Bài giữa kì - Ngân hàng đề thi Chính trị học đại cương | Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Chính trị là gì? Tại sao nói chính trị vừa là khoa học vừa là nghệ thuật? Tại sao nói quá độ lên CNXH ở Việt Nam là sự lựa chọn hợp quy luật. Như vậy, từ đây có thể khẳng định, thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam là một quyết định phù hợp với quy luật cũng như là đáp ứng đầy đủ nguyện vọng của nhân dân. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

1. Chính trị là gì? Tại sao nói chính trị vừa là khoa học vừa là nghệ thuật?
1.1. Chính trị là gì?
“Chính trị” một trong bốn lĩnh vực bản của đời sống hội, đó lĩnh vực bao
hàm những quan hệ, hiện tượng, những hình thức, khía cạnh khác nhau. Ở mỗi khía cạnh, mỗi
hình thức biểu hiện của lại dẫn tới một cách hiểu, các cảm nhận khác nhau, do đó thuật
ngữ “chính trị” mặc dù đã được đưa ra tranh luận từ rất sớm nhưng đến nay chúng ta vẫn chưa
thống kê được đầy đủ các quan điểm, định nghĩa khác nhau về chính trị.
Trên thế giới đã hình thành nhiều cách hiểu khác nhau về chính trị: theo nhà nước Hy
Lạp cổ đại “Chính trị công việc của nhà nước”, còn đối với Platôn “Chính trị là nghệ thuật
của phép cai trị”, “chính trị nghệ thuật cung đình”, đối với Arixtốt ông coi con người
“động vật chính trị”, “chính trị khoa học lãnh đạo con người”. Ngoài ra phương Đông,
người Trung Quốc cổ đại coi chính trị là sự tác động, điều tiết để hội phát triển đúng đắn,
là sắp đặt, quản lý xã hội để xã hội có kỷ cương, nề nếp, ổn định. Thời kì cận đại, Tôn Trung
Sơn định nghĩa “chính việc của dân chúng, trị quản lý, quản việc của dân chúng
chính trị”. Các nhà nghiên cứu Nhật Bản cho rằng “chính trị là hoạt động tìm kiếm những khả
năng áp đặt quyền lực chính trị”.
những cách hiểu khác nhau, chứa một số những nhân tố hợp nhất định,
nhưng những quan niệm chính trị trước Mác vẫn chưa có sự giải thích thoả đáng về nội dung
cơ bản nhất của phạm trù chính trị. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin: Chính trị về
thực chất chính lợi ích, quan hệ lợi ích, đấu tranh giai cấp trước hết lợi ích giai cấp.
Cái căn bản nhất của chính trị là việc tổ chức chính quyền nhà nước, là sự tham gia vào công
việc nhà nước, định hướng cho nhà nước, xác định hình thức, nội dung, nhiệm vụ của nhà
nước. Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, là việc xây dưng nhà nước về kinh tế. Đồng
thời, chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế. Chính trị là lĩnh vực phức
tạp, nhạy cảm nhất, liên quan đến vận mệnh hàng triệu con người, vậy giải quyết những
vẫn đề chính trị vừa khoa học, vừa nghệ thuật. Như vậy, định nghĩa trên của Lênin đã
cho ta thấy rằng, chính trị trước hết một hiện tượng lịch sử, xuất hiện gắn liền với những
điều kiện lịch sử xã hội cụ thể, đóthời điểmhội phát triển đến một giai đoạn nhất định,
khi hội bắt đầu sự phân chia về mặt lao động lợi ích, khi đó giai cấp bắt đầu xuất
hiện.
Như vậy từ tất cả các quan niệm trên, thể xem: Chính trị hoạt động trong lĩnh
vực quan hệ giữa các cấp, các dân tộc các quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức sử
dụng quyền lực nhà nước, sự tham gia của nhân dân vào công việc nhà nước và xã hội,
hoạt động thực tiễn của các giai cấp, đảng phái, nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng
thực tiễn của các giai cấp, đảng phái, nhà nước nhắm tìm kiếm những khả năng thực hiện
đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.
1.2. Tại sao nói chính trị vừa là khoa học vừa là nghệ thuật?
thể nói, chính trị vừa khoa học vừa nghệ thuật bởi các hoạt động chính trị có
ảnh hưởng rất lớn đến vận mệnh của một quốc gia hàng triệu con người. vậy, để đảm
bảo các hoạt động chính trị được thực hiện một cách trơn tru, chính trị không chỉ cần có tính
khoa học để đáp ứng được những yêu cầu trong thực tiễn đời sống mà còntính nghệ thuật
giúp tạo sự linh hoạt, mềm dẻo. chính trị vừamột khoa học, đồng thời là một nghệ thuật và
chính trị của giai cấp công nhân là chính trị nhân văn, chính trị của sự giải phóng con người.
Trước hết nói “Chính trị là khoa học” vì:
Thứ nhất, chính trị là một hiện tượng khách quan trong đời sống xã hội loài người khi
vừa xuất hiện cùng với giai cấp nhà nước, vừa gắn liền với quyền lực, đấu tranh cho giai
cấp và dân tộc. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, toàn bộ lịch sử loài người từ khi
có giai cấp là lịch sử đấu tranh giành, giữ quyền thống trị giữa những giai cấp.
Thứ hai, chính trị còn là một lĩnh vực tương đối độc lập trong đời sống xã hội loài người,
cần logic phát triển sức mạnh nội tại quy luật phát triển khách quan. Quy luật khách
quan, buộc chúng ta phải tính đến tất cả lực lượng, các nhóm, các đảng, các giải cấp. Chính trị
đòi hỏi chúng ta phải chú ý đến kinh nghiệm của quần chúng và của các nước, chứ không phải
chỉ căn cứ vào mong muốn, chính kiến và trình độ giác ngộ của một nhóm hay một đảng duy
nhất nào. Theo V.I. Lênin “Chính trị tính logic khách quan của nó, không phụ thuộc vào
những dự tính của cá nhân này hay cá nhân khác, của Đảng này hay Đảng khác”.
