Bài kiểm tra giữa kì 2 - Các đặc trưng, đặc điểm của luật quốc tế

Bài kiểm tra giữa kì 2 - Các đặc trưng, đặc điểm của luật quốc tế

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT QUỐC TẾ
----- -----
MÔN HỌC: CÔNG PHÁP QUỐC TẾ
Bài kiểm tra giữa học kỳ II
Năm học 2019 2020
Đề i:
CÁC ĐẶC TRƯNG, ĐẶC ĐIỂM CỦA LUẬT QUỐC TẾ
TP. Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 5 năm 2020
Bài m:
Luật quốc tế bắt đầu xuất hiện khi giữa các Nhà nước có sự thiết lập quan hệ bang
giao với nhau. Lúc đầu, đó chỉ là quan hệ mang tính chất khu vực bó hẹp trong một số
lĩnh vực nhất định như chiếm đoạt tài sản, chiến tranh, cướp bóc nô lệ của nhau. Dần dần
những quan hệ giữa các quốc gia được mở rộng, vượt ra khỏi phạm vi khu vực phát
triển thành các quan hệ tính chất liên khu vực hay cộng đồng quốc tế đương nhiên
những quan hệ này phải được điều chỉnh bằng hệ thống các quy phạm tương ứng khác
với các quy phạm của luật quốc gia với n gọi Luật quốc tế. Để hiểu một cách khái
quát về hệ thống pháp luật quốc tế, cần phải nắm được định nghĩa, các đặc trưng, đặc
điểm nổi bật của hệ thống pháp luật này. hơn cả so sánh chúng với hệ thống pháp
luật Quốc gia để tìm ra mối quan hệ giữa hai hệ thống pháp luật này.
nhiềuch để định nghĩa luật quốc tế nhưng nhìn chung, thuật ngữ luật quốc tế
hàm ý luật giữa các quốc gia. Đó hệ thống các nguyên tắc quy phạm pháp luật do
các chủ thể của luật quốc tế (bao gồm quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế) thỏa
thuận xây dựng nên trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng nhằm điều chỉnh các quan hệ phát
sinh giữa các chủ thể luật quốc tế với nhau trong mọi nh vực của đời sống quốc tế
được đảm bảo thực hiện bởi chính các chủ thể đó.
một hệ thống pháp luật độc lập, luật quốc tế luôn được coi rất “khác biệt”
hay “đặc biệt” so với hthống pháp luật quốc gia, bởi những điểm khác biệt ràng nếu
lấy những đặc điểm của luật quốc gia làm chuẩn mực để xem xét và đánh giá.
Đầu tiên, về đối tượng điều chỉnh,
pháp luật quốc gia điều chỉnh những quan hệ hội phát sinh trong nội bộ phạm vi
lãnh thổ, còn pháp luật quốc tế điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong đời sống
sinh hoạt quốc tế giữa các chủ thể luật quốc tế.
Cụ thể hơn, đối tượng điều chỉnh của pháp luật quốc gia quan hệ giữa các
chủ thể của luật quốc gia: nhà nước, nhân, pháp nhân trong phạm vi lãnh thổ của quốc
gia đó; còn đối tượng điều chỉnh của luật quốc tế quan hệ giữa các chủ thể của luật
quốc tế: giữa các quốc gia với nhau, giữa các tổ chức quốc tếcác chủ thể khác của luật
quốc tế.
Tuy nhiên, cần phải phân biệt được quan hệ này với các quan hệ dân sự yếu
tố nước ngoài được thiết lập giữa các nhân, pháp nhân quốc tịch khác nhau, được
điều chỉnh bởi pháp quốc tế. Chẳng hạn như luật quốc tế điều chỉnh quan hệ giữa hai
quốc gia (Việt Nam Trung Quốc, về vấn đề tranh chấp trên biển), chứ không điều
chỉnh các quan hệ dân sự yếu tố nước ngoài (hãng Honda của Nhật Bản thiết lập quan
hệ, thực hiện quan hệ các giao dịch tại nước ta). Như vậy, khi đề cập đến sự khác biệt
giữa hai hệ thống pháp luật quốc tế pháp luật quốc gia, thì tính chất liên quốc gia
thường được nhắc đến như một tiêu chí bản, đặc trưng về đối tượng điều chỉnh của
luật quốc tế. Bởi nó chứa hai yếu tố chính,
một các quan hệ thuộc điều chỉnh của luật quốc tế những quan hệ phát sinh
trong mọi lĩnh vực chính trị kinh tế xã hội vượt ra khỏi phạm vi lãnh thổ của các quốc
gia.
