BÀI HỌC VÀ KINH NGHIỆM VỀ VẤN ĐỀ NGOẠI GIAO Thông QUA ĐẠI VIỆT SỬ KÍ TOÀN THƯ | Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam | Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố HCM
Chủ đề này trong khóa học "Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam" tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, chủ yếu tập trung vào việc rút ra bài học và kinh nghiệm từ lịch sử về vấn đề ngoại giao thông qua việc nghiên cứu Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Sinh viên sẽ được tìm hiểu về các chiến lược, thỏa thuận và sự kiện ngoại giao quan trọng trong quá khứ, và làm thế nào những kinh nghiệm đó có thể được áp dụng vào thực tiễn ngoại giao hiện đại. Mục tiêu của chủ đề này là giúp sinh viên hiểu sâu hơn về tầm quan trọng của ngoại giao trong việc bảo vệ và thúc đẩy lợi ích quốc gia, cũng như rèn luyện khả năng phân tích và áp dụng lịch sử vào việc đưa ra quyết định ngoại giao trong tương lai.
Môn: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (LSD01)
Trường: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 41487147
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHXH&NV – ĐHQG TPHCM BÀI THI CUỐI KÌ
NHỮNG TÁC PHẨM SỬ HỌC PHONG KIẾN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI: BÀI HỌC VÀ KINH NGHIỆM QUÝ GIÁ VỀ
ĐƯỜNG LỐI NGOẠI GIAO QUA CÁC TRIỀU ĐẠI PHONG KIẾN ĐINH,LÝ,TRẦN
Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS Trần Thị Mai.
Sinh viên thực hiện: Võ Khánh Vy. MSSV: 2256040112. Lớp: 22604 lOMoAR cPSD| 41487147 Niên khóa:
BÀI HỌC VÀ KINH NGHIỆM VỀ VẤN ĐỀ NGOẠI GIAO THÔNG QUA ĐẠI VIỆT SỬ KÍ TOÀN THƯ Lời nói đầu :
Trong suốt mấy nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, không ít lần
chúng ta phải đương đầu với những kẻ thù lớn mạnh từ phương Bắc hay
phương Tây, từ thời phong kiến cho đến hiện tại. Dù vậy, nước Việt Nam ta
vẫn có thể chống lại sự đô hộ của những thế lực lớn đó, giành được độc
lập dân tộc, tạo nên nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam hiện nay.
Mặt trận quân sự, mặt trận chính trị, mặt ngoại giao hay những mặt trận
khác đều đóng vai trò quan trọng trong những chiến thắng lẫy lừng của
nước ta từ xưa đến nay. Dù cho quân sự được xem như là yếu tố quan
trọng nhất để dẫn tới chiến thắng nhưng cũng không thể phủ nhận sự đóng
góp của các mặt khác, đặc biệt là mặt trận ngoại giao.
Từ xưa, ông cha ta đã thể hiện tầm quan trọng của việc ngoại giao bên cạnh
chiến thuật quân sự, điển hình là hoạt động bang giao với tư tưởng “hòa
hiếu” đã tiên phong trong việc ngăn chặn chiến tranh, giữ gìn bình yên cho xã
tắc và bảo vệ vững chắc bờ cõi nước nhà. Tư tưởng quan trọng này đã được
thể hiện rõ trong Binh thư yếu lược, được Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc
Tuấn nhấn mạnh: “Hòa mục là đạo rất hay trong việc trị nước, hành binh.
Hòa ở trong nước thì ít phải dùng binh, hòa ở ngoài biên thì không sợ báo
động” tức nghĩa là chính sách ngoại giao rất quan trọng trong việc trị nước,
trong nước yên ổn thì không cần dùng binh, biên giới ổn thỏa thì không cần gây ra chiến tranh.
Là một sinh viên khoa Lịch sử, em tin rằng bản thân có trách nhiệm làm rõ
tầm quan trọng của ngoại giao đối với việc xây dựng và bảo vệ đất nước,
làm theo lời Đảng và Nhà nước, phát huy tinh thần năng động sáng tạo của
người trê thời đại mới. I. PHẦN MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài :
Vấn đề ngoại giao từ xưa đến nay luôn là vấn đề quan trọng luôn được bất
kỳ quốc gia nào quan tâm. Sau khi Việt Nam kết thúc thời kỳ Bắc thuộc kéo
dài một ngàn năm của mình để lập nên nhà nước lOMoAR cPSD| 41487147
phong kiến, mỗi đời vua đều có chính sách bang giao khác nhau để gìn giữ
đất nước chống lại kẻ thù xâm lược. Tuy nhiên cũng có những vị vua lại đưa
ra chính sách sai lầm, đẩy nước nhà rơi vào cảnh đô hộ.
Ngoại giao là một nét đặc sắc thể hiện tài năng mưu lược, chiến lược của các
nhà cầm quyền thời xưa. Có người chọn kiên quyết đấu tranh chống giặc
ngoại xâm, có người lại chọn tạm thời hòa hoãn, nhún nhường để xây dựng
lực lượng, có người lại dùng ngòi bút của mình mà viết nên những dòng thơ,
câu văn khiến sứ thần nể phục, cũng có người khi đi sứ lại có thể học hỏi
được những cái hay, cái tốt của nước bạn đem về làm giàu cho nước mình,
lại có người dùng hôn nhân của mình đổi lấy cho quốc gia đồng minh và một phần lãnh thổ.
Chính sách ngoại giao muôn hình muôn vẻ lại đầy thú vị nên em chọn đề tài
“Lịch sử ngoại giao của dân tộc Việt Nam thời phong kiến” để nghiên cứu về
những chính sách ngoại giao từng được đưa ra trong quá khứ, từ đó thấy
tinh thần bảo vệ tổ quốc của người xưa và đúc kết được bài học kinh
nghiệm để áp dụng trong tương lai, tránh phạm phải sai lầm.
Trong quá trình học tập và nghiên cứu em nhận thấy vấn đề ngoại giao được
nhắc nhiều trong bộ sách Đại Việt sử kí toàn thư qua đó để lại nhiều bài học
kinh nghiệm sâu sắc trong chiến lược, lối hòa hiếu để giữ vững nền độc lập
cho quốc gia, bộ sách còn ghi nhận một cách khá khách quan, đầy đủ những
chính sách mà các triều đại phong kiến đã áp dụng trong đường hướng ngoại
giao từ đó cũng chỉ ra được nhiều phương diện khác của đất nước ta thời kì
trước như kinh tế, chính trị, xã hội. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi nhận những
cuộc chiến và tranh chấp với các nước láng giềng như nhà Đại Cồ Việt với
Champa, Trung Quốc và các nước xung quanh Đông Nam Á. Tác phẩm cũng
miêu tả những cuộc đàm phán và hiệp ước ngoại giao với các triều đại khác như Lý, Trần và Lê.
Ý nghĩa của việc xem xét vấn đề ngoại giao qua Đại Việt Sử Ký Toàn Thư là
giúp hiểu rõ bối cảnh lịch sử và quan hệ giữa Đại Việt với các quốc gia khác
trong quá khứ. Nó cũng cho thấy một số nguyên tắc và chiến lược của vương
triều trong việc thiết lập và quản lý quan hệ đối ngoại. Qua việc nghiên cứu
tác phẩm này, ta có thể hiểu rõ hơn về cách mà ngoại giao thời phong kiến
đã ảnh hưởng đến sự phát triển của Đại Việt và vị thế của nó trong khu vực Đông Nam Á thời đó. lOMoAR cPSD| 41487147
Mục tiêu nghiên cứu :
-Tìm hiểu và giải thích được mục đích, ưu nhược điểm, tác động của các
chính sách ngoại giao từ thời nhà Đinh đến thời nhà Trần.
- Hiểu rõ về quyền lực và quan hệ quốc tế trong thời phong kiến.
- Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách ngoại giao của các quốc gia phong kiến.
- Nghiên cứu về cách thức và phương pháp thực hiện chính sách ngoại
giao trong thời phong kiến.
- Tìm hiểu về tầm vóc và sự ảnh hưởng của các quốc gia phong kiến trong quan hệ quốc tế.
- Đánh giá các mục tiêu và kết quả của chính sách ngoại giao của các quốc gia phong kiến.
-Tìm ra được kết quả của những chính sách này ảnh hưởng như thế nào tới
nước ta thời điểm đó. Từ đó liên hệ với chính sách ngoại giao ở Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu :
- Xác lập cơ sở lý luận, các khái niệm có liên quan đến vấn đề nghiên
cứu như các khái niệm có liên quan đến ngoại giao, chính sách hòa
hoãn, liên kết khu vực, các tổ chức tầm quốc tế.
- Phân tích những nét nổi bật, độc đáo của chính sách ngoại giao các thời
kì, nêu được mặt uu và nhược điểm của nó cũng như nhận xét dưới góc nhìn lịch sử.
- Thu thập tài liệu từ nhiều nguồn chính thống để có góc nhìn toàn diện về
vấn đề cần nghiên cứu, tránh tình trạng chủ quan, hiểu biết sai lầm về sự
kiện lịch sử. Đọc, tìm hiểu, viết và trình bày rõ ràng, súc tích về đề tài nghiên cứu.
- So sánh những biện pháp ngoại giao trong cùng thời kỳ và so với hiện
nay, từ đó rút ra bài học và kinh nghiệm cho tương lai.
- Hiểu rõ về quyền lực và quan hệ quốc tế trong thời phong kiến.
- Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách ngoại giao của các quốc gia phong kiến.
- Nghiên cứu về cách thức và phương pháp thực hiện chính sách ngoại
giao trong thời phong kiến. lOMoAR cPSD| 41487147
- Tìm hiểu về tầm vóc và sự ảnh hưởng của các quốc gia phong kiến trong quan hệ quốc tế.
- Đánh giá các mục tiêu và kết quả của chính sách ngoại giao của các quốc gia phong kiến.
Đối tượng nghiên cứu :
Chính sách ngoại giao của nước ta từ thời nhà Đinh đến thời nhà Trần và từ
năm 1945, sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập cho
đến nay. Dựa vào đó rút ra kinh nghiệm đúng đắn cho đường lối ngoại giao
của Đảng thời đại mới. Phạm vi nghiên cứu :
Không chỉ nghiên cứu riêng ở Việt Nam mà còn ở các nước láng giềng
nước ta như Xiêm La, Trung Quốc ngày xưa và những nước thiết lập
quan hệ ngoại giao với nước ta hiện nay.
Ngoài vấn đề ngoại giao còn nhắc về chính trị, nghệ thuật quân sự của Việt
Nam và một số nước liên quan đến đề tài nghiên cứu để dễ dàng làm rõ hơn
về chính sách ngoại giao. Hướng tiếp cận :
Tiếp cận liên ngành : không chỉ tìm tài liệu, thông tin thuộc về ngành lịch sử
mà còn phải liên hệ đến các ngành liên quan như Chính trị học, Văn tự học,
Khảo cổ học,... Ngoài tư liệu ở Việt Nam, chúng ta cũng phải sưu tầm thêm
những tư liệu của nước ngoài để làm phong phú thêm bài nghiên cứu của mình.
Tiếp cận định tính : cách xem xét đổi tượng nghiên cứu thông qua ý nghĩ
hay sự hiểu về bản chất của đối tượng nghiên cứu. Dữ liệu thu thập được
theo cách tiêp cận này mang tính chât cảm tính, thường dưới dạng câu từ,
hình ảnh từ tài liệu, từ quan sát và sao chép... Với tiếp cận định tính, ta
nghiên cứu thường hướng vào việc lựa chọn các phương pháp thu thập dữ
liệu. Trong đề tài nghiên cứu này chủ yếu lấy thông tin từ tài liệu, văn bản ngày xưa.
Phương pháp nghiên cứu :
Phương pháp lịch sử : phục dựng lại tình huống, sự kiện lịch sử để hiểu
thêm vì sao các nhà cầm quyền thời ấy vì sao lại đưa ra chính sách ngoại
giao như vậy. Phân tích tác động của chính sách đó đối với Việt Nam nói
riêng và những nước khác Trình bày được quá trình cải cách, đổi mới
phương diện ngoại giao và sự ảnh hưởng của nó lOMoAR cPSD| 41487147
đối với các phương diện khác như quân sự, chính trị, văn hóa,... Cần phải
phối hợp với phương pháp logic để bài nghiên cứu được tốt hơn.
Phương pháp logic : kết hợp với phương pháp lịch sử để bài nghiên cứu
có tính logic. Tránh được tình trạng máy móc, định kiến, chủ quan, xa rời
thực tế, không phù hợp với quy luật phát triển của sự vật hiện tượng.
Phương pháp so sánh : khi nghiên cứu về vấn đề ngoại giao cần có những
bài phân tích, so sánh đồng đại, lịch đại để đánh giá sâu hơn về thời điểm
chính sách ngoại giao đó được đưa ra. Cùng một giai đoạn nhưng chính
sách ngoại giao khác nhau lại dẫn đến kết quả khác nhau. Tương tự, việc so
sánh cũng khiến cho hậu nhân học tập được kinh nghiệm của bậc tiền bối,
từ đó tránh mắc phải sai lầm.
Đóng góp của đề tài nghiên cứu Ý nghĩa khoa học :
Tổng hợp lại lịch sử về phương diện ngoại giao của nước ta từ thời nhà Đinh đến nhà Trần.
Phân tích tác động của những chính sách ngoại giao và nêu ưu nhược điểm của nó.
Đóng góp thêm tư liệu cho kho tàng nghiên cứu lịch sử. Ý nghĩa thực tiễn :
Là bài học kinh nghiệm đầy quý giá trong suốt ngàn năm bảo vệ tổ quốc,
tạo nền tảng cơ sở cho cho những sách lược thành công sau này. Bài học
về xây dựng và bảo vệ đất nước cần phải phối hợp nhiều yếu tố mới có thể thành công.
