khoản nợ người
phát hành sẽ thu hồi trái phiếu bằng cách hoàn trả khoản vốn gốc.
Theo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, trái phiếu có thời hạn từ 1 đến 5 năm gọi là trái phiếu
ngắn hạn; từ 5 đến 10 năm được gọi là trái phiếu trung hạn và trên 10 năm là trái phiếu dài hạn. lOMoAR cPSD| 45688262
Thời hạn này cũng còn được gọi là thời gian đáo hạn của trái phiếu. Ngày đáo hạn là ngày mà tổ
chức phát hành thanh toán số vốn gốc và lãi cho chủ sở hữu trái phiếu.
Kỳ hạn trái phiếu có ý nghĩa quan trọng vì lợi tức trái phiếu phụ thuộc vào thời hạn của nó.
Ngoài ra kỳ hạn trái phiếu càng dài, tính biến động giá trái phiếu càng lớn trước sự biến động của lãi
suất thị trường. Như vậy, tính biến động của giá trái phiếu phụ thuộc vào kỳ hạn của trái phiếu
+ Quyền mua lại: Là quyền mà tổ chức phát hành có thể thu hồi trái phiếu và hoàn lại vốn gốc
với mức giá dự kiến trước thời hạn thanh toán. Tổ chức phát hành sử dụng quyền này để bảo vệ họ
không phải trả lãi suất cao hơn đối với số tiền mà họ vay.
Ví dụ: Tại thời điểm phát hành, công ty A phát hành 1.000 trái phiếu với mệnh giá 1.000.000đ
với thời hạn 5 năm, lãi suất 12,5%/năm. Sau 3 năm, lãi suất trên thị trường giảm xuống còn 8%/năm.
Như vậy trong trường hợp này, công ty A sẽ sử dụng quyền mua lại để thu hồi 1.000 trái phiếu
đã phát hành và phát hành trái phiếu mới với tỷ lệ lãi suất thấp hơn.
Điều kiện phát hành trái phiếu ở Việt Nam:
Doanh nghiệp là chủ thể phát hành muốn phát hành trái phiếu huy động vốn dài hạn phải hội đủ
những điều kiện sau đây:
Là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp Nhà nước có mức vốn điều lệ
đã góp tại thời điểm đăng ký phát hành tối thiểu là 10 tỷ đồng Việt Nam.
Hoạt động kinh doanh của năm liền kề trước năm đăng ký phát hành phải có lãi, đồng thời
không có lỗ lũy kế đến năm đăng ký chào bán, không có các khoản nợ phải trả quá hạn đến 1 năm.
Có phương án phát hành, phương án sử dụng và trả nợ vốn thu được từ đợt chào bán trái phiếu.
Có cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư về điều kiện phát hành,
thanh toán, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các điều kiện khác.
+ Các loại trái phiếu:
- Căn cứ vào chủ thể phát hành có thể chia trái phiếu ra làm hai loại: Trái phiếu chính phủ và
trái phiếu Công ty:
• Trái phiếu Chính phủ: Là trái phiếu do chính quyền Trung Ương hay địa phương phát hành
nhằm mục đích bù đắp cho các khoản chi đầu tư của Nhà nước, quản lý lạm phát hay tài trợ cho các
Công trình, dự án của Nhà nước.
Thời kỳ 1991 – 1995: Nguồn phát hành trái phiếu Chính phủ đạt bình quân 1,2% GDP chiếm
khoảng 30% tổng nguồn bù đắp bội chi Ngân sách Nhà nước.
Thời kỳ 1996 – 2000: Nguồn phát hành trái phiếu Chính phủ đạt bình quân 2,5% GDP chiếm
khoảng 55% tổng nguồn bù đắp bội chi Ngân sách Nhà nước.
Thời kỳ 2001 – nay: Nguồn phát hành trái phiếu Chính phủ đạt bình quân 4% GDP chiếm
khoảng 75% tổng nguồn bù đắp bội chi Ngân sách Nhà nước.
• Trái phiếu chính quyền địa phương: Là loại trái phiếu đầu tư có kỳ hạn từ một năm trở lên,
do Chính quyền địa phương ủy quyền cho Kho bạc hoặc các pháp nhân do Chính quyền địa phương lOMoAR cPSD| 45688262
lập ra, phát hành với mục đích huy động vốn để đầu tư xây dựng các công trình mang tính công cộng
như đường xá, bến cảng, trường học, bệnh viện.
