Bài kiểm tra giữa học phần chính trị học | Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Chính trị là gì? Tại sao nói chính trị vừa là khoa học vừa là nghệ thuật? Tại sao nói quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự lựa chọn hợp quy luật. Thực tế có rất nhiều quan niệm khác nhau về chính trị. Vào thời Hy Lạp cổ đại, theo Platon, một nhà triết học cổ đại Hy lạp, chính trị là nghệ thuật cai trị. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Họ tên: Trần Khánh An Ngành: Truyền thông quốc tế
SV: 2351070003
BÀI KIỂM TRA GIỮA HỌC PHẦN
1. Chính trị gì? Tại sao nói chính trị vừa khoa học vừa nghệ thuật?
Thực tế rất nhiều quan niệm khác nhau về chính trị. Vào thời Hy Lạp cổ đại, theo Platon,
một nhà triết học cổ đại Hy lạp, chính trị nghệ thuật cai trị, cai trị bằng sức mạnh độc tài,
cai trị bằng thuyết phục mới đích thực chính trị. Còn Aristos cho rằng chính trị khoa học
lãnh đạo con người, khoa học kiến trúc hội, con người động vật chính trị sống trách
nhiệm. phương Đông, người Trung Quốc cổ coi chính trị sự tác động, điều tiết để hội
phát triển đúng đắn, sắp đặt, quản để hội kỷ cương, nề nếp, ổn định. Các nhà chính
trị học Đức: Theo Mác Weber, chính trị khát vọng tham gia quyền lực hay ảnh hưởng đến
sự phân chia quyền lực giữa các quốc gia, bên trong quốc gia, giữa các tập đoàn người trong
một quốc gia… còn rất nhiều quan điểm khác nữa. Các quan niệm trên đều những ưu
nhược nhất định về nội dung, phạm trù chính trị. Khắc phục những hạn chế đó, các nhà
kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã đưa ra những ý kiến giá trị, định hướng nhất định
trong việc xác định đúng đắn về chính trị: Chính trị lợi ích, quan hệ lợi ích, đấu tranh
giai cấp trước hết lợi ích giai cấp. Chính trị sự tham gia của nhân dân vào công việc nhà
nước. Chính trị biểu hiện tập trung của kinh tế, việc xây dựng nhà nước về kinh tế. Đồng
thời chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế. Chính trị vừa khoa học
vừa nghệ thuật…
Từ tất cả những quan niệm trên, thể rút ra được: Chính trị lĩnh vực quan trọng nhằm
nghiên cứu, tác động quản mối quan hệ giữa các giai cấp, dân tộc quốc gia. Tập
trung vào việc giành giữ sử dụng quyền lực nhà nước, tham gia vào công việc chính phủ
định hình hình thức tổ chức, nhiệm vụ nội dung của nhà nước. Chính trị liên quan chặt
chẽ đến sự ra đời của giai cấp nhà nước. Khi chính trị tồn tại, giai cấp nhà nước cũng
tồn tại. một thành phần của kiến trúc thượng tầng, được ảnh hưởng bởi sở hạ tầng
kinh tế - yếu tố quyết định quan điểm thiết kế chính trị. Chính trị bao gồm hệ tưởng về
chính trị, tổ chức nhà nước các đảng phái chính trị, xuất hiện khi hội sự phân chia
giai cấp. Tóm lại, chính trị lĩnh vực quan trọng trong hội, nghiên cứu ảnh hưởng đến
quan hệ quyền lực, quyết định chính sách tham gia vào công việc quản của nhà nước.
phản ánh sự tương tác giữa các giai cấp hội, nhằm mục tiêu giành quyền lực tác
động trong hội.
Chính trị được coi vừa khoa học vừa nghệ thuật kết hợp cả các phương pháp
nghiên cứu quy trình logic của khoa học, lẫn sự sáng tạo duy sâu sắc của nghệ thuật.
Chính trị khoa học. chính trị một hiện tượng khách quan quan trọng trong đời sống
hội loài người, xuất hiện cùng với giai cấp nhà nước, gắn liền với quyền lực đấu
tranh của các giai cấp dân tộc. đóng vai trò quan trọng trong việc xác định cấu trúc
hội, quyết định chính sách tạo ra sự thay đổi hội. Chính trị một lĩnh vực tương đối
độc lập trong đời sống hội, sự phát triển nội tại tuân theo quy luật phát triển khách
quan. logic riêng, dựa trên việc nghiên cứu phân tích các quy tắc quy luật của
quyền lực, tương tác hội đấu tranh giai cấp. Chính trị cũng một hệ thống tri thức, bao
gồm cả tri thức kinh nghiệm tri thức luận hoàn chỉnh. phản ánh quy luật vận động
khách quan của chính trị, từ những kinh nghiệm thực tiễn cho đến các thuyết hình
phức tạp. Tuy nhiên, chính trị đã bị hạn chế lịch sử chi phối bởi lợi ích giai cấp, dẫn đến
việc trở thành đặc quyền của giai cấp thống trị. Chính trị chỉ thực sự trở thành một khoa học
đích thực khi chủ nghĩa Mác-Lênin ra đời, đưa ra những sở luận phương pháp nghiên
cứu khoa học trong lĩnh vực này. Ngày nay, chính trị thực sự trở thành một khoa học độc lập,
với đối tượng phương pháp nghiên cứu riêng. được xem xét nghiên cứu theo các
quy trình khoa học, với sự áp dụng của phương pháp nghiên cứu, thu thập dữ liệu xây
dựng các hình thuyết để hiểu dự đoán các hiện tượng chính trị. Trong việc đấu tranh
giành độc lập xây dựng chủ nghĩa hội Việt Nam, chính trị luôn được xem như một
khoa học. Cách mạng Việt Nam đã xác định chính trị một lĩnh vực nghiên cứu ứng dụng
tính khoa học, đóng vai trò quan trọng trong xây dựng thực hiện đường lối, chính sách
tổ chức thực tiễn trong hội.
Chính trị nghệ thuật. Chính trị không thể tránh khỏi việc tranh đấu quyền lực, nỗ lực
mạnh mẽ để chiếm giữ đánh mất nó, vậy các chủ thể chính trị, đặc biệt các giai cấp,
không thể không sử dụng mọi biện pháp chiêu thức để đạt được mục tiêu chính trị của
mình. Hoạt động chính trị luôn được đòi hỏi sự sáng tạo, linh hoạt, khéo léo mềm dẻo, phù
hợp với tình hình thực tế để đạt được hiệu quả tối đa. Chính trị một lĩnh vực hấp dẫn nhưng
phức tạp, "giống hơn số". yêu cầu các nhà chính trị kỹ năng khéo léo cao, đòi hỏi
trí tuệ tương ứng với trách nhiệm của họ. Chính trị nghệ thuật của các bước đi (biết tiến
biết rút lui đúng thời điểm), của các giải pháp thỏa thuận trong những thời điểm quan
trọng lịch sử. Như Benjamin Disraeli đã từng nói "Chính trị nghệ thuật của khả năng xem
trước, của sự thể hiện tầm nhìn của sự dẫn dắt.". Đó nghệ thuật áp dụng tri thức
thuyết kinh nghiệm thực tế để giải quyết các tình huống chính trị phức tạp, sử dụng đúng
phép biện chứng giữa khách quan chủ quan trong hoạt động tranh đấu chính trị. Chính
trị nghệ thuật của khả năng: khả năng nắm bắt sự chuyển động của hội, dự đoán chính
xác tình hình thời cách mạng. Chính trị nghệ thuật tổ chức lực lượng, sử dụng con
người, nghệ thuật kích động quần chúng nghệ thuật tiến hành chiến tranh cách mạng.