Không chỉ bảo vệ đất nước, việc ngoại giao cũng có thể giúp nước ta học hỏi
được những văn hóa, kĩ thuật của nước bạn đem về giúp đất nước ngày càng phát triển. Câu hỏi nghiên cứu :
Sau 3 lần chiến thắng Mông – Nguyên, nếu nhà Trần không thực hiện chính
sách hòa hoãn với nhà Nguyên thì có ngăn được âm mưu tái xâm lược nước ta không?
Nếu các vị vua thời phong kiến không bang giao hòa hảo với các tù trưởng,
tộc trưởng ở biên giới?
Mối liên hệ giữa ngoại giao với các nước láng giềng với việc xây dựng
và bảo vệ đất nước? lOMoAR cPSD| 41487147
Sự cần thiết của việc liên kết đối nội và đối ngoại?
Đối ngoại trên mặt trận văn hóa có quan trọng hay không?
Sự đối đãi của các nhà nước phong kiến đối với các sứ thần đi sứ?
Chính sách ngoại giao của triều đình nhà Đinh và nhà Trần có những mục tiêu và ưu tiên gì?
Những quan hệ quốc tế quan trọng nổi bật trong thời kỳ nhà Đinh và nhà Trần là như thế nào?
Những biện pháp và công cụ nào được sử dụng để thực hiện chính sách
ngoại giao trong thời nhà Đinh và nhà Trần?
Những yếu tố nào ảnh hưởng đến chính sách ngoại giao của các triều đình
trong thời kỳ này, bao gồm cả yếu tố văn hóa, tôn giáo và kinh tế?
Đánh giá thành công và thất bại của chính sách ngoại giao từ thời nhà
Đinh đến thời nhà Trần.
Vai trò của nhân vật chính trị và cá nhân ảnh hưởng như thế nào trong việc
xây dựng và thực hiện chính sách ngoại giao trong thời kỳ này?
Giả thuyết nghiên cứu :
Nhà Nguyễn thực hiện chính sách mở cửa giao thương, mua bán với nước
ngoài, không bắt nhốt những tu sĩ truyền đạo.
Nhà Trần không thực hiện chính sách hòa hoãn với nhà Nguyên sau chiến
thắng mà vẫn tiếp tục gây chiến.
Chỉ xem trọng đối ngoại và không quan tâm đến đối nội.
Chính sách ngoại giao của triều đình nhà Đinh, Lí, Trần đóng vai trò quan
trọng trong việc thể hiện sự ổn định và sự phát triển của quốc gia, đồng thời
cũng được ảnh hưởng bởi các yếu tố văn hóa, tôn giáo và kinh tế của thời kỳ đó. Bài học kinh nghiệm
Qua bài nghiên cứu có thể thấy, mặt trận ngoại giao là một vấn đề quan trọng
và lâu dài trong quá trình xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Mỗi một
thời kỳ, mỗi một triều đại đều có chính sách ngoại giao khác nhau, lúc thì
cứng rắn kiên định chống giặc ngoại xâm, lúc thì hòa hoãn chờ đợi thời cơ
chín muồi. Tuy có sự khác nhau nhưng chúng đều có một điểm chung chính
là ẩn chứa tinh thần yêu nước lOMoAR cPSD| 41487147
nồng nàn của một dân tộc, dù như thế nào đi chăng nữa cũng quyết tâm bảo
vệ tổ quốc độc lập tự do.
Đa dạng hoá quan hệ ngoại giao: Để đảm bảo lợi ích quốc gia và tầm nhìn
dài hạn, quan trọng để nước ta thời phong kiến đa dạng hoá quan hệ ngoại
giao và tìm kiếm sự cân đối giữa các đối tác quốc tế. Chỉ định một hoặc hai
đối tác chính yếu và phụ thuộc vào họ có thể làm mất cân đối và dễ dẫn đến
ảnh hưởng tiêu cực khi tình hình thay đổi.
Mở rộng mối quan hệ với các nước láng giềng: Việc duy trì mối quan hệ tốt
với các nước láng giềng là quan trọng để bảo vệ biên giới và đảm bảo an
ninh quốc gia. Việc áp dụng các biện pháp ngoại giao như đàm phán, ký kết
các hiệp ước thương mại và quân sự có thể tạo ra một môi trường hòa bình
và ổn định cho nước ta.
Xác định rõ vị trí và lợi ích quốc gia: Nước ta thời phong kiến cần xác định rõ
vị trí và lợi ích quốc gia khi tiếp xúc với các quốc gia khác. Việc thỏa thuận và
đàm phán dựa trên các lợi ích quốc gia đặc biệt cần được xem xét để đảm
bảo sự công bằng và phát triển bền vững.
Tìm kiếm sự đa dạng và đa phương hóa trong quá trình xây dựng hòa bình:
Để đạt được hòa bình và ổn định, nước ta thời phong kiến cần tìm cách đa
phương hóa và đa dạng hoá quan hệ ngoại giao. Việc xây dựng một mạng
lưới quan hệ đa phương có thể giúp tạo ra sự cân bằng và tránh sự ảnh
hưởng quá lớn từ một số đối tác chính.
Linh hoạt trong điều chỉnh chính sách: Nước ta thời phong kiến cần có khả
năng linh hoạt điều chỉnh chính sách ngoại giao để phù hợp với tình hình
thay đổi. Điều này yêu cầu sự phân tích sâu sắc và đánh giá liên tục về các
yếu tố quốc tế và biến động trong vùng. Liên hệ hiện nay :
Thực tiễn lịch sử cho thấy Việt Nam chúng ta có những chính sách vô cùng
đa dạng và khéo léo. Trong bối cảnh trật tự thế giới mới hiện nay, Đảng và
Nhà nước cần phải thiết lập quan hệ ngoại giao thật tốt để tạo môi trường
hòa bình, ổn định để tập trung phát triển kinh tế, chống lại sự chống phá của
thế lực thù địch trong và ngoài nước.
Đoàn kết sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, như Bác Hồ đã nói “đoàn
kết là sức mạnh của chúng ta”. Cả nước đồng lòng tin theo sự chỉ dẫn của
Đảng và Nhà nước, giúp đất nước đi lên con đường xã hội chủ nghĩa.
Ngoại giao không chỉ có ý nghĩa về mặt chính trị, quân sự mà cũng có vai
trò tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế nước nhà. Hoạt động lOMoAR cPSD| 41487147
du lịch và văn hóa nước nhà dần được bạn bè quốc tế biết đến. Ngược
lại, chúng ta cũng học tập những thành tựu của họ để làm giàu cho tổ quốc.
Tuy nhiên, việc ngoại giao không chỉ đưa văn hóa Việt Nam ra thế giới mà
chúng ta cũng du nhập văn hóa nước ngoài vào. Cần phải sáng suốt học
hỏi cái hay cái đẹp và bài trừ những tư tưởng không phù hợp với thuần
phong mỹ tục nước nhà. Chúng ta hòa nhập không hòa tan.
Như vậy, mặt trận ngoại giao góp phần tạo dựng và giữ vững môi trường
hòa bình, ổn định, bảo vệ vững chắc Tổ quốc; đồng thời linh hoạt, sáng tạo
tìm ra phương cách mới để thúc đẩy hợp tác quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi
để xây dựng và phát triển kinh tế, nâng cao vị thế và gia tăng tiềm lực cho đất nước... II. NỘI DUNG CHÍNH:
1. Sơ lược về tác phẩm Đại Việt sử kí toàn thư:
a). Đại Việt sử ký toàn thư (chữ Hán: 大越史記全書), đôi khi gọi tắt là Toàn
thư, là bộ quốc sử viết bằng Hán văn của Việt Nam, viết theo thể biên niên,
ghi chép lịch sử Việt Nam từ thời đại truyền thuyết Kinh Dương Vương năm
2879 TCN đến năm 1675 đời vua Lê Gia Tông nhà Hậu Lê. Bộ sử này được
khắc in toàn bộ và phát hành lần đầu tiên vào năm Đinh Sửu, niên hiệu Chính
Hòa năm thứ 18, triều vua Lê Hy Tông, tức là năm 1697. Đây là bộ chính sử
Việt Nam xưa nhất còn tồn tại nguyên vẹn đến ngày nay, do nhiều đời sử
quan trong Sử quán triều Hậu Lê biên soạn. Bộ sử bắt đầu được Ngô Sĩ Liên,
một vị sử quan làm việc trong Sử quán dưới thời vua Lê Thánh Tông, biên
soạn dựa trên sự chỉnh lý và bổ sung hai bộ quốc sử Việt Nam trước đó cùng
mang tên Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu và Phan Phu Tiên. Hoàn thành vào
niên hiệu Hồng Đức thứ 10 (1479), bộ sử mới của Ngô Sĩ Liên gồm 15
quyển, ghi lại lịch sử Việt Nam từ một thời điểm huyền thoại là năm 2879
TCN đến năm 1427 (khi nhà Hậu Lê được thành lập) và mang tên Đại Việt sử
ký toàn thư. Sau đó, dù đã hoàn thành, Đại Việt sử ký toàn thư lại không
được khắc in để ban hành rộng rãi mà tiếp tục được nhiều đời sử quan trong
Quốc sử quán sửa đổi, bổ sung và phát triển thêm. Khoảng niên hiệu Cảnh Trị lOMoAR cPSD| 41487147
(1663 - 1671) đời vua Lê Huyền Tông, chúa Trịnh Tạc hạ lệnh cho một nhóm
văn quan, đứng đầu là Tham tụng Phạm Công Trứ, sửa chữa bộ quốc sử
của Ngô Sĩ Liên, đồng thời sai biên soạn tiếp lịch sử Việt Nam từ năm 1428
đời vua Lê Thái Tổ đến năm 1662 đời vua Lê Thần Tông nhà Hậu Lê. Bộ sử
của nhóm Phạm Công Trứ, gồm 23 quyển, được đem khắc in để phát hành
nhưng công việc chưa xong, phải bỏ dở. Khoảng niên hiệu Chính Hòa (1680
- 1705) đời vua Lê Hy Tông, chúa Trịnh Căn lại hạ lệnh cho một nhóm văn
quan, đứng đầu là Tham tụng Lê Hy, tiếp tục khảo đính bộ sử của nhóm
Phạm Công Trứ, đồng thời biên soạn tiếp lịch sử Việt Nam từ năm 1663 đời
vua Lê Huyền Tông đến năm 1675 đời vua Lê Gia Tông nhà Hậu Lê. Bộ quốc
sử này lấy tên là Đại Việt sử ký toàn thư, theo đúng tên mà sử gia Ngô Sĩ
Liên cách đó gần hai thế kỷ đã đặt cho bộ sử của ông, gồm 25 quyển, được
khắc in toàn bộ và phát hành thành công vào năm Đinh Sửu, niên hiệu Chính
Hòa năm thứ 18 đời vua Lê Hy Tông, tức là năm 1697.[2]
Sau khi xuất bản, Đại Việt sử ký toàn thư tiếp tục được tái bản bởi các hiệu
in của chính quyền và tư nhân, không chỉ ở Việt Nam mà còn trên khắp thế
giới, trong nhiều thế kỷ sau. Nửa cuối thế kỷ 20, ở Việt Nam xuất hiện các
bản dịch Đại Việt sử ký toàn thư ra chữ quốc ngữ, phổ biến nhất là bản dịch
dựa trên cơ sở bản in Nội các quan bản - hiện đang lưu giữ tại thư viện Viện
Viễn Đông Bác cổ ở Paris, do Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội phát hành lần đầu năm 1993.
Đại Việt sử ký toàn thư là bộ chính sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại nguyên
vẹn đến ngày nay, là di sản vô giá của văn hóa dân tộc Việt Nam, là kho tư
liệu phong phú không những cần thiết cho ngành sử học mà còn giúp ích
cho nhiều ngành khoa học xã hội khác[3] và cũng là một bộ sử có giá trị văn
học. Các bộ quốc sử sau này của Việt Nam như Đại Việt sử ký tiền biên,
Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục đều được biên soạn dựa trên
cơ sở của Đại Việt sử ký toàn thư
b). Tác giả: Đại Việt sử kí toàn thư được biên soạn bởi tập thể nhiều tác giả
như Ngô Sĩ Liên, Vũ Quỳnh, Phạm Công Trứ, Lê Hy, Nguyễn Quý Đức,..
trong đó Ngô Sĩ Liên là người có công lớn nhất trong công cuộc biên soạn bộ sách này.
Ngô Sĩ Liên: Ông họ Ngô, tên Quang Hiền, húy là Sĩ Liên, hiệu là Chúc Lý
Cư Sĩ. Thời Lê Thái Tổ, ông được ban Quốc tính nên gọi là Lê Sĩ Liên.
Không rõ năm sinh, năm mất, chỉ biết ông thọ khoảng 99 tuổi. lOMoAR cPSD| 41487147
Ngô Sĩ Liên là người làng Chúc Lý, huyện Chương Đức, phủ Ứng Thiên (nay
là làng Ngọc Giả, xã Ngọc Hòa, chuyện Chương Mỹ, Hà Nội). Theo văn bia
viết, năm 1861 ở đình làng Ngọc Giả, ông quê gốc
ở làng Đa Sĩ, Thanh Oai (nay thuộc phường Kiến Hưng, Hà Đông), Chúc Lý là quê vợ.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh thí kỉ XV, Ngô Sĩ Liên tham gia
nghĩa quân từ sớm và lập nhiều công trạng. Sau thắng lợi của cuộc kháng
chiến, ông tiếp tục sự học, đi thi và đỗ Tiến sĩ năm Bảo Đại thứ ba (1442) đời
vua Lê Thái Tông, được cử vào Hàn Lâm viện. Ông làm quan liên tục các
triều Lê Sơ: Lê Thái Tông (1434-1442), Lê Nhân Tông (1442-1459) và Lê
Thánh Tông (1460-1497). Ông từng giữ các chức Đô Ngự sử, Lễ Bộ Hữu Thị
Lang, Triều liệt Đại phu Quốc tử giám Tư nghiệp, kiêm Sử quan Tu soạn.
