Bài giảng những vấn đề cơ bản của nhà nước pháp luật | Đại học Nội Vụ Hà Nội
Vấn đề về nguồn gốc của nhà nước luôn là chủ đề nổi bật trong cuộcđấu tranh tư tưởng trên thế giới trong mọi thời đại. Từ thời trung cổ,nhiều nhà tư tưởng đã đưa ra những lý giải về nguồn gốc nhà nước và chođến nay về vấn đề nguồn gốc nhà nước vẫn là chủ đề nổi bật trong cuộcđấu tranh tư tưởng trên thế giới.Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem.
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45734214
Phần 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN
CỦA NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỂ NHÀ NƯỚC
1.1.1. Nguồn gốc của Nhà nước
Vấn đề về nguồn gốc của nhà nước luôn là chủ đề nổi bật trong cuộc
đấu tranh tư tưởng trên thế giới trong mọi thời đại. Từ thời trung cổ, nhiều
nhà tư tưởng đã đưa ra những lý giải về nguồn gốc nhà nước và cho đến
nay về vấn đề nguồn gốc nhà nước vẫn là chủ đề nổi bật trong cuộc đấu
tranh tư tưởng trên thế giới. Nhìn nhận một cách khái quát chúng ta có thể
phân chia những quan điểm, học thuyết về nguồn gốc của nhà nước thành
hai loại: học thuyết Mác- Lênin về nguồn gốc của nhà nước và học thuyết
khác về nguồn gốc của nhà nước (còn gọi là các học thuyết phi mácxit).
* Một số quan điểm phi macxit về nguồn gốc của Nhà nước
Ngay từ thời cổ, trung đại đã có nhiều nhà tư tưởng từ góc độ tiếp cận
khác nhau đưa ra những lý giải khác nhau về nguồn gốc của nhà nước.
Dưới đây là một số học thuyết cơ bản về nguồn gốc của nhà nước
Theo thuyết thần học: Thuyết này cho rằng Nhà nước là sản phẩm sáng
tạo của thượng đế và người đứng đầu Nhà nước do thượng đế sai khiến
xuống để trị vì thiên hạ. Do vậy, nhà nước có một quyền lực hết sức to lớn
và mang tính vĩnh cửu. Quyền lực nhà nước là quyền lực của thượng đế và
sự phục tùng quyền lực đó là cần thiết, tất yếu đối với tất cả các thành viên trong xã hội. 1 lOMoAR cPSD| 45734214
Theo thuyết gia trưởng: Nhà nước là kết quả liên kết của nhiều gia
đình, là hình thức tổ chức tự nhiên của cuộc sống con người, vì vậy, nhà
nước có trong mọi xã hội và quyền lực nhà nước về bản chất cũng giống
quyền lực gia trưởng của người đứng đầu gia đình. Nói cách khác, nhà
nước được quan niệm như là một gia tộc mở rộng và quyền lực nhà nước
là quyền lực gia trưởng mở rộng.
Thuyết khế ước: Nhà nước là sản phẩm của một khế ước (hợp đồng)
do con người sống trong trạng thái tự nhiên tạo ra. Do đó, khi Nhà nước ra
đời trên cơ sở khế ước của xã hội thì Nhà nước đó phải phục tùng xã hội,
phải phục vụ lợi ích của tất cả các thành viên của khế ước, nếu không, các
thành viên của khế ước sẽ huỷ bỏ khế ước đó làm cho Nhà nước bị tiêu
vong và lập ra một khế ước mới. Tiêu biểu cho thuyết này là các nhà tư sản
như: Jean Bodin (1530-1596); S.L Montesquieu (16891775); Denis Diderot (1713-1784)…
- Thuyết bạo lực: Cho rằng nhà nước xuất hiện trực tiếp từ các cuộc
chiến tranh xâm lược chiếm đất, là việc sử dụng bạo lực của thị tộc đối với
thị tộc khác mà kết quả là thị tộc chiến thắng đặt ra một hệ thống cơ quan
đặc biệt - nhà nước – để nô dịch kẻ chiến bại;
- Thuyết tâm lý: Cho rằng nhà nước xuất hiện do nhu cầu về tâm lý
của con người nguyên thủy luôn muốn phụ thuộc vào các thủ lĩnh, giáo sĩ, …;
Nhìn chung, tất cả các quan điểm trên hoặc do nhận thức còn hạn chế
nên không hiểu, hoặc do bị chi phối bởi lợi ích của giai cấp nên cố tình giải
thích sai những nguyên nhân đích thực làm phát sinh nhà nước, nhằm che
giấu bản chất của sự vận động xã hội dẫn đến sản phẩm tất yếu là nhà nước.
Đa số họ đều xem xét sự ra đời của nhà nước tách rời những điều kiện vật
chất của xã hội, tách rời những nguyên nhân kinh tế và chứng minh rằng
nhà nước là một thiết chế phải có của mọi xã hội, một lực lượng cần thiết
cho phép mọi người cùng có thể tồn tại được. 2 lOMoAR cPSD| 45734214
* Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về nguồn gốc của Nhà nước
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin, Nhà nước là một
phạm trù lịch sử chứ không phải một hiện tượng vĩnh cửu. Nhà nước có
quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong. Xã hội loại người đã trải qua
thời kì không có nhà nước, chỉ khi xã hội phát triển đến một giai đoạn nhất
định thì nhà nước mới xuất hiện. Sự ra đời của nhà nước được trình bày
chủ yếu trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”.