Hai là, những quan hệ này những quan hệ chỉ phát sinh giữa các quốc gia
các ch thể khác của luật quốc tế thôi.
Thứ hai, về phương thức xây dựng pháp luật, việc xây dựng pháp luật trình
tự xây đựng pháp luật của pháp luật quốc gia do quan quyền lực cao nhất của quốc
gia - quan lập pháp thực hiện và đại diện cho ý chí của nhân dân, còn phương thức
xây dựng pháp luật quốc tế do không quan lập pháp nên khi xây dựng các qui
phạm thành văn bất thành văn chủ yếu do sự thỏa thuận, thông qua giữa các chủ thể
chủ quyền quốc gia của luật quốc tế.không tồn tại một quan lập pháp quốc tế
chung giống như cơ quan lập pháp quốc gia, nên hệ thống pháp luật quốc tế được các chủ
thể của luật quốc tế thừa nhận trên sở tự nguyện, bình đẳng. Sở dĩ, việc không hình
thành quan lập pháp quốc tế chung để ban hành, ấn định các quy phạm pháp luật ràng
buộc các chủ thể của luật quốc tế là bởi việc quan hệ quốc tế trước tiên cơ bản quan
hệ giữa các quốc gia, đây những thực thể chủ quyền bình đẳng về phương diện
pháp lý. Hơn nữa, khi không thành lập một quan lập pháp quốc tế chung sẽ phản ánh
hơn bản chất của luật quốc tế. Trái với luật quốc gia, một hệ thống các quy phạm
pháp luật được sắp xếp theo thứ bậc tương đối rõ ràng, luật quốc tế bao gồm tổng thể các
quy phạm trong đó không có sự sắp xếp một cách hệ thống, thứ bậc, vị trí ràng
như trong hệ thông pháp luật quốc gia. vậy, trong luật quốc tế vẫn sự phân chia thứ
bậc dựa trên những nguyên tắc cơ bản của luật điều ước quốc tế (qua các nguyên tắc như:
“luật sau ưu tiên hơn luật trước”, “luật riêng ưu tiên hơn luật chung”, hay cách ưu tiên
quy phạm điều ước so với quy phạm tập quán quốc tế, làm cho các điều ước vi phạm
trở nên hiệu). Giải pháp này được đề ra dựa trên ý chí của các quốc gia, nhằm giải
quyết vấn đề xung đột trong việc lựa chọn, áp dụng giải thích luật, tránh tình trạng
chồng lấn lẫn nhau.
Thứ ba, về chủ thể của luật, chủ thể luật quốc gia thể nhân, pháp nhân nhà
nước tham gia với cách chủ thể đặc biệt khi nhà nước một bên trong quan hệ, các
nhân, pháp nhân; còn chủ thể của pháp luật quốc tế các quốc gia chủ quyền, các
dân tộc đang đấu tranh giành độc lập, các tổ chức liên chính phủ các chủ thể khác. Vị
trí vai trò của từng loại chủ thể tham gia các quan hệ pháp luật này cũng mang nét
khác biệt rõ rệt. Trong pháp luật quốc gia, cá nhân và pháp nhân là hai chủ thể cơ bản và
chủ yếu nhất khả năng tham gia vào hầu hết các quan hệ pháp luật, còn quốc gia/n
nước trong luật quốc gia chỉ sự tham gia nhất định o một số quan hệ pháp luật đặc
tnhư hành chính, hình sự, thậm chí trong quan hệ pháp luật dân sự với cách một
chủ thể đặc biệt. Trong pháp luật quốc tế, quốc gia một chủ thể bảnchủ yếu tham
gia vào tất cả các quan hệ pháp luật quốc tế. Chính vì sự sắp xếp theo thứ bậc các chủ thể
trong luật quốc gia, n quan hệ giữa các chủ thể của luật này sự bất bình đẳng: quốc
gia chủ thể đặc biệt, quyền quan trọng trong việc chi phối, xác lập địa vị pháp của
các chủ thể còn lại, thông qua việc thiết lập các quy tắc pháp các chủ thể này buộc
phải tuân thủ. Trong khi đó, các chủ thể chủ yếu của luật quốc tế - các quốc gia - có quan
hệ bình đẳng, không phụ thuộc vào chế độ chính trị, diện tích, dân số, trình độ phát triển
kinh tế, văn hóa, hội. Trong luật quốc tế, không chủ thể nào vai trò giống như nhà
nước trong luật quốc gia. Vì vậy, các quy phạm của luật quốc tế chỉ thể được ra đời
thực hiện nếu chính các chủ thể của luật quốc tế tự nguyện xây dựng hoặc thông qua.