Ví dụ: Trái phiếu đô thị Thành phố Hồ Chí Minh là loại trái phiếu nợ chung. Trái phiếu này
được đảm bảo thanh toán trực tiếp bằng nguồn ngân sách thành phố. Chủ thể phát hành là Ủy ban
nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, tổ chức đại diện phát hành là Quỹ đầu tư phát triển đô thị Thành
phố được Ủy ban Nhân dân ủy quyền thực hiện toàn bộ các nghiệp vụ và quy trình phát hành trái phiếu đô thị.
• Trái phiếu doanh nghiệp: Trái phiếu do các doanh nghiệp phát hành nhằm mục đích huy
động nợ vay để đầu tư dài hạn cho các doanh nghiệp, mở rộng quy mô phát triển sản xuất, kinh doanh
Ví dụ: Tập đoàn Điện lực VN (EVN), đầu năm 2006 đã phát hành huy động được 3.500 tỷ đồng
và trong năm 2006 đã huy động từ phát hành trái phiếu khoảng 5.000 tỷ đến 10.000 tỷ đồng, một
nguồn vốn rất lớn để phục vụ đầu tư cho dự án mới hoặc mở rộng các dự án kinh doanh hiện tại.
Bên cạnh các doanh nghiệp Nhà nước và các tập đoàn kinh tế lớn, các công ty cổ phần cũng là
chủ thể phát hành nhiều loại trái phiếu. Đây là nguồn vốn vay chủ yếu của các công ty cổ phần ở các
nước phát triển. Một số loại trái phiếu chủ yếu của công ty cổ phần như:
Trái phiếu thu nhập (Income Bonds): Là loại trái phiếu mà việc thanh toán lãi phụ thuộc vào
mức thu lợi hàng năm của công ty, thường được phát hành khi công ty gặp khó khăn về tài chính hay
cần huy động vốn đầu tư vào các dự án. Tùy theo lợi nhuận công ty thu được sẽ trả lãi cho trái chủ,
tuy nhiên tỷ lệ lãi không lớn hơn lãi suất quy định trên trái phiếu.. Về mặt này, loại trái phiếu này
giống cổ phiếu ưu đãi nhưng nó khác ở chỗ tiền lãi trả cho trái phiếu thu nhập được khấu trừ thuế (trả
trước thuế), còn đối với cổ phiếu ưu đãi thì không khấu trừ (trả sau thuế).
Trái phiếu có thế chấp (Mortgage Bonds): Các doanh nghiệp muốn phát hành trái phiếu phải
có thế chấp bằng tài sản hay chứng khoán. Người nắm giữ trái phiếu này được bảo vệ ở mức độ cao
bằng chính tài sản thế chấp trong trường hợp doanh nghiệp phá sản.
Trái phiếu không có thế chấp (Debenture): Một số các công ty lớn có tiếng tăm và uy tín trên
thị trường quốc nội và quốc ngoại có thể phát hành trái phiếu mà không cần thế chấp. Chính uy tín
của các công ty ấy đã là một đảm bảo có giá trị.
Trái phiếu có thể chuyển đổi (Convertible Bonds): Là loại trái phiếu có thể chuyển đổi thành
cổ phiếu thường với giá của cổ phiếu được ấn định trước gọi là giá chuyển đổi.
Đây là loại trái phiếu rất được ưa chuộng bởi vì khi giá cổ phiếu tăng cao trên thị trường, người
nắm giữ trái phiếu này sẽ thực hiện quyền chuyển đổi và thu được những khoản lợi nhuận do chênh
lệch giá. Công ty phát hành trái phiếu chuyển đổi vì các lý do thuận lợi sau:
Trái phiếu chuyển đổi có thể bán ra với lãi suất thấp hơn lãi suất của trái phiếu, cổ phiếu thường.
Công ty có thể loại bỏ lãi suất cố định khi có sự chuyển đổi vì thế giảm được số nợ.
Số cổ phiếu trong thị trường hiếm gia tăng nhanh vì sự chuyển đổi xảy ra khoảng thời gian dài
(do đó ít gây ra sự loãng giá các cổ phiếu). lOMoAR cPSD| 45688262
Công ty tránh được sự loãng trị giá tức thời số lợi nhuận cơ bản của cổ phiếu.
Tuy nhiên, phát hành trái phiếu chuyển đổi có thể làm cho nhà phát hành gặp phải các bất lợi sau:
Vốn cổ đông bị loãng vào thời điểm chuyển đổi do tăng số cổ phiếu lưu hành nên mỗi cổ phần
bây giờ đại diện cho một tỷ lệ thấp hơn của quyền sở hữu trong công ty.