Chính trị "Dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
Bản thân chính trị một khoa học cũng đã phản ánh tính nghệ thuật của nó, bởi khoa học
nghệ thuật luôn gắn hữu cơ. Lĩnh vực nhạy cảm này liên quan đến vận mệnh của con
người, của hàng triệu người, chính trị yêu cầu sự chuẩn xác gắn với thực tiễn, tuân theo
quy luật khách quan, tránh chủ quan duy ý chí. Đồng thời, hoạt động chính trị cũng đòi hỏi
sự nhạy cảm, tinh tế mưu lược để đạt trình độ nghệ thuật cao. Trong hoạt động chính trị
thực tiễn, tính khoa học nghệ thuật kết hợp, bổ sung cho nhau. Nếu tuyệt đối hóa tính khoa
học của chính trị, chúng ta dễ rơi vào chủ nghĩa giáo điều, máy móc, mất đi sự nhạy cảm
mưu lược cần thiết để thích ứng với biến đổi hội tâm của con người. Nếu tuyệt đối
hóa tính nghệ thuật không tuân theo khoa học, chính trị chỉ trở thành những mánh khóe
lừa đảo, mị dân, sớm muộn cũng sẽ bị vạch trần mất đi lòng tin của người dân. vậy,
chính trị không chỉ đơn thuần một lĩnh vực khoa học, còn một nghệ thuật. Sự kết hợp
hài hòa giữa tính chuẩn mực tính sáng tạo yếu tố quan trọng để thành công trong hoạt
động chính trị. Chỉ khi chúng ta hiểu áp dụng cả hai khía cạnh này, chúng ta mới thể
xây dựng được một chính trị tốt đẹp hơn, phục vụ cho sự phát triển tiến bộ của hội.
2. Tại sao nói quá độ lên Chủ nghĩa hội Việt Nam sự lựa chọn hợp quy
luật
Quan điểm của C. Mác về thời kỳ quá độ từ hội bản chủ nghĩa lên hội cộng sản chủ
nghĩa một phần quan trọng trong hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa Mác về hội nói
chung hội cộng sản chủ nghĩa nói riêng. Theo dự đoán của Mác, thời kỳ quá độ sẽ xuất
hiện trong tương lai gần, các nước bản chủ nghĩa phát triển nhất sẽ những nước đầu tiên
bước vào thời kỳ quá độ, nhà nước trong thời kỳ quá độ sẽ nhà nước chuyên chính sản,
chế độ dân chủ trong thời kỳ quá độ sẽ chế độ dân chủ sản; thời kỳ quá độ sẽ không kéo
dài hàng trăm năm; khi thời kỳ quá độ kết thúc thì chế độ hữu sẽ mất đi, sản xuất hàng hóa
sẽ không còn, giai cấp sẽ không tồn tại, nhà nước chế độ dân chủ sẽ tiêu vong, sự phát
triển tự do của mỗi người sẽ điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.
thời kỳ cải tạo cách mạng hội bản chủ nghĩa thành hội hội chủ nghĩa, bắt đầu
từ khi giai cấp công nhân giành được chính quyền kết thúc khi xây dựng xong các sở
của chủ nghĩa hội. Đặc trưng kinh tế của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa hội cấu
kinh tế nhiều thành phần. Nhiệm vụ bản của nhà nước trong thời kỳ quá độ, một mặt
phát huy đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân lao động, chuyên chính với mọi hoạt động
chống chủ nghĩa hội, mặt khác từng bước cải tạo hội cũ, xây dựng hội mới. Về mặt
luận từ các tác phẩm của các nhà kinh điển, thể thấy, về thời kỳ quá độ, 3 cách hiểu:
1- Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa bản lên chủ nghĩa cộng sản; 2- Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa
bản lên chủ nghĩa hội; và, 3: Thời kỳ quá độ từ hội tiền bản lên chủ nghĩa hội.
Thực ra, đối với các nhà kinh điển, chủ nghĩa hội chỉ giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng
sản. vậy, chỉ hai cách quá độ lên chủ nghĩa hội: 1- Từ chủ nghĩa bản lên chủ
nghĩa hội - đó được xem sự quá độ trực tiếp; 2- Từ hội tiền bản lên chủ nghĩa
hội - đó được xem sự quá độ gián tiếp.
Tuy nhiên, gián tiếp hay trực tiếp thì quá độ lên chủ nghĩa hội đều tất yếu khách
quan đều một thời kỳ lâu dài với nhiều con đường, bước đi với những nội dung, tính
chất đặc thù khác nhau. phải trải qua nhiều bước ngoặt, nhiều thăng trầm với liên tục
đứt đoạn, quanh co, khúc khuỷu, nhưng đó đều sự phát triển, tiến bộ đi lên của lịch sử
nhân loại.
Trong thời kỳ quá độ (TKQĐ) từ chế độ hội hiện tại đến chế độ hội cộng sản (CNXH)
được bổ sung phát triển từ năm 2011, cương lĩnh xây dựng đất nước đã được sự khẳng
định: "Trong thời đại hiện nay, điểm đặc biệt các quốc gia với các chế độ hội trình độ
phát triển khác nhau đồng tồn tại, đồng thời hợp tác đấu tranh, cạnh tranh gay gắt lợi ích
quốc gia dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các quốc gia hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ, phát triển tiến bộ hội, mặc đối mặt với nhiều khó khăn thách thức,
nhưng sẽ những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người sẽ tiến tới
chế độ hội cộng sản."
Trong bối cảnh toàn cầu như vậy, việc Việt Nam tiến tới chế độ hội cộng sản khát vọng
của nhân dân sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam Chủ tịch Hồ Chí
Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Đây một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt
để đấu tranh phức tạp giữa cái cái mới, nhằm tạo ra sự thay đổi về bản chất trên tất
cả các lĩnh vực của cuộc sống hội. Quá trình này nhất thiết phải trải qua một TKQĐ lâu
dài, với nhiều bước phát triển nhiều hình thức tổ chức kinh tế hội xen kẽ. Điều này
thể được giải bởi những do sau đây:
Thứ nhất, lịch sử phát triển hội của loài người sự thay thế tiến bộ liên tiếp của các
hình thức kinh tế - hội. Tuy nhiên, không phải khi một hình thức kinh tế - hội kết thúc
hoàn toàn thì hình thức tiếp theo mới ra đời. Giữa sự thay thế của hình thức kinh tế - hội
hình thức kinh tế - hội mới luôn một giai đoạn chuyển tiếp, đó chính TKQĐ.