Thứ , về phương thức thực thi pháp luật, pháp luật quốc gia bộ máy cưỡng
chế tập trung thường trực như quân đội, cảnh sát, tòa án, nhà tù…làm biện pháp bảo đảm
thi hành, còn pháp luật quốc tế thì không bmáy cưỡng chế tập trung thường trực
chỉ một số biện pháp ỡng chế nhất định mang tính tự ỡng chế dưới hình thức
riêng rẽ hoặc tập thể. Nói cách khác, trong luật quốc tế không một hệ thống các cơ
quan chuyên biệt tập trung làm nhiệm vụ đảm bảo thi hành luật quốc tế. Bởi quan hệ
quốc tế trước tiên chủ yếu quan hệ giữa các quốc gia độc lập chủ quyền bình
đẳng với nhau về pháp lý, nên việc tồn tại một hệ thống quan đảm bảo thi hành hoặc
chế thi hành luật quốc tế tập trung sẽ được hiểu như vi phạm đến sự bình đẳng giữa các
quốc gia. Mặt khác, hệ thống các nguyên tắc quy phạm của luật quốc tế do chính
các quốc gia các chủ thể khác của luật quốc tế xây dựng nên trên sở tự nguyện,
thông qua đấu tranh thương lượng, chính vì vậy, việc tuân thủ các nguyên tắc quy
phạm pháp luật quốc tế này cũng dựa trên sở tự nguyện. Tuy nhiên, trong luật quốc tế
vẫn tồn tại những biện pháp chế tài
Điểm khác biệt so với luật quốc gia chỗ, các biện pháp chế tài thể (như tự vệ, trả
đũa hợp pháp, trừng phạt) hoặc tập thế (như trừng phạt phi trang hoặc trang) do
chính các chủ thể luật quốc tế tự thực hiện. Liên quan đến vấn để đảm bảo thi hành pháp
luật, điểm quan trọng nhất là hệ thống các nguyên tắc và quy phạm của luật quốc tế trong
đa số trường hợp được thực thi bởi sự tự nguyện của các quốc gia. Như vậy, vấn đề cần
được đặt ra chính nếu không tuân thủ luật quốc tế thì quốc gia sẽ chịu hậu quả gì. Có
thể thấy, việc không thực thi luật quốc tế thể dẫn đến những hậu quả rất bất lợi cho
quốc gia như: danh dự của quốc gia bị ảnh ởng; trên sở nguyên tắc đilại, các
quốc gia bị thiệt hại sẽ không áp dụng nghĩa vụ của mình đối với quốc gia bị vi phạm;
các quốc gia bị thiệt hại thể sẽ áp dụng hành vi trả đũa... luận của nhân dân trên thế
giới (trong ngoài quốc gia hành vi liên quan) ng góp phân quan trọng trong việc
thúc đẩy sự tôn trọng luật quốc tế các của quốc gia.
Như vậy, qua các đặc điểm trên, ta thể rút ra được mối quan hgiữa luật quốc
tế luật quốc gia. Xuất phát từ lợi ích chung của quốc gia, n tộc cộng đồng quốc
tế. Sự tác động qua lại giữa pháp luật quốc tế pháp luật quốc gia được thể hiện hai
khía cạnh: Một là, pháp luật quốc gia ảnh ởng quyết định tới sự hình thành phát
triển của pháp luật quốc tế. Sự hình thành các nguyên tắc quy phạm pháp luật quốc tế
cũng như nội dung của chúng hoàn toàn tùy thuộc vào sự thỏa thuận giữa các quốc gia.