- Chế độ cộng sản nguyên thủy và tổ chức thị tộc - bộ lạc
Chế độ cộng sản nguyên thuỷ là hình thái kinh tế xã hội đầu tiên của
loài người. Trong xã hội này không tồn tại giai cấp và chưa có nhà nước,
nhưng nguyên nhân làm ra đời nhà nước lại phát sinh từ đây. Vì vậy, việc
nghiên cứu về xã hội cộng sản nguyên thủy sẽ là cơ sở để giải thích nguyên
nhân làm phát sinh nhà nước và pháp luật, tạo điều kiện để hiểu rõ bản chất
của chúng. Để tìm hiểu về xã hội cộng sản nguyên thủy, trước hết cần
nghiên cứu cơ sở kinh tế của nó, vì cơ sở kinh tế là yếu tố cơ bản quyết
định đời sống xã hội.
+ Cơ sở kinh tế của xã hội cộng sản nguyên thuỷ: là chế độ sở hữu
chung về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động xã hội. Mọi người trong xã
hội đều lao động và hưởng thụ thành quả lao động như nhau. Đây là thời
kỳ mà trình độ của lực lượng sản xuất tháp kém, công cụ lao động thô sơ,
nhận thức của con người còn hết sức đơn giản, họ chưa nhận thức đúng đắn
về về thiên nhiên và về bản thân mình, họ luôn luôn trong tình trạng mềm
yếu, hoảng sợ và bất lực trước những tai họa của thiên nhiên… Trong
những điều kiện và hoàn cảnh đó, con người không thể sống riêng biệt mà
phải dựa vào nhau, cùng chung sống, cùng lao động và cùng hưởng thụ.
Do vậy, mọi người đều bình đẳng trong lao động và hưởng thụ, không ai
có tài sản riêng, không có người giàu, kẻ nghèo, không có tình trạng người 3 lOMoAR cPSD| 45734214
này chiếm đoạt tài sản của người kia. Xã hội chưa phân chia thành giai cấp
và chưa có đấu tranh giai cấp.
+ Cơ sở xã hội: Cộng đồng người nguyên thuỷ hoàn toàn tự do, bình
đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ, không ai có đặc quyền, đặc lợi. Tổ
chức xã hội đơn giản, tế bào cơ sở của xã hội không phải là gia đình mà là
thị tộc, được tổ chức theo huyết thống. Ở giai đoạn đầu do những điều kiện
về kinh tế, xã hội và hôn nhân, do phụ thuộc nhiều vào địa vị chủ đạo của
người phụ nữ trong thị tộc, các thị tộc đã được tổ chức theo chế độ mẫu hệ.
Dần dần sự phát triển của kinh tế xã hội đã tác động làm thay đổi quan hệ
trong hôn nhân; mặt khác địa vị của người phụ nữ trong thị tộc cũng thay
đổi. Người đàn ông giữ vai trò chủ đạo trong đời sống thị tộc và chế độ
mẫu hệ đã chuyển thành chế độ phụ hệ.
Thị tộc là tổ chức tế bào cơ sở của xã hội cộng sản nguyên thủy, là
một cộng đồng xã hội độc lập. Hội đồng thị tộc là tổ chức quyền lực cao
nhất của thị tộc. Quyết định của hội đồng thị tộc là bắt buộc đối với mọi
người nhưng cùng với sự phát triển của xã hội, do nhiều yếu tố khác nhau
tác động, trong đó có sự tác động của chế độ ngoại tộc hôn, các thị tộc đã
mở rộng quan hệ với nhau, dẫn đến sự xuất hiện của các bào tộc và bộ lạc.
Bào tộc là một liên minh bao gồm nhiều thị tộc hợp lại. Tổ chức quyền
lực của bào tộc đã thể hiện sự tập trung quyền lực cao hơn. Hội đồng bào
tộc chỉ bao gồm các tù trưởng, thủ lĩnh quân sự của các thị tộc. Mặc dù
phần lớn các công việc quan trọng trong bào tộc vẫn do hội nghị tất cả các
thành viên của bào tộc quyết định, nhưng trong nhiều trường hợp chỉ do
hội đồng bào tộc quyết định.
Bộ lạc bao gồm nhiều bào tộc. Tổ chức quyền lực trong bộ lạc thể hiện
mức độ tập trung quyền lực cao hơn bào tộc. Tuy nhiên ở đây, quyền lực
vẫn mang tính xã hội, chưa mang tính giai cấp.
Tóm lại: Chế độ Cộng sản nguyên thủy là chế độ trong đó đã có quyền
lực nhà nước, nhưng đó là thứ quyền lực xã hội được tổ chức và thực hiện 4 lOMoAR cPSD| 45734214
dựa trên cơ sở của những nguyên tắc dân chủ thực sự, quyền lực xuất phát
từ xã hội và phục vụ cho lợi ích của cộng đồng. Các quan hệ xã hội duy trì
được là do sức mạnh của phong tục tập quán, nhờ có sự kính trọng đối với các bô lão. -
Sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy và sự xuất hiện nhànước
Do sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự phân công lao động theo
hướng chuyên môn hoá làm cho năng suất lao động tăng nhanh kéo theo
trình độ sản xuất phát triển; đời sống vật chất và tinh thần của xã hội dần
dần tạo ra những tiền đề cho sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy.