Đóng góp to lớn mà Ngô Sĩ Liên còn để lại cho đời sau chính là bộ “Đại Việt
sử ký toàn thư” mà ông biên soạn, có tham khảo “Đại Việt sử ký” của Lê Văn
Hưu, “Đại Việt Sử ký tục biên” của Phan Phu Tiên. Đây là công trình sử học
lớn lao nhất trong sự nghiệp của ông, đồng thời cũng là công trình sử học
quan trọng nhất của nền quốc sử nước ta.
Trong suốt cuộc đời làm quan, Ngô Sĩ Liên luôn nêu tấm gương sáng về đạo
đức, rất mực thanh liêm, chính trực… Khi chép sử, ông đã dũng cảm nói lên
sự thật, không sợ áp bức và cường quyền.
Lời dẫn: Bộ sách Đại Việt sử kí toàn thư là một tài liệu quý giá cho công
cuộc nghiên cứu lịch sử dân tộc nói riêng và các lĩnh vực khoa học, đời
sống khác nói chung. Vốn tuân theo nguyên tắc viết theo thể biên niên nên
phản ánh gần như chính xác trung thực các sự kiện, bối cảnh của quá khứ,
là một tài liệu quý để các sử gia và các tác giả đời sau tham khảo để nghiên
cứu, viết nên những tài liệu khác có giá trị khoa học.
2) Khái niệm ngoại giao và tầm quan trọng của công cuộc ngoại
giao đối với một quốc gia: 2.1. Khái niệm:
Ngoại giao là hoạt động quan hệ của một quốc gia với các quốc gia khác
nhằm đạt được những mục tiêu nhất định trong lĩnh vực chính trị, kinh tế,
quân sự, xã hội và văn hóa. Nó bao gồm việc thực hiện các hoạt động
thương mại, đàm phán, hòa giải xung đột, thúc đẩy hợp tác và xây dựng quốc tế.
2.2. Tầm quan trọng: lOMoAR cPSD| 41487147
Tầm quan trọng của ngoại giao đối với một quốc gia thời phong kiến và hiện
đại là không thể phủ nhận. Dưới đây là một số điểm nổi bật:
1. Duy trì quốc tế hòa bình: Ngoại giao giúp duy trì môi trường hòa bình và
ổn định trong quan hệ giữa các quốc gia. Thông qua đối thoại và đàm phán,
nước ta có thể giải quyết tranh chấp và xung đột một cách hòa bình, tránh
chiến tranh và xung đột vũ trang.
2. Bảo vệ lợi ích quốc gia: Ngoại giao đảm bảo rằng lợi ích quốc gia được
bảo vệ và tăng cường. Qua nỗ lực thương lượng, quốc gia có thể đạt được
các thỏa thuận kinh tế, quân sự hoặc chính trị có lợi cho nền kinh tế, an
ninh và chủ quyền của mình.
3. Mở rộng phạm vi thị trường: Ngoại giao giúp mở rộng thị trường tiêu thụ
và thu hút vốn đầu tư từ các quốc gia khác. Việc xây dựng quan hệ thương
mại và hợp tác kinh tế hoàn thiện giúp nâng cao nền kinh tế và cung cấp
cơ hội việc làm cho công dân.
4. Xây dựng quan hệ văn hóa và xã hội: Ngoại giao cũng đóng vai trò quan
trọng trong việc xây dựng quan hệ văn hóa và xã hội với các quốc gia khác.
Qua việc trao đổi văn hóa, giáo dục và du lịch, quốc gia có thể xây dựng mối
quan hệ cởi mở và tăng cường sự hiểu biết và tôn trọng đối tác.
5. Tạo dựng hình ảnh quốc tế: Ngoại giao đóng vai trò quan trọng trong việc
xây dựng hình ảnh của một quốc gia trên trường quốc tế. Qua việc quảng bá
hình ảnh tích cực và tham gia hoạt động quốc tế, quốc gia có thể nâng cao
địa vị và uy tín của mình trên sân khấu quốc tế.
=>Tóm lại, ngoại giao là một lĩnh vực quan trọng đối với một quốc gia, đóng
vai trò trong việc duy trì hòa bình, bảo vệ lợi ích quốc gia, mở rộng thị trường,
xây dựng quan hệ văn hóa và xã hội và tạo dựng hình ảnh quốc tế. Nó đóng
góp tích cực vào phát triển và thăng tiến của một quốc gia ở cả thời phong kiến và hiện đại.
3). Chính sách ngoại giao của nước ta qua các triều đại Đinh, Lí, Trần
được phản ánh qua Đại Việt sử kí toàn thư và các tài liệu đáng tin cậy khác:
3.1 Triều đại nhà Đinh: 3.1.1: Bối cảnh:
Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp xong các sứ quân nổi dậy từ
thời nhà Ngô, thống nhất quốc gia và lên ngôi hoàng đế. Tại phương Bắc,
nhà Tống từng bước hoàn thành việc tiêu diệt các nước phương lOMoAR cPSD| 41487147
nam, lần lượt chiếm các nước Nam Bình , Hậu Thục và tiến
đánh Nam Hán, cương thổ áp sát nước Đại Cồ Việt mới thành lập.
Vua Ngô Xương Văn trước đây chỉ sai sứ qua lại với chính quyền Nam Hán ở
Quảng Châu mà chưa tiếp xúc với nhà Tống ở Biện Kinh. Trước tình hình
mới ở Trung Quốc, triều đình nhà Đinh chủ động thiết lập quan hệ với nhà Bắc Tống.
3.1.2: Tình hình trong nước:
Dưới sự cai trị của nhà Đinh, nước ta đã có những phát triển đáng kể về kinh
tế, xã hội, giáo dục, văn hóa và nghệ thuật. Dưới đây là những điểm đặc sắc
của chính sách của triều Đinh:
1. Kinh tế: Nhà Đinh đã khuyến khích sản xuất nông nghiệp và thủ công
nghiệp. Họ khuyến khích người dân khai thác đất đai, phát triển nông
nghiệp và chế tạo các công cụ, đồ gốm, đồ sắt để phục vụ sản xuất.
2. Xã hội và chính trị: Nhà Đinh thực hiện các chính sách công bằng và
nhân văn, bảo vệ quyền lợi của người dân và xây dựng một hệ thống quản
lý công chính rõ ràng. Họ cũng thiết lập các cơ sở hành chính và tình báo
để duy trì trật tự và an ninh trong quốc gia.
3. Giáo dục: Nhà Đinh đã tạo điều kiện để phát triển giáo dục. Họ khuyến
khích các tri thức và trí thức đến Việt Nam học tập và chia sẻ kiến thức. Các
trường học và trung tâm giáo dục được thành lập để đào tạo nhân tài cho đất nước.
4. Văn hóa và nghệ thuật: Nhà Đinh đã khuyến khích và tài trợ cho các hoạt
động văn hóa và nghệ thuật. Các nghệ sĩ, nhà văn và nhà thơ được ủng hộ
và khuyến khích để sáng tác các tác phẩm văn học và nghệ thuật. Văn hóa
và nghệ thuật dưới thời Đinh đã có những bước phát triển tích cực.
5. Tập quán xã hội: Nhà Đinh đã tạo ra một số quy định và tập quán mới để
nâng cao đời sống xã hội. Ví dụ, việc đoàn tụ gia đình và quan tâm đến việc
nuôi dưỡng các người già, trẻ nhỏ đã được khuyến khích.
Chính sách của gia đình Đinh đã tạo ra một môi trường ổn định và phát
triển cho đất nước sau những thời kỳ chiến tranh và nội loạn trước đó.
3.1.3: Chính sách ngoại giao:
-Nhà Đinh thực hiện chính sách hòa hiếu với các nước lân bang, cho thuyền
nước ngoài vào buôn bán với ta. lOMoAR cPSD| 41487147
-Đối với phương bắc, khi lên ngôi vua,Đinh Tiên Hoàng chưa đặt quan hệ
ngoại giao ngay với Trung Quốc chưa chấm dứt nạn "Ngũ đại thập quốc".
Trong khoảng 11 năm đầu của nhà nước Đại Cồ Việt (968- 979), dưới sự trị
vì của vua Đinh - Đại Thắng Minh Hoàng Đế đã mở ra một kỷ nguyên bang
giao mới của nhà nước phong kiến tập quyền đầu tiên của nước ta. Đặc biệt
là quan hệ bang giao giữa nước ta với nhà Tống ở phương Bắc, một quốc
gia to lớn gấp nhiều lần, lại vốn là nước có cả quá khứ hàng nghìn năm xâm
lược và đô hộ nước ta.
Năm 970, quân Tống do Phan Mỹ chỉ huy tiến vào bờ cõi Nam Hán. Đinh
Tiên Hoàng sai sứ sang giao hảo với nhà Tống. Sử không chép rõ người
nhận lệnh đi sứ là ai. Lê Văn Siêu đánh giá cao việc tham mưu của triều
đình nhà Đinh để đi đến quyết sách ngoại giao này của Đinh Tiên Hoàng là
kịp thời, quan hệ thẳng với chính quyền trung nguyên, không chịu khuất chính quyền Nam Hán.
Sang năm 971, Phan Mỹ hoàn thành việc tiêu diệt Nam Hán. Biên giới giữa
Bắc Tống và Đại Cồ Việt chính thức liền kề. Năm 972, Đinh Tiên Hoàng, sai
con trưởng là Nam Việt vương Đinh Liễn đi sứ nhà Tống lần thứ 2.
Năm 973, Đinh Liễn trở về. Tống Thái Tổ sai sứ sang phong cho Đinh Tiên
Hoàng làm Giao Chỉ Quận Vương, Đinh Liễn làm Kiểm hiệu thái sư Tĩnh Hải
Quân tiết độ sứ An Nam đô hộ. Lời chế của vua Tống nói:
"[Họ Đinh] đời làm vọng tộc, gìn giữ được phương xa, chí hâm mộ phong
hoá Trung Hoa, thường nghĩ đến việc nội phụ. Nay chín châu hợp một, miền
Ngũ Lĩnh sạch quang, bèn trèo non vượt biển đến dâng đồ cống. Khen
người làm con biết giữ lễ phiên thần, vậy ban cho cha ngươi theo lối cắt đất
phong tước, xếp phẩm trật cho vào hạng được cầm quân, được hưởng mức
"tỉnh phú". Như thế là để khen thưởng đức tốt của người già, há chỉ hạn chế
trong điển chương thường lệ đâu?".
Nội dung chế văn như trên của vua nhà Tống, tuy tự coi nhà Tống ở cương
vị “thiên triều” (bề trên của các nước bị coi là chư hầu) song đã tỏ ra những
hòa khí trong quan hệ bang giao với nhà Đinh. Điều đó cũng đã thể hiện
được tài năng và bản lĩnh của Đinh Liễn cùng đoàn sứ thần nước Đại Cồ
Việt. Chuyến đi sứ thuở ấy của Nam Việt Vương Đinh Liễn sang nhà Tống
bang giao quả là đã thành công tốt đẹp, để lại một dấu ấn quan trọng trong
quan hệ giữa hai nước đương thời. lOMoAR cPSD| 41487147
Năm 975, Đinh Tiên Hoàng lại sai Trịnh Tú đi sứ nhà Tống lần thứ 3, đem
vàng lụa, sừng tê, ngà voi sang. Đến mùa thu năm đó, Tống Thái Tổ sai Hồng
lô tự khanh Cao Bảo Tự dẫn đầu đoàn sứ cùng Vương Ngạn Phù đem chế
sách sang Đại Cồ Việt lần thứ 2, gia phong cho Nam Việt Vương Liễn làm
Khai phủ nghi đồng tam ty, Kiểm hiệu thái sư, Giao Chỉ Quận Vương. Từ đó
về sau, sai sứ sang nhà Tống đều lấy Đinh Liễn làm chủ.
Đầu năm 976, Đinh Tiên Hoàng sai em Trần Lãm là Trần Nguyên Thái đi sứ
lần thứ 4, sang đáp lễ nhà Tống.
Tháng 10 năm 976, Tống Thái Tổ qua đời, Tống Thái lên ngôi. Sang năm
978, Đinh Tiên Hoàng sai sứ sang lần thứ 5, mừng Thái Tông lên ngôi.
Như vậy chỉ trong vòng 11 năm tồn tại, nhà Đinh đã hoạt động ngoại giao với
nhà Tống 7 lần: 5 lần sứ Đại Cồ Việt sang Trung Quốc, 2 lần sứ nhà Tống sang Đại Cồ Việt
Các sự kiện bang giao như đã nêu trên của nhà Đinh với nhà Tống theo như
sách “Đại Việt sử ký toàn thư” ghi lại tuy không nhiều, song đó chính là những
dấu ấn quan trọng đặc biệt trong một giai đoạn lịch sử bang giao giữa hai
nước, đặc biệt là trong điều kiện hoàn cảnh nhà nước Đại Cồ Việt đương thời
mới được thống nhất.
Sau khi vua Đinh và Nam Việt Vương Đinh Liễn bị sát hại, Đinh Toàn là con
thứ hãy còn thơ ấu mới sáu tuổi, được triều đình tôn làm vua; mẹ là Dương
Vân Nga làm nhiếp chính; Lê Hoàn làm phó vương. Nội triều Hoa Lư khi ấy thậm rối ren.