Quan điểm của mỗi quốc gia trong quá trình thỏa thuận đó phải dựa trên sở những
nguyên tắc quy phạm nền tảng của chính pháp luật quốc gia. Pháp luật quốc gia thể
hiện sự định hướng về nội dung, tính chất của pháp luật quốc tế. Mọi sự thay đổi phát
triển tiến bộ của pháp luật quốc gia đều tác động tích cực thúc đẩy sự phát triển của pháp
luật quốc tế. Hai , pháp luật quốc tế tác động ch cực nhằm phát triển và hoàn thiện
pháp luật quốc gia. Tính chất tác động của luật quốc tế đối với luật quốc gia được đánh
giá bằng thực tiễn thực thi nghĩa vụ thành viên diều ước quốc tế, tổ chức quốc tế của
quốc gia, thể hiện những hoạt động cụ thể khác nhau trong đó có hành vi sửa đổi, bổ
sung các văn bản quy phạm pháp luật của luật quốc gia sao cho phù hợp với những cam
kết quốc gia đó đã kết hoặc tham gia. Chính thế, các quy định nội dung tiến b
thể hiện thành tựu mới của khoa học pháp quốc tế sẽ dần được chuyển tải vào văn bản
quy phạm pháp luật quốc gia. Điều đó sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của pháp luật
quốc gia để quốc gia vừa có thể hội nhập vào nền tảng pháp lý chung vừa có thể thiết lập
được một hệ thống pháp luật quốc gia hoàn chỉnh. Bên cạnh đó, luật quốc tế còn tác động
đến luật quốc gia thông qua vai trò của hệ thống này đối với đời sống pháp tại mỗi
quốc gia, phản ánh tương quan giữa hai hệ thống khi điều chỉnh những vấn đthuộc lợi
ích phát triển và hợp tác quốc tế của quốc gia.
Vậy, bản chất cũng như vai trò của luật quốc tế gì? Bản chất của luật quốc tế
chính sự thỏa thuận ý chí giữa các chủ thể của luật quốc tế, chủ yếu các quốc gia độc
lập, bình đẳng về chủ quyền. Nhằm hướng đến phục vụ cho lợi ích của quốc gia - giai
cấp cầm quyền. vậy, thể nói rằng luật quốc tế luôn phản ánh sự đầu tranh nhân
nhượng, thỏa hiệp thương lượng giữa các quốc gia, mục đích chính nhằm phục
vụ cho lợi ích của giai cấp cầm quyền mỗi quốc gia. Bản chất thỏa thuận, thống nhất ý
chí, hài hòa lợi ích của các quốc gia giúp làm sáng tỏ thực tế rằng pháp luật quốc tế có sự
liên hệ với pháp luật quốc gia mà đó luật quốc gia đóng vai trò xuất phát điểm. Còn vai
trò của luật quốc tế công cụ điều chỉnh c quan hệ quốc tế nhằm bảo vệ lợi ích của
mỗi chủ thể của luật quốc tế trong quan hệ quốc tế, nhân tố quan trọng nhất để bảo vệ
hòa bình và an ninh quốc tế. Ngoài ra còn có vai trò đặc biệt quan trọng đối với phát triển
văn minh của nhân loại, thúc đẩy cộng đồng quốc tế phát triển theo hướng ngày càng n
minh, thúc đẩy việc phát triển các quan hệ hợp tác quốc tế đặc biệt quan hkinh tế
quốc tế trong bối cảnh hiện nay.