Giai cuối của thời kì cộng sản nguyên thủy, đã có 3 lần phân công lao
động xã hội, tạo ra những tiền đề mới dẫn đến sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy: -
Lần thứ nhất: Nghề chăn nuôi phát triển mạnh mẽ và tách ra khỏi trồng trọt
Trong lao động và cùng với lao động cong người được phát triển, hoạt
động của con người ngày càng phong phú, chủ động và tự giác hơn. Việc
con người thuần dưỡng được động vật đã trở ra một kỷ nguyên mới trong
sự phát triển của xã hội loài người. Chính đàn gia súc được thuần dưỡng
đã trở thành nguồn tích luỹ tài sản quan trọng, là mầm mống sinh ra chế độ
tư hữu. Nghề chăn nuôi phát triển rất mạnh làm xuất hiện ngày càng nhiều
những gia đình chuyên làm nghề chăn nuôi và dần dần chăn nuôi đã trở
thành một ngành kinh tế độc lập tách ra khỏi ngành trồng trọt.
Lần phân công lao động này đã tạo ra những biến đổi sâu sắc trong xã
hội. Bên cạnh ngành chăn nuôi phát triển mạnh mẽ, ngành trồng trọt cũng
có những bước phát triển mới, năng suất lao động tăng nhanh, sản phẩm
trong xã hội làm ra ngày càng nhiều. Do đó, đã xuất hiện những sản phẩm
lao động dư thừa. Sự phát triển mạnh mẽ của nghề chăn nuôi và trồng trọt
đã đặt ra nhu cầu về sức lao động. Vì thế những tù binh bị bắt trong chiến 5 lOMoAR cPSD| 45734214
tranh không bị giết như trước kia mà được giữ lại làm nô lệ để phục vụ cho
nhu cầu chăn nuôi và trồng trọt. Đó cũng chính là mầm mống của chế độ
chiếm hữu nô lệ sau này.
Như vậy, sau lần phân công lao động này, chế độ tư hữu đã xuất hiện,
xã hội đã phân chia thành người giàu, người nghèo. Chế độ tư hữu xuất
hiện đã làm thay đổi chế độ hôn nhân, chế độ hôn nhân một vợ một chồng
đã thay thế cho chế độ quần hôn. Đồng thời với sự thay đổi đó, người chồng
chở thành người chủ gia đình và có quyền quyết định, “gia đình cá thể đã
trở thành một lực lượng và đang đe dọa thị tộc”1 -
Lần thứ hai: Thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của chăn nuôi và trồng trọt thì thủ
công nghiệp cũng phát triển. Việc con người tìm ra kim loại, đặc biệt là sắt
đã tạo ra khả năng có thể trồng trọt trên những diện tích rộng lớn hơn, có
thể khai hoang cả những miền rừng rú. Sắt mang lại cho người thợ thủ công
nghiệp những công cụ lao động có giá trị. Nghề dệt, nghề chế tạo đồ kim
loại và những nghề thủ công khác ngày càng được chuyên môn hoá đã làm
cho sản phẩm làm ra ngày càng nhiều loại và hoàn hảo hơn. Bên cạnh đó,
ngoài ngũ cốc, các loại đỗ và hoa quả, nông nghiệp còn cung cấp cả dầu
thực vật và rượu vang… Một hoạt động nhiều mặt như thế tất yếu sẽ dẫn
đến sự phân công lao động xã hội. -
Lần thứ ba: Buôn bán phát triển và thương nghiệp xuất hiện
Nền sản xuất đã tách ra thành các ngành sản xuất riêng, làm xuất hiện
nhu cầu trao đổi và sản xuất hàng hoá ra đời. Nền sản xuất hàng hoá xuất
hiện thì đồng thời thương nghiệp cũng phát triển dẫn đến lần phân công lao
động xã hội tiếp theo. Đây là lần phân công lao động giữ vai trò rất quan
trọng và có một ý nghĩa quyết định. Sự phân công lần này nảy sinh ra một
giai cấp không còn tham gia vào sản xuất nữa, mà chỉ làm công việc trao
1 C. Mác và Ph.Ănghen, toàn tập. NXB Chính trị quốc gia, HN, 1995,tr.21-24. 6 lOMoAR cPSD| 45734214
đổi sản phẩm, đó là giai cấp thương nhân. Nếu hai lần phân công lao động
xã hội trước, những nguyên nhân của sự hình thành giai cấp đều chỉ gắn
liền với sản xuất mà thôi, thì ở lần phân công lao động xã hội thứ ba này,
“lần đầu tiên xuất hiện một giai cấp tuy không tham gia sản xuất một tý
nào, nhưng lại chiếm toàn bộ quyền lãnh đạo sản xuất và bắt những người
sản xuất phụ thuộc vào mình về mặt kinh tế…và bóc lột cả hai”, “một giai
cấp mà lịch sử loài người trước đó chưa hề biết đến”.