Định quốc công Nguyễn Bặc, Ngoại giáp Đinh Điền cùng Phạm Hạp là
những trụ cột nhà Đinh đã dấy binh từ bên ngoài theo hai đường thủy, bộ
kéo về kinh đô nhằm giết phó vương Lê Hoàn để phò nhà Đinh, phòng sự
tiếm ngôi báu, nhưng đã thất bại và đều bị giết.
Ngô Nhật Khánh vốn là phò mã vua Đinh dẫn hàng nghìn chiến thuyền
quân Chiêm Thành theo đường biển, nhằm vào hai cửa biển Đại Ác và Tiểu
Khang hòng đánh chiếm Hoa Lư. Tuy nhiên, hầu hết các chiến thuyền quân
Chiêm đã bị bão táp nhấn chìm.
Vận nước lúc ấy như “ngàn cân treo sợi tóc” vì nhà Tống từ phương Bắc liền
rắp tâm nhân cơ hội này kéo quân sang thôn tính Đại Cồ Việt. Triều đình và
quân sĩ suy tôn Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi vua. Nhà vua khẩn
cấp tập hợp, chỉnh đốn quân đội với quyết tâm đánh trả quân Tống xâm lược. lOMoAR cPSD| 41487147
Tháng tám năm Canh Thìn (980) vua Tống xuống chiếu đem quân sang xâm
lược Đại Cồ Việt, lại sai sứ Lư Đa Tốn đem thư sang Hoa Lư để dọa dẫm,
răn đe, vịn cớ, do ỷ thế thiên triều. Nội dung thư của vua Tống đầy ngạo mạn,
tự đắc, miệt thị vua tôi, thần dân trăm họ nước Đại Cồ Việt ta.
Dù vua Lê đã rất mưu lược, sai nha hiệu là Giang Cự Vọng, Vương Thiệu Tộ
đưa thư sang nước Tống, giả làm thư của Vệ vương Đinh Toàn thỉnh cầu
được nối ngôi cha, cốt nhằm hoãn binh để có thời gian củng cố lực lượng
quân sự mà ứng chiến với quân Tống xâm Lược, nhưng nhà Tống vẫn ra
yêu sách đặt triều đình Hoa Lư vào thế tiến thoái lưỡng nan. Nguyên do là
vua Tống chỉ muốn cho nhà Đinh “truyền nối ba đời”, Lê Hoàn chỉ được làm
phó vương. Vua Tống sai Trương Tông Quyền đưa thư sang, trả lời: “…Họ
Đinh truyền nối ba đời, trẫm muốn cho (Đinh) Toàn làm thống soái, khanh
(chỉ Lê Hoàn) làm phó. Nếu Toàn tướng tài chẳng có, vẫn còn trẻ con, thì nên
bảo cả mẹ con cùng thân thuộc sang quy phụ…”.
Hòa khí bang giao giữa hai nước lúc này bị tan biến. Và cuộc chiến ác liệt
giữa hai bên đã diễn ra sau đó không lâu. Kết cục, quân Tống đại bại. Quân
ta tuy chiến thắng nhưng chắc chắn cũng không tránh khỏi tổn thất về của và người.
Sau cuộc chiến ba năm, vào năm Quý Mùi (983), mùa xuân, vua Lê sai sứ
sang thông hiếu với nhà Tống. Quan hệ bang giao giữa hai nước lại được
“bình thường hóa” khá lâu (cho đến hết thời nhà Tống) và cũng để lại nhiều dấu ấn lịch sử.
Bên cạnh một thế lực quá lớn là nhà Tống ở phương Bắc luôn tự đặt mình ở
vị thế “thiên triều”, với tham vọng truyền kiếp luôn hòng thôn tính nước láng
giềng theo kiểu “cá lớn nuốt cá bé”, nhà Đinh rồi sau đó là nhà Tiền Lê tuy
vẫn chấp thuận cái chế độ chư hầu phong kiến qua lệ cống nạp, lễ nghi tiếp
đón sứ thần và tiếp nhận các chế sách, song ở một tư thế đàng hoàng, tự
chủ chứ không hề quỵ lụy.
3.1.4 Kết quả của chính sách ngoại gia thời nhà Đinh mang lại:
Chính sách ngoại giao thời nhà Đinh mang lại nhiều kết quả tích cực cho
nước Đại Cồ Việt. Một trong những kết quả quan trọng là việc xây dựng và
duy trì mối quan hệ ổn định với các vương quốc láng giềng.
Thời nhà Đinh, Đại Cồ Việt đã thể hiện sự tự chủ trong việc xây dựng quan
hệ đối tác với các vương quốc láng giềng như Trung Quốc, Champa và
Khmer. Việc duy trì mối quan hệ thân thiện và cân nhắc lOMoAR cPSD| 41487147
giữa các quốc gia đã giúp nước ta tránh được xung đột và chiến tranh
với các nước láng giềng.
Một kết quả khác của chính sách ngoại giao thời nhà Đinh là sự thúc đẩy
thương mại và giao lưu văn hóa. Qua việc mở rộng các quan hệ với các quốc
gia khác, Đại Cồ Việt đã có cơ hội trao đổi và học hỏi từ các nền văn hóa
khác nhau, đồng thời mở rộng thị trường tiêu thụ và tiếp cận nguồn tài nguyên mới.
Thêm vào đó, chính sách ngoại giao của thời nhà Đinh cũng đã giúp nước ta
xây dựng và củng cố hình ảnh quốc tế tích cực. Các vua nhà Đinh đã đề cao
giá trị hòa bình, công lý và sự thống nhất trong việc quản lý quan hệ ngoại
giao. Nhờ vào sự ổn định và uy tín đó, Đại Cồ Việt đã được xem là một quốc
gia đáng tin cậy và trực tiếp tham gia vào các cuộc giao dịch và thương lượng quốc tế.
Tổng quan, chính sách ngoại giao thời nhà Đinh đã đem lại nhiều kết quả tích
cực cho đất nước, như làm giảm căng thẳng và xung đột với các nước láng
giềng, thúc đẩy thương mại và giao lưu văn hóa, củng cố hình ảnh quốc tế
của Đại Cồ Việt. Các thành công này đã làm nền tảng cho sự phát triển sau này của quốc gia.
3.1.5: Nét đặc sắc trong nghệ thuật ngoại giao thời nhà Đinh:
Có thể khẳng định sự nghiệp bang giao của nhà nước Đại Cồ Việt mà khởi
đầu là nhà Đinh đã kế thừa và sáng tạo lịch sử bang giao truyền thống của
các triều đại trước đó, đồng thời cũng để lại những bài học cho hậu thế là: Kịp
thời mà ung dung tự tại, kiên định mà mềm dẻo, nhất quán mà năng động với
khí phách và bản lĩnh phi thường. Thêm nữa, đó là sự chủ động sáng tạo
trong hoạt động bang giao với tầm nhìn xa trông rộng nhằm giữ cho được thế
sự một cách tối ưu, tất cả vì hòa bình, ổn định và lớn mạnh của đất nước.
Nghệ thuật ngoại giao trong triều Đinh phần lớn tập trung vào việc thiết lập
các mối quan hệ với các nước láng giềng và trong khu vực. Triều Đinh đã
gửi các sứ thần và điệp viên để thiết lập các liên minh chính trị và kinh tế với
các quốc gia lân cận. Họ cũng đã tạo ra các hiệp ước hòa bình để bảo vệ lợi
ích chung và duy trì ổn định trong khu vực.
Một đặc điểm đáng chú ý của nghệ thuật ngoại giao trong triều Đinh là sự
thông minh và linh hoạt. Nhà ngoại giao của triều Đinh đã hiểu tầm quan
trọng của việc đặt lợi ích của quốc gia lên trên tất cả, và lOMoAR cPSD| 41487147
họ thích nghi với các tình huống khó khăn để đạt được mục tiêu của mình.
Họ đã sử dụng các biện pháp như khen ngợi, đe dọa, và đặt những người
có quyền lực lên danh sách người đồng minh.
Ngoài ra, triều Đinh cũng đã đặt một sự tôn trọng cao đối với văn hóa và
truyền thống của các quốc gia khác trong quan hệ ngoại giao. Họ thường
tặng quà và tri ân đối tác của mình và tuân thủ các phong tục ngoại giao để
giữ được sự hòa nhã và thân thiện trong quan hệ.
Tuy nhiên, nghệ thuật ngoại giao trong triều Đinh cũng có một số hạn chế.
Vì sự bảo thủ của đất nước và sự thiếu kinh nghiệm ngoại giao, triều Đinh
không thể thiết lập được quan hệ với các đế quốc lớn như Trung Quốc và
Ấn Độ. Họ cũng không thể duy trì được quan hệ với các quốc gia láng giềng
trong thời gian dài do sự xung đột về lãnh thổ và tài nguyên.
Nghệ thuật ngoại giao trong triều Đinh có những đặc điểm nổi bật và đáng
ngạc nhiên. Mặc dù triều Đinh chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn từ năm
968-980, nhưng nghệ thuật ngoại giao của họ đã được phát triển và thể hiện
sự chính sách bảo thủ và độc lập của triều đại này.
Nghệ thuật ngoại giao trong triều Đinh phần lớn tập trung vào việc thiết lập
các mối quan hệ với các nước láng giềng và trong khu vực. Triều Đinh đã
gửi các sứ thần và điệp viên để thiết lập các liên minh chính trị và kinh tế với
các quốc gia lân cận. Họ cũng đã tạo ra các hiệp ước hòa bình để bảo vệ lợi
ích chung và duy trì ổn định trong khu vực.
Một đặc điểm đáng chú ý của nghệ thuật ngoại giao trong triều Đinh là sự
thông minh và linh hoạt. Nhà ngoại giao của triều Đinh đã hiểu tầm quan
trọng của việc đặt lợi ích của quốc gia lên trên tất cả, và họ thích nghi với các
tình huống khó khăn để đạt được mục tiêu của mình. Họ đã sử dụng các
biện pháp như khen ngợi, đe dọa, và đặt những người có quyền lực lên danh sách người đồng minh.
Ngoài ra, triều Đinh cũng đã đặt một sự tôn trọng cao đối với văn hóa và
truyền thống của các quốc gia khác trong quan hệ ngoại giao. Họ thường
tặng quà và tri ân đối tác của mình và tuân thủ các phong tục ngoại giao để
giữ được sự hòa nhã và thân thiện trong quan hệ.
Tuy nhiên, nghệ thuật ngoại giao trong triều Đinh cũng có một số hạn chế.
Vì sự bảo thủ của đất nước và sự thiếu kinh nghiệm ngoại giao, triều Đinh
không thể thiết lập được quan hệ với các đế quốc lOMoAR cPSD| 41487147
lớn như Trung Quốc và Ấn Độ. Họ cũng không thể duy trì được quan hệ với
các quốc gia láng giềng trong thời gian dài do sự xung đột về lãnh thổ và tài nguyên.
Tổng quan, nghệ thuật ngoại giao trong triều Đinh đã có những đóng góp
quan trọng cho sự phát triển và duy trì quan hệ quốc tế của đất nước này.
Mặc dù có những hạn chế, triều Đinh đã thể hiện sự thông minh và linh hoạt
trong việc xây dựng mối quan hệ với các quốc gia láng giềng và trong khu vực.
3.2 Triều đại nhà Lý: 3.2.1: Bối cảnh:
Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi vua, thay thế nhà Tiền Lê, lập ra nhà Lý.
Ngay sau khi lên ngôi, Lý Thái Tổ đã chủ động thiết lập quan hệ ngoại giao
với đối tác quan trọng nhất đương thời là triều đình nhà Tống ở phương Bắc.
Việc ngoại giao thời Lý có tính kế tục các hoạt động ngoại giao đã thiết lập
từ thời Đinh, thời Tiền Lê trước đó.