Qua bài viết tổng hợp nội dung trên, cần phải nắm các nội dung của luật quốc tế
như: định nghĩa, các đặc trưng bản, bản chất và vai trò của luật quốc tế cũng như sự so
sánh giữa luật quốc tế luật quốc gia, thấy được mối liên hệ của hai hệ thống pháp luật
quan trọng này. Để từ đó nắm vững hơn kiến thức nền tảng về Luật quốc tế, cũng như bộ
môn Công pháp Quốc tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, giáo trình Công pháp quốc tế (quyển 1),
Nhà xuất bản Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam
| 1/6

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT QUỐC TẾ ----- -----
MÔN HỌC: CÔNG PHÁP QUỐC TẾ
Bài kiểm tra giữa học kỳ II
Năm học 2019 2020 Đề tài:
CÁC ĐẶC TRƯNG, ĐẶC ĐIỂM CỦA LUẬT QUỐC TẾ
TP. Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 5 năm 2020 Bài làm:
Luật quốc tế bắt đầu xuất hiện khi giữa các Nhà nước có sự thiết lập quan hệ bang
giao với nhau. Lúc đầu, đó chỉ là quan hệ mang tính chất khu vực và bó hẹp trong một số
lĩnh vực nhất định như chiếm đoạt tài sản, chiến tranh, cướp bóc nô lệ của nhau. Dần dần
những quan hệ giữa các quốc gia được mở rộng, vượt ra khỏi phạm vi khu vực và phát
triển thành các quan hệ có tính chất liên khu vực hay cộng đồng quốc tế và đương nhiên
những quan hệ này phải được điều chỉnh bằng hệ thống các quy phạm tương ứng khác
với các quy phạm của luật quốc gia với tên gọi là Luật quốc tế. Để hiểu một cách khái
quát về hệ thống pháp luật quốc tế, cần phải nắm được định nghĩa, các đặc trưng, đặc
điểm nổi bật của hệ thống pháp luật này. Và hơn cả là so sánh chúng với hệ thống pháp
luật Quốc gia để tìm ra mối quan hệ giữa hai hệ thống pháp luật này.
Có nhiều cách để định nghĩa luật quốc tế nhưng nhìn chung, thuật ngữ luật quốc tế
hàm ý luật giữa các quốc gia. Đó là hệ thống các nguyên tắc và quy phạm pháp luật do
các chủ thể của luật quốc tế (bao gồm quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế) thỏa
thuận xây dựng nên trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng nhằm điều chỉnh các quan hệ phát
sinh giữa các chủ thể luật quốc tế với nhau trong mọi lĩnh vực của đời sống quốc tế và
được đảm bảo thực hiện bởi chính các chủ thể đó.
Là một hệ thống pháp luật độc lập, luật quốc tế luôn được coi là rất “khác biệt”
hay “đặc biệt” so với hệ thống pháp luật quốc gia, bởi những điểm khác biệt rõ ràng nếu
lấy những đặc điểm của luật quốc gia làm chuẩn mực để xem xét và đánh giá.
Đầu tiên, về đối tượng điều chỉnh,
pháp luật quốc gia điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong nội bộ phạm vi
lãnh thổ, còn pháp luật quốc tế điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong đời sống
sinh hoạt quốc tế giữa các chủ thể luật quốc tế.
Cụ thể hơn, đối tượng điều chỉnh của pháp luật quốc gia là quan hệ giữa các
chủ thể của luật quốc gia: nhà nước, cá nhân, pháp nhân trong phạm vi lãnh thổ của quốc
gia đó; còn đối tượng điều chỉnh của luật quốc tế là quan hệ giữa các chủ thể của luật
quốc tế: giữa các quốc gia với nhau, giữa các tổ chức quốc tế và các chủ thể khác của luật quốc tế.
Tuy nhiên, cần phải phân biệt được quan hệ này với các quan hệ dân sự yếu
tố nước ngoài được thiết lập giữa các cá nhân, pháp nhân có quốc tịch khác nhau, được
điều chỉnh bởi pháp quốc tế. Chẳng hạn như luật quốc tế điều chỉnh quan hệ giữa hai
quốc gia (Việt Nam và Trung Quốc, về vấn đề tranh chấp trên biển), chứ không điều
chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài (hãng Honda của Nhật Bản thiết lập quan
hệ, thực hiện quan hệ các giao dịch tại nước ta). Như vậy, khi đề cập đến sự khác biệt
giữa hai hệ thống pháp luật quốc tế pháp luật quốc gia, thì tính chất liên quốc gia
thường được nhắc đến như một tiêu chí bản, đặc trưng về đối tượng điều chỉnh của
luật quốc tế. Bởi nó chứa hai yếu tố chính,
một là các quan hệ thuộc điều chỉnh của luật quốc tế là những quan hệ phát sinh
trong mọi lĩnh vực chính trị kinh tế xã hội vượt ra khỏi phạm vi lãnh thổ của các quốc gia.