Sự chuyển đổi nhiều sẽ làm thay đổi khả năng kiểm soát của công ty (khi đó khả năng bỏ phiếu
tăng lên vì cổ phiếu thường tăng, do đó ảnh hưởng đến quyền kiểm soát công ty vì các cổ đông
thường tham gia vào việc quản lý công ty)
Số nợ của công ty giảm có nghĩa là công ty mất đòn bẩy tài chính (vì lúc đó nợ đã trở thành vốn
cổ đông) hay nói cách khác là mất cân bằng của cán cân nợ vốn.
Công ty phải đóng nhiều thuế hơn khi có sự chuyển đổi vì kết quả chuyển đổi sẽ làm giảm chi
phí trả lãi, tức là làm tăng thu nhập chịu thuế của công ty.
Cơ cấu vốn của công ty không được ổn định như trước
Đứng trên góc độ nhà đầu tư, sở dĩ nhà đầu tư chịu bỏ tiền mua trái phiếu chuyển đổi vì các thuận lợi sau:
Trái phiếu chuyển đổi chi trả tiền lãi cố định và sẽ được thu hồi theo đúng mệnh giá khi đến
ngày đáo hạn. Theo nguyên tắc thì thu nhập từ lãi suất trái phiếu thường cao hơn và chắc chắn hơn
thu nhập từ cổ tức trên cổ phiếu thường.
Trái chủ ưu tiên đòi chi trả hơn trái chủ trái phiếu, cổ phiếu thường, trong trường hợp thanh lý công ty.
Giá thị trường của trái phiếu chuyển đổi có khuynh hướng ổn định hơn trong thời kỳ thị trường
đi xuống khi so với cổ phiếu thường.
Giá thị trường của trái phiếu chuyển đổi có khuynh hướng tăng theo giá chứng khoán.
Khi trái phiếu chuyển đổi được chuyển đổi sang cổ phiếu thường thì không được coi là một sự
mua bán nên sẽ không phải chịu thuế trong giao dịch chuyển đổi.
Ngoài những điểm lợi và bất lợi trên đây, cách tính giá chuyển đổi và tỷ lệ chuyển đổi cũng là
điểm đáng chú ý của trái phiếu chuyển đổi:
Giá chuyển đổi (Conversion Price): Là giá cổ phiếu thường và trái phiếu chuyển đổi làm căn
cứ trong việc chuyển đổi.
Ví dụ: Một trái phiếu chuyển đổi có mệnh giá 1 triệu đồng được quy định sẽ đổi thành 50 cổ
phiếu thường, vậy giá chuyển đổi là: 1.000.000/50 = 200.000đ
Tỷ lệ chuyển đổi: Là số cổ phiếu thường được chuyển đổi ra từ một trái phiếu
Ví dụ: Trái phiếu chuyển đổi của SSI có mệnh giá 100.000đ, quy định được chuyển đổi thành cổ
phiếu thường của công ty với giá chuyển đổi bằng mệnh giá 10.000đ. Tỷ lệ chuyển đổi =
100.000đ/10.000 = 10. Có nghĩa là 1 trái phiếu đổi thành 10 cổ phiếu thường. lOMoAR cPSD| 45688262
Trái phiếu có thể chuộc lại (Callable Bonds): Trái phiếu này có kèm theo điều khoản được
công ty chuộc lại sau một thời gian với giá chuộc lại thường cao hơn so với mệnh giá. Nhà đầu tư có
thể chọn lựa để chấp nhận sự chuộc lại của công ty hay không. Trái phiếu chuộc lại được công ty phát
hành ra bởi một số các lý do như sau:
Khi công ty gặp khó khăn về tài chính hoặc cần huy động vốn nhanh cho các dự án đầu tư, công
ty có thể phát hành trái phiếu với lãi suất hơi cao hơn mức lãi suất phù hợp với mức độ tín nhiệm của
công ty. Trong trường hợp này, công ty dự trù sẽ thu hồi vốn và lãi phát sinh sau một thời gian, nên
đưa ra điều khoản chuộc lại trái phiếu trước kỳ đáo hạn để tránh cho công ty gánh nặng phải trả lãi quá cao.
Với tính chu kỳ của nền kinh tế, công ty có thể dự đoán được lãi suất thị trường sẽ giảm đi sau
một thời gian. Vì thế hiện nay công ty phát hành trái phiếu với lãi suất tương đối cao, nên kèm theo
điều khoản chuộc lại trái phiếu, lúc đó lãi suất thị trường đã giảm đi, điều này tránh cho công ty thiệt
hại về chi phí trả lãi quá cao.
Trái phiếu có lãi suất cố định (Straight Bonds): Là loại trái phiếu truyền thống được phát
hành phổ biến ở tất cả các thị trường chứng khoán trên thế giới. Với đặc điểm trả lãi suất ổn định và
định kỳ thường 6 tháng hay 1 năm một lần, nó ràng buộc doanh nghiệp nghĩa vụ phải trả lãi trong
suốt thời gian lưu hành trái phiếu.