3.2.2: Tình hình nước ta:
3.2.3: Chính sách ngoại giao
1. Với nhà Tống ( thời kì Bắc Tống 960-1127)
Ngay trong năm 1010 khi mới lên ngôi, Lý Thái Tổ đã bắt đầu sai sứ sang nhà
Tống. Sự kiện này mở đầu cho mối quan hệ bang giao trong 2 thế kỷ giữa nhà Lý
với nhà Tống của Trung Quốc. Theo đánh giá của các sử gia, việc tích cực và chủ
động quan hệ với phương Bắc nhằm gián tiếp khẳng định chính thống của nhà Lý
và sự tồn tại của nước Đại Cồ Việt Dưới thời Lý Thái Tổ và Lý Thái Tông, việc
triều cống nhà Tống diễn ra đều đặn. Mỗi khi Đại Cồ Việt có vua mới, nhà Tống
đều sai sứ sang phong vương. Trong vòng 46 năm thời 3 vị vua đầu tiên của nhà
Lý, sử sách chỉ ghi nhận 3 lần nhà Tống sai sứ sang phong vương cho nhà Lý khi lOMoAR cPSD| 41487147
các vua mới lên ngôi, không có những hoạt động ngoại giao trong thời các vua cai
trị như thời Đinh và Tiền Lê. Sang thời Lý Thánh Tông, năm 1057 nhà Lý sai sứ
sang cống thú lạ cho nhà Tống, bảo là con lân. Vua Tống nghe lời Tư Mã Quang
(sợ không chắc là con lân thì các nước khác chê cười), liền thưởng cho sứ Đại Việt
rồi sai mang con thú về. Lý Thánh Tông giận nhà Tống, cho là phản phúc, năm
1059 bèn mang quân đánh vào Khâm châu để thị uy rồi rút về Sau lần hòa đàm
năm 1060, hoạt động ngoại giao được nối lại. Năm 1067, nhà Tống sai sứ sang gia
phong Lý Thánh Tông làm Nam Bình vương và Khai phủ Nghi đồng tam ty. Điểm
mới đó là lần đầu tiên nhà Tống cử sứ sang Đại Việt không vì việc thay ngôi vua
của nhà Lý. Theo thống kê của Hoàng Xuân Hãn, trong 63 năm đầu thời Lý, nhà
Lý đã cử 23 đoàn sứ bộ sang nhà Tống, trong đó 13 lần với mục đích kết hiếu và tạ
ơn, 3 lần báo tin thắng trận khi vừa đánh Chiêm Thành, 7 lần là các mục đích khác
(báo tang, mừng vua Tống lên ngôi, xin kinh Phật... Sang thời Lý Nhân Tông, chỉ
vài năm sau khi nhà Lý tiếp nhận chức Giao Chỉ quận vương của vua Tống, chiến
tranh Tống-Lý nổ ra. Sau khi chiến tranh chấm dứt, việc ngoại giao giữa 2 nước
tập trung vào vấn đề đất đai biên giới Tống và Đại Việt. Lê Văn Thịnh – thủ khoa
đầu tiên của Đại Việt năm 1075 – được giao đi đàm phán với nhà Tống, kết quả tới lOMoAR cPSD| 41487147
năm 1084, phần lớn đất đai bị Tống chiếm đóng trong chiến tranh được trả lại cho
Đại Việt. Tiếc đất, vì biết rằng nơi ấy có vàng, người Tống đặt thơ chữ Hán rằng:
"Nhân tham Giao Chỉ tượng/ Khướt thất Quảng Nguyên kim", Nghĩa là "tham voi
Giao Chỉ/ mất vàng Quảng Nguyên" (Quảng Nguyên là những vùng đất nay thuộc
tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn)
2. Với nhà Tống ( thời kì Nam Tống 1127-1279)
Từ năm 1127, nhà Tống bị mất phương bắc về tay người Kim, phải chạy xuống
Lâm An (Hàng Châu) đóng đô. Quan hệ ngoại giao giữa nhà Lý với Nam Tống vẫn
được duy trì, thậm chí có lần năm 1156 thời Lý Anh Tông, cống phẩm cho nhà
Tống có giá trị khá lớn. Đổi lại việc nhà Lý giữ quan hệ hữu hảo khi nhà Tống đã
suy, năm 1164 khi sứ thần Doãn Tử Tư, Lý Bang Chính sang Lâm An, vua Tống
Hiếu Tông tiếp đón và ban lệnh đổi tên "Giao Chỉ" thành "An Nam", phong Lý
Anh Tông làm"An Nam quốc vương nhằm “nhắc nhở” về lòng trung thành của nhà
Lý đối “thiên triều” trong bối cảnh đang bị ngoại bang uy hiếp(Kim, Tây Hạ và sau
này là Mông Cổ) nghĩa là trong quan hệ ngoại giao giữa Tống và Việt từ đó, Đại
Việt không còn là một quận mà chính thức được coi là một nước phiên thuộc,
mang tên An Nam điều này phản ánh đúng vì tiềm lực quốc gia và tình hình chính
trị đương thời, là những điều chi phối các hoạt động đối ngoại và hai nước có lOMoAR cPSD| 41487147
nhiều sự qua lại hơn. Từ thế kỉ 13 vì loạn lạc trong nước và cũng bị ngoại bang
quấy phá: năm 1203, 1204, 1205 trong nước loạn lạc liên miên; năm 1203
quân Chiêm Thành đến cướp phả; liên tiếp 2 năm 1203, 1204 loạn tại vùng
ngã ba sông Đáy và sông Hoàng Long tỉnh Ninh Bình, triều đình mang quân
tiếp viện nhưng không thắng nên việc sang sử tiến cống nhà Tống không
được thực hiện cho tới hết thời Lý (1225).
Các sử gia đã thống kê được trong thời gian tồn tại 216 năm, nhà Lý đã 57
lần sai sứ sang nhà Tống. Những lần cử sử sang phương Bắc, nhà Lý đều
chọn người có học thức, có tài ứng đối, biết làm thơ. Các sứ đoàn luôn thể
hiện tinh thần tự tôn dân tộc, giữ thể diện quốc gia 3. Với nhà Kim:
Nhà Kim là một nước lớn mạnh nằm ở miền Bắc của nhà Tống. Quốc gia
này có nhiều hiềm khích, tranh chấp và xung đột đối với Nam Tống. Tuy
nhiên nhà Lý đã vô cùng khéo léo khi thực hiện chính sách đối ngoại với cả
hai quốc gia này một cách khôn khéo. Năm 1168, khi nhà Kim sai sử gia đến
Đại Việt. Lúc đấy sú giả của Nam Tống cũng đang có mặt ở nước ta. Nhà Lý
đã sắp xếp tiếp đón chu đáo cả hai sứ giả nhưng không để hai nước gặp mặt
nhau. Sự kiện này là minh chứng rõ nhất thể hiện sự khôn ngoan của nhà Lý
đối với cả Nam Tống và nhà Kim. Vốn là hai quốc gia không đội trời chung
nhưng lại đều có mối quan hệ ngoại giao khá giao hao đối với Việt Nam 4. Với Chiêm Thành:
Năm 982, sau khi bị vua Lê Đại Hành đánh bại. Chiêm Thành đã tỏ ra thần
phục. Từ thời Tiền Lê đến thời nhà Lý, Chiêm Thành thường xuyên triều
cống cho nước ta. Đặc biệt, trong thời nhà Lý, Chiêm Thành sai sử sai triều
cống khoảng 43 lần. Vua Chiêm là Jaya Harivarman đã thực hiện chính sách
liên hôn bằng cách cho con gái sang làm cung phi của vua Lý Anh Tông.
Thậm chí, vua Suryavarman cũng đến nước ta để xin được sắc phong, mong
muốn nhận được sự công nhận của nhà Lý. Cuối năm 1077, vua Lý Nhân
Tông còn giúp Chiêm Thành đánh thắng Khmer.
Tuy nhiên, mối quan hệ giữa triều Lý với Chiêm Thành ấm lạnh bất
thường. Người Chiêm Thành đã từng mang người sang đánh phá lOMoAR cPSD| 41487147
vùng biên giới, quấy rối Nghệ An 5 lần vào các năm 1132, 1166, 1177, 1203,
1218. Đứng trước sự quấy nhiễu đó, nhà Lý đã kiên quyết dùng biện pháp
quân sự để bảo vệ chủ quyền quốc gia. Quan hệ ngoại giao giữa nhà Lý với
Chiêm Thành cũng có đôi lúc gián đoạn. Năm 1928, khi vua Lý Thái Tông
mới lên ngôi, từ đó đến 16 năm sau, vua Chiêm không tiến hành triều cống.
Ngoại giao thời Lý có thể được đánh giá là một đường lối ngoại giao rất
thành công. Chính sách ngoại giao thời đại này vừa giữ vững được độc lập,
chủ quyền của nước Đại Việt cũng vừa thể hiện được tư duy, tầm nhìn,
chiến lược của các vị vua nhà Lý. Chính những đường lối đối ngoại độc đáo
này vừa là tiền đề vừa là thành tựu để các thời đại sau có thể kế thừa và
phát triển nhằm tạo nên một đất nước phồn thịnh nhất. 5. Với các nước khác:
*) Đại Việt – Chân Lạp (nay là Campuchia): Vừa đấu tranh vừa giao lưu hợp tác.
- Khi nhà Lý thành lập và khi cũng là thời kì vương triều Angkor đang phồn
thịnh, thậm chí hai bên từng đụng độ nhau nhiều lần.
- Chân Lạp cũng là nước cướp phá vùng biên giới của Đại Việt nhiều nhất
so với các nước khác. Nhưng dù vậy, Đại Việt luôn giành thắng lợi.
- Từ khi nhà Lý thành lập, Chân Lạp đã cho sứ sang đặt quan hệ.
- Các sử gia thống kê trong 183 năm (1012-1195), Chân Lạp có 24 lần cử
sứ sang Đại Việt [Đại Việt Sư Ký Toàn Thu]. Trong đó, còn có cả giao lưu
tôn giáo, và trong các dịp lễ của Chân Lạp thì Đại Việt cũng sang mừng và tặng lễ vật.
- Cuối thế kỷ XII sang đầu thế kỷ XIII, cả nhà Lý và Chân Lạp đều bước vào thời kỳ suy yếu.
*) Ai Lao - Đại Việt: Triều cổng -> Xung đột.
- Khi nhà Lý thành lập, quan hệ giữa Đại Việt với Lào được sử sách ghi
nhận lần đầu vào năm 1067, Ai Lao dâng vàng bạc, trầm hương,... và các
thứ sản vật địa phương [Nguyễn Quang Ngọc (2010), Vương triều Lý trang 398]. lOMoAR cPSD| 41487147
- Việc ngoại giao hai bên không được duy trì thường xuyên. Do sự thù địch
giữa hai bên. Nhà Lý đã nhiều lần cử tướng đi đánh Ai Lao cho những xung
đột tại biên giới vào các năm 1048, 1159, 1183 và đều thắng lợi.
3.2.4 Thành tựu do nghệ thuật ngoại giao của triều Lí mang lại:
Những thành tựu và bài học kinh nghiệm trong quan hệ ngoại giao của thời
đại trước thế kỷ X được triều Lý kế thừa, ứng dụng và nâng lên một tầm cao
mới. Dù trong bất cứ thời đại hay triều đại nào thì mục tiêu của đấu tranh
ngoại giao đều nhằm mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc, tự chủ và toàn vẹn
lãnh thổ. Nhận thứcđược sứ mệnh đặc biệt quan trọng của mình, nhà Lý đã
có những chính sách đúng đắn để bảo vệ và phát triển đất nước phồn vinh.
Chính sách ngoại giao đúng đắn, tích cực, chủ động. Đối với phương Bắc thì
mềm dẻo nhưng kiên quyết, còn đối với phương Nam thi linh hoạt nhưng kiên
quyết. Thực hiện linh hoạt, sáng tạo các chính sách, biện pháp ngoại giao
“kiên quyết”, “biết mình biết ta”, “kiên trì”, “lúc cương lúc như”, mềm dẻo có
nguyên tắc. Hòa mục bên trong, hòa hiếu bên ngoài là bản sắc của ngoại
giao Việt Nam và “trong xưng đế, ngoài xưng vương” là một trong những
chính sách mà các triều đại phong kiến nước ta đã vận dụng để xử lý quan
hệ của đất nước với nước láng giềng.
Kết hợp sức mạnh tổng hợp của đối nội và đối ngoại bảo vệ đất nước khỏi
nguy cơ xâm lược của giặc ngoại xâm. Lần đầu tiên trong lịch sử vệ quốc
của dân tộc, với Lý Thường Kiệt thì kế sách của ta đã xuất hiện sự phối hợp
“vừa đánh vừa đảm để bảo vệ độc lập.
Các sử gia cho rằng, ngoài việc thiết lập hòa bình với các nước xung quanh
để tạo ra môi trường ổn định, phát triển kinh tế - xã hội trong nước, các quan
hệ ngoại giao với mật độ lớn thời Lý khẳng định vị thế của nước Đại Việt với
các quốc gia láng giềng. Đại Việt chủ trương giữ quan hệ hoà hiếu với tất cả
các nước trong vùng. Với việc thiết lập quan hệ hợp tác từ nước lớn đến
nước nhỏ, từ những quốc gia đất liền đến những quốc gia hải đảo đã thể
hiện tầm nhìn chiến lược sâu rộng của các đời vua Lý. Tuy thế và lực ở mỗi giai đoạn lịch lOMoAR cPSD| 41487147
sử cụ thể, các chính sách của nhà Lý lại mang những đặc sắc riêng, đây là
biện pháp duy trì sự ổn định và là minh chứng cho sự thiết lập quan hệ ngoại
giao với các quốc gia, dân tộc khác. Chính sự khôn ngoan, khéo léo này đã
tránh được những hiểu lầm, những cuộc chiến không đáng xảy ra, tránh gây
tổn hại đến an ninh nước nhà.
3.2.5: Nét đặc sắc trong nghệ thuật ngoại giao thời Lí:
Trong cuộc đấu tranh chống Tống, thấy nhà Tống chuẩn bị xâm lược quả ráo
riết, nhà Lý quyết định thực hiện một chiến lược khá độc đáo, phá tan kế
hoạch của giặc trên đất giặc: “tiên phát chế nhân” (đem quân ra trước để
chặn thế mạnh của giặc). Khi biết quân Tống đã cùng đường, Lý Thường
Kiệt mở đường cho giặc: “Dùng biện sĩ để bàn hoà, khiến tướng giặc phải
buông vũ khí, quân ta đỡ tốn xương máu mà giữ yên xã tắc”. Ông đưa tin
cho địch: “Rút quân về thì giao hảo”. Đây là nét nghệ thuật vô cùng độc đáo
trong đấu tranh của triều Lý “đánh trận quân sự nhưng kết thúc bằng ngoại giao”.
Trong quá trình kháng chiến nhà Lý đã sử dụng văn học làm đòn phủ đầu và
cũng nhằm để khích lệ tinh thần tướng sĩ. Trước khi tiến quân vào đất Tống,
Lý Thường Kiệt cho truyền “Lệ bố” đi khắp miền Quảng Đông, Quảng Tây.
“Lệ bố”- bản hịch dọc đường. Giữa lúc chiến sự đang diễn ra quyết liệt, Lý
Thường Kiệt cho đọc bài thơ khích lệ tướng sĩ: “Nam quốc sơn hà, Nam đế
cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm/Nhữ
đẳng hành khan thủ bại hư.
Nhà Lý thực hiện chính sách đối ngoại mềm dẻo, chủ động cả xứ giả sang
Tổng, hàng năm vẫn triều cống và chấp nhận là phiên thần. Với phương Bắc,
thời kì này cũng có một điểm sáng rất quan trọng trong đường lối ngoại giao.