Hai là, những quan hệ này là những quan hệ chỉ phát sinh giữa các quốc gia
các chủ thể khác của luật quốc tế thôi.
Thứ hai, về phương thức xây dựng pháp luật, việc xây dựng pháp luật và trình
tự xây đựng pháp luật của pháp luật quốc gia do cơ quan quyền lực cao nhất của quốc
gia - quan lập pháp thực hiện và đại diện cho ý chí của nhân dân, còn phương thức
xây dựng pháp luật quốc tế do không quan lập pháp nên khi xây dựng các qui
phạm thành văn bất thành văn chủ yếu do sự thỏa thuận, thông qua giữa các chủ thể
chủ quyền quốc gia của luật quốc tế.Vì không tồn tại một cơ quan lập pháp quốc tế
chung giống như cơ quan lập pháp quốc gia, nên hệ thống pháp luật quốc tế được các chủ
thể của luật quốc tế thừa nhận trên sở tự nguyện, bình đẳng. Sở dĩ, việc không hình
thành cơ quan lập pháp quốc tế chung để ban hành, ấn định các quy phạm pháp luật ràng
buộc các chủ thể của luật quốc tế là bởi việc quan hệ quốc tế trước tiên và cơ bản là quan
hệ giữa các quốc gia, đây là những thực thể có chủ quyền và bình đẳng về phương diện
pháp lý. Hơn nữa, khi không thành lập một cơ quan lập pháp quốc tế chung sẽ phản ánh
rõ hơn bản chất của luật quốc tế. Trái với luật quốc gia, có một hệ thống các quy phạm
pháp luật được sắp xếp theo thứ bậc tương đối rõ ràng, luật quốc tế bao gồm tổng thể các
quy phạm mà trong đó không có sự sắp xếp một cách hệ thống, có thứ bậc, vị trí rõ ràng
như trong hệ thông pháp luật quốc gia. Dù vậy, trong luật quốc tế vẫn có sự phân chia thứ
bậc dựa trên những nguyên tắc cơ bản của luật điều ước quốc tế (qua các nguyên tắc như:
“luật sau ưu tiên hơn luật trước”, “luật riêng ưu tiên hơn luật chung”, hay cách ưu tiên
quy phạm điều ước so với quy phạm tập quán quốc tế, làm cho các điều ước vi phạm nó
trở nên vô hiệu). Giải pháp này được đề ra dựa trên ý chí của các quốc gia, nhằm giải
quyết vấn đề xung đột trong việc lựa chọn, áp dụng và giải thích luật, tránh tình trạng chồng lấn lẫn nhau.
Thứ ba, về chủ thể của luật, chủ thể luật quốc gia là thể nhân, pháp nhân và nhà
nước tham gia với tư cách là chủ thể đặc biệt khi nhà nước là một bên trong quan hệ, các
cá nhân, pháp nhân; còn chủ thể của pháp luật quốc tế là các quốc gia có chủ quyền, các
dân tộc đang đấu tranh giành độc lập, các tổ chức liên chính phủ và các chủ thể khác. Vị
trí và vai trò của từng loại chủ thể tham gia các quan hệ pháp luật này cũng mang nét
khác biệt rõ rệt. Trong pháp luật quốc gia, cá nhân và pháp nhân là hai chủ thể cơ bản và
chủ yếu nhất có khả năng tham gia vào hầu hết các quan hệ pháp luật, còn quốc gia/nhà
nước trong luật quốc gia chỉ có sự tham gia nhất định vào một số quan hệ pháp luật đặc
thù như hành chính, hình sự, thậm chí trong quan hệ pháp luật dân sự với tư cách là một
chủ thể đặc biệt. Trong pháp luật quốc tế, quốc gia là một chủ thể cơ bản và chủ yếu tham
gia vào tất cả các quan hệ pháp luật quốc tế. Chính vì sự sắp xếp theo thứ bậc các chủ thể
trong luật quốc gia, nên quan hệ giữa các chủ thể của luật này có sự bất bình đẳng: quốc
gia là chủ thể đặc biệt, có quyền quan trọng trong việc chi phối, xác lập địa vị pháp lý của
các chủ thể còn lại, thông qua việc thiết lập các quy tắc pháp lý mà các chủ thể này buộc
phải tuân thủ. Trong khi đó, các chủ thể chủ yếu của luật quốc tế - các quốc gia - có quan
hệ bình đẳng, không phụ thuộc vào chế độ chính trị, diện tích, dân số, trình độ phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong luật quốc tế, không chủ thể nào có vai trò giống như nhà
nước trong luật quốc gia. Vì vậy, các quy phạm của luật quốc tế chỉ có thể được ra đời và
thực hiện nếu chính các chủ thể của luật quốc tế tự nguyện xây dựng hoặc thông qua.