Do sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự xuất hiện những
yếu tố mới làm đảo lộn đời sống của thị tộc. Tổ chức thị tộc không còn phù
hợp với các yếu tố mới xuất hiện đó. Mặt khác, với sự phát triển của các
ngành kinh tế, sản phẩm làm ra ngày càng nhiều, đã phát sinh khả năng
chiếm đoạt những xản phẩm dư thừa làm của riêng làm xuất hiện chế độ tư
hữu. Những người có tư liệu sản xuất trở thành giai cấp thống trị, những
người có ít hoặc không có tư liệu sản xuất trở thành giai cấp bị trị. Mâu
thuẫn về lợi ích giữa hai giai cấp này ngày càng quyết liệt, khi đó tổ chức
thị tộc không thể điều hoà được, giải quyết mâu thuẫn đó. Lúc này, cần có
một tổ chức khác đại diện cho giai cấp nắm ưu thế về kinh tế và chính trị
nhằm dập tắt sự xung đột.
Tóm lại, Nhà nước xuất hiện trực tiếp từ sự tan rã của chế độ Cộng
sản nguyên thủy. Nhà nước chỉ xuất hiện khi có sự phân chia xã hội thành
giai cấp và mâu thuẫn giữa các giai cấp phát triển đến khi cần phải có một
tổ chức mới ra đời điều hòa được mâu thuẫn đó. Nhà nước đã xuất hiện
một cách khách quan, nó là sản phẩm của xã hội đã phát triển đến một giai
đoạn nhất định. Nhà nước “không phải là một quyền lực từ bên ngoài áp
đặt vào xã hội” mà là “một lực lượng nảy sinh từ xã hội”, một lực lượng
“tựa hồ như đứng trên xã hội”, có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ
cho sự xung đột đó nằm trong vòng “trật tự”(1)
1 () Mác- Ănghen, tuyển tập, tập 6, Nxb Sự thật, H.1984, tr. 260 7 lOMoAR cPSD| 45734214
1.1.2. Bản chất và đặc trưng của Nhà nước
1.1.2.1. Bản chất của Nhà nước
Bản chất của nhà nước được thể hiện ở hai thuộc tính: tính giai cấp và tính xã hội. Tính giai cấp:
Ngay từ khi ra đời, nhà nước đã thể hiện là công cụ bảo vệ quyền lợi
chủ yếu của giai cấp thống trị xã hội.
Ví dụ: pháp luật chủ nô công khai quyền lực vô hạn của chủ nô, tình
trạng vô quyền của nô lệ. Pháp luật phong kiến công khai quy định đặc
quyền, đặc lợi của địa chủ phong kiến, cũng như quy định các chế tài hà
khắc dã man đề đàn áp nhân dân lao động. Trong pháp luật tư sản, bản chất
giai cấp được thể hiện một cách thận trọng và tinh vi dưới nhiều hình thức
như quy định về mặt pháp lý của những quyền tự do, dân chủ… nhưng thực
chất pháp luật tư sản luôn thể hiện ý chí của giai cấp tư sản và mục đích
trước hết nhằm phục vụ lợi ích cho giai cấp tư sản.
Tính giai cấp thể hiện:
+ Nhà nước đó do giai cấp nào tổ chức thành;
+ Quyền lực Nhà nước nằm trong tay giai cấp cầm quyền;
+ Nhà nước bảo vệ lợi ích cho giai cấp năm quyền là chủ yếu.
Tính giai cấp của nhà nước quy định nội dung hoạt động của nhà nước.
Tuy là đại biểu chính thức cho toàn xã hội, song nhà nước trước hết phục
vụ bảo vệ quyền lợi cho giai cấp thống trị. Tính xã hội:
+ Bên cạnh việc bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, nhà nước còn
phải quan tâm bảo đảm, bảo vệ, giải quyết các lợi ích cho các giai cấp, tầng
lớp khác nhau trong xã hội và các vấn đề chung cho xã hội.
+ Nhà nước thực hiện những công việc chung nhằm duy trì và phát triển xã hội. 8 lOMoAR cPSD| 45734214
Khi nhận thức về bản chất của nhà nước ta thấy, bản chất giai cấp và
bản chất xã hội luôn gắn liền với nhau. Có thể tùy thuộc vào hoàn cảnh lịch
sử khác nhau mà có những sự thay thế nhất định nhưng không có nghĩa là
sự triệt tiêu của nhân tố này hay nhân tố khác.
1.1.2.2. Đặc trưng của Nhà nước
Với tư cách là một thiết chế quyền lực của giai cấp thống trị đối với
xã hội, nhà nước có vị trí đặc biệt và có những cách thức đặc biệt để thực
hiện quyền lực nhà nước của mình. Điều này thể hiện cụ thể qua các đặc
trưng sau của nhà nước:
- Nhà nước thiết lập một quyền lực công cộng đặc biệt
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy đã từng tồn tại quyền lực nhưng
đó là thứ quyền lực xã hội, không tách rời khỏi đời sống xã hội và được
duy trì trên cơ sở tuân thủ tự giác của các thành viên trong xã hội. Còn
quyền lực mà nhà nước xác lập là quyền lực công, nó không thuộc về mọi
thành viên trong xã hội mà chỉ thuộc về giai cấp thống trị trong xã hội và
nhằm để phục vụ cho giai cấp đó trong quý trình quản lý xã hội. Để thực
hiện quyền lực này và để quản lý xã hội, nhà nước có một lớp người đặc
biệt chuyên làm nhiệm vụ quản lý; họ tham gia vào các cơ quan nhà nước
và hình thành nên một bộ máy cưỡng chế để duy trì địa vị của giai cấp
thống trị, bắt các giai cấp khác phải phục tùng theo ý chí của giai cấp thống trị.