Xây dựng hội cộng sản chủ nghĩa, với giai đoạn đầu chế độ hội cộng sản, một hình
thức hội hoàn toàn mới về bản chất so với các hình thức hội trước đó, điều này đòi
hỏi phải trải qua một TKQĐ lâu dài, đầy khó khăn, thử thách không thể tránh khỏi những
khó khăn tạm thời thất bại tạm thời. Trong "Phê phán Cương lĩnh Gô-ta," các nhà sáng lập
chủ nghĩa Mác Trong việc xây dựng chế độ hội cộng sản mới, đã ràng chỉ ra rằng "Giữa
chế độ hội bản chủ nghĩa chế độ hội cộng sản chủ nghĩa một giai đoạn cải biến
cách mạng từ hội này sang hội khác. Để thích ứng với giai đoạn đó, cần một thời kỳ
quá độ chính trị..."
Thứ hai, trong học thuyết Mác - Lênin đã được chứng minh rằng để đạt được tính cách một
chỉnh thể nhất, loài người phải trải qua 5 giai đoạn phát triển kinh tế hội. Tuy nhiên, do
đặc điểm lịch sử các yếu tố khác nhau, không phải quốc gia nào cũng tuân theo trình tự 5
giai đoạn này theo một đồ chung. Mỗi quốc gia thể bỏ qua một số giai đoạn tùy thuộc
vào điều kiện lịch sử cụ thể. Điều này phù hợp với quy luật khách quan.
Thứ ba, trong thời đại hiện nay, việc bỏ qua giai đoạn chuyển tiếp từ chế độ tự nhiên đến
chế độ kinh tế hội chủ nghĩa Việt Nam hoàn toàn phù hợp với yêu cầu khách quan của
nền kinh tế. Điều này được quy định bởi hai do chính: Sự phát triển vượt bậc của cách
mạng khoa học công nghệ đã làm cho lực lượng sản xuất thế giới đạt đến mức độ cao,
khởi đầu một giai đoạn mới của quá trình hội hóa sản xuất. Điều này tạo ra hội để Việt
Nam sử dụng duy, sở vật chất, kỹ thuật kinh nghiệm quản của thế giới để phát
triển công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Trong bối cảnh kinh tế thế giới những tiến
bộ vượt bậc về sở vật chất kỹ thuật, loài người đòi hỏi phát triển lên một hội mới,
một hội văn minh hơn, một hội tri thức. Do đó, việc chuyển từ chế độ tự nhiên đến chế
độ kinh tế hội chủ nghĩa một con đường phát triển hợp theo quy luật khách quan. Sau
giai đoạn chuyển tiếp nhất định, chế độ hội tiếp theo sẽ một chế độ tốt đẹp hơn - chế độ
hội chủ nghĩa Việt Nam đã chọn lựa đúng đắn. Với những thành tựu đã đạt được trong
hơn 80 năm qua, đặc biệt trong giai đoạn đổi mới kéo dài hơn 30 năm, Việt Nam đã thoát
khỏi cảnh nghèo đói kém phát triển, trở thành một trong những quốc gia đang phát triển
với thu nhập trung bình, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa, quan hệ quốc tế rộng
rãi vị thế quốc tế ngày càng quan trọng trong khu vực trên thế giới. Đây điều kiện
tiên quyết, quyết định cho việc chuyển tiếp từ chế độ tự nhiên đến chế độ kinh tế hội chủ
nghĩa Việt Nam. Lựa chọn hướng phát triển. Sau khi giải phóng miền Nam thống nhất
đất nước, Việt Nam đã sự tăng trưởng kinh tế đáng kể đạt được một số thành tựu quan
trọng trong việc giảm nghèo nâng cao mức sống của dân cư. Việt Nam đã tiếp cận với nền
kinh tế thị trường thực hiện các biện pháp cải cách kinh tế để thu hút đầu phát triển
kinh tế. Việt Nam đã xây dựng một hình phát triển duy trì sự ổn định chính trị hội,
đạt được sự phát triển bền vững trong một thời gian dài. Việc bỏ qua giai đoạn chuyển tiếp
từ chế độ tự nhiên đến chế độ kinh tế hội chủ nghĩa Việt Nam không phải một bước
nhảy vọt, kết quả của quá trình phát triển kinh tế hội của đất nước. Việt Nam đã
trải qua những giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau đã đạt được một mức độ ổn định
phát triển đáng kể trước khi chuyển sang hình kinh tế hội chủ nghĩa
Những thành tựu đã đạt được trong hơn 30 năm đổi mới đã ràng chứng minh rằng việc
lựa chọn này đúng hướng phù hợp với lợi ích của cả dân tộc hoàn cảnh lịch sử cụ thể
của nước ta, đồng thời phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Toàn bộ lịch sử cách mạng
Việt Nam đã chứng tỏ rằng quy luật của cách mạng Việt Nam độc lập dân tộc liên kết với
chủ nghĩa hội, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: "Muốn cứu nước giải phóng dân
tộc, không con đường nào khác ngoài con đường cách mạng hội chủ nghĩa." Trong thực
tế, chủ nghĩa hội không chỉ động lực tinh thần còn một sức mạnh vật chất quan
trọng đã góp phần đưa sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của chúng ta đến thắng
lợi. Quá trình cách mạng do Đảng lãnh đạo đã tạo ra tiền đề về cả vật chất tinh thần để "rút
ngắn" tiến trình phát triển lịch sử - tự nhiên của hội. Do đó, dân tộc ta đã chọn con đường
vượt qua giai đoạn chủ nghĩa hội để tiến tới chủ nghĩa hội, bỏ qua chế độ bản chủ
nghĩa. Điều này phù hợp cả về thuyết thực tế, phù hợp với đặc điểm lịch sử hoàn
cảnh quốc tế.