Trái phiếu có lãi suất thả nổi (Floating Rate Bonds): Là loại trái phiếu mà lãi suất của nó
được điều chỉnh theo sự thay đổi của lãi suất thị trường. Đặc điểm này đã đảm bảo được quyền lợi
của nhà đầu tư cũng như doanh nghiệp khi thị trường tài chính tiền tệ không ổn định. Thông thường
cứ 6 tháng một lần, căn cứ vào lãi suất tiền gửi ngắn hạn của ngân hàng lại điều chỉnh lãi suất trái phiếu cho phù hợp.
Ví dụ: Điển hình về trái phiếu thả nổi ở Việt Nam là trái phiếu thả nổi của Petrovietnam. Trước
khi phát hành, Petrovietnam đã xin phép và được sự đồng ý của Bộ Tài chính cho phép phát hành
trái phiếu dầu khí, với những thông tin liên quan đến đợt phát hành được công bố như sau:
Tổ chức phát hành: Tổng công ty Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam)
Tên trái phiếu: Trái phiếu Dầu khí Việt Nam
Loại tiền phát hành: Việt Nam đồng (VNĐ)
Loại mệnh giá: Trái phiếu dầu khí phát hành nhiều loại mệnh giá khác nhau, trong đó trái phiếu vô
danh và ghi danh có các loại mệnh giá 1 triệu, 2 triệu, 5 triệu, 10 triệu và 50 triệu. Ngoài ra, công ty
còn phát hành trái phiếu ghi sổ có mệnh giá quy tròn đến hàng triệu có mệnh giá từ 50 triệu trở lên.
Đối tượng mua trái phiếu: Đối tượng tham gia mua trái phiếu dầu khí rất rộng rãi bao gồm
người Việt Nam trong nước, kiều bào ở nước ngoài, và người nước ngoài đang sinh sống và làm việc
ở Việt Nam, ngoài các đối tượng cá nhân nêu trên, các pháp nhân như các doanh nghiệp thuộc mọi
lĩnh vực và thành phần kinh tế, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động theo Luật Đầu
tư nước ngoài của Việt Nam cũng được tham gia mua trái phiếu dầu khí. lOMoAR cPSD| 45688262
Thời gian phát hành trái phiếu: Ngày phát hành trái phiếu là ngày 03/09/2003 và thời gian bán
trái phiếu kéo dài 60 ngày.
Ngày thanh toán trái phiếu: Ngày đáo hạn thanh toán trái phiếu là ngày 03/09/2008, đến ngày
đáo hạn, người sở hữu trái phiếu đến thanh toán tại Văn phòng giao dịch của Công ty Tài Chính Dầu
khí. Riêng đối với trái phiếu ghi danh dưới hình thức ghi sổ, khách hàng phải đến nơi phát hành trái phiếu để thanh toán.
Trường hợp ngày thanh toán trùng với ngày nghỉ, ngày lễ thì sẽ được thanh toán vào ngày làm
việc kế tiếp. Trường hợp khách hàng đến thanh toán sau ngày 03/09/2008 thì số tiền gốc chưa lĩnh sẽ
được hưởng lãi suất theo lãi suất tiền gửi không kỳ hạn của Ngân hàng Công thương Việt Nam xác
định tại thời điểm đáo hạn trái phiếu và áp dụng cho số ngày tính từ thời điểm đáo hạn đến thời điểm
khách hàng đến thanh toán.
Sau 2 năm, người mua trái phiếu có quyền thanh toán trước hạn theo nguyên tắc đảm bảo lợi ích
cho người sở hữu trái phiếu bằng cách trả nguyên gốc (mệnh giá) và lãi theo quy định sau: nếu chưa
tròn năm thì mức lãi suất mà khách hàng được hưởng bằng với mức lãi suất tiết kiệm thời hạn tương
ứng của Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Cụ thể nếu thời gian nắm giữ nhỏ hơn 1 tháng thì áp dụng lãi suất không kỳ hạn, từ 1 đến 3
tháng áp dụng lãi suất tiết kiệm 1 tháng, từ 3 đến 6 tháng áp dụng lãi suất tiết kiệm 3 tháng, từ 6 đến
dưới 12 tháng áp dụng lãi suất tiết kiệm 6 tháng, nếu tròn 12 tháng thì được hưởng nguyên mức lãi
suất của trái phiếu đã được công bố.