Thứ ba, chính trị một hệ thống các tri thức hoạt động theo đúng quy luật khách quan
bao gồm: Những tri thức từ tri thức kinh nghiệm đến tri thức lý luận hoàn chỉnh. Cùng với sự
phát triển của hiện thực chính trị, trải qua nhiều thế kỷ, những tưởng chính trị phát triển
thành những lý luận, học thuyết về chính trị.
Thứ bốn, chính trị là đặc quyền của giai cấp thống trị. Bản chất của chính trị là hoạt động
giành, giữ, tổ chức sử dụng quyền lực nhà nước. Bởi vậy khi giai cấp thống trị nắm
trong tay quyền lực chính trị, họ khả năng áp đặt, buộc người khác phục tùng. Do đó,
thể nói chính trị đặc quyền của giai cấp thống trị. Đây cũng một trong những yếu tố để
chứng minh “chính trị khoa học” được thể hiện chỗ hoạt động chính trị tức những
người lãnh đạo, quản khi đề ra các chủ trương, đường lối, xác định các chiến lược, kế
hoạch thực hiện, ... cần phải căn cứ khoa học tùy theo những đòi hỏi về tri thức chuyên
môn, chuyên ngành, lĩnh vực nhất định; đồng thời biết vận dụng đúng đắn các quy luật khách
quan kết hợp với tính năng động chủ quan của mình.
Thứ năm, chính trị được coi khoa học độc lập. Cũng như mọi lĩnh vực khoa học khác,
chính trị đối tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu riêng, đặc thù trong lĩnh vực
chính trị.
Chính trị mối quan hệ giữa các lực lượng, giai cấp trong việc giành, giữ thực thi
quyền lực nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu chủ yếu lợi cho các lực lượng, giai cấp
cầm quyền. Những người thực hiện các công việc trong quá trình chính trị đó chủ yếu
những nhà hoạt động chính trị - hay những “nhà chính trị” như cách nói của V.I.Lênin. Hoạt
động chính trị thường xuyên gặp phải những vấn đề những tình huống cùng phức tạp,
đòi hỏi họ cần phải có nghệ thuật.
Bởi vậy có thể nói “chính trị là nghệ thuật” vì:
Thứ nhất, chính trị những hoạt động liên quan đến việc tranh giành quyền lực, đấu
tranh sống còn nên buộc những người thực hiện những hoạt động này cần phải sử dụng mọi
biện pháp, thủ đoạn một cách khéo léo để đạt được mục tiêu, lợi ích chính trị. Lênin chỉ rõ:
“chính trị một khoa học một nghệ thuật không phải từ trên trời rơi xuống, đòi hỏi
một sự cố gắng, rằng giai cấp vô sản muốn thắng giai cấp sản thì phải đào tạo lấy “những
nhà chính trị giai cấp” thực sự của mình, những nhà chính trị sản không thua kém các
nhà chính trị của giai cấp sản”. Tuy nhiên, nếu chỉ kiến thức kinh nghiệm chưa thể
đảm bảo cho các nhà chính trị của giai cấp sản đạt tới tầm nghệ thuật cần thiết. Các nhà
chính trị của giai cấp sản rất cần phải thể hiện tính năng động, sáng tạo nhạy bén, kịp
thời xử những biến cố chính trị thực tiễn đầy biến động phức tạp thường diễn ra. Theo
Lênin, đối với các nhà chính trị muốn đạt tới nghệ thuật trong hoạt động thì “ngoài kiến thức
và kinh nghiệm - là tính nhạy bén chính trị cần thiết để giải quyết một cách chính xác và mau
lẹ những vấn đề chính trị phức tạp”.
Thứ hai, chính trị cần sự linh hoạt, mềm dẻo sáng tạo để thể nhanh chóng điều
chỉnh sao cho phù hợp với thực tiễn nhằm đạt được kết quả cao nhất. Theo Lênin, nghệ
thuật trong hoạt động chính trị, tức các nhà chính trị, đặc biệt những người lãnh đạo,
quản các quá trình chính trị phải hết sức mềm dẻo trong quá trình dẫn dắt các phong trào
chính trị, giải quyết những nhiệm vụ chính trị. Điều đó cho thấy, các nhà chính trị phải hết sức
mau lẹ, không được cứng nhắc khi xử các tình huống chính trị, thậm chí nhiều lúc cũng
phải thỏa hiệp với những nguyên tắc nhất định; cần phải mềm dẻo quyết đoán đưa ra các
quyết định chính trị; cần phải xuất phát từ thực tiễn khi thực tiễn luôn biến động theo
những quy luật khách quan của hội. Chính trị thì lại giống đại số hơn số học càng
giống toán học cao cấp hơn là toán học sơ đẳng. Lênin đã chỉ rõ: “khi mà chính trị đòi hỏi một
sự chuyển biến kiên quyết, một sự mềm dẻo một bước quá độ khéo léo thì những người
lãnh đạo phải hiểu được điều ấy”, rằng: “những người cộng sản tất cả các nước phải nhận
thức sâu sắc cần thiết phải hết sức mềm dẻo trong sách lược của mình. Hiện nay, phong
trào cộng sản đang phát triển một cách tuyệt diệu; cái đang còn thiếu, nhất các
nước tiên tiến, chính nhận thức đó nghệ thuật biết vận dụng nhận thức đó trong thực
tiễn”.
Thứ ba, chính trị phạm vi hoạt động rộng lớn phức tạp nên nhà hoạt động chính trị
phải là ngườikỹ năng, trí tuệ. Lênin đã từng chỉ ra rằng: “Những sự biến chính trị thường
thường rất rắc rối rất phức tạp. thể so sánh những sự biến đó với một cái dây xích.