Nói "nước ta vượt qua chủ nghĩa bản chủ nghĩa để tiến tới chủ nghĩa hội" chỉ nghĩa
trong lịch sử của nước ta không một giai đoạn nào giai cấp sản nắm giữ quyền lực
chính trị quan hệ sản xuất bản chủ nghĩa chiếm vị trí thống trị trong nền kinh tế quốc
gia. "Con đường phát triển của nước ta sự vượt qua chủ nghĩa bản chủ nghĩa để tiến tới
chủ nghĩa hội, tức bỏ qua việc thiết lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất kiến trúc
thượng tầng bản chủ nghĩa, nhưng vẫn tiếp thu kế thừa những thành tựu nhân loại
đã đạt được dưới chế độ bản chủ nghĩa, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học công nghệ,
để phát triển lực lượng sản xuất xây dựng nền kinh tế hiện đại." Con đường phát triển chủ
nghĩa hội nước ta, gọi Trung kỳ quá độ, mang ý nghĩa đất nước ta phải trải qua một
giai đoạn hội trung gian, chuyển tiếp giữa cấu trúc Việc đổi mới trong hơn 30 năm đã
mang lại những thành tựu đáng kể, ràng chứng tỏ rằng đây lựa chọn đúng hướng phù
hợp với lợi ích của dân tộc hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước ta, đồng thời còn phù hợp
với xu hướng phát triển của thời đại. Lịch sử cách mạng Việt Nam đã khẳng định rằng quy
luật của cách mạng Việt Nam độc lập dân tộc kết hợp với chủ nghĩa hội, như Chủ tịch
Hồ Chí Minh từng ràng chỉ ra: "Muốn cứu nước giải phóng dân tộc, không con
đường nào khác ngoài con đường cách mạng hội chủ nghĩa." Trong thực tế, chủ nghĩa
hội không chỉ động lực tinh thần còn một sức mạnh vật chất quan trọng, đã góp phần
đưa sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của chúng ta đến thắng lợi. Quá trình
cách mạng do Đảng lãnh đạo đã tạo ra những tiền đề về cả vật chất tinh thần để "rút ngắn"
tiến trình phát triển lịch sử - tự nhiên của hội. vậy, dân tộc ta đã chọn con đường vượt
qua giai đoạn chủ nghĩa bản để tiến tới chủ nghĩa hội, bỏ qua chế độ bản. Điều này
phù hợp cả về mặt thuyết thực tiễn, cũng như với đặc điểm lịch sử tình hình quốc tế.
Thứ tư, lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách lệ thực dân của nước ta đã chứng
minh rằng trước sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã nhiều phong trào đấu tranh
chống Pháp tràn đầy tinh thần yêu nước bất khuất. Tuy nhiên, tất cả những phong trào đó
đều rơi vào bế tắc thất bại, chủ yếu do chiến lược không đúng đắn. Các phương án chính
trị từ các giai cấp, bao gồm đường lối cứu nước theo hệ tưởng phong kiến, đường lối theo
lập trường nông dân, tiểu sản sản, đều đã bị lịch sử chứng minh thất bại. Trong
hoàn cảnh đó, việc ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhanh chóng trở thành một biểu
tượng cao cả của sự độc lập dân tộc hội chủ nghĩa, đồng thời đưa sự nghiệp Cách mạng
Việt Nam phát triển không ngừng. Khi Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu
nước, sau khi bắt gặp chủ nghĩa Mác –Lênin thì người đã tìm thấy sở luận chắc chắn
cho con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Đó con đường cách mạng sản. Bác Hồ
khẳng định: chỉ chủ nghĩa hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị
áp bức: “cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng hội chủ nghĩa thì
mới giành được thắng lợi hoàn toàn”. “Muốn cứu nước giải phóng dân tộc không con
đường nào khác con đường cách mạng sản.” tưởng đó được Đảng ta khẳng định, được
cả dân tộc hưởng ứng đi theo. Lựa chọn đó của lịch sử Việt Nam, của toàn dân tộc Việt
Nam. vậy, chúng ta không thể chọn con đường phát triển theo chủ nghĩa bản, bởi
"chúng ta cần một hội thực sự phát triển con người, không phải lợi nhuận để khai
thác áp đặt lên con người. Chúng ta cần sự phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ công
bằng hội, không gia tăng khoảng cách giàu nghèo bất bình đẳng hội. Chúng ta cần
một hội nhân ái, đoàn kết, hỗ trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ nhân văn, không
phải cạnh tranh bất công, "cá lớn nuốt bé", lợi ích nhân nhóm. Chúng ta cần sự
phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo vệ môi trường sống cho thế hệ hiện tại
tương lai, không khai thác cạn kiệt tài nguyên, tiêu thụ hạn phá hủy môi trường.
chúng ta cần một hệ thống chính trị quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, được nhân dân
điều khiển phục vụ lợi ích của nhân dân, không chỉ cho một số ít người giàu có".
Lịch sử Vận động phát triển của cách mạng Việt Nam, cũng như tình hình phát triển thế
giới trong thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI đã bác bỏ những luận điệu xuyên tạc trên chứng
minh rằng quá độ lên chủ nghĩa hội Việt Nam một lựa chọn tất yếu phù hợp với sự
phát triển tiến bộ của thời đại điều kiện lịch sử của Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa hội, được bổ sung phát triển vào năm 2011,
đã khẳng định rằng các nước với chế độ hội trình độ phát triển khác nhau thể tồn tại
cùng tồn tại, hợp tác đấu tranh, cạnh tranh lợi ích quốc gia dân tộc. Cuộc đấu
tranh của nhân dân các nước hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển tiến bộ
hội, mặc gặp nhiều khó khăn thách thức, nhưng sẽ những bước tiến mới. Theo quy
luật tiến hóa của lịch sử, loài người sẽ tiến tới chủ nghĩa hội. Trong bối cảnh chung của sự
phát triển trên thế giới, việc Việt Nam lựa chọn quá độ lên chủ nghĩa hội khát vọng của
nhân dân sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam Chủ tịch Hồ Chí Minh,
phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Đây một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để
đấu tranh phức tạp giữa cái cái mới, nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trong tất cả các
lĩnh vực của đời sống hội. Quá trình này yêu cầu một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều
bước phát triển nhiều hình thức tổ chức kinh tế hội đan xen. Trên hết nước ta đi lên
Chủ nghĩa hội một tất yếu khách quan theo đúng quy luật tiến hóa của lịch sử. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã kết luận: Muốn cứu nước giải phóng dân tộc không con đường nào
khác con đường cách mạng sản. Chỉ Chủ nghĩa hội, Chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức giai cấp công nhân thế giới. Thời kỳ quá độ một thời
kỳ lịch sử, thời kỳ chuyển biến cách mạng bất cứ quốc gia nào đi lên Chủ nghĩa hội
cũng đều phải trải qua. Nước ta quá độ lên Chủ nghĩa hội bỏ qua chế độ bản chủ nghĩa
một tất yếu lịch sử. Bởi vì, thời đại chúng ta đang sống thời kỳ quá độ từ Chủ nghĩa
bản lên Chủ nghĩa hội trên phạm vi toàn thế giới. Tuy nhiên, thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa
hội nước ta sẽ lâu dài gian khổ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Một chế độ này biến
đổi thành một chế độ khác cả một cuộc đấu tranh gay go, kịch liệt lâu dài giữa cái xấu
cái tốt, giữa cái cái mới, giữa cái thoái bộ cái tiến bộ, giữa cái đang suy tàn cái
đang phát triển. Kết quả cái mới, cái tiến bộ nhất định thắng". Nước ta một nước nông
nghiệp, công cuộc thay đổi hội thành hội mới sẽ gian nan phức tạp hơn đánh giặc,
phải đấu tranh với kẻ địch nguy hiểm khác đó nghèo nàn, đói khổ lạc hậu.