Lãi suất trái phiếu dầu khí là lãi suất thả nổi với năm đầu ấn định ở mức 8,7%, những năm sau
áp dụng lãi suất thả nổi bằng bình quân lãi suất huy động tiết kiệm 12 tháng của 4 ngân hàng thương
mại quốc doanh cộng (+) 0,5%/năm.
Phương thức trả lãi áp dụng theo định kỳ hàng năm. Lãi suất trái phiếu dầu khí từng năm sẽ do
Công ty Tài chính Dầu khí công bố vào ngày 25/8 hàng năm. Tiền lãi hàng năm nếu khách hàng chưa
đến lĩnh sẽ được giữ hộ và được hưởng lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn. Mức lãi suất tiết kiệm không
kỳ hạn này được xác định bằng lãi suất không kỳ hạn của Ngân hàng Công thương Việt Nam lấy tại
thời điểm ngày 3/9/2004 và áp dụng cho cả 5 tem lĩnh lãi chưa thanh toán tính từ ngày đến hạn thanh
toán đến thời điểm lĩnh.
Bảo lãnh thanh toán trái phiếu: Ngân hàng Đầu tư Phát triển Việt Nam
Trái phiếu chiết khấu (Zero Coupon Bonds): Là loại trái phiếu không trả lãi định kỳ mà căn
cứ vào lãi suất trên thị trường để định giá trái phiếu trên thị trường.
Trái phiếu quốc tế: Là giấy nợ được Chính phủ hoặc doanh nghiệp phát hành ra trên thị trường
vốn quốc tế để huy động vốn đầu tư bằng ngoại tệ.
Ví dụ: Trái phiếu bằng USD của Việt Nam có mức sinh lời ấn tượng nhất tại châu Á trong năm 2012
do Chính phủ Việt Nam nỗ lực kiềm chế lạm phát làm giảm khả năng bị hạ định mức tín nhiệm nợ.
Mức sinh lời của trái phiếu bằng USD của Việt Nam đạt 5,1% trong 5 tháng đầu năm nay, hấp dẫn
hơn mức sinh lời 3% của trái phiếu Hàn Quốc, Bloomberg trích dẫn nguồn từ HSBC Holdings cho lOMoAR cPSD| 45688262
hay. 2 tháng cuối năm 2010, trái phiếu quốc tế của Việt Nam đã mất 8% giá trị và trở thành trái phiếu
có mức tăng trưởng kém thứ hai ở châu Á với mức sinh lời đạt 8,9% trong cả năm 2010. Quỹ Pictet
Asset Management và Western Asset Management Co cho biết họ vẫn nắm trái phiếu của Việt Nam sau
khi Ngân hàng Nhà nước nâng lãi suất tái cấp vốn lên 14%/năm. “Lý do của việc trái phiếu tăng
trưởng ấn tượng là do thị trường nhận thấy những chính sách đúng đắn đang được thực thi ở Việt
Nam”, ông Wee-Ming Ting, Trưởng bộ phận trái phiếu của Pictet tại châu Á, nói với Bloomberg. “Nếu
các chính sách của Việt Nam tiếp tục thực thi việc kiềm chế lạm phát, đó là điều đáng mừng”. Lợi suất
trái phiếu quốc tế của Việt Nam là 6,75%/năm cho đến tháng 1/2020, đã giảm 125 điểm phần trăm
(1,25%) kể từ khi điều chỉnh tỷ giá USD/VND ngày 11/2/2011, xuống còn 6,04% vào ngày 5/5/2011,
Bloomberg dẫn số liệu từ Royal Bank of Scotland Group Plc.
Trong khi đó, lợi suất trái phiếu quốc tế của Indonesia và Philippines lần lượt ở mức 4,67% và
4,48%, dù định mức tín nhiệm nợ thấp hơn Việt Nam.
Theo Bloomberg, trong tuần kết thúc vào ngày 29/4, tiền đồng đã lên giá 1,8% so với USD, sau khi
Chính phủ Việt Nam công bố hạ tăng trưởng tín dụng và giảm trần lãi suất huy động USD.
Số liệu của Bloomberg cho thấy, VND NDF (nondeliverable forward contracts – một dạng hợp đồng
kỳ hạn nhưng không chuyển nhượng, được các nhà xuất nhập khẩu sử dụng để tránh rủi ro tỷ giá) kỳ
hạn 12 tháng ở mức 22.676 đồng/USD vào ngày 5/5. Trong khi tỷ giá giao ngay, tiền đồng tăng 0,2%
lên mức 20.610 đồng/USD.