Thứ tư, về phương thức thực thi pháp luật, pháp luật quốc gia có bộ máy cưỡng
chế tập trung thường trực như quân đội, cảnh sát, tòa án, nhà tù…làm biện pháp bảo đảm
thi hành, còn pháp luật quốc tế thì không có bộ máy cưỡng chế tập trung thường trực mà
chỉ có một số biện pháp cưỡng chế nhất định mang tính tự cưỡng chế dưới hình thức
riêng rẽ hoặc tập thể. Nói cách khác, trong luật quốc tế không có một hệ thống các cơ
quan chuyên biệt và tập trung làm nhiệm vụ đảm bảo thi hành luật quốc tế. Bởi quan hệ
quốc tế trước tiên và chủ yếu là quan hệ giữa các quốc gia độc lập có chủ quyền và bình
đẳng với nhau về pháp lý, nên việc tồn tại một hệ thống cơ quan đảm bảo thi hành hoặc
chế thi hành luật quốc tế tập trung sẽ được hiểu như vi phạm đến sự bình đẳng giữa các
quốc gia. Mặt khác, hệ thống các nguyên tắc và quy phạm của luật quốc tế là do chính
các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế xây dựng nên trên cơ sở tự nguyện,
thông qua đấu tranh và thương lượng, chính vì vậy, việc tuân thủ các nguyên tắc và quy
phạm pháp luật quốc tế này cũng dựa trên cơ sở tự nguyện. Tuy nhiên, trong luật quốc tế
vẫn tồn tại những biện pháp chế tài
Điểm khác biệt so với luật quốc gia là ở chỗ, các biện pháp chế tài cá thể (như tự vệ, trả
đũa hợp pháp, trừng phạt) hoặc tập thế (như trừng phạt phi vũ trang hoặc vũ trang) là do
chính các chủ thể luật quốc tế tự thực hiện. Liên quan đến vấn để đảm bảo thi hành pháp
luật, điểm quan trọng nhất là hệ thống các nguyên tắc và quy phạm của luật quốc tế trong
đa số trường hợp được thực thi bởi sự tự nguyện của các quốc gia. Như vậy, vấn đề cần
được đặt ra chính là nếu không tuân thủ luật quốc tế thì quốc gia sẽ chịu hậu quả gì. Có
thể thấy, việc không thực thi luật quốc tế có thể dẫn đến những hậu quả rất bất lợi cho
quốc gia như: danh dự của quốc gia bị ảnh hưởng; trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại, các
quốc gia bị thiệt hại sẽ không áp dụng nghĩa vụ của mình đối với quốc gia bị vi phạm;
các quốc gia bị thiệt hại có thể sẽ áp dụng hành vi trả đũa... Dư luận của nhân dân trên thế
giới (trong và ngoài quốc gia có hành vi liên quan) cũng góp phân quan trọng trong việc
thúc đẩy sự tôn trọng luật quốc tế các của quốc gia.
Như vậy, qua các đặc điểm trên, ta có thể rút ra được mối quan hệ giữa luật quốc
tế và luật quốc gia. Xuất phát từ lợi ích chung của quốc gia, dân tộc và cộng đồng quốc
tế. Sự tác động qua lại giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia được thể hiện ở hai
khía cạnh: Một là, pháp luật quốc gia ảnh hưởng quyết định tới sự hình thành và phát
triển của pháp luật quốc tế. Sự hình thành các nguyên tắc và quy phạm pháp luật quốc tế
cũng như nội dung của chúng hoàn toàn tùy thuộc vào sự thỏa thuận giữa các quốc gia.