Như vậy, cả từ phương diện luận, cả từ phương diện thực tiễn vận động của lịch sử nhân
loại suốt thế kỷ XX, thập niên đầu thế kỷ XXI đặc biệt từ thực tiễn lịch sử đấu tranh giải
phóng, xây dựng đất nước Việt Nam, việc nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN
một tất yếu khách quan, hoàn toàn phù hợp với xu thế của thời đại, với đặc điểm lịch sử
cụ thể của cách mạng Việt Nam, đáp ứng đúng khát vọng của nhân dân ta.
| 1/7

Preview text:

Họ và tên: Trần Khánh An
Ngành: Truyền thông quốc tế Mã SV: 2351070003
BÀI KIỂM TRA GIỮA HỌC PHẦN
1. Chính trị là gì? Tại sao nói chính trị vừa là khoa học vừa là nghệ thuật?
Thực tế có rất nhiều quan niệm khác nhau về chính trị. Vào thời Hy Lạp cổ đại, theo Platon,
một nhà triết học cổ đại Hy lạp, chính trị là nghệ thuật cai trị, cai trị bằng sức mạnh là độc tài,
cai trị bằng thuyết phục mới đích thực là chính trị. Còn Aristos cho rằng chính trị là khoa học
lãnh đạo con người, khoa học kiến trúc xã hội, con người là động vật chính trị sống có trách
nhiệm. Ở phương Đông, người Trung Quốc cổ coi chính trị là sự tác động, điều tiết để xã hội
phát triển đúng đắn, là sắp đặt, quản lý để xã hội có kỷ cương, nề nếp, ổn định. Các nhà chính
trị học Đức: Theo Mác Weber, chính trị là khát vọng tham gia quyền lực hay ảnh hưởng đến
sự phân chia quyền lực giữa các quốc gia, bên trong quốc gia, giữa các tập đoàn người trong
một quốc gia… Và còn rất nhiều quan điểm khác nữa. Các quan niệm trên đều có những ưu
và nhược nhất định về nội dung, phạm trù chính trị. Khắc phục những hạn chế đó, các nhà
kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã đưa ra những ý kiến có giá trị, định hướng nhất định
trong việc xác định đúng đắn về chính trị: Chính trị là lợi ích, là quan hệ lợi ích, là đấu tranh
giai cấp trước hết vì lợi ích giai cấp. Chính trị là sự tham gia của nhân dân vào công việc nhà
nước. Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, là việc xây dựng nhà nước về kinh tế. Đồng
thời chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế. Chính trị vừa là khoa học vừa là nghệ thuật…
Từ tất cả những quan niệm trên, có thể rút ra được: Chính trị là lĩnh vực quan trọng nhằm
nghiên cứu, tác động và quản lý mối quan hệ giữa các giai cấp, dân tộc và quốc gia. Tập
trung vào việc giành giữ và sử dụng quyền lực nhà nước, tham gia vào công việc chính phủ
và định hình hình thức tổ chức, nhiệm vụ và nội dung của nhà nước. Chính trị liên quan chặt
chẽ đến sự ra đời của giai cấp và nhà nước. Khi chính trị tồn tại, giai cấp và nhà nước cũng
tồn tại. Nó là một thành phần của kiến trúc thượng tầng, được ảnh hưởng bởi cơ sở hạ tầng
kinh tế - yếu tố quyết định quan điểm và thiết kế chính trị. Chính trị bao gồm hệ tư tưởng về
chính trị, tổ chức nhà nước và các đảng phái chính trị, xuất hiện khi xã hội có sự phân chia
giai cấp. Tóm lại, chính trị là lĩnh vực quan trọng trong xã hội, nghiên cứu và ảnh hưởng đến
quan hệ quyền lực, quyết định chính sách và tham gia vào công việc quản lý của nhà nước.
Nó phản ánh sự tương tác giữa các giai cấp và xã hội, nhằm mục tiêu giành quyền lực và tác động trong xã hội.
Chính trị được coi là vừa là khoa học vừa là nghệ thuật vì nó kết hợp cả các phương pháp
nghiên cứu và quy trình logic của khoa học, lẫn sự sáng tạo và tư duy sâu sắc của nghệ thuật.
Chính trị là khoa học. Vì chính trị là một hiện tượng khách quan quan trọng trong đời sống
xã hội loài người, xuất hiện cùng với giai cấp và nhà nước, và gắn liền với quyền lực và đấu
tranh của các giai cấp và dân tộc. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc xác định cấu trúc xã
hội, quyết định chính sách và tạo ra sự thay đổi xã hội. Chính trị là một lĩnh vực tương đối
độc lập trong đời sống xã hội, có sự phát triển nội tại và tuân theo quy luật phát triển khách
quan. Nó có logic riêng, dựa trên việc nghiên cứu và phân tích các quy tắc và quy luật của
quyền lực, tương tác xã hội và đấu tranh giai cấp. Chính trị cũng là một hệ thống tri thức, bao
gồm cả tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận hoàn chỉnh. Nó phản ánh quy luật vận động
khách quan của chính trị, từ những kinh nghiệm thực tiễn cho đến các lý thuyết và mô hình
phức tạp. Tuy nhiên, chính trị đã bị hạn chế lịch sử và chi phối bởi lợi ích giai cấp, dẫn đến
việc trở thành đặc quyền của giai cấp thống trị. Chính trị chỉ thực sự trở thành một khoa học
đích thực khi chủ nghĩa Mác-Lênin ra đời, đưa ra những cơ sở lý luận và phương pháp nghiên
cứu khoa học trong lĩnh vực này. Ngày nay, chính trị thực sự trở thành một khoa học độc lập,
với đối tượng và phương pháp nghiên cứu riêng. Nó được xem xét và nghiên cứu theo các
quy trình khoa học, với sự áp dụng của phương pháp nghiên cứu, thu thập dữ liệu và xây
dựng các mô hình lý thuyết để hiểu và dự đoán các hiện tượng chính trị. Trong việc đấu tranh
giành độc lập và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, chính trị luôn được xem như một
khoa học. Cách mạng Việt Nam đã xác định chính trị là một lĩnh vực nghiên cứu và ứng dụng
có tính khoa học, đóng vai trò quan trọng trong xây dựng và thực hiện đường lối, chính sách
và tổ chức thực tiễn trong xã hội.