Muốn nắm được tất cả cái dây xích, phải bám chắc lấy cái khâu chính của nó. Không thể tùy
tiện lựa chọn bất cứ cái khâu nào người ta muốn bám lấy đâu”. Nghệ thuật hoạt động
chính trị không chỉ nghệ thuật của những nhà lãnh đạo chính trị, cònnghệ thuật của
những nhà quản các quá trình chính trị. Lãnh đạo quản liên quan chặt chẽ với nhau
trong quá trình giải quyết, thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Do vậy, các nhà lãnh đạo, quản lý
rất cần phải được đào tạo qua trường, lớp rèn luyện trong thực tiễn hoạt động. Hơn nữa,
trong quá trình thâm nhập thực tiễn họ cần phải gần gũi với nhân dân, am hiểu tâm tư và giải
quyết được nguyện vọng của nhân dân. Chỉ có như vậy những nhà lãnh đạo, quản mới đạt
tới tầm nghệ thuật trong hoạt động của mình.
Thứ bốn, chính trịnghệ thuật xử tình huống vì trong quá trình hoạt động, nhà chính
trị cần xem xét kỹ lưỡng từng đường đi nước bước để đưa ra những giải pháp, hiệp ước trong
thời điểm quan trọng. Đó là nghệ thuật vận dụng tri thức luận kinh nghiệm thực tiễn để
xử lý các tình huống chính trị phúc tạp, vận dụng đúng đắn phép biện chứng giữa khách quan
chủ quan trong hoạt động, đấu tranh chính trị. Chính trị nghệ thuật nắm bắt xu hướng
của sự vận động hội và đưa ra những dự báo, dự đoán chính xác tình thế thờiđể
những quyết định kịp thời và đúng đắn.
Thứ năm, hoạt động chính trị nghệ thuật tổ chức lực lượng, sử dụng con người, nghệ
thuật vận động quần chúng, nghệ thuật tiến hành chiến tranh cách mạng. Cũng như nghệ thuật
của nhà lãnh đạo, nghệ thuật của những nhà quản lý trong các quá trình chính trị đòi hỏi họ rất
cần phải khéo léo sử dụng con người trong quá trình quản đất nước nói chung quản
kinh tế, văn hóa, hội nói riêng. Cùng với khéo sử dụng con người, nghệ thuật hoạt động
chính trị của các nhà lãnh đạo, quản của giai cấp sản đòi hỏi họ cần phải am hiểu cả
nghệ thuật đối ngoại, biết tiếp thu những kiến thức của nhân loại, đúc kết chúng thành những
tri thức, kinh nghiệm, kết luận của mình để vận dụng vào lãnh đạo, quản đất nước. Lênin
nêu rõ: “... bằng nghệ thuật biết hấp thụ toàn bộ kiến thức của nhân loại và hấp thụ nó sao cho
chủ nghĩa cộng sản, trong các đồng chí, không còn những điều học thuộc lòng,
những điều do chính các đồng chí đã nghiền ngẫm lại vànhững kết luận tất nhiên được rút
ra trên quan điểm giáo dục hiện đại”.
Ngoài ra, tính khoa học nghệ thuật trong chính trị mối quan hệ biện chứng. Bản
thân chính trị là khoa học cũng đã phản ánh tính nghệ thuật của nó. Chính trị là lĩnh vực nhạy
cảm liên quan đến vận mệnh con người do đó đòi hỏi người lãnh đạo phải khoa học, nhân
văn. Trong hoạt động thực tiễn tính nghệ thuật và khoa học gắn kết chặt chẽ với nhau.
Tóm lại, chính trị vừa khoa học vừa nghệ thuật bởi không những bao hàm
những yếu tố, quy luật khách quan nội tại mang tính khoa học, logic còn đòi
hỏi phải sự vận dụng khéo léo, sáng tạo, linh hoạt về sách lược của những luận
khoa học trong thực tiễn.
2. Tại sao nói quá độ lên CNXH ở Việt Nam là sự lựa chọn hợp quy luật
Thời kỳ quá độ thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc trên toàn bộ các mặt của đời
sống xã hội, tạo ra những tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết để hình thành một xã hội,
trong đó những nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa xã hội sẽ được thực hiện.
Xuất phát từ lý luận, vận dụng lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen vào công cuộc xậy
dựng hội chủ nghĩa nước Nga trước đây, V.I.Lênin đã phát triển luận về thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa hội. Thời kỳ quá độ là thời kỳ lịch sử bất cứ một quốc gia nào đi lên
chủ nghĩa hội cùng đều phải trải qua, ngay cả đối với những nước đã nền kinh tế rất
phát triển, bởi lẽ, các nước này, tuy lực lượng sản xuất phát triển cao, nhưng vẫn còn cần
phải cải tạo và cần xây dựng quan hệ sản xuất mới, xây dựng nền văn hóa mới. Dĩ nhiên, đối
với những nước đã phát triển, về khách quan có nhiều thuận lợi hơn, thời kỳ quá độthể sẽ
diễn ra ngắn hơn. Đối với Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa thì thời kỳ quá độ lên CNXH đóng vai trò vô cùng quan trọng,
và được coi là một sự lựa chọn đúng đắn, hợp quy luật.
Theo V.I.Lênin, sự cần thiết khách quan phải có thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là do đặc
điểm ra đời, phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa và cách mạng vô sản quy
định. Phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa ra đời sau khi cách mạng sản thành công,
giai cấp vô sản giành được chính quyền và bắt tay vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội –
giai đoạn đầu của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
Hơn nữa, sự phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa một thời kỳ lâu dài,
không thể ngay một lúc thể hoàn thiện được. Để phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng
suất lao động, xây dựng chế độ công hữuhội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, xây dựng kiểu
xã hội mới, cần phảithời gian. Nói cách khác, tính tất yếu phảithời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa hội. Từ sự phân tích như vậy, V.I.Lênin cho rằng cách mạng sản thắng lợi mới
chỉ là sự khởi đầu cho thời kỳ quá độ chủ nghĩa xã hội.