- Nhà nước có lãnh thổ và quản lý dân cư theo các đơn vị hành
chínhlãnh thổ
Nhà nước phân chia dân cư theo lãnh thổ để quản lý mà không phân
chia theo huyết thống, tôn giáo, giới tính…. Chính sự phân chia này đã tạo
ra các đơn vị hành chính lãnh thổ với những cơ quan quản lý nhất định
(tỉnh, huyện, xã của Việt Nam; bang, xã của các nhà nước liên bang…).
- Nhà nước có chủ quyền quốc gia 9 lOMoAR cPSD| 45734214
Chủ quyền quốc gia thể hiện ở quyền quyết định của nhà nước về các
vấn đề đối nội, đối ngoại và không phụ thuộc vào các quốc gia khác. Chủ
quyền quốc gia là thuộc tính gắn liền với nhà nước. Dấu hiệu chủ quyền
quốc gia thể hiện thông qua những mối ràng buộc về các quyền và nghĩa
vụ pháp lý giữa các công dân với nhà nước cũng như giữa nhà nước với
các nhà nước khác trên nguyên tắc độc lập, bình đẳng.
- Nhà nước là tổ chức duy nhất có quyền ban hành pháp luật vàbảo
đảm pháp luật được thực hiện
Để quản lý xã hội nhà nước có quyền ban hành ra một loại quy tắc đặc
biệt gọi là pháp luật để thông qua đó ghi nhận các yêu cầu, mệnh lệnh của
nhà nước đối với từng lĩnh vực hoạt động nhất định cũng như đảm bảo cho
các quy tắc đó được tôn trọng và nghiêm chỉnh thi hành theo ý chí của giai cấp thống trị.
- Nhà nước có quyền định ra và thu các loại thuế dưới hình thứcbắt buộc.
Để duy trì hoạt động của bộ máy nhà nước với số lượng không nhỏ
những người không tham gia trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất mà chỉ
chuyên môn làm nhiệm vụ quản lý và đồng thời để đáp ứng các nhu cầu
chi tiêu cho việc thực hiện các công việc chung của nhà nước thì nhà nước
đã đề ra và thu các loại thuế bắt buộc các đối tượng nhất định trong xã hội
phải cung cấp nguồn tài chính cho nhà nước. Thuế là khoản thu quan trọng
của nhà nước và chỉ thuộc về sự quy định của nhà nước, đồng thời nó cũng
thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa nhà nước và các tổ chức, cá nhân công dân.
Những đặc điểm trên đây nói lên sự khác nhau giữa nhà nước với các
tổ chức chính trị xã hội khác, đồng thời cũng phản ánh vị trí và vai trò của
nhà nước trong xã hội có giai cấp.
Từ những nghiên cứu trên đây, dưới góc độ pháp lý, ta có thể đưa ra
khái niệm chung nhất về nhà nước, theo đó: Nhà nước là một tổ chức đặc 10 lOMoAR cPSD| 45734214
biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế
và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội,
thực hiện mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội.
1.1.3. Chức năng của Nhà nước
Chức năng của nhà nước là những phương diện hoạt động cơ bản của
nhà nước, thể hiện bản chất giai cấp, ý nghĩa xã hội, mục đích và nhiệm
vụ của nhà nước.
Chức năng của nhà nước xuất phát từ bản chất của nhà nước, do cơ sở
kinh tế và cơ cấu giai cấp xã hội quyết định. Chức năng của nhà nước bao
gồm hai phương diện: Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.
+ Chức năng đối nội là những hoạt động chủ yếu của nhà nước trong
nội bộ đất nước. Chức năng này bao gồm các vấn đề như tổ chức và quản
lý kinh tế; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, trấn áp sự phản
kháng của giai cấp bóc lột đã bị lật đổ và âm mưu phản cách mạng khác;
chức năng tổ chức và quản lý văn hoá, giáo dục và các vấn đề xã hội khác.
+ Chức năng đối ngoại thể hiện vai trò của nhà nước trong mối quan
hệ với các nhà nước và các dân tộc khác. Chức năng này được thể hiện qua
việc bảo vệ nhà nước khỏi sự xâm lăng của nước ngoài và mở rộng quan
hệ hợp tác với các nước khác.
Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại có quan hệ mật thiết với
nhau. Việc xác định và thực hiện các chức năng đối ngoại luôn phải xuất
phát từ tình hình thực hiện các chức năng đối nội. Đồng thời, kết quả của
việc thực hiện các chức năng đối ngoại sẽ tác động mạnh mẽ tới việc tiến
hành các chức năng đối nội.
1.2. NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1.2.1. Bản chất và đặc trưng cơ bản của Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam
* Bản chất của Nhà nước ta 11 lOMoAR cPSD| 45734214
Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân, là tổ chức quyền lực chính trị của giai cấp công
nhân, nông dân và tầng lớp tri thức xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam. Tất cả các chính sách, pháp luật của nhà nước
đều được xây dựng và thực hiện xuất phát từ lợi ích của con người, cho con
người và vì con người.
Bản chất của nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam thể hiện ở tính giai
cấp công nhân và tính xã hội sâu sắc của nhà nước.
+ Tính giai cấp công nhân thể hiện ở chỗ nhà nước do giai cấp công
nhân thiết lập, lãnh đạo và thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu của giai cấp công
nhân Việt Nam, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động.