Chính trị là nghệ thuật. Vì Chính trị không thể tránh khỏi việc tranh đấu quyền lực, nỗ lực
mạnh mẽ để chiếm giữ và đánh mất nó, vì vậy các chủ thể chính trị, đặc biệt là các giai cấp,
không thể không sử dụng mọi biện pháp và chiêu thức để đạt được mục tiêu chính trị của
mình. Hoạt động chính trị luôn được đòi hỏi sự sáng tạo, linh hoạt, khéo léo và mềm dẻo, phù
hợp với tình hình thực tế để đạt được hiệu quả tối đa. Chính trị là một lĩnh vực hấp dẫn nhưng
phức tạp, "giống hơn là số". Nó yêu cầu các nhà chính trị có kỹ năng và khéo léo cao, đòi hỏi
trí tuệ tương ứng với trách nhiệm của họ. Chính trị là nghệ thuật của các bước đi (biết tiến và
biết rút lui đúng thời điểm), của các giải pháp và thỏa thuận trong những thời điểm quan
trọng lịch sử. Như Benjamin Disraeli đã từng nói "Chính trị là nghệ thuật của khả năng xem
trước, của sự thể hiện tầm nhìn và của sự dẫn dắt.". Đó là nghệ thuật áp dụng tri thức lý
thuyết và kinh nghiệm thực tế để giải quyết các tình huống chính trị phức tạp, sử dụng đúng
phép biện chứng giữa khách quan và chủ quan trong hoạt động và tranh đấu chính trị. Chính
trị là nghệ thuật của khả năng: khả năng nắm bắt sự chuyển động của xã hội, dự đoán chính
xác tình hình và thời cơ cách mạng. Chính trị là nghệ thuật tổ chức lực lượng, sử dụng con
người, nghệ thuật kích động quần chúng và nghệ thuật tiến hành chiến tranh cách mạng.
Chính trị là "Dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
Bản thân chính trị là một khoa học cũng đã phản ánh tính nghệ thuật của nó, bởi khoa học và
nghệ thuật luôn gắn bó hữu cơ. Lĩnh vực nhạy cảm này liên quan đến vận mệnh của con
người, của hàng triệu người, và chính trị yêu cầu sự chuẩn xác gắn với thực tiễn, tuân theo
quy luật khách quan, tránh chủ quan và duy ý chí. Đồng thời, hoạt động chính trị cũng đòi hỏi
sự nhạy cảm, tinh tế và mưu lược để đạt trình độ nghệ thuật cao. Trong hoạt động chính trị
thực tiễn, tính khoa học và nghệ thuật kết hợp, bổ sung cho nhau. Nếu tuyệt đối hóa tính khoa
học của chính trị, chúng ta dễ rơi vào chủ nghĩa giáo điều, máy móc, mất đi sự nhạy cảm và
mưu lược cần thiết để thích ứng với biến đổi xã hội và tâm lý của con người. Nếu tuyệt đối
hóa tính nghệ thuật mà không tuân theo khoa học, chính trị chỉ trở thành những mánh khóe
lừa đảo, mị dân, sớm muộn cũng sẽ bị vạch trần và mất đi lòng tin của người dân. Vì vậy,
chính trị không chỉ đơn thuần là một lĩnh vực khoa học, mà còn là một nghệ thuật. Sự kết hợp
hài hòa giữa tính chuẩn mực và tính sáng tạo là yếu tố quan trọng để thành công trong hoạt
động chính trị. Chỉ khi chúng ta hiểu và áp dụng cả hai khía cạnh này, chúng ta mới có thể
xây dựng được một chính trị tốt đẹp hơn, phục vụ cho sự phát triển và tiến bộ của xã hội.
2. Tại sao nói quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự lựa chọn hợp quy luật
Quan điểm của C. Mác về thời kỳ quá độ từ xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội cộng sản chủ
nghĩa là một phần quan trọng trong hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa Mác về xã hội nói
chung và xã hội cộng sản chủ nghĩa nói riêng. Theo dự đoán của Mác, thời kỳ quá độ sẽ xuất
hiện trong tương lai gần, các nước tư bản chủ nghĩa phát triển nhất sẽ là những nước đầu tiên
bước vào thời kỳ quá độ, nhà nước trong thời kỳ quá độ sẽ là nhà nước chuyên chính vô sản,
chế độ dân chủ trong thời kỳ quá độ sẽ là chế độ dân chủ vô sản; thời kỳ quá độ sẽ không kéo
dài hàng trăm năm; khi thời kỳ quá độ kết thúc thì chế độ tư hữu sẽ mất đi, sản xuất hàng hóa
sẽ không còn, giai cấp sẽ không tồn tại, nhà nước và chế độ dân chủ sẽ tiêu vong, sự phát
triển tự do của mỗi người sẽ là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.
Là thời kỳ cải tạo cách mạng xã hội tư bản chủ nghĩa thành xã hội xã hội chủ nghĩa, bắt đầu
từ khi giai cấp công nhân giành được chính quyền và kết thúc khi xây dựng xong các cơ sở
của chủ nghĩa xã hội. Đặc trưng kinh tế của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội là cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần. Nhiệm vụ cơ bản của nhà nước trong thời kỳ quá độ, một mặt là
phát huy đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân lao động, chuyên chính với mọi hoạt động
chống chủ nghĩa xã hội, mặt khác từng bước cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Về mặt
lý luận từ các tác phẩm của các nhà kinh điển, có thể thấy, về thời kỳ quá độ, có 3 cách hiểu:
1- Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản; 2- Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội; và, 3: Thời kỳ quá độ từ xã hội tiền tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Thực ra, đối với các nhà kinh điển, chủ nghĩa xã hội chỉ là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng
sản. Vì vậy, chỉ là có hai cách quá độ lên chủ nghĩa xã hội: 1- Từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội - đó được xem là sự quá độ trực tiếp; 2- Từ xã hội tiền tư bản lên chủ nghĩa xã
hội - đó được xem là sự quá độ gián tiếp.
Tuy nhiên, dù gián tiếp hay trực tiếp thì quá độ lên chủ nghĩa xã hội đều là tất yếu khách
quan và đều là một thời kỳ lâu dài với nhiều con đường, bước đi với những nội dung, tính
chất và đặc thù khác nhau. Dù phải trải qua nhiều bước ngoặt, nhiều thăng trầm với liên tục
và đứt đoạn, quanh co, khúc khuỷu, nhưng đó đều là sự phát triển, tiến bộ đi lên của lịch sử nhân loại.
Trong thời kỳ quá độ (TKQĐ) từ chế độ xã hội hiện tại đến chế độ xã hội cộng sản (CNXH)
được bổ sung và phát triển từ năm 2011, cương lĩnh xây dựng đất nước đã được sự khẳng
định: "Trong thời đại hiện nay, điểm đặc biệt là các quốc gia với các chế độ xã hội và trình độ
phát triển khác nhau đồng tồn tại, đồng thời hợp tác và đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích
quốc gia và dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các quốc gia vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội, mặc dù đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức,
nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người sẽ tiến tới
chế độ xã hội cộng sản."