Phát triển theo con đường XHCN là phù hợp với quy luật khách quan của lịch sử. Sự biến đổi
của các hình thái KT-XH là quá tình lịch sử tự nhiên, hình thái KT-XH sau cao hơn hình thái
KT-XH trước tuân theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tình chất trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất.
Từ thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam được bắt đầu từ năm 1954 khi miền Bắc
bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH với những đặc điểm như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu:
“Đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng
lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Sau thắng lợi
của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước năm 1975, đất nước thống nhất, cả nước bước vào
thời kỳ quá độ đi lên CNXH.
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng
nền tảng vật chất kỹ thật của chủ nghĩa hội,... tiến dẫn lên chủ nghĩa hội, công
nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng
XHCN, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế xây dựng nền kinh tế mới, xây dựng
nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”. Điều này là tất yếu, sự lựa chọn hợp quy luật ở Việt Nam bởi:
Thứ nhất, đó về nguyên nhân từ yếu tố khách quan của quy luật lịch sử, toàn thế
giới đã bước vào thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH. Thực tiễn đã khẳng định CNTB là chế
độ xã hội đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng phải được thay bằng hình thái kinh tế
xã hội cộng sản chủ nghĩagiai đoạn đầu là giai đoạn xã hội XHCN. Cho dù hiện nay, với
những cố gắng để thích nghi với tình hình mới. CNTB thế giới vẫn đang những thành tựu
phát triển nhưng vẫn không vượt ra khỏi những mâu thuẫn bản của nó, những mâu thuẫn
này không dịu đi ngày càng phát triển gay gắt sâu sắc. CNTB không phải là tương lai
của loài người. Đặc điểm của thời đại ngày nay thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên
phạm vi toàn thế giới. Quá trình cải biến hội cũ, xây dựng hội mới - hội XHCN
không phải quá trình cải lương, duy ý chí, quá trình cách mạng sôi động trải qua
nhiều giai đoạn phát triển khách quan, hợp với quy luật lịch sử. Chủ nghĩa xã hội khoa học, tự
do, dân chủ và nhân đạo mà nhân dân ta và loài người tiến bộ đang vươn tới luôn địa diện cho
những giá trị tiến bộ của nhân loại, đại diện lợi ích của người lao động, là hình thái kinh tế
hội cao hơn chủ nghĩa tư bản. Quá trình cách mạng đó vì sự nghiệp cao cả giải phóng con
người, sự phát triển tự do toàn diện của con người, tiến bộ chung của loài người. Đi
theo dòng chảy của thời đại cũng tức đi theo quy luật phát triển tự nhiên của lịch sử. Đây
chính quy luật phù hợp với sự chuyển đổi đối với các nước đi lên XHCN trong thời đại
ngày nay, hay nói cách khác đấy chính là sự phù hợp với lý luận cách mạng ko ngừng của chủ
nghĩa Mác - Lênin.
Bởi vậy, sau cuộc cách mạng dân tộc dân chủ thành công, dưới sự lãnh đạo của Đảng
CSVN miền Bắc, nước ta chuyển ngay sang cách mạng XHCN, vừa xây dựng XHCN
miền Bắc, vừa đấu tranh chống Đế Quốc Mỹ ở miền Nam, đồng thời đấy cũng là sự phù hợp
với xu thế của thời đại ngày nay: CNTB với những mâu thuẫn ngày càng gay gắt sâu sắc
chắc chắn sẽ bị thay thế bởi hệ thống XHCN trên phạm vi toàn thế giới. CNTB không phải
tương lai của loài người. Đây xu hướng khách quan thích hợp với lịch sử. Nhà nước ta đã
thực hiện rõ điều này trên quan điểm: “Bỏ qua CNTB tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị
của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN nhưng hấp thu kế thừa những thành tựu
nhân loại đã đạt được dưới thời TBCN”. Đất nước ta còn yếu kém, nhiều tàn của chế
độ xã hội chiến tranh để lại. Công cuộc đi lên CNXH là một công việc khó khăn phức
tạp do đó cần phải thời gian để cải tạo hội, tạo điều kiện về vật chất tinh thần cho
CNXH.
Thứ hai, xuất phát từ nguyện vọng của nhân dân, Cách mạng Việt Nam phát triển
theo con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Tính tất yếu lịch sử ấy xuất hiện từ
những năm 20 của thế kỷ XX. Nhờ đi con đường ấy, nhân dân ta đã làm Cách Mạng tháng
Tám thành công, đã tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến hoàn thành sự nghiệp giải phóng
dân tộc. Ngày nay, chỉ đi lên CNXH mới giữ vững được độc lập, tự do cho dân tộc, mới
thực hiện được mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sự lựa
chọn con đường độc lập dân tộc và CNXH của nhân dân ta, như vậy là sự lựa chọn của chính
lịch sự dân tộc lại vừa phù hợp với xu thế của thời đại. Điều đó cũng đã thể hiện sự quá độ lên
CNXH bỏ qqua chế độ TBCN ở nước ta là một tất yếu lịch sử.
Thứ ba, xuất phát từ những thành tựu thực tế đã đạt được của Việt Nam qua hơn 30
năm thực hiện Cương lĩnh 199137 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng
và lãnh đạo, với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đất nước ta đã đạt được những
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta vượt qua khủng hoảng kinh tế đã trở thành
nước đang phát triển có thu nhập trung bình; đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
hội nhập quốc tế. Diện mạo đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Chính trị -
hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước
được nâng lên.Thành tựu xây dựng chủ nghĩahội và công cuộc đổi mới của Việt Nam hơn
90 năm qua không những được nhân dân ta ghi nhận, còn được cộng động quốc tế đánh
giá cao.
Như vậy, từ đây thể khẳng định, thời kỳ quá độ đi lên CNXH Việt Nam
một quyết định phù hợp với quy luật cũng như là đáp ứng đầy đủ nguyện vọng của nhân
dân. Đây thời quan trọng để Việt Nam xây dựng svật chất cho chủ nghĩa
hội, góp phần xây dựng nên một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tốt đẹp.
| 1/5

Preview text:

1. Chính trị là gì? Tại sao nói chính trị vừa là khoa học vừa là nghệ thuật? 1.1. Chính trị là gì?
“Chính trị” là một trong bốn lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội, đó là lĩnh vực bao
hàm những quan hệ, hiện tượng, những hình thức, khía cạnh khác nhau. Ở mỗi khía cạnh, mỗi
hình thức biểu hiện của nó lại dẫn tới một cách hiểu, các cảm nhận khác nhau, do đó thuật
ngữ “chính trị” mặc dù đã được đưa ra tranh luận từ rất sớm nhưng đến nay chúng ta vẫn chưa
thống kê được đầy đủ các quan điểm, định nghĩa khác nhau về chính trị.
Trên thế giới đã hình thành nhiều cách hiểu khác nhau về chính trị: theo nhà nước Hy
Lạp cổ đại “Chính trị là công việc của nhà nước”, còn đối với Platôn “Chính trị là nghệ thuật
của phép cai trị”, “chính trị là nghệ thuật cung đình”, đối với Arixtốt ông coi con người là
“động vật chính trị”, “chính trị là khoa học lãnh đạo con người”. Ngoài ra ở phương Đông,
người Trung Quốc cổ đại coi chính trị là sự tác động, điều tiết để xã hội phát triển đúng đắn,
là sắp đặt, quản lý xã hội để xã hội có kỷ cương, nề nếp, ổn định. Thời kì cận đại, Tôn Trung
Sơn định nghĩa “chính là việc của dân chúng, trị là quản lý, quản lý việc của dân chúng là
chính trị”. Các nhà nghiên cứu Nhật Bản cho rằng “chính trị là hoạt động tìm kiếm những khả
năng áp đặt quyền lực chính trị”.
Dù có những cách hiểu khác nhau, chứa một số những nhân tố hợp lý nhất định,
nhưng những quan niệm chính trị trước Mác vẫn chưa có sự giải thích thoả đáng về nội dung
cơ bản nhất của phạm trù chính trị. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin: Chính trị về
thực chất chính là lợi ích, quan hệ lợi ích, là đấu tranh giai cấp trước hết vì lợi ích giai cấp.
Cái căn bản nhất của chính trị là việc tổ chức chính quyền nhà nước, là sự tham gia vào công
việc nhà nước, là định hướng cho nhà nước, xác định hình thức, nội dung, nhiệm vụ của nhà
nước. Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, là việc xây dưng nhà nước về kinh tế. Đồng
thời, chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế. Chính trị là lĩnh vực phức
tạp, nhạy cảm nhất, liên quan đến vận mệnh hàng triệu con người, vì vậy giải quyết những
vẫn đề chính trị vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật. Như vậy, định nghĩa trên của Lênin đã
cho ta thấy rằng, chính trị trước hết là một hiện tượng lịch sử, xuất hiện gắn liền với những
điều kiện lịch sử xã hội cụ thể, đó là thời điểm xã hội phát triển đến một giai đoạn nhất định,
khi xã hội bắt đầu có sự phân chia về mặt lao động và lợi ích, khi đó giai cấp bắt đầu xuất hiện.
Như vậy từ tất cả các quan niệm trên, có thể xem: Chính trị là hoạt động trong lĩnh
vực quan hệ giữa các cấp, các dân tộc và các quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử
dụng quyền lực nhà nước, là sự tham gia của nhân dân vào công việc nhà nước và xã hội, là
hoạt động thực tiễn của các giai cấp, đảng phái, nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng

thực tiễn của các giai cấp, đảng phái, nhà nước nhắm tìm kiếm những khả năng thực hiện
đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.
1.2. Tại sao nói chính trị vừa là khoa học vừa là nghệ thuật?
Có thể nói, chính trị vừa là khoa học vừa là nghệ thuật bởi vì các hoạt động chính trị có
ảnh hưởng rất lớn đến vận mệnh của một quốc gia và hàng triệu con người. Vì vậy, để đảm
bảo các hoạt động chính trị được thực hiện một cách trơn tru, chính trị không chỉ cần có tính
khoa học để đáp ứng được những yêu cầu trong thực tiễn đời sống mà còn có tính nghệ thuật
giúp tạo sự linh hoạt, mềm dẻo. chính trị vừa là một khoa học, đồng thời là một nghệ thuật và
chính trị của giai cấp công nhân là chính trị nhân văn, chính trị của sự giải phóng con người.
Trước hết nói “Chính trị là khoa học” vì:
Thứ nhất, chính trị là một hiện tượng khách quan trong đời sống xã hội loài người khi nó
vừa xuất hiện cùng với giai cấp và nhà nước, vừa gắn liền với quyền lực, đấu tranh cho giai
cấp và dân tộc. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, toàn bộ lịch sử loài người từ khi
có giai cấp là lịch sử đấu tranh giành, giữ quyền thống trị giữa những giai cấp.
Thứ hai, chính trị còn là một lĩnh vực tương đối độc lập trong đời sống xã hội loài người,
cần có logic phát triển sức mạnh nội tại và quy luật phát triển khách quan. Quy luật khách
quan, buộc chúng ta phải tính đến tất cả lực lượng, các nhóm, các đảng, các giải cấp. Chính trị
đòi hỏi chúng ta phải chú ý đến kinh nghiệm của quần chúng và của các nước, chứ không phải
chỉ căn cứ vào mong muốn, chính kiến và trình độ giác ngộ của một nhóm hay một đảng duy
nhất nào. Theo V.I. Lênin “Chính trị có tính logic khách quan của nó, không phụ thuộc vào
những dự tính của cá nhân này hay cá nhân khác, của Đảng này hay Đảng khác”.
Thứ ba, chính trị là một hệ thống các tri thức hoạt động theo đúng quy luật khách quan
bao gồm: Những tri thức từ tri thức kinh nghiệm đến tri thức lý luận hoàn chỉnh. Cùng với sự
phát triển của hiện thực chính trị, trải qua nhiều thế kỷ, những tư tưởng chính trị phát triển
thành những lý luận, học thuyết về chính trị.
Thứ bốn, chính trị là đặc quyền của giai cấp thống trị. Bản chất của chính trị là hoạt động
giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước. Bởi vậy khi mà giai cấp thống trị nắm
trong tay quyền lực chính trị, họ có khả năng áp đặt, buộc người khác phục tùng. Do đó, có
thể nói chính trị là đặc quyền của giai cấp thống trị. Đây cũng là một trong những yếu tố để
chứng minh “chính trị là khoa học” được thể hiện ở chỗ hoạt động chính trị tức là những
người lãnh đạo, quản lý khi đề ra các chủ trương, đường lối, xác định các chiến lược, kế
hoạch thực hiện, ... cần phải có căn cứ khoa học tùy theo những đòi hỏi về tri thức chuyên
môn, chuyên ngành, lĩnh vực nhất định; đồng thời biết vận dụng đúng đắn các quy luật khách
quan kết hợp với tính năng động chủ quan của mình.
Thứ năm, chính trị được coi là khoa học độc lập. Cũng như mọi lĩnh vực khoa học khác,
chính trị có đối tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu riêng, đặc thù trong lĩnh vực chính trị.
Chính trị là mối quan hệ giữa các lực lượng, giai cấp trong việc giành, giữ và thực thi
quyền lực nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu chủ yếu có lợi cho các lực lượng, giai cấp
cầm quyền. Những người thực hiện các công việc trong quá trình chính trị đó chủ yếu là
những nhà hoạt động chính trị - hay những “nhà chính trị” như cách nói của V.I.Lênin. Hoạt
động chính trị thường xuyên gặp phải những vấn đề và những tình huống vô cùng phức tạp,
đòi hỏi họ cần phải có nghệ thuật.
Bởi vậy có thể nói “chính trị là nghệ thuật” vì:
Thứ nhất,
chính trị là những hoạt động có liên quan đến việc tranh giành quyền lực, đấu
tranh sống còn nên buộc những người thực hiện những hoạt động này cần phải sử dụng mọi
biện pháp, thủ đoạn một cách khéo léo để đạt được mục tiêu, lợi ích chính trị. Lênin chỉ rõ:
“chính trị là một khoa học và một nghệ thuật không phải từ trên trời rơi xuống, mà đòi hỏi
một sự cố gắng, rằng giai cấp vô sản muốn thắng giai cấp tư sản thì phải đào tạo lấy “những
nhà chính trị giai cấp” thực sự của mình, những nhà chính trị vô sản và không thua kém các
nhà chính trị của giai cấp tư sản”. Tuy nhiên, nếu chỉ có kiến thức và kinh nghiệm chưa thể
đảm bảo cho các nhà chính trị của giai cấp vô sản đạt tới tầm nghệ thuật cần thiết. Các nhà
chính trị của giai cấp vô sản rất cần phải thể hiện tính năng động, sáng tạo và nhạy bén, kịp
thời xử lý những biến cố chính trị thực tiễn đầy biến động và phức tạp thường diễn ra. Theo
Lênin, đối với các nhà chính trị muốn đạt tới nghệ thuật trong hoạt động thì “ngoài kiến thức
và kinh nghiệm - là tính nhạy bén chính trị cần thiết để giải quyết một cách chính xác và mau
lẹ những vấn đề chính trị phức tạp”.
Thứ hai, chính trị cần có sự linh hoạt, mềm dẻo và sáng tạo để có thể nhanh chóng điều
chỉnh sao cho phù hợp với thực tiễn nhằm đạt được kết quả cao nhất. Theo Lênin, có nghệ
thuật trong hoạt động chính trị, tức là các nhà chính trị, đặc biệt là những người lãnh đạo,
quản lý các quá trình chính trị phải hết sức mềm dẻo trong quá trình dẫn dắt các phong trào
chính trị, giải quyết những nhiệm vụ chính trị. Điều đó cho thấy, các nhà chính trị phải hết sức
mau lẹ, không được cứng nhắc khi xử lý các tình huống chính trị, thậm chí nhiều lúc cũng
phải thỏa hiệp với những nguyên tắc nhất định; cần phải mềm dẻo và quyết đoán đưa ra các
quyết định chính trị; cần phải xuất phát từ thực tiễn khi mà thực tiễn luôn biến động theo
những quy luật khách quan của xã hội. Chính trị thì lại giống đại số hơn là số học và càng
giống toán học cao cấp hơn là toán học sơ đẳng. Lênin đã chỉ rõ: “khi mà chính trị đòi hỏi một
sự chuyển biến kiên quyết, một sự mềm dẻo và một bước quá độ khéo léo thì những người
lãnh đạo phải hiểu được điều ấy”, rằng: “những người cộng sản ở tất cả các nước phải nhận
thức sâu sắc là cần thiết phải hết sức mềm dẻo trong sách lược của mình. Hiện nay, phong
trào cộng sản đang phát triển một cách tuyệt diệu; cái mà nó đang còn thiếu, nhất là ở các
nước tiên tiến, chính là nhận thức đó và nghệ thuật biết vận dụng nhận thức đó trong thực tiễn”.
Thứ ba, chính trị có phạm vi hoạt động rộng lớn và phức tạp nên nhà hoạt động chính trị
phải là người có kỹ năng, trí tuệ. Lênin đã từng chỉ ra rằng: “Những sự biến chính trị thường
thường rất rắc rối và rất phức tạp. Có thể so sánh những sự biến đó với một cái dây xích.
Muốn nắm được tất cả cái dây xích, phải bám chắc lấy cái khâu chính của nó. Không thể tùy
tiện lựa chọn bất cứ cái khâu nào mà người ta muốn bám lấy đâu”. Nghệ thuật hoạt động
chính trị không chỉ là nghệ thuật của những nhà lãnh đạo chính trị, mà còn là nghệ thuật của
những nhà quản lý các quá trình chính trị. Lãnh đạo và quản lý liên quan chặt chẽ với nhau
trong quá trình giải quyết, thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Do vậy, các nhà lãnh đạo, quản lý
rất cần phải được đào tạo qua trường, lớp và rèn luyện trong thực tiễn hoạt động. Hơn nữa,
trong quá trình thâm nhập thực tiễn họ cần phải gần gũi với nhân dân, am hiểu tâm tư và giải
quyết được nguyện vọng của nhân dân. Chỉ có như vậy những nhà lãnh đạo, quản lý mới đạt
tới tầm nghệ thuật trong hoạt động của mình.
Thứ bốn, chính trị là nghệ thuật xử lý tình huống vì trong quá trình hoạt động, nhà chính
trị cần xem xét kỹ lưỡng từng đường đi nước bước để đưa ra những giải pháp, hiệp ước trong
thời điểm quan trọng. Đó là nghệ thuật vận dụng tri thức lý luận và kinh nghiệm thực tiễn để
xử lý các tình huống chính trị phúc tạp, vận dụng đúng đắn phép biện chứng giữa khách quan
và chủ quan trong hoạt động, đấu tranh chính trị. Chính trị là nghệ thuật nắm bắt xu hướng
của sự vận động xã hội và đưa ra những dự báo, dự đoán chính xác tình thế và thời cơ để có
những quyết định kịp thời và đúng đắn.
Thứ năm, hoạt động chính trị là nghệ thuật tổ chức lực lượng, sử dụng con người, nghệ
thuật vận động quần chúng, nghệ thuật tiến hành chiến tranh cách mạng. Cũng như nghệ thuật
của nhà lãnh đạo, nghệ thuật của những nhà quản lý trong các quá trình chính trị đòi hỏi họ rất
cần phải khéo léo sử dụng con người trong quá trình quản lý đất nước nói chung và quản lý
kinh tế, văn hóa, xã hội nói riêng. Cùng với khéo sử dụng con người, nghệ thuật hoạt động
chính trị của các nhà lãnh đạo, quản lý của giai cấp vô sản đòi hỏi họ cần phải am hiểu cả
nghệ thuật đối ngoại, biết tiếp thu những kiến thức của nhân loại, đúc kết chúng thành những
tri thức, kinh nghiệm, kết luận của mình để vận dụng vào lãnh đạo, quản lý đất nước. Lênin
nêu rõ: “... bằng nghệ thuật biết hấp thụ toàn bộ kiến thức của nhân loại và hấp thụ nó sao cho
chủ nghĩa cộng sản, ở trong các đồng chí, không còn là những điều học thuộc lòng, mà là
những điều do chính các đồng chí đã nghiền ngẫm lại và là những kết luận tất nhiên được rút
ra trên quan điểm giáo dục hiện đại”.
Ngoài ra, tính khoa học và nghệ thuật trong chính trị có mối quan hệ biện chứng. Bản
thân chính trị là khoa học cũng đã phản ánh tính nghệ thuật của nó. Chính trị là lĩnh vực nhạy
cảm liên quan đến vận mệnh con người do đó đòi hỏi người lãnh đạo phải khoa học, nhân
văn. Trong hoạt động thực tiễn tính nghệ thuật và khoa học gắn kết chặt chẽ với nhau.
Tóm lại, chính trị vừa là khoa học vừa là nghệ thuật bởi nó không những bao hàm
những yếu tố, quy luật khách quan và nội tại mang tính khoa học, logic mà nó còn đòi
hỏi phải có sự vận dụng khéo léo, sáng tạo, linh hoạt về sách lược của những lý luận
khoa học trong thực tiễn.

2. Tại sao nói quá độ lên CNXH ở Việt Nam là sự lựa chọn hợp quy luật
Thời kỳ quá độ là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc trên toàn bộ các mặt của đời
sống xã hội, tạo ra những tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết để hình thành một xã hội, mà
trong đó những nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa xã hội sẽ được thực hiện.
Xuất phát từ lý luận, vận dụng lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen vào công cuộc xậy
dựng xã hội chủ nghĩa ở nước Nga trước đây, V.I.Lênin đã phát triển lý luận về thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Thời kỳ quá độ là thời kỳ lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào đi lên
chủ nghĩa xã hội cùng đều phải trải qua, ngay cả đối với những nước đã có nền kinh tế rất
phát triển, bởi lẽ, ở các nước này, tuy lực lượng sản xuất phát triển cao, nhưng vẫn còn cần
phải cải tạo và cần xây dựng quan hệ sản xuất mới, xây dựng nền văn hóa mới. Dĩ nhiên, đối
với những nước đã phát triển, về khách quan có nhiều thuận lợi hơn, thời kỳ quá độ có thể sẽ
diễn ra ngắn hơn. Đối với Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa thì thời kỳ quá độ lên CNXH đóng vai trò vô cùng quan trọng,
và được coi là một sự lựa chọn đúng đắn, hợp quy luật.
Theo V.I.Lênin, sự cần thiết khách quan phải có thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là do đặc
điểm ra đời, phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa và cách mạng vô sản quy
định. Phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa ra đời sau khi cách mạng vô sản thành công,
giai cấp vô sản giành được chính quyền và bắt tay vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội –
giai đoạn đầu của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
Hơn nữa, sự phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ lâu dài,
không thể ngay một lúc có thể hoàn thiện được. Để phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng
suất lao động, xây dựng chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, xây dựng kiểu
xã hội mới, cần phải có thời gian. Nói cách khác, tính tất yếu phải có thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Từ sự phân tích như vậy, V.I.Lênin cho rằng cách mạng vô sản thắng lợi mới
chỉ là sự khởi đầu cho thời kỳ quá độ chủ nghĩa xã hội.