Đó là việc nhà Lý được Trung Quốc thừa nhận là một quốc gia độc lập, thể
hiện qua việc năm 1164 vua Lý Anh Tông được thụ phong An Nam quốc
vương - đánh dấu việc chuyển biển về vị thế của Việt Nam trong bang giao
với Trung Quốc (8). Ngoài việc bang giao chính thức còn có các hoạt động
buôn bán nơi biên thuỳ. Sau khi đã đuổi được quân Tống về nước thì lần lượt
thu hồi các vùng đất bị quân Tống chiếm bằng biện pháp đàm phán ngoại
giao kết hợp uy hiếp quân sự.
Nghệ thuật ngoại giao trong thời Lí có những đặc điểm độc đáo và mang
tính chất giai điệu, sáng tạo. Thời Lí gắn liền với sự thịnh vượng và danh
tiếng của triều đại, và nghệ thuật ngoại giao của họ lOMoAR cPSD| 41487147
phản ánh rõ rệt sự tỉ mỉ và tinh tế trong việc xây dựng các mối quan hệ ngoại giao.
Một trong những đặc điểm nổi bật của nghệ thuật ngoại giao thời Lí là sự
khéo léo và rộng lượng trong việc quản lý và phát triển quan hệ với các quốc
gia láng giềng và các đối tác ngoại giao khác. Lí Thường Kiệt và các nhà
ngoại giao khác của triều đại Lí đã sử dụng sự thông thái và tài năng của
mình để tạo mối quan hệ lâu dài và vững chắc với các nước khác, từ đó đảm
bảo an ninh và sự phát triển của nước nhà.
Nghệ thuật ngoại giao thời Lí cũng thể hiện sự tự tin và nhân văn của triều
đại này. Việc tôn trọng và đối xử công bằng với các quốc gia láng giềng và
các đối tác ngoại giao đã tạo nên sự tin tưởng và sự đồng lòng trong quan hệ
quốc tế. Lí Thường Kiệt và các nhà ngoại giao khác cũng đã đưa ra những
văn bản và tư tưởng sáng tạo về ngoại giao, góp phần định hình và nâng cao
vị thế của triều đại Lí trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, nghệ thuật ngoại giao thời Lí cũng gặp một số thách thức và hạn
chế. Sự cạnh tranh và xung đột với các quốc gia láng giềng, đặc biệt là
Trung Quốc và các thế lực hàng hải trong khu vực, đã tạo ra áp lực và khó
khăn trong việc duy trì các quan hệ ngoại giao.
Đồng thời, sự thiếu hụt về tài chính và tài nguyên của Lí đã làm hạn chế khả
năng ngoại giao và tác động đến việc phát triển và duy trì các mối quan hệ quốc tế.
Tóm lại, nghệ thuật ngoại giao thời Lí đã phản ánh sự tỉ mỉ và tinh tế trong
việc quản lý và phát triển quan hệ ngoại giao. Triều đại Lí đã trở thành một
câu chuyện thành công trong việc xây dựng các mối quan hệ ổn định và phát
triển với các quốc gia khác. Mặc dù gặp nhiều thách thức và hạn chế, triều
đại Lí đã thể hiện sự thông thái và sáng tạo trong nghệ thuật ngoại giao, từ
đó củng cố và nâng cao danh tiếng và vị thế của đất nước.
Đến thời nhà Lý, ngoại giao Đại Việt đã phát triển theo hướng đa dạng hơn
các thời đại trước. Chủ trương buôn bán, giao du với nhiều quốc gia, nhiều
vùng khác nhau: Xiêm La, Trảo Oa, Đề Hi. Lộ Hạc, Bắc – Nam Tống, Liêu –
Kim, Tây Hạ, Đại Li, đế chế Khmer, Chiêm Thành, Ai Lao, La Hộc (Lavo),
Tam Phật Tề (Srivijaya)...
-Vừa đánh vừa đàm, kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự với đấu tranh
ngoại giao, chuyển sang đấu tranh ngoại giao đúng lúc đã khiến cho thế
lực thù địch sẵn sàng tiếp nhận. Cụ thể hơn, trong cuộc kháng chiến
chống Tống lần Hai, Lý thường Kiệt sau khi chặn lOMoAR cPSD| 41487147
đứng và tiêu diệt quân địch ở phòng tuyến sông Như Nguyệt đã dùng biện
pháp “dùng biện sĩ để bản hòa. Không nhọc tướng tá, khỏi tốn máu mủ mà
bảo an được tông miếu”. Đề nghị bàn hòa của Lý Thường Kiệt đã mở ra lối
thoát cho Quách Quỳ và Triệu Tiết.
- Do ảnh hưởng của Phật Giáo tác động tới ngoại giao thời Lý với triết lý, tư
tưởng “Từ Bi Hỷ Xả” của giáo lý nhà Phật đã tác động đến chính sách ngoại
giao nhà lý, khiến cho nó trửo nên mềm dẻo, linh hoạt và nhân văn. Chính
sách ngoại giao khôn khéo của nhà Lý trước hết à nhằm bảo vệ và củng cố
chính quyền, song việc đối xử nhân ái với những tù binh chiến tranh xuất phát
từ tư tưởng và cái tâm của người cầm quyền. Đặc biệt, trong giai đoạn này,
Phật giáo đã phát triển thành quốc giáo, hòa quện với tinh thần nhân đạo của
dân tộc ta đã làm nên một chính sách ngoại giao mang bản sắc riêng và đậm tính nhân văn.
Dù giao hảo với nhiều quốc gia: Chân Lạp, Xiêm, Java,Malaysia,... thông
qua hoạt động buôn bán và trao đổi nhưng triều đình nhà L dot y vẫn luôn đề
cao cảnh giác, có những biện pháp quản lý chặt chẽ an ninh, Đại Việt chủ
trương hòa hiếu trong mối quan hệ với các nước trong khu vực
- Đấu tranh kiên trì, sách lược linh hoạt và nhằm vào mục tiêu cụ thể. Vào
thời Lý, nội dung cốt lõi trong chính sách ngoại giao là cứng rắn, kiên quyết.
Nội dung đó được thể hiện trong các cuộc đấu tranh quân sự nhằm bảo về
chủ quyền quốc gia, dân tộc : Các cuộc chiến tranh bảo vệ lãnh thổ ở biên
giới, kháng chiến chống quân Tống xâm lược (1075-1077).... Bên cạnh đó, sự
linh hoạt, mềm dẻo với từng chủ thể ngoại giao cũng được đề cao trong thời kì này.
Tóm lại, do biết đề cao tinh thần tự lập, tự cường. lòng tự tôn dân tộc, củng
cố sức mạnh tiềm lực, phân tích đúng đăn các mặt lợi hại và tương quan
lực lượng giữa ta và nước bạn, nhà Lý đã có những chính sách ngoại giao
vô cùng đúng đắn, tích cực, chủ động. Chính sách ngoại giao thời nhà Lý đã
bảo vệ thành quả mà đất nước ta giành được trên mặt trận quân sự, giữ
vững non sông, bờ cõi, chủ quyền của ông cha ta để lại, đè bẹp ý chí xâm
lược của bè lũ phong kiến Phương Bắc, ổn định hóa đất nước trong một thời gian dài về sau.
3.3 Triều đại nhà Trần ( 1226 – 1400 )
3.3.1: Bối cảnh: lOMoAR cPSD| 41487147
Bối cảnh : Năm 1226, Trần Cảnh lên ngôi vua, lập ra nhà Trần. Trong triều
đại nhà Trần, ngoài những cuộc chiến tranh với quân Nguyên Mông ở phía
Bắc thì Đại Việt cũng có những sự liên hệ với các nước láng giềng phía tây
và phía nam là Ai Lao và Chiêm Thành.
3.3.2: Tình hình trong nước : Dưới sự cai trị của nhà Trần, các mặt về kinh
tế, xã hội, giáo dục, văn hóa và nghệ thuật đã phát triển hoàn thiện hơn so
với thời Lý. Bên cạnh đó, nhà Trần đã biết điều tiết giữa chức năng cai trị.
Nhằm bảo vệ quyền lợi của hoàng tộc, quan lại và chăm lo lợi ích muôn dân.
Nét đặc sắc của thể chế tập quyền thời nhà Trần là triều đình duy trì quyền
lực không chỉ bằng quân đội mà bằng các chính sách khoan thư sức dân.
3.3.3: Những chính sách ngoại giao :
* Với Nam Tống và Mông Cổ:
Năm 1229, nhà Trần sai sứ sang thăm nước Tống. Nhà Tống phong vua
làm An Nam Quốc Vương. (quyển V)
“ Sai sứ sang thông hiếu với nhà Tống.
Sai Lê Phụ Trần, Chu Bác Lãm sang Nguyên.
Lúc này, sứ Nguyên sang đòi lễ vật hằng năm, đòi tăng thêm tiến cống,
lung tung không định. Vua sai Lê Phụ Trần đi sứ, lấy Bác Lãm làm phó.
Cuối cùng qui định 3 năm một lần tiến cống, coi là thường lệ.” (quyển 5)
Sau chiến tranh giữa Mông Cổ và Đại Việt năm 1258, đến năm 1261, Hốt Tất
Liệt sai Lễ bộ Lang Trung Mạnh Giáp và Lễ bộ Viên Ngoại lang Lý Văn Tuấn
đem thư sang dụ. Nhà Trần sai Thông thị đại phu Trần Phụng Công, Chư vệ
ký ban Nguyễn Thám, Viên ngoại lang Nguyễn Diễn mang thư sang Nguyên
thông hiếu. Nhà Nguyên phong vua làm An Nam Quốc Vương, ban cho 3 tấm
gấm tây, 6 tấm gấm kim thục. “ Mùa hạ, tháng 6, nhà Nguyên sai Lễ bộ lang
trung Mạnh Giáp, Viên ngoại lang Lý Văn Tuấn, đưa thư sang dụ.
(Thư đại lược nói: Quan liêu sĩ thứ An Nam, phàm các việc mũ áo, lễ nhạc,
phong tục đều căn cứ theo lệ cũ của nước mình, không phải thay đổi. Huống
chi, nước Cao Ly mới rồi sai sứ sang xem, đã xuống chiếu cho hết thảy đều
theo lệ ấy. Ngoài ra đã răn bảo biên tướng ở Vân Nam không được tự tiện
đem quân lấn cướp nơi cương giới, quấy nhiễu nhân dân. Quan liêu sĩ thứ
nước ngươi hãy yên ổn làm ăn như cũ)(780) .
Đãi yến bọn Mạng Giáp ở cung Thán Từ. lOMoAR cPSD| 41487147
Sai Thông thị đại phu Trần Phụng Công, Chư vệ ký ban Nguyễn Thám,
Viên ngoại lang Nguyễn Diễn mang thư sang Nguyên thông hiếu.
Nhà Nguyên phong vua làm An Nam Quốc Vương, ban cho 3 tấm gấm
tây, 6 tấm gấm kim thục.” (Quyển 5)
Năm 1262, Hốt Tất Liệt gửi chiếu cho vua Trần nhằm định rõ về việc cống
triều “ Mùa đông, tháng 11, nước Nguyên sai bọn Mã Hợp Bộ 10 người sang
hỏi về lễ khánh hạ” .
Năm 1963, nhà Trần cử người đi sứ, được nhà Nguyên ưu ái 3 năm cống
nạp một lần “ Quý Hợi, [ Thiệu Long ] năm thứ 6 [1263], (Tống Cảnh Định
năm thứ 4, Nguyên Trung Thống năm thứ 4). Mùa xuân, tháng giêng, sai
Điện tiền chỉ huy sứ Phạm Cự Địa và Trần Kiều sang Nguyên. Vua Nguyên
xuống chiếu ưu đãi, cho 3 năm một lần cống.”
Tháng 2/1966 “Tháng 2, nhà Nguyên sai Nậu Lạt Đinh sang bảo:
“Trước kia, ta đã sai sứ sang thông hiếu, kẻ thừa hành u mê không cho sứ
trở về do đó ta mới có việc dụng binh năm trước”
Vua sai Dương An Dưỡng và Vũ Hoàn sang Nguyên đáp lễ.”
Đến năm 1267, “ Bọn Dương An Dưỡng từ nước Nguyên trở về, mang theo
luôn lễ vật của vua Nguyên đáp lại”.
“Tân Mùi, [Thiệu Long] năm thứ 14 [1271], (Tống Hàm Thuần năm thứ 7,
Nguyên Chí Nguyên năm thứ 8 ) Mông Cổ đặt quốc hiệu là Đại Nguyên, sai
sứ sang dụ vua vào chầu. Vua lấy cớ có bệnh từ chối không đi.”
“Nhâm Thân, [Thiệu Long] năm thứ 15 [1272], (Tống Hàm Thuần năm thứ
8, Nguyên Chí Nguyên năm thứ 9). Mùa hạ, tháng 4, sứ Nguyên Ngột
Lương sang dụ, hỏi giới hạn cột đồng cũ. Vua sai Viên ngoại lang Lê Kính
Phu đi hội khám. [Phu] trở về nói rằng, cột đồng Mã Viện dựng lâu năm đã
bị mai một, không còn tung tích gì nữa.”
Đến năm 1275, nhà Nguyên lại cho người đi dò sát biên giới. Vua Trần
Thánh Tông sai Lê Khắc Phục và Lê Tuý Kim sang chầu vua Nguyên, yêu
cầu miễn sáu điểm. “Ất Hợi, [Bảo Phù] năm thứ 3 [1275], (Tống Cung Đế
Hiền Đức Hựu năm thứ 1, Nguyên Chí Nguyên năm thứ 12 ) Mùa đông,
tháng 11, tướng thần ở biên giới phía bắc chạy trạm tâu báo người Nguyên
đi tuần biên giới, xem xét địa thế.