Trong bối cảnh toàn cầu như vậy, việc Việt Nam tiến tới chế độ xã hội cộng sản là khát vọng
của nhân dân và là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt
để và đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới, nhằm tạo ra sự thay đổi về bản chất trên tất
cả các lĩnh vực của cuộc sống xã hội. Quá trình này nhất thiết phải trải qua một TKQĐ lâu
dài, với nhiều bước phát triển và nhiều hình thức tổ chức kinh tế và xã hội xen kẽ. Điều này
có thể được lý giải bởi những lý do sau đây:
Thứ nhất, lịch sử phát triển xã hội của loài người là sự thay thế và tiến bộ liên tiếp của các
hình thức kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, không phải khi một hình thức kinh tế - xã hội kết thúc
hoàn toàn thì hình thức tiếp theo mới ra đời. Giữa sự thay thế của hình thức kinh tế - xã hội
cũ và hình thức kinh tế - xã hội mới luôn có một giai đoạn chuyển tiếp, đó chính là TKQĐ.
Xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa, với giai đoạn đầu là chế độ xã hội cộng sản, là một hình
thức xã hội hoàn toàn mới về bản chất so với các hình thức xã hội trước đó, và điều này đòi
hỏi phải trải qua một TKQĐ lâu dài, đầy khó khăn, thử thách và không thể tránh khỏi những
khó khăn tạm thời và thất bại tạm thời. Trong "Phê phán Cương lĩnh Gô-ta," các nhà sáng lập
chủ nghĩa Mác Trong việc xây dựng chế độ xã hội cộng sản mới, đã rõ ràng chỉ ra rằng "Giữa
chế độ xã hội tư bản chủ nghĩa và chế độ xã hội cộng sản chủ nghĩa có một giai đoạn cải biến
cách mạng từ xã hội này sang xã hội khác. Để thích ứng với giai đoạn đó, cần có một thời kỳ quá độ chính trị..."
Thứ hai, trong học thuyết Mác - Lênin đã được chứng minh rằng để đạt được tính cách một
chỉnh thể nhất, loài người phải trải qua 5 giai đoạn phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, do
đặc điểm lịch sử và các yếu tố khác nhau, không phải quốc gia nào cũng tuân theo trình tự 5
giai đoạn này theo một sơ đồ chung. Mỗi quốc gia có thể bỏ qua một số giai đoạn tùy thuộc
vào điều kiện lịch sử cụ thể. Điều này phù hợp với quy luật khách quan.
Thứ ba, trong thời đại hiện nay, việc bỏ qua giai đoạn chuyển tiếp từ chế độ tự nhiên đến
chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hoàn toàn phù hợp với yêu cầu khách quan của
nền kinh tế. Điều này được quy định bởi hai lý do chính: Sự phát triển vượt bậc của cách
mạng khoa học và công nghệ đã làm cho lực lượng sản xuất thế giới đạt đến mức độ cao,
khởi đầu một giai đoạn mới của quá trình xã hội hóa sản xuất. Điều này tạo ra cơ hội để Việt
Nam sử dụng tư duy, cơ sở vật chất, kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý của thế giới để phát
triển công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Trong bối cảnh kinh tế thế giới có những tiến
bộ vượt bậc về cơ sở vật chất và kỹ thuật, loài người đòi hỏi phát triển lên một xã hội mới,
một xã hội văn minh hơn, một xã hội tri thức. Do đó, việc chuyển từ chế độ tự nhiên đến chế
độ kinh tế xã hội chủ nghĩa là một con đường phát triển hợp lý theo quy luật khách quan. Sau
giai đoạn chuyển tiếp nhất định, chế độ xã hội tiếp theo sẽ là một chế độ tốt đẹp hơn - chế độ
xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đã chọn lựa đúng đắn. Với những thành tựu đã đạt được trong
hơn 80 năm qua, đặc biệt là trong giai đoạn đổi mới kéo dài hơn 30 năm, Việt Nam đã thoát
khỏi cảnh nghèo đói và kém phát triển, trở thành một trong những quốc gia đang phát triển
với thu nhập trung bình, đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa, có quan hệ quốc tế rộng
rãi và vị thế quốc tế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Đây là điều kiện
tiên quyết, quyết định cho việc chuyển tiếp từ chế độ tự nhiên đến chế độ kinh tế xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Lựa chọn hướng phát triển. Sau khi giải phóng miền Nam và thống nhất
đất nước, Việt Nam đã có sự tăng trưởng kinh tế đáng kể và đạt được một số thành tựu quan
trọng trong việc giảm nghèo và nâng cao mức sống của dân cư. Việt Nam đã tiếp cận với nền
kinh tế thị trường và thực hiện các biện pháp cải cách kinh tế để thu hút đầu tư và phát triển
kinh tế. Việt Nam đã xây dựng một mô hình phát triển duy trì sự ổn định chính trị và xã hội,
và đạt được sự phát triển bền vững trong một thời gian dài. Việc bỏ qua giai đoạn chuyển tiếp
từ chế độ tự nhiên đến chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam không phải là một bước
nhảy vọt, mà là kết quả của quá trình phát triển kinh tế và xã hội của đất nước. Việt Nam đã
trải qua những giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau và đã đạt được một mức độ ổn định và
phát triển đáng kể trước khi chuyển sang mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa
Những thành tựu đã đạt được trong hơn 30 năm đổi mới đã rõ ràng chứng minh rằng việc
lựa chọn này đúng hướng và phù hợp với lợi ích của cả dân tộc và hoàn cảnh lịch sử cụ thể
của nước ta, đồng thời phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Toàn bộ lịch sử cách mạng
Việt Nam đã chứng tỏ rằng quy luật của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc liên kết với
chủ nghĩa xã hội, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: "Muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc, không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa." Trong thực
tế, chủ nghĩa xã hội không chỉ là động lực tinh thần mà còn là một sức mạnh vật chất quan
trọng đã góp phần đưa sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của chúng ta đến thắng
lợi. Quá trình cách mạng do Đảng lãnh đạo đã tạo ra tiền đề về cả vật chất và tinh thần để "rút
ngắn" tiến trình phát triển lịch sử - tự nhiên của xã hội. Do đó, dân tộc ta đã chọn con đường
vượt qua giai đoạn chủ nghĩa xã hội để tiến tới chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa. Điều này là phù hợp cả về lý thuyết và thực tế, phù hợp với đặc điểm lịch sử và hoàn cảnh quốc tế.