+ Tính xã hội được thể hiện ở các chính sách, hoạt động quản lý kinh
tế, văn hoá, giáo dục, khoa học, giải quyết những vấn đề về chính sách xã
hội nhằm không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
* Đặc trưng của Nhà nước ta
- Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước dân chủ thực sự và rộng rãi.
Mặc dù nước ta bước vào xây dựng CNXH từ điểm xuất phát thấp,
đến nay vẫn là một nước đang phát triển, nhưng một chế độ dân chủ XHCN
đã được thiết lập và đang từng bước hoàn thiện.
Với quan điểm phát triển, Điều 3 Hiến pháp 1992 đã chỉ rõ: Nhà nước
bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân
dân, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân
dân; xây dựng đất nước giàu mạnh, thực hiện công bằng xã hội, mọi người
có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
Quan điểm đó là kết quả của một quá trình tìm tòi, kiểm nghiệm và sáng
tạo được rút ra để định hướng cho sự phát triển của toàn bộ hệ thống chính
trị nước ta nói chung và nhà nước ta nói riêng. 12 lOMoAR cPSD| 45734214
Bản chất dân chủ của nhà nước ta được thể hiện một cách toàn diện,
trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa và xã hội.
- 2 Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên lãnh thổViệt Nam.
Đây là biểu hiện tập trung của khối đại đoàn kết các dân tộc anh em
cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Tính dân tộc của nhà nước Việt
Nam là vấn đề có tính lịch sử, truyền thống lâu dài, chính là nguồn gốc sức
mạnh của nhà nước. Ngày nay, đặc tính dân tộc ấy lại được tăng cường và
nâng cao nhờ khả năng kết hợp thống nhất giữa tính giai cấp, tính nhân
dân, tính dân tộc và tính thời đại. Điều 5 Hiến pháp có ghi nhận: Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là Nhà nước thống nhất của các dân
tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa
các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.
Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân
tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình.
Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số. -3
Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thể hiện tính xã hội rộngrãi.
Với mục tiêu xây dựng một xã hội văn minh, nhân đạo, bảo đảm công
bằng xã hội, Nhà nước Việt Nam đã quan tâm một cách đặc biệt và toàn
diện tới việc giải quyết các vấn đề của toàn xã hội như: Xây dựng các công
trình phúc lợi xã hội, đầu tư cho việc phòng chống thiên tai, giải quyết các
vấn đề bức xúc như chăm sóc sức khỏe nhân dân, giải quyết việc làm, an sinh xã hội...
Nhà nước không chỉ đặt ra cơ sở pháp lý mà còn thực hiện việc đầu tư
thỏa đáng cho việc giải quyết các vấn đề xã hội. Đồng thời coi việc giải 13 lOMoAR cPSD| 45734214
quyết các vấn đề này là nhiệm vụ của mọi cấp, mọi ngành và của Nhà nước nói chung. -4
Nhà nước thực hiện đường lối đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữunghị.
Bản chất nhà nước ta không chỉ được phản ánh trong các chính sách,
đường lối đối nội, mà còn thể hiện trong chính sách đối ngoại. Chính sách
và hoạt động đối ngoại của nhà nước ta thể hiện khát vọng hòa bình của
nhân dân ta, thể hiện mong muốn hợp tác trên tinh thần hòa bình, hữu nghị
và cùng có lợi với tất cả các quốc gia. Phương châm Việt Nam muốn làm
bạn với tất cả các nước trên thế giới thể hiện một đường lối ngoại giao mở
cửa của nhà nước ta (Điều 14 Hiến pháp).
1.2.2. Bộ máy nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Bộ máy Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hệ thống
các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương được tổ chức và hoạt
động theo những nguyên tắc chung, thống nhất nhằm thực hiện những
nhiệm vụ chiến lược và chức năng của Nhà nước nhằm thực hiện mục tiêu:
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
Bộ máy nhà nước được hợp thành từ nhiều cơ quan và tổ chức nhà
nước từ trung ương xuống địa phương, có cơ cấu tổ chức phức tạp, phong
phú và đa dạng. Mỗi cơ quan, tổ chức có vị trí, vai trò, chức năng và nhiệm
vụ riêng, nhưng chúng hợp thành một thể thống nhất, tổ chức và hoạt động
theo những nguyên tắc chung, cùng thực hiện các chức năng chung và
nhằm đạt được những mục tiêu thống nhất đặt ra trước nhà nước.
Bộ máy nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam được tổ chức thành bốn
phân hệ các cơ quan Nhà nước và một chức danh nguyên thủ quốc gia:
- Phân hệ các cơ quan quyền lực nhà nước (còn gọi là hệ thống các cơ
quan đại diện), gồm Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Các cơ quan
quyền lực nhà nước do nhân dân trực tiếp bầu ra, nhân danh nhân dân để 14 lOMoAR cPSD| 45734214
thể hiện và thực thi một cách thống nhất quyền lực, phải chịu trách nhiệm
và phải báo cáo trước nhân dân về mọi hoạt động của mình. Với tính chất
và chức năng như vậy, các cơ quan quyền lực có vị trí rất quan trọng, chúng
hợp thành hệ thống “xương sống” của bộ máy nhà nước.