Sai Lê Khắc Phục và Lê Túy Kim sang Nguyên”. lOMoAR cPSD| 41487147
“ Bính Tý, [Bảo Phù] năm thứ 4 [1276], (Tống Đức Hựu năm thứ 2, từ tháng 5
về sau là Tống Đoan Tông Cảnh ViêM năm thứ 1, Nguyên Chí Nguyên năm
thứ 13 ). Mùa xuân, tháng 2, sai Đào Thế Quang sang Long châu mượn cớ đi
mua thuốc để thăm dò tình hình người Nguyên.”
Năm 1277, Trần Thái Tông băng hà. Năm sau, vua Trần nhường ngôi cho
thái tử Trần Khâm (tức Trần Nhân Tông). Biết được hai tin này, nhà Nguyên
cử Lễ bộ thượng thư Sài Thung đi cùng ba vị đại thần khác sang trách hỏi.
“Vua Nguyên nghe tin Thái Tông băng, có ý mưa tính nước ta, sai Lễ bộ
thượng thư Sài Xuân ( tức Sài Trang Hương) sang ta. Bấy giờ sứ nước ta là
Lê Khắc Phục đang trở về, gặp quân Nguyên đánh nước Tống, liền theo
đường Hồ Quảng mà về nước, Xuân cùng đi với Khắc Phục sang ta [ Nhà
Nguyên ] lấy cớ vua không xin mệnh mà tự lập, dụ bảo phải sang chầu. Vua
không nghe, sai Trịnh Đình Toản, Đỗ Quốc Kế sang Nguyên. Nguyên giữa
Đình Toản không cho về.”
Năm 1281, nhận thấy nguy cơ xâm lược Đại Việt của nhà Nguyên, vua Trần
Nhân Tông bèn sai chú họ là Trần Di Ái (tức Trần Ải) và Lê Mục, Lê Tuân
sang đất Nguyên, và đi theo Sài Thung về đến kinh đô của Đại Nguyên. Vua
Nguyên phong ba ông này một số chức tước trong bộ máy cai trị nhà
Nguyên. “Tân Tỵ, [ Thiệu Bảo] năm thứ 3 [1281], Nguyên Chí Nguyên năm
thứ 18). Nhà Nguyên lập Di Ái làm Lão hầu, cho Mục làm Hàn lâm học sĩ,
Tuân làm Thượng thư, lại sai Sài Xuân đem 1000 quân hộ tống về nước.”
Sau 3 lần chiến thắng Mông – Nguyên, vào khoảng năm 1291 và 1293 vua
Nguyên lại sai sứ sang dụ vua Trần vào chầu nhưng trong cả hai lần đó thì
vua Trần đều từ chối với các lý do như có tang, có bệnh. “ Tân Mão,[Trùng
Hưng] năm thứ 7 [1291], (Nguyên Chí Nguyên năm thứ 28). Nhà Nguyên sai
Lễ bộ thượng thư T rương Lập Đạo sang dụ vua vào chầu(913) . Năm sau,
(vua) sai Nguyễn Đại Phạp sang Nguyên từ chối, lấy cớ có tang. Quý Tỵ,
[Trùng Hưng] năm thứ 9 [1293], (từ tháng 3 trở đi là Anh Tông Hưng Long
năm thứ 1, Nguyên Chí Nguyên năm thứ 30) Nhà Nguyên sai Binh bộ thượng
thư Lương Tằng dụ vua vào chầu. Vua lấy cớ có bệnh từ chối, sai Đào Tử Kỳ
sang tặng phương vật. Nhà Nguyên giữ Tử Kỳ ở Giang Lăng, lập An Nam hành tỉnh”.
Hơn 30 năm sau, vua Nguyên sai sứ sang báo tin là mới lên ngôi và trao cho
một quyển lịch. Năm 1331, khi nhà Nguyên sang báo việc có vua mới lên
ngôi, vua Trần sai sứ sang chúc mừng. “Ất Mùi, [Hưng lOMoAR cPSD| 41487147
Long] năm thứ 3 [1295], (Nguyên Thành Tông Mộc Nhĩ Nguyên Trinh năm
thứ 1). Mùa xuân, tháng 2, ngày mồng 1, sứ Nguyên Tiêu Thái Đăng sang.
Vua sai Nội viên ngoại lang Trần Khắc Dụng, Phạm Thảo cùng đi theo, nhận
được bộ kinh Đại Tạng đem về để ở phủ Thiên Trường, in bản phó để lưu
hành” Toàn bộ phía trên cái này trích quyển V.
Vua Trần cử Mạc Đĩnh Chi đi sứ nhà Nguyên, bằng tài năng xuất chúng của
mình, ông đã khiến nhà Nguyên phải thán phục : “ Mậu Thân, [Hưng Long]
năm thứ 16 [1308], (Nguyên Vũ Tông Hải Sơn, Chí Đại năm thứ 1). Sứ
Nguyên là Thượng thư An Lỗ Khôi sang báo tin Vũ Tông lên ngôi. Vua sai
Mạc Đĩnh Chi sang Nguyên.
Đĩnh Chi người thấp bé, người Nguyên khinh ông. Một hôm viên tể tướng
mời ông vào phủ cho [24b] cùng ngồi. Lúc ấy, đương hồi tháng 5, tháng 6.
Trong phủ có bức trướng mỏng thêu hình con chim sẽ vàng đậu cành trúc.
Đĩnh Chi vờ ngỡ con chim sẽ thực, vội chạy đến bắt. Người Nguyên cười ồ,
cho là người phương xa bỉ lậu. Đĩnh Chi kéo bức trướng xuống xé đi. Mọi
người đều lấy làm lạ hỏi tại sao. Đĩnh Chi trả lời:
“Tôi nghe người xưa vẽ cành mai và chim sẻ, chứ chưa thấy vẽ chim sẻ đậu
cành trúc bao giờ. Nay trong bức trướng của tể tướng lại thêu cành trúc với
chim sẻ. Trúc là bậc quân tử, chim sẻ là kẻ tiểu nhân.
Tể tướng thêu như vậy là để tiểu nhân trên quân tử, sợ rằng đạo của tiểu
nhân sẽ mạnh, đạo của quân tử sẽ suy. Tôi vì thánh triều mà trừ giúp bọn tiểu nhân”.
Mọi người đều phục tài của ông.
Đến khi vào chầu, gặp lúc nước ngoài dâng quạt, vua Nguyên sai làm bài
minh. Đĩnh Chi cầm bút viết xong ngay, lời bài minh như sau:
“Lưu kim thước thạch, thiên vị địa lô, nhĩ ư tư thì hề, Y Chu cự nho.
Bắc phong kỳ lương, vũ tuyết tái đồ, nhĩ ư tư thì hề, Di [25a] Tề ngã phu.
Y! Dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng, duy ngã dữ nhĩ, hữu như thị phù”.
(Chảy vàng tan đá, trời đất như lò, ngươi bấy giờ là Y Chu(994) đại nho.
Gió bấc căm căm, mưa tuyết mịt mù, ngươi bấy giờ là Di Tề đói xo(995) . lOMoAR cPSD| 41487147
Ôi, được dùng thì làm, bỏ thì nằm co, chỉ ta cùng ngươi là thế ru!). Người
Nguyên lại càng thán phục.” Quyển 6 * Với nhà Minh:
Năm 1368, nhà Nguyên nói riêng và đế quốc Mông Cổ nói chung sụp đổ. Nhà
Minh lên thay thế. Năm 1385, nhà Minh sai sứ sang đòi 20 tăng nhân. Năm
sau, vua Minh đánh tiếng mượn đường đánh Chiêm, bèn đòi 50 con voi, đặt
dịch trạm từ phủ Nghệ An về Vân Nam. Đến năm 1395 nhà Minh sai bọn
Nhâm Hanh Thái sang đòi 5 vạn quân, 50 cỗ voi, 50 vạn thạch lương đưa đến
biên giới nhằm trấn áp Đại Việt, nhưng Hanh Thái đã mật báo cho Đại Việt, và
triều đình đã lấy cớ không cung cấp quân lính và voi chiến, chỉ cấp một ít
lương thực sai quan đưa đến Đồng Đăng rồi trở về kinh đô, nhưng Minh Thái
Tổ lại sai sứ sang đòi nhà sư, phụ nữ xoa bóp, người bị thiến. Lúc này Đại
Việt đã cung cấp cho nhà Minh, mỗi loại một ít. “Ất Sửu, [Xương Phù] năm
thứ 9 [1358], (Minh Hồng Vũ năm thứ 18). Tháng 3, nhà Minh sai sứ sang đòi
20 tăng nhân. Bính Dần, [Xương Phù] năm thứ 10 [1386], (Minh Hồng Vũ
năm thứ 19). Mùa xuân, tháng 2, nhà Minh sai Lâm Bốt sang đòi giống các
loại cây cau, vải, mít, nhãn, vì nộI nhân Nguyễn Tông Đạo nói hoa quả
phương Nam có nhiều thứ ngon. Vua sai bọn Viên ngoại lang Phạm Đình
đem sang, nhưng những cây ấy không chịu được rét, đi nửa đường đều chết
khô cả. Nhà Minh lại sai bọn Cẩm y vệ xá nhân Lý Anh sang mượn đường
đánh Chiêm Thành, đòi 50 con voi, đặt các dịch trạm từ phủ Nghệ An cung
cấp cỏ, thức ăn, đưa voi đến Vân Nam. Ất Hợi, [Quang Thái] năm thứ 8
[1395], (Minh Hồng Vũ năm thứ 28), Nhà Minh sai bọn Nhâm Hanh Thái sang
đòi 5 vạn quân, 50 cỗ voi, 50 vạn thạch lương đưa đến biên giới để dùng vào
việc quân . Khi ấy, người Minh đánh các man làm phản ở Long Châu và châu
Phụng Nghĩa, ngầm bày kế ấy, hòng lấy cớ số lương thực nộp không đủ, để
bắt người nước ta. Hanh Thái mật báo cho ta biết. Ta thác
Cớ không cung cấp quân lính và voi chiến, chỉ cấp một ít lương thực sai
quan đưa đến Đồng Đăng rồi trở về.
Nhà Minh lại sai sứ sang đòi nhà sư, phụ nữ xoa bóp, người bị thiến, ta đưa
sang mỗi loại một ít”.
Sau đó, đến năm 1400 thì Hồ Quý Ly cướp ngôi vua Trần, lập ra nhà Hồ. (Quyển 7)
*Với các nước khác : lOMoAR cPSD| 41487147
Chiêm Thành từ khi nhà Lý suy yếu, thường đem thuyền nhẹ đến cướp bóc
dân cư ven biển. Vua lên ngôi, lấy đức vỗ về, sai sứ sang dụ, tuy họ có
thường sang cống, nhưng lại đòi xin lại đất cũ, và có ý dòm ngó [nước ta].
Vua giận, nên có viễc thân chinh này. Vua giận, nên có việc thân chinh này.
Nhâm Tý, Nguyên Phong năm thứ 2 [1252], (Tống Thuần Hựu năm thứ 13).
Mùa xuân, tháng giêng, vua thân đi đánh Chiêm Thành, sai Khâm Thiên Đại
vương Nhật Hiệu làm lưu thủ. (Q5)
Đến đời vua Trần Anh Tông, thượng hoàng Trần Nhân Tông sang thăm vãn
cảnh nước Chiêm và để cho tình giao hảo của hai nước trở nên bền vững
hơn, thượng hoàng đã gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành là
Chế Mân năm 1306. Chế Mân dâng châu Ô và châu Lý cho Đại Việt. Vua
Trần Anh Tông đổi tên là Thuận Châu và Hóa Châu rồi đặt quan cai trị cũng
như cho di dân sang ở. Một năm sau, Chế Mân chết. Theo tục lệ Chiêm
Thành thì hoàng hậu phải bị hỏa thiêu chết theo. Vua Trần Anh Tông sai
tướng Trần Khắc Chung giả tiếng vào thăm rồi tìm kế rước về. “Ất Mùi, [Hưng
Long] năm thứ 3 [1295], (Nguyên Thành Tông Mộc Nhĩ Nguyên Trinh năm
thứ 1). Mùa xuân, tháng 2, ngày mồng 1, sứ Nguyên Tiêu Thái Đăng sang.
Vua sai Nội viên ngoại lang Trần Khắc Dụng, Phạm Thảo cùng đi theo, nhận
được bộ kinh Đại Tạng đem về để ở phủ Thiên Trường, in bản phó để lưu
hành Mùa hạ, tháng 6, gả công chúa Huyền Trân cho chúa Chiêm Thành Chế
Mân. Trước đây, Thượng hoàng vân du sang Chiêm Thành, đã hứa gã rồi
Đinh Mùi, [Hưng Long] năm thứ 15 [1307], (Nguyên Đại Đức năm thứ 11).
Mùa xuân, tháng giêng, đổi hai châu Ô, Lý thành châu Thuận và châu Hoá.
Sai Hành khiển Đoàn Nhữ Hài đến vỗ yên dân hai châu đó. Mùa hạ, tháng 5,
chúa Chiêm Thành Chế Mân chết. Mùa đông, tháng 10, sai Nhập nội hành
khiển thượng thư tả bộc xạ Trần Khắc Chung, An phủ Đặng Văn sang Chiêm
Thành đón công chúa Huyền Trân và thế tử Đa Đa về. Theo tục lệ Chiêm
Thành, chúa chết thì bà hậu của chúa phải vào giàn thiêu để chết theo. Vua
biết thế, sợ công chúa bị hại, sai bọn Khắc Chung, mượn cớ là sang viếng
tang và nói với [người Chiêm]: “Nếu công chúa hỏa táng thì việc làm chay
không có người chủ trương, chi bằng ra bờ biển chiêu hồn ở ven trời, đón
linh hồn cùng về, rồi sẽ vào giàn thiêu”. Người Chiêm nghe theo.