Nói "nước ta vượt qua chủ nghĩa tư bản chủ nghĩa để tiến tới chủ nghĩa xã hội" chỉ có nghĩa
là trong lịch sử của nước ta không có một giai đoạn nào mà giai cấp tư sản nắm giữ quyền lực
chính trị và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa chiếm vị trí thống trị trong nền kinh tế quốc
gia. "Con đường phát triển của nước ta là sự vượt qua chủ nghĩa tư bản chủ nghĩa để tiến tới
chủ nghĩa xã hội, tức là bỏ qua việc thiết lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng vẫn tiếp thu và kế thừa những thành tựu mà nhân loại
đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là trong lĩnh vực khoa học và công nghệ,
để phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng nền kinh tế hiện đại." Con đường phát triển chủ
nghĩa xã hội ở nước ta, gọi là Trung kỳ quá độ, mang ý nghĩa là đất nước ta phải trải qua một
giai đoạn xã hội trung gian, chuyển tiếp giữa cấu trúc Việc đổi mới trong hơn 30 năm đã
mang lại những thành tựu đáng kể, rõ ràng chứng tỏ rằng đây là lựa chọn đúng hướng và phù
hợp với lợi ích của dân tộc và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước ta, đồng thời còn phù hợp
với xu hướng phát triển của thời đại. Lịch sử cách mạng Việt Nam đã khẳng định rằng quy
luật của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc kết hợp với chủ nghĩa xã hội, như Chủ tịch
Hồ Chí Minh từng rõ ràng chỉ ra: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con
đường nào khác ngoài con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa." Trong thực tế, chủ nghĩa xã
hội không chỉ là động lực tinh thần mà còn là một sức mạnh vật chất quan trọng, đã góp phần
đưa sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của chúng ta đến thắng lợi. Quá trình
cách mạng do Đảng lãnh đạo đã tạo ra những tiền đề về cả vật chất và tinh thần để "rút ngắn"
tiến trình phát triển lịch sử - tự nhiên của xã hội. Vì vậy, dân tộc ta đã chọn con đường vượt
qua giai đoạn chủ nghĩa tư bản để tiến tới chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản. Điều này
phù hợp cả về mặt lý thuyết và thực tiễn, cũng như với đặc điểm lịch sử và tình hình quốc tế.
Thứ tư, lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân của nước ta đã chứng
minh rằng trước sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã có nhiều phong trào đấu tranh
chống Pháp tràn đầy tinh thần yêu nước và bất khuất. Tuy nhiên, tất cả những phong trào đó
đều rơi vào bế tắc và thất bại, chủ yếu do chiến lược không đúng đắn. Các phương án chính
trị từ các giai cấp, bao gồm đường lối cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến, đường lối theo
lập trường nông dân, tiểu tư sản và tư sản, đều đã bị lịch sử chứng minh là thất bại. Trong
hoàn cảnh đó, việc ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhanh chóng trở thành một biểu
tượng cao cả của sự độc lập dân tộc và xã hội chủ nghĩa, đồng thời đưa sự nghiệp Cách mạng
Việt Nam phát triển không ngừng. Khi Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu
nước, sau khi bắt gặp chủ nghĩa Mác –Lênin thì người đã tìm thấy cơ sở lý luận chắc chắn
cho con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Đó là con đường cách mạng vô sản. Bác Hồ
khẳng định: chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị
áp bức: “cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì
mới giành được thắng lợi hoàn toàn”. “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản.” Tư tưởng đó được Đảng ta khẳng định, được
cả dân tộc hưởng ứng và đi theo. Lựa chọn đó là của lịch sử Việt Nam, của toàn dân tộc Việt
Nam. Vì vậy, chúng ta không thể chọn con đường phát triển theo chủ nghĩa tư bản, bởi vì
"chúng ta cần một xã hội thực sự phát triển vì con người, không phải vì lợi nhuận để khai
thác và áp đặt lên con người. Chúng ta cần sự phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ và công
bằng xã hội, không gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần
một xã hội nhân ái, đoàn kết, hỗ trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ và nhân văn, không
phải cạnh tranh bất công, "cá lớn nuốt cá bé", vì lợi ích cá nhân và nhóm. Chúng ta cần sự
phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo vệ môi trường sống cho thế hệ hiện tại và
tương lai, không khai thác và cạn kiệt tài nguyên, tiêu thụ vô hạn và phá hủy môi trường. Và
chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, được nhân dân
điều khiển và phục vụ lợi ích của nhân dân, không chỉ cho một số ít người giàu có".
Lịch sử Vận động và phát triển của cách mạng Việt Nam, cũng như tình hình phát triển thế
giới trong thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI đã bác bỏ những luận điệu xuyên tạc trên và chứng
minh rằng quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một lựa chọn tất yếu và phù hợp với sự
phát triển tiến bộ của thời đại và điều kiện lịch sử của Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, được bổ sung và phát triển vào năm 2011,
đã khẳng định rằng các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau có thể tồn tại
và cùng tồn tại, hợp tác và đấu tranh, cạnh tranh vì lợi ích quốc gia và dân tộc. Cuộc đấu
tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã
hội, mặc dù gặp nhiều khó khăn và thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy
luật tiến hóa của lịch sử, loài người sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội. Trong bối cảnh chung của sự
phát triển trên thế giới, việc Việt Nam lựa chọn quá độ lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của
nhân dân và là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để và
đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới, nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trong tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Quá trình này yêu cầu một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều
bước phát triển và nhiều hình thức tổ chức kinh tế và xã hội đan xen. Trên hết nước ta đi lên
Chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan theo đúng quy luật tiến hóa của lịch sử. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã kết luận: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác là con đường cách mạng vô sản. Chỉ có Chủ nghĩa xã hội, Chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân thế giới. Thời kỳ quá độ là một thời
kỳ lịch sử, thời kỳ chuyển biến cách mạng mà bất cứ quốc gia nào đi lên Chủ nghĩa xã hội
cũng đều phải trải qua. Nước ta quá độ lên Chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa
là một tất yếu lịch sử. Bởi vì, thời đại chúng ta đang sống là thời kỳ quá độ từ Chủ nghĩa tư
bản lên Chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Tuy nhiên, thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa
xã hội ở nước ta sẽ lâu dài và gian khổ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Một chế độ này biến
đổi thành một chế độ khác là cả một cuộc đấu tranh gay go, kịch liệt và lâu dài giữa cái xấu
và cái tốt, giữa cái cũ và cái mới, giữa cái thoái bộ và cái tiến bộ, giữa cái đang suy tàn và cái
đang phát triển. Kết quả là cái mới, cái tiến bộ nhất định thắng". Nước ta là một nước nông
nghiệp, công cuộc thay đổi xã hội cũ thành xã hội mới sẽ gian nan và phức tạp hơn đánh giặc,
vì phải đấu tranh với kẻ địch nguy hiểm khác đó là nghèo nàn, đói khổ và lạc hậu.
Như vậy, cả từ phương diện lý luận, cả từ phương diện thực tiễn vận động của lịch sử nhân
loại suốt thế kỷ XX, thập niên đầu thế kỷ XXI và đặc biệt từ thực tiễn lịch sử đấu tranh giải
phóng, xây dựng đất nước ở Việt Nam, việc nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN
là một tất yếu khách quan, là hoàn toàn phù hợp với xu thế của thời đại, với đặc điểm lịch sử
cụ thể của cách mạng Việt Nam, đáp ứng đúng khát vọng của nhân dân ta.