Phát triển theo con đường XHCN là phù hợp với quy luật khách quan của lịch sử. Sự biến đổi
của các hình thái KT-XH là quá tình lịch sử tự nhiên, hình thái KT-XH sau cao hơn hình thái
KT-XH trước và tuân theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tình chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất.
Từ thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam được bắt đầu từ năm 1954 khi miền Bắc
bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH với những đặc điểm như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu:
“Đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng
lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Sau thắng lợi
của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước năm 1975, đất nước thống nhất, cả nước bước vào
thời kỳ quá độ đi lên CNXH.
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng
nền tảng vật chất và kỹ thật của chủ nghĩa xã hội,... tiến dẫn lên chủ nghĩa xã hội, có công
nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng
XHCN, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là
nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”. Điều này là tất yếu, sự lựa chọn hợp quy luật ở Việt Nam bởi:
Thứ nhất, đó là về nguyên nhân từ yếu tố khách quan của quy luật lịch sử, toàn thế
giới đã bước vào thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH. Thực tiễn đã khẳng định CNTB là chế
độ xã hội đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng phải được thay bằng hình thái kinh tế
xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là giai đoạn xã hội XHCN. Cho dù hiện nay, với
những cố gắng để thích nghi với tình hình mới. CNTB thế giới vẫn đang có những thành tựu
phát triển nhưng vẫn không vượt ra khỏi những mâu thuẫn cơ bản của nó, những mâu thuẫn
này không dịu đi mà ngày càng phát triển gay gắt và sâu sắc. CNTB không phải là tương lai
của loài người. Đặc điểm của thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên
phạm vi toàn thế giới. Quá trình cải biến xã hội cũ, xây dựng xã hội mới - xã hội XHCN
không phải là quá trình cải lương, duy ý chí, mà là quá trình cách mạng sôi động trải qua
nhiều giai đoạn phát triển khách quan, hợp với quy luật lịch sử. Chủ nghĩa xã hội khoa học, tự
do, dân chủ và nhân đạo mà nhân dân ta và loài người tiến bộ đang vươn tới luôn địa diện cho
những giá trị tiến bộ của nhân loại, đại diện lợi ích của người lao động, là hình thái kinh tế xã
hội cao hơn chủ nghĩa tư bản. Quá trình cách mạng đó vì sự nghiệp cao cả là giải phóng con
người, vì sự phát triển tự do và toàn diện của con người, vì tiến bộ chung của loài người. Đi
theo dòng chảy của thời đại cũng tức là đi theo quy luật phát triển tự nhiên của lịch sử. Đây
chính là quy luật phù hợp với sự chuyển đổi đối với các nước đi lên XHCN trong thời đại
ngày nay, hay nói cách khác đấy chính là sự phù hợp với lý luận cách mạng ko ngừng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Bởi vậy, sau cuộc cách mạng dân tộc dân chủ thành công, dưới sự lãnh đạo của Đảng
CSVN ở miền Bắc, nước ta chuyển ngay sang cách mạng XHCN, vừa xây dựng XHCN ở
miền Bắc, vừa đấu tranh chống Đế Quốc Mỹ ở miền Nam, đồng thời đấy cũng là sự phù hợp
với xu thế của thời đại ngày nay: CNTB với những mâu thuẫn ngày càng gay gắt và sâu sắc
chắc chắn sẽ bị thay thế bởi hệ thống XHCN trên phạm vi toàn thế giới. CNTB không phải là
tương lai của loài người. Đây là xu hướng khách quan thích hợp với lịch sử. Nhà nước ta đã
thực hiện rõ điều này trên quan điểm: “Bỏ qua CNTB tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị
của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN nhưng hấp thu kế thừa những thành tựu
mà nhân loại đã đạt được dưới thời TBCN”. Đất nước ta còn yếu kém, nhiều tàn dư của chế
độ xã hội cũ và chiến tranh để lại. Công cuộc đi lên CNXH là một công việc khó khăn phức
tạp do đó cần phải có thời gian để cải tạo xã hội, tạo điều kiện về vật chất và tinh thần cho CNXH.
Thứ hai, xuất phát từ nguyện vọng của nhân dân, Cách mạng Việt Nam phát triển
theo con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Tính tất yếu lịch sử ấy xuất hiện từ
những năm 20 của thế kỷ XX. Nhờ đi con đường ấy, nhân dân ta đã làm Cách Mạng tháng
Tám thành công, đã tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến hoàn thành sự nghiệp giải phóng
dân tộc. Ngày nay, chỉ có đi lên CNXH mới giữ vững được độc lập, tự do cho dân tộc, mới
thực hiện được mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sự lựa
chọn con đường độc lập dân tộc và CNXH của nhân dân ta, như vậy là sự lựa chọn của chính
lịch sự dân tộc lại vừa phù hợp với xu thế của thời đại. Điều đó cũng đã thể hiện sự quá độ lên
CNXH bỏ qqua chế độ TBCN ở nước ta là một tất yếu lịch sử.
Thứ ba, xuất phát từ những thành tựu thực tế đã đạt được của Việt Nam qua hơn 30
năm thực hiện Cương lĩnh 1991 và 37 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng
và lãnh đạo, với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đất nước ta đã đạt được những
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta vượt qua khủng hoảng kinh tế đã trở thành
nước đang phát triển có thu nhập trung bình; đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế. Diện mạo đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Chính trị -
xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước
được nâng lên.Thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội và công cuộc đổi mới của Việt Nam hơn
90 năm qua không những được nhân dân ta ghi nhận, mà còn được cộng động quốc tế đánh
giá cao. Như vậy, từ đây có thể khẳng định, thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam là
một quyết định phù hợp với quy luật cũng như là đáp ứng đầy đủ nguyện vọng của nhân
dân. Đây là thời kì quan trọng để Việt Nam xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã
hội, góp phần xây dựng nên một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tốt đẹp.