(Nguồn: Internet)
Lợi tức và rủi ro trái phiếu:
Lợi tức trái phiếu: Là thu nhập mà nhà đầu tư nhận được từ trái phiếu. Lợi tức gồm:
Tiền lãi định kỳ: thường được trả hàng năm hoặc nửa năm một lần. Số tiền lãi này được tính trên cơ
sở lãi suất ghi trên trái phiếu (Coupon interest rate) được quy định trước nhân với mệnh giá trái
phiếu, theo công thức: C = F ˣ c%.
Ví dụ: Trái phiếu mệnh giá 1.000.000đ, lãi suất 9%, vậy hàng năm trái chủ nhận được số tiền
lãi là C = 9% ˣ 1.000.000 = 90.000đ
Lợi vốn (Chênh lệch giá): Là phần chênh lệch giữa giá bán và giá mua trái phiếu. Với loại trái phiếu
có tính thanh khoản cao, nhà đầu tư sẽ bán trái phiếu khi giá trái phiếu tăng lên và được hưởng chênh lệch giá.
Lợi tức từ tái đầu tư lãi: Trong trường hợp nhà đầu tư lãnh tiền lãi định kỳ và tái đầu tư ngay, tiền
lãi này sẽ sinh ra lãi gọi là lãi tái đầu tư. Như vậy, sau một số năm nắm giữ trái phiếu, tiền lãi coupon
được tái đầu tư sẽ mang lại cho trái chủ một khoản lợi tức tiềm năng bao gồm lãi coupon và lãi tái đầu tư.
Ví dụ: Một trái phiếu có mệnh giá 1 triệu đồng, trả lãi suất 10%/năm. Một người mua trái phiếu đó
với giá 1 triệu và lưu giữ sau 1 năm, sau đó đem bán ở thị trường tiền tệ với giá 1,2 triệu đồng.
Tính tỷ suất lợi nhuận của nhà đầu tư Giải: lOMoAR cPSD| 45688262
Tiền lãi định kỳ = Mệnh giá ˣ lãi suất = 1.000.000 ˣ 10% = 100.000đ Lợi vốn = 200.000đ
Tỷ lệ lợi nhuận = = 30%
Trên thị trường chứng khoán, trái phiếu được đánh giá là loại hàng hóa ít rủi ro nhất. Tuy nhiên,
đầu tư vào trái phiếu vẫn có rủi ro, mặc dù mức độ là ít hơn so với rủi ro cổ phiếu. Sau đây là một số
rủi ro điển hình có thể xảy ra đối với trái phiếu.
Rủi ro lãi suất: Giá của một trái phiếu sẽ thay đổi ngược chiều với sự thay đổi của lãi suất. Khi lãi
suất thị trường tăng, giá trái phiếu sẽ giảm và ngược lại. Chẳng hạn, nhà đầu tư bán trái phiếu trước
ngày đáo hạn, thì khi lãi suất thị trường tăng, nhà đầu tư sẽ lỗ vốn. Có nghĩa là bán trái phiếu thấp hơn giá mua vào.
Rủi ro tái đầu tư: Giả định rằng các dòng tiền nhận được từ trái phiếu để tái đầu tư. Khoản thu nhập
bổ sung từ việc tái đầu tư đó còn được gọi là lãi của lãi, phụ thuộc vào mức lãi suất hiện hành tại thời
điểm tái đầu tư, cũng như vào chiến lược tái đầu tư. Đó là rủi ro khi lãi suất để tái đầu tư vào các
dòng tiền giữa kỳ bị giảm xuống. Rủi ro này sẽ lớn hơn đối với những thời kỳ nắm giữ dài hơn. Cần
lưu ý rằng, rủi ro lãi suất và rủi ro tái đầu tư có những hiệu ứng triệt tiêu nhau. Rủi ro lãi suất là rủi ro
lãi suất tăng làm giảm giá trái phiếu còn rủi ro tái đầu tư là rủi ro lãi suất giảm.
Rủi ro thanh toán: Rủi ro thanh toán còn gọi là rủi ro tín dụng hay rủi ro trả nợ, là rủi ro mà người
phát hành một trái phiếu có thể vỡ nợ, tức là mất khả năng thanh toán đúng hạn các khoản lãi và gốc của đợt phát hành.
Trái phiếu Chính phủ được coi là không có rủi ro thanh toán, trong khi trái phiếu công ty khác
nhau sẽ có mức độ rủi ro khác nhau. Rủi ro thanh toán được xác định bằng mức xếp hạng chất lượng
do các công ty xếp hạng tín nhiệm ấn định. Tuy nhiên, mức xếp hạng tín nhiệm có thể thay đổi sau
khi công ty phát hành, hay nói khác đi là rủi ro thanh toán có thể thay đổi nhanh hơn sự đánh giá của
các tổ chức đánh giá chuyên nghiệp.
Rủi ro lạm phát: Rủi ro lạm phát, còn được gọi là rủi ro sức mua, phát sinh do sự biến đổi trong giá
trị của các dòng tiền mà một chứng khoán đem lại, do lạm phát được đo lường bằng sức mua.
Ví dụ: Nếu một nhà đầu tư mua một trái phiếu có lãi suất 8%/năm nhưng tỷ lệ lạm phát là
9%/năm, thì thực tế sức mua lưu lượng tiền mặt đã giảm. Ngoại trừ trái phiếu có lãi suất thả nổi, còn
đầu tư vào tất cả các trái phiếu khác đều chịu rủi ro lạm phát, vì mức lãi suất được công ty phát hành
cam kết sẽ cố định trong suốt kì hạn của trái phiếu.
Rủi ro tỷ giá hối đoái: Đối với trái phiếu được ghi giá mua bằng ngoại tệ, nhưng khi đáo hạn lại
thanh toán bằng Việt Nam đồng, mà đồng Việt Nam lại giảm giá so với đôla Mỹ, thì người đầu tư sẽ
nhận được ít đôla Mỹ hơn. Đó là rủi ro tỷ giá. Trong trường hợp ngược lại, đồng Việt Nam tăng giá
so với đôla Mỹ, thì người đầu tư sẽ có lợi. lOMoAR cPSD| 45688262
Ví dụ: Tại thời điểm 1 USD = 15.000 VNĐ, nhà đầu tư mang 1,5 triệu đồng đi mua trái phiếu
có mệnh giá 100 USD. Sau 1 tháng, lúc này 1USD có giá bằng 16.000 VNĐ. Vậy khi giá USD tăng
nhà đầu tư nhận được 1.500.000/16.000 < 100 USD => nhà đầu tư bị thiệt
Trường hợp sau 1 tháng mà giá USD giảm xuống còn 14.000 VNĐ = 1 USD, lúc này nhà đầu tư
sẽ nhận được 1.500.000/14.000 > 100 USD => nhà đầu tư có lợi
Rủi ro thanh khoản: Rủi ro thanh khoản tùy thuộc vào việc trái phiếu có dễ dàng được bán theo giá
trị hay gần với giá trị không. Hay nói cách khác đây là rủi ro về khả năng bán chứng khoán trên thị
trường để thu tiền về. Thước đo chủ yếu đối với tính thanh khoản là độ lớn khoảng cách giữa giá hỏi
mua và giá chào bán trái phiếu mà nhà giao dịch yết lên. Nếu người đầu tư dự định nắm giữ trái phiếu
cho tới khi đáo hạn thì rủi ro này là không quan trọng lắm.
Các yếu tố ảnh hưởng giá trái phiếu
Giá thị trường của bất cứ loại chứng khoán nào cũng phụ thuộc vào cung và cầu, vì thế khi muốn biết
điều gì quyết định giá trái phiếu, chúng ta chỉ cần tìm hiểu yếu tố nào đứng sau cung và cầu: Khả
năng tài chính của người cung cấp trái phiếu: Cung cấp trái phiếu là một chức năng của người đi
vay nhằm giải quyết vấn đề vốn. Do đó, nhà đầu tư rất quan tâm đến khả năng thanh toán lãi và vốn
gốc của người cung cấp trái phiếu. Nếu có những biến động bất lợi về khả năng tài chính của chủ thể
phát hành, thì lập tức giá trái phiếu đó sẽ tụt giảm trên TTCK. Mặc dù lãi suất trái phiếu có vẻ hứa
hẹn nhưng rủi ro hàm chứa lại cao hơn.
Thời gian đáo hạn: Một trái phiếu có thời gian đáo hạn càng gần thì giá của nó càng tăng trên thị
trường bởi vì độ rủi ro càng thấp.
Ví dụ, 1 trái phiếu sẽ được thanh toán theo đúng mệnh giá vào cuối năm thứ 10 kể từ ngày phát
hành, nếu không có biến động xấu về khả năng tài chính của đơn vị phát hành và lãi suất thị trường
bình ổn, thì giá trái phiếu kể từ năm thứ 5 trở đi sẽ có khuynh hướng càng cao hơn so với giá các năm
đầu tiên. Trên thực tế người ta gọi hiện tượng này là kéo giá tới thời hạn.