Quan điểm của mỗi quốc gia trong quá trình thỏa thuận đó phải dựa trên cơ sở những
nguyên tắc và quy phạm nền tảng của chính pháp luật quốc gia. Pháp luật quốc gia thể
hiện sự định hướng về nội dung, tính chất của pháp luật quốc tế. Mọi sự thay đổi và phát
triển tiến bộ của pháp luật quốc gia đều tác động tích cực thúc đẩy sự phát triển của pháp
luật quốc tế. Hai , pháp luật quốc tế có tác động tích cực nhằm phát triển và hoàn thiện
pháp luật quốc gia. Tính chất tác động của luật quốc tế đối với luật quốc gia được đánh
giá bằng thực tiễn thực thi nghĩa vụ thành viên diều ước quốc tế, tổ chức quốc tế của
quốc gia, thể hiện ở những hoạt động cụ thể khác nhau trong đó có hành vi sửa đổi, bổ
sung các văn bản quy phạm pháp luật của luật quốc gia sao cho phù hợp với những cam
kết quốc gia đó đã ký kết hoặc tham gia. Chính vì thế, các quy định có nội dung tiến bộ
thể hiện thành tựu mới của khoa học pháp lý quốc tế sẽ dần được chuyển tải vào văn bản
quy phạm pháp luật quốc gia. Điều đó sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của pháp luật
quốc gia để quốc gia vừa có thể hội nhập vào nền tảng pháp lý chung vừa có thể thiết lập
được một hệ thống pháp luật quốc gia hoàn chỉnh. Bên cạnh đó, luật quốc tế còn tác động
đến luật quốc gia thông qua vai trò của hệ thống này đối với đời sống pháp lý tại mỗi
quốc gia, phản ánh tương quan giữa hai hệ thống khi điều chỉnh những vấn đề thuộc lợi
ích phát triển và hợp tác quốc tế của quốc gia.
Vậy, bản chất cũng như vai trò của luật quốc tế là gì? Bản chất của luật quốc tế
chính là sự thỏa thuận ý chí giữa các chủ thể của luật quốc tế, chủ yếu là các quốc gia độc
lập, bình đẳng về chủ quyền. Nhằm hướng đến và phục vụ cho lợi ích của quốc gia - giai
cấp cầm quyền. Vì vậy, có thể nói rằng luật quốc tế luôn phản ánh sự đầu tranh và nhân
nhượng, thỏa hiệp và thương lượng giữa các quốc gia, mà mục đích chính là nhằm phục
vụ cho lợi ích của giai cấp cầm quyền ở mỗi quốc gia. Bản chất thỏa thuận, thống nhất ý
chí, hài hòa lợi ích của các quốc gia giúp làm sáng tỏ thực tế rằng pháp luật quốc tế có sự
liên hệ với pháp luật quốc gia mà ở đó luật quốc gia đóng vai trò xuất phát điểm. Còn vai
trò của luật quốc tế là công cụ điều chỉnh các quan hệ quốc tế nhằm bảo vệ lợi ích của
mỗi chủ thể của luật quốc tế trong quan hệ quốc tế, là nhân tố quan trọng nhất để bảo vệ
hòa bình và an ninh quốc tế. Ngoài ra còn có vai trò đặc biệt quan trọng đối với phát triển
văn minh của nhân loại, thúc đẩy cộng đồng quốc tế phát triển theo hướng ngày càng văn
minh, thúc đẩy việc phát triển các quan hệ hợp tác quốc tế đặc biệt là quan hệ kinh tế
quốc tế trong bối cảnh hiện nay.
Qua bài viết tổng hợp nội dung trên, cần phải nắm rõ các nội dung của luật quốc tế
như: định nghĩa, các đặc trưng cơ bản, bản chất và vai trò của luật quốc tế cũng như sự so
sánh giữa luật quốc tế và luật quốc gia, thấy được mối liên hệ của hai hệ thống pháp luật
quan trọng này. Để từ đó nắm vững hơn kiến thức nền tảng về Luật quốc tế, cũng như bộ môn Công pháp