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền
lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội được quy định tập trung tại Điều 84
Hiến pháp 1992, có thể chia thành 3 nhóm sau:
+ Quyền lập hiến và lập pháp (ban hành, sửa đổi, hủy bỏ, bãi bỏ, bổ
sung Hiến pháp và luật);
+ Quyền quyết định các công việc quan trọng nhất của đất nước. VD.
bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch
Quốc hội, Thủ tướng chính phủ…, quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội…
+ Quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước.
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại
diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân
địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan
Nhà nước cấp trên. (Điều 119 Hiến pháp 1992).
- Phân hệ cơ quan hành chính Nhà nước: đứng đầu là Chính phủ,
cáccơ quan hành chính Nhà nước khác ở trung ương, các cơ quan hành
chính Nhà nước ở địa phương: UBND các cấp, các cơ quan quản lí ngành,
chuyên môn (sở, phòng, ban...).
Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước;
bảo đảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm
việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm
chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm
ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân. 15 lOMoAR cPSD| 45734214
Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với
Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. (Điều 109 Hiến pháp 1992)
Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của
Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương, chịu trách
nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ quan Nhà nước
cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân (Điều 123 Hiến pháp 1992).
- Phân hệ cơ quan xét xử gồm Toà án nhân dân, Toà án quân sự, Toàán
khác được thành lập theo luật định. Trong tình hình đặc biệt Quốc hội có
thể thành lập toà án đặc biệt. Các tào án được lập ra để nhân danh nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chức năng xét xử (chỉ có
toà án mới có chức năng này).
Toà án nhân dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong
phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo
vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh
dự và nhân phẩm của công dân (Điều 126 Hiến pháp 1992).
- Phân hệ các cơ quan kiểm sát: gồm VKSND và VKSQS các cấp.Hệ
thống Viện kiểm sát ở nước ta được tổ chức thống nhất theo ngành dọc và
thực hiện chế độ thủ trưởng. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao lãnh đạo thống nhất toàn bộ hệ thống viện kiểm sát, có quyền
bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức đối với tất cả các thành viên của các Viện kiểm sát cấp dưới.
Viện kiểm sát nhân dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân,
bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do,
danh dự và nhân phẩm của công dân (Điều 126 Hiến pháp 1992). 16 lOMoAR cPSD| 45734214
+ Chủ tịch nước: là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước
trong các lĩnh vực đối nội, đối ngoại, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác
trước Quốc hội. Chủ tịch nước được bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội,
có nhiệm kì 5 năm, được trao nhiều quyền hạn rộng lớn trong cả ba lĩnh
vực lập pháp, hành pháp và tư pháp, là người giữ chức vụ Chủ tịch hội
đồng quốc phòng và an ninh. Chủ tịch nước không phải là một cơ quan
thuộc hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước hoặc cơ quan quản lý nhà nước...
Chủ tịch nước xét trên nhiều phương diện là cơ quan có vị trí đặc biệt
và giữ vai trò quan trọng trong việc bảo đảm sự phối hợp thống nhất giữa
các bộ phận của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Để bộ máy nhà nước có hiệu lực và hiệu quả trong việc quản lý xã hội
thì vấn đề quan trọng hàng đầu là phải bảo đảm cho nó có được một cơ cấu
tổ chức hợp lý, một cơ chế hoạt động đồng bộ và đội ngũ cán bộ có đủ năng
lực thực hiện những nhiệm vụ được giao. Tất cả những điều đó chỉ có thể
đạt được khi xác định đúng những nguyên tắc cơ bản làm cơ sở cho tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước.
* Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội
chủ nghĩa là những nguyên lý, những tư tưởng chỉ đạo đúng đắn,
khách quan và khoa học, phù hợp với bản chất của nhà nước xã hội
chủ nghĩa, tạo thành cơ sở cho tổ chức và hoạt động của các cơ quan
nhà nước và toàn thể bộ máy nhà nước.
Ở nước ta những nguyên tắc cơ bản đó bao gồm: nguyên tắc đảm
bảo quyền lực nhân dân trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước;
nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước; nguyên tắc
tập trung dân chủ; nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa và nguyên tắc bình
đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc.
-1. Nguyên tắc bảo đảm quyền lực nhân dân trong tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước. 17 lOMoAR cPSD| 45734214
Đây là nguyên tắc rất quan trọng trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước. Nguyên tắc này bắt nguồn từ bản chất của nhà nước ta:
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nội dung của nguyên tắc này thể
hiện ở ba phương diện:
+ Đảm bảo cho nhân dân tham gia đông đảo và tích cực vào việc tổ
chức lập ra bộ máy nhà nước. Khi đó nhân dân sẽ thể hiện được ý chí của
mình, phát huy quyền làm chủ bầu ra các cơ quan đại diện của mình và
thông qua hệ thống cơ quan đại diện để lập ra các cơ quan khác.
+ Phải bảo đảm cho nhân dân tham gia đông đảo vào việc quản lý các
công việc nhà nước và quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước.
+ Phải có cơ chế bảo đảm cho nhân dân thực hiện việc kiểm tra, giám
sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước, các tổ chức
và cá nhân khác được trao quyền hạn nhất định để quản lý một số công việc của nhà nước.
- 2. Nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước(Điều 4 Hiến pháp).
Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước thể hiện ở các mặt chủ yếu là:
Đảng vạch ra đường lối chính trị, những chủ trương và phương hướng lớn,
quyết định những vấn đề quan trọng về tổ chức bộ máy nhà nước, đồng
thời chỉ đạo quá trình xây dựng pháp luật ; thường xuyên theo dõi, kiểm
tra, hướng dẫn, chỉ đạo các cơ quan nhà nước hoạt động đúng đường lối
của Đảng và đào tạo cán bộ tăng cường cho bộ máy nhà nước.
- 3. Nguyên tắc tập trung dân chủ (Điều 6 Hiến pháp)
Đây là nguyên tắc thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa sự chỉ đạo tập trung
thống nhất của các cơ quan nhà nước ở trung ương và các cơ quan nhà nước
cấp trên với việc mở rộng dân chủ, phát huy tính chủ động, sáng tạo của
các cơ quan nhà nước ở địa phương và các cơ quan nhà nước cấp dưới.
- 4. Nguyên tắc pháp chế XHCN (Điều 12 Hiến pháp) 18 lOMoAR cPSD| 45734214
Nguyên tắc này đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà
nước phải được tiến hành theo đúng trình độ pháp luật trên cơ sở của pháp
luật; mọi cán bộ và nhân viên nhà nước đều phải nghiêm chỉnh và triệt để
tôn trọng pháp luật khi thực thi quyền hạn và nhiệm vụ của mình.
1.3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT
1.3.1. Nguồn gốc của pháp luật
* Pháp luật xuất hiện như một tất yếu khách quan
Trong chế độ cộng sản nguyên thủy, khi giai cấp chưa được hình thành,
mâu thuẫn giai cấp chưa xuất hiện thì xã hội đó chưa có pháp luật. Các tập
quán xuất hiện một cách tự phát, lúc đầu chỉ là những quy ước về cách thức
xử sự giữa các thành viên trong thị tộc nảy sinh trong cuộc sống lao động
tập thể và mối giao tiếp hàng ngày. Những quy ước này được truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác và trở thành thói quen, thành quy tắc xử sự chung
mang tính chất đạo đức và xã hội. Như vậy, trong xã hội lúc này, xã hội tồn
tại được là do sự tự giác tuân theo các phong tục tập quán của các thành
viên hay sự kính trọng và uy tín của các bô lão đối với các thành viên trong xã hội.
Vào giai đoạn cuối của xã hội nguyên thuỷ, do sự phát triển của LLSX
dẫn đến 3 lần phân công lao động chính, chế độ tư hữu hình thành và xuất
hiện giai cấp trong xã hội. Các tập quán, quy tắc xã hội nguyên thuỷ vẫn
tồn tại song rất nhiều đã trở nên bất lực, không có khả năng điều chỉnh các
QHXH. Trong tình hình đó, xuất hiện nhu cầu bức xúc là phải hình thành
một hệ thống các quy tắc xử sự mới thể hiện được ý chí và bảo vệ được lợi
ích của giai cấp thống trị. Khi đó, pháp luật ra đời.
* Các phương thức hình thành pháp luật trong lịch sử
Mỗi dân tộc ở các khu vực địa lí khác nhau thì sẽ có những đặc điểm
khác nhau trong sự hình thành pháp luật. Tuy nhiên, sự hình thành pháp
luật ở các khu vực khác nhau cũng có đặc điểm chung mang tính quy luật. 19 lOMoAR cPSD| 45734214
Về cơ bản, pháp luật hình thành qua những phương thức sau: tập quán
pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy phạm pháp luật.
Tập quán pháp: là hình thức nhà nước thừa nhận một số tập quán đã
lưu truyền trong xã hội, phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị, nâng
chúng thành những quy tắc xử sự chung được nhà nước đảm bảo thực hiện.
Đây là hình thức pháp luật xuất hiện sớm nhất và được sử dụng nhiều trong
các nhà nước chủ nô và nhà nước phong kiến. Trong nhà nước tư sản hình
thức này vẫn được sử dụng nhiều, nhất là ở các nhà nước có chế độ quân chủ.
Các hình thức thừa nhận tập quán pháp: tuyên bố thừa nhận một tập
quán nhất định; thừa nhận dưới dạng những nguyên tắc chung; thừa nhận
bằng cách im lặng để tập quán điều chỉnh các QHXH nhất định.
Tiền lệ pháp: là hình thức nhà nước thừa nhận các quyết định của các
cơ quan hành chính hoặc xét xử giải quyết những vụ việc cụ thể để áp dụng
đối với các vụ việc tương tự nảy sinh về sau. Hình thức này được sử dụng
nhiều trong các nhà nước chủ nô, được sử dụng rộng rãi trong các nhà nước
phong kiến và hiện nay vẫn chiếm vị trí quan trọng trong pháp luật tư sản, nhất là ở Anh, Mỹ.
Tiền lệ pháp hình thành không phải do hoạt động của cơ quan lập pháp
mà xuất hiện từ hoạt động của cơ quan hành pháp và tư pháp. Vì vậy, hình
thức này dễ tạo ra sự tùy tiện, không phù hợp với nguyên tắc pháp chế đòi
hỏi phải tôn trọng nguyên tắc tối cao của luật và phải phân định rõ chức
năng, quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy nhà nước trong việc xây
dựng và thực hiện pháp luật.
Văn bản quy phạm pháp luật. Đây là hình thức pháp luật tiến bộ nhất.
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành theo trình tự, thủ tục luật định, trong đó có các quy tắc xử
sự chung, được nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội. 20