Dự kiến về lạm phát: Nếu lạm phát dự kiến tăng thì các chứng khoán có lãi suất cố định trả theo lãi
suất công bố chỉ được thanh toán theo lãi suất danh nghĩa, và như vậy, sẽ kém hấp dẫn hơn các tài sản
khác có khả năng loại trừ yếu tố lạm phát. Điều này dẫn đến kết quả là giá thị trường của các chứng
khoán có lãi suất cố định bị giảm và điều này cũng buộc phải tăng lãi cho các chứng khoán đó, phần
lãi tăng này sẽ đền bù cho thiệt hại của những người giữ trái phiếu trong tương lai bị ảnh hưởng của lạm phát.
2.1.4. Chứng khoán vốn hay cổ phiếu (Stocks)
Công ty cổ phần là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, vốn của nó được hình thành từ sự góp
vốn của rất nhiều người. Khi mới thành lập, công ty cổ phần chia vốn điều lệ thành những phần nhỏ
bằng nhau, mỗi phần vốn là một cổ phần (Share), người góp vốn vào công ty qua việc mua cổ phần
gọi là cổ đông (Shareholder), cổ đông nhận một giấy chứng nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ phiếu
(Stock). Tùy thuộc vào trách nhiệm và quyền hạn của cổ đông đối với công ty cổ phần mà cổ phiếu lOMoAR cPSD| 45688262
chia thành hai loại: cổ phiếu thường hay còn gọi là cổ phiếu phổ thông (Common Stock) và cổ phiếu ưu đãi (Preferred Stock).
Cổ phiếu thường (Common Stock): Cổ phiếu thường là giấy chứng nhận sở hữu cổ phần
thường, nó xác nhận quyền sở hữu của cổ đông, đối với công ty cổ phần. Người mua cổ phiếu thường
trở thành cổ đông thường là một trong những người chủ doanh nghiệp nên là người trực tiếp thụ
hưởng kết quả sản xuất kinh doanh cũng như chịu sự rủi ro trong kinh doanh. Cổ phiếu thường có
những đặc điểm như mô tả dưới đây: Đặc điểm:
Cổ phiếu là chứng nhận góp vốn, do đó không có kỳ hạn và không được hoàn lại vốn.
Cổ tức của cổ phiếu thường tùy thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, do đó
không ổn định. Khi doanh nghiệp làm ăn phát đạt cổ đông cũng được hưởng lợi nhuận cao hơn nhiều
so với các loại chứng khoán khác có lãi suất cố định. Ngược lại, cổ tức có thể rất thấp hoặc hoàn toàn
không có khi công ty làm ăn thua lỗ. Khi công ty bị phá sản, cổ đông thường là người cuối cùng được
hưởng giá trị còn lại của tài sản thanh lý. Giá cổ phiếu biến động rất nhanh nhạy, đặc biệt là trên thị
trường thứ cấp, do nhiều yếu tố nhưng yếu tố cơ bản nhất là hiệu quả kinh doanh và giá trị thị trường của công ty.
Điều kiện phát hành: Theo quy định hiện hành, các công ty cổ phần muốn phát hành cổ phiếu
ra công chúng phải hội đủ những điều kiện sau:
- Là công ty cổ phần có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký phát hành cổ phiếu tối
thiểu 10 tỷ đồng Việt Nam.
- Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký phát hành phải có lãi, đồng thời không
có lỗ lũy kế tính đến năm đăng ký chào bán cổ phiếu.
- Có phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu hồi từ đợt chào bán được Đại hội
đồngcổ đông thông qua.
Trách nhiệm và quyền lợi của cổ đông thường:
Trách nhiệm – Cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường của công ty cổ phần đại chúng (public company)
chịu trách nhiệm hữu hạn theo phần vốn góp của mình trên hai mặt:
- Thứ nhất, phần vốn góp xem như góp vĩnh viễn không được rút lại. Lúc cần lấy lại vốn, họ có
quyềnchuyển nhượng quyền sở hữu cổ phần trên thị trường bằng cách bán cổ phiếu cho một nhà đầu
tư khác. Chính điều này đã tạo ra tính thanh khoản cho cổ phiếu công ty, đồng thời cũng hấp dẫn nhà đầu tư.
- Thứ hai, trách nhiệm của cổ đông đối với việc làm ăn thua lỗ hay tình trạng phá sản của công
ty chỉ giới hạn trong phần vốn góp ghi trên cổ phiếu. Nếu công ty làm ăn không hiệu quả xem như họ
mất phần vốn đã được bỏ ra để mua cổ phiếu.
Quyền lợi – Là một trong những người chủ công ty, những cổ đông có những quyền lợi như sau:
Quyền có thu nhập: Cổ đông thường được hưởng phần lợi nhuận tương ứng với số cổ phiếu sở
hữu gọi là cổ tức (dividend) từ kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Khác với trái