Khắc Chung dùng thuyền nhẹ cướp lấy công chúa đem về”.
3.3.4 Kết quả của chính sách ngoại giao thời nhà Trần: lOMoAR cPSD| 41487147
1. Chiến thắng quân Nguyên Mông: Quân Nguyên Mông là một quân đội thực
dân xâm lược từ phương Bắc vào thế kỷ 13. Nhà Trần đã tổ chức một chiến
dịch phòng thủ và sau đó tiến hành một cuộc phản công lớn vào năm 1288.
Chiến dịch này đã đánh bại quân Nguyên Mông và đánh dấu sự thắng lợi
quan trọng của chính sách ngoại giao và quân sự của nhà Trần.
2. Nuôi dạy nhân tài: Nhà Trần đã có chính sách tuyển dụng và đào tạo
nhân tài trong nước để nâng cao năng lực quốc gia. Nhờ chính sách này,
đã có nhiều nhân tài xuất sắc được sinh ra, đóng vai trò quan trọng trong
các lĩnh vực như quân sự, ngoại giao, văn hóa và kinh tế.
3. Mở rộng quan hệ ngoại giao: Thời nhà Trần đã mở rộng và phát triển các
quan hệ ngoại giao với các nước láng giềng và các quốc gia khác trong khu
vực. Đặc biệt là quan hệ với Trung Quốc và Đại Việt đã được củng cố và phát
triển, giúp tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế và xã hội của đất nước.
4. Bảo vệ tôn giáo: Triều đình Trần đã thông qua nhiều chính sách bảo vệ và
thúc đẩy phát triển tôn giáo, đặc biệt là đạo Phật và đạo Công giáo. Điều này
giúp tạo dựng lòng tin và sự đoàn kết trong dân tộc, cũng như mang lại sự ổn
định xã hội và văn hóa.
Tóm lại, chính sách ngoại giao của triều đình Trần đã mang lại nhiều thành
tựu quan trọng như chiến thắng quân Nguyên Mông, nuôi dạy nhân tài, mở
rộng quan hệ ngoại giao và bảo vệ tôn giáo. Các thành tựu này đã đóng góp
tích cực vào sự phát triển và độc lập của Việt Nam thời nhà Trần.
3.3.5 Nét đặc sắc trong nghệ thuật ngoại giao thời nhà Trần:
Nếu như trước đó nhà Lý chỉ bang giao với nhà Tống, nay vương triều Trần
phải tiến hành bang giao với hai thực thể chính trị / hai thế lực hùng mạnh là
Đế quốc Mông Cổ đang cai quản Vân Nam (có biên giới với Đại Việt ở các
tỉnh Lai Châu và Lào Cai hiện nay) và nhà Tống (với phần còn lại của biên
giới phía Bắc Việt Nam – Trung Quốc hiện nay). Điều này gây ra áp lực cực kì
lớn, đòi hỏi nhà cầm quyền phải có chính sách ngoại giao đúng đắn, phù hợp
với hoàn cảnh của đất nước. Đế quốc Mông Cổ và nhà Tống khi ấy đều là
những quốc gia hùng mạnh còn Đại Việt chỉ là một nước nhỏ. Nhà Trần được
phong là “An Nam Quốc Vương” là một sự ngầm khẳng định nước ta chỉ là
một nước chư hầu của chúng. Tuy nhiên, Phan Huy Chú đã đúc kết từ trong
lịch sử: “Trong việc trị nước, hòa hiếu với láng giềng là việc lớn”. Do đó, các
triều đại phong kiến Việt Nam trong lịch sử lOMoAR cPSD| 41487147
thường thực hiện chính sách “trong xưng đế, ngoài xưng vương”. “Ngoài
xưng vương” là thể hiện sự hòa hiếu với nước lớn phương Bắc, “trong xưng
đế” là thể hiện ý thức độc lập, tự cường và bản lĩnh bất khuất của dân tộc.
Đó được coi là chiến lược ngoại giao xuyên suốt của một nước Việt nhỏ, sát
cạnh một nước phương Bắc lớn. Vì vậy, tư tưởng yêu nước và ý thức bảo vệ
độc lập luôn hiện hữu xuyên suốt trong chính sách ngoại giao của nhà Trần.
Một trong những điều đặc biệt trong chính sách ngoại giao của nhà Trần là
vua Nguyên nhiều lần yêu cầu các vị vua Trần phải sang chầu, cốt ý muốn
hạ thấp, nhục nhã nước ta. Ngoài ra còn đưa ra các yêu sách đòi hỏi vô
cùng quá đáng. Tuy nhiên, âm mưu của chúng đã không hề thành công, các
vua Trần đều tìm cớ để thoái thác, từ chối vào chầu. Từ đầu đến cuối, họ
vẫn luôn giữ được phẩm chất của một vị vua đứng đầu đất nước, không
chịu khom lưng quỳ gối trước bất kì ai. Tinh thần dân tộc thật đáng tự hào!
Trong truyền thống và bản sắc ngoại giao Việt Nam, chiến lược “dùng ngòi
bút thay giáp binh”- ngoại giao tâm công, lấy lẽ phải, chính nghĩa để thuyết
phục lòng người là một triết lý quan trọng, có giá trị quyết định. Cùng với tinh
thần yêu nước và đoàn kết, chính nghĩa luôn là sức mạnh của dân tộc Việt
Nam. Ông cha ta hết sức coi trọng việc giương cao ngọn cờ chính nghĩa
trong đấu tranh ngoại giao nhằm thu hút sự ủng hộ của nhân dân, chống
những luận điệu sai trái của kẻ thù, để thế giới hiểu rõ về công cuộc dựng
nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Thượng tướng Thái sư Trần Quang
Khải vẫn ân cần làm thơ tống tiễn Sài Thung – một viên sứ thần ngạo mạn
của phương Bắc về nước, bằng những lời rất nhã nhặn: “Biết đến khi nào
cùng gặp lại/ Cầm tay bày tỏ nỗi niềm tây!” hay Mạc Đĩnh Chi bị người nhà
Nguyên khinh thường vì cơ thể thấp bé cũng bị chinh phục bởi tài trí sắc sảo
của ông. Có thể nói, ngoại giao chính là một bàn cờ so tài đầy cam go giữa
nước ta với các thế lực thù địch : sai một ly, đi một dặm. Chỉ cần nước ta có
sơ hở, chúng sẽ lấy cớ đánh chiếm nước ta.
Sau ba lần chiến thắng quân Mông Nguyên, nhà Trần vẫn giữ chính sách
ngoại giao hòa hiếu, hòa bình để ổn định tình hình đất nước sau chiến tranh.
Đây là,một nước cờ hoàn toàn chính xác. Bởi sau chiến tranh dù thắng lợi
nhưng nước ta vẫn chịu thiệt hại đáng kể, cần phải duy trì trạng thái hòa bình
để khôi phục lực lượng. Nếu như nước ta có ý khiêu khích, một cuộc chiến
khác chắc chắn nổ ra. Khi ấy không chắc rằng chúng ta vẫn có thể tiếp tục chiến thắng. lOMoAR cPSD| 41487147
Vấn đề hòa thân là một trong những biện pháp ngoại giao nổi tiếng
ở thời phong kiến. Lấy góc nhìn hiện đại có lẽ chúng ta sẽ tiếc thương cho
những cô công chúa phải hy sinh hôn nhân của bản thân để đổi lấy một phần
lãnh thổ và sự hòa hiếu của hai quốc gia. Tuy nhiên dưới góc nhìn thời phong
kiến, việc ấy là lẽ thường tình. Họ được nuôi dưỡng trong nhung lụa gấm vóc
và đào tạo mọi thứ bởi tiền thuế của nhân dân. Nếu như người đàn ông chiến
đấu trên chiến trường thì người phụ nữ cũng có cách chiến đấu của riêng
mình. Như câu nói “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”, nàng công chúa Huyền
Trân dùng cuộc hôn nhân của mình đổi cho Đại Việt 2 vùng đất châu Ô và
châu Lý rộng lớn, mang công lao mở rộng bờ cõi nước ta. Đặc biệt, sau khi
chúa Chiêm Thành là Chế Mân mất thì lập tức đón Huyền Trân công chúa trở về.
Ngoại giao không chỉ giúp hòa bình mà còn giúp cho công cuộc phát triển đất
nước, việc du nhập các nền văn hóa khác nhau làm cho nước ta càng phát
triển rực rỡ. Tiêu biểu là ở thời Lý-Trần, Phật giáo đã phát triển đến mức đỉnh cao.
Như vậy, nhờ vào chính sách ngoại giao đúng đắn, phù hợp của mình,
nhà Trần đã giữ vững nền độc lập dân tộc và phát triển đất nước một
cách rực rỡ, được xem là một trong hai triều đại thịnh vượng nhất lịch sử
phong kiến Việt Nam cùng với nhà Lý.
Thời Trần là một thời kỳ quan trọng trong lịch sử nghệ thuật Việt Nam, trong
đó nghệ thuật ngoại giao cũng đóng vai trò quan trọng. Dưới triều đại Trần,
nghệ thuật ngoại giao đã phát triển mạnh mẽ và thể hiện tính độc đáo và sắc sảo.
Một trong những điểm đáng chú ý về nghệ thuật ngoại giao thời Trần là sự
kết hợp giữa ảnh hưởng Trung Quốc và phong cách đặc trưng của nghệ
thuật Việt Nam. Nghệ nhân thời đó đã kết hợp và hòa quyện các yếu tố từ
Trung Quốc như các nhân vật và chân dung, cùng với phong cách và nét vẽ
Việt Nam để tạo ra những tác phẩm nghệ thuật độc đáo.
Nghệ thuật ngoại giao thời Trần cũng thể hiện sự tinh tế và tinh xảo trong sử
dụng màu sắc, đặc biệt là màu sơn đồng và màu thủy tinh. Các tác phẩm
nghệ thuật ngoại giao thời này thường có sự sắp xếp tỉ mỉ và chi tiết, với các
nét vẽ tinh xảo và màu sắc tỏa sáng.
Nghệ thuật ngoại giao thời Trần còn được coi là biểu tượng của quyền lực
và sự thịnh vượng của triều đại Trần. Các tác phẩm nghệ thuật này thường
được sử dụng trong các nghi lễ ngoại giao và trao lOMoAR cPSD| 41487147
tặng như một biểu hiện của sự tôn trọng và đánh giá cao của triều đại đối
với các đối tác ngoại quốc.
Nhìn chung, nghệ thuật ngoại giao thời Trần có ảnh hưởng sâu sắc đến
phát triển nghệ thuật Việt Nam, đồng thời cũng là di sản văn hóa đáng tự
hào của dân tộc Việt Nam.
Chính sách ngoại giao Việt Nam hiện nay :
Tại đại hội Đảng, Đảng và Nhà nước nêu rõ quan điểm, đường lối đối ngoại
và chủ động hội nhập quốc tế của Đản và nhà nước ta như sau:
Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia-dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ
bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi. Thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển. Đa dạng
hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại. Chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên
ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân. Bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo
vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Nâng cao vị thế,
uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Trong đó, giữ vững môi trường hòa
bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất
nước, nâng cao đời sống nhân dân được đặt lên hàng đầu; đồng thời phải
nhận thức rõ vị trí của công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế đối với sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế phải góp phần
quan trọng bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ Xã hội chủ nghĩa
Tiếp tục phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại,
ưu tiên phát triển quan hệ hợp tác và hữu nghị truyền thống với các nước
láng giềng có chung biên giới như: Lào, Trung Quốc và Cam-pu-chia. Ký kết
và thực hiện hiệu quả các hiệp định thương mại song phương, đa phương
mới trong một kế hoạch tổng thể với lộ trình hợp lý, phù hợp với lợi ích của đất nước.
Việt Nam sẽ chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng
Cộng đồng ASEAN vững mạnh, tăng cường quan hệ với các đối tác, duy trì
và củng cố vai trò quan trọng của ASEAN trong các khuôn khổ hợp tác khu
vực châu Á-Thái Bình Dương. Xây dựng cộng lOMoAR cPSD| 41487147
đồng ASEAN trở thành một trọng tâm đối ngoại của quốc tế. Đẩy mạnh và
làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác chiến lược. Chủ
động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là với các nước ASEAN.
Hội nhập quốc tế là nội dung rất quan trọng của nhiệm vụ đối ngoại. Hội nhập
quốc tế không giới hạn trong một phạm vi, một lĩnh vực nào của đời sống
quốc tế mà được lan tỏa ở mọi cấp độ, mọi lĩnh vực trên phạm vi khu vực và
toàn cầu. Tham gia mọi mặt đời sống quan hệ quốc tế là phải tham gia các
quá trình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Hội nhập
quốc tế vừa là đòi hỏi khách quan của thời cuộc nói chung, vừa là nhu cầu
nội tại của mỗi nước, trong đó có Việt Nam.
Việt Nam sẽ mở rộng tham gia và đóng góp ngày càng tích cực, chủ động,
trách nhiệm vào các cơ chế, tổ chức, diễn đàn khu vực, đa phương và toàn
cầu…, đặc biệt là Liên hợp quốc. Việt Nam sẽ tích cực hợp tác với các nước,
các tổ chức quốc tế để đối phó với các thách thức an ninh phi truyền thống,
nhất là vấn đề biến đổi khí hậu toàn cầu. Chủ động, tích cực tham gia các cơ
chế đa phương về quốc phòng, an ninh, trong đó có tham gia các hoạt động
hợp tác ở mức độ cao hơn như hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc,…
Triển khai mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ động và tích cực hợp tác
quốc tế. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội,
khoa học-công nghệ, giáo dục-đào tạo và các lĩnh vực khác. Bảo đảm hội
nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị…; hội
nhập là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, chủ động dự báo, xử lý linh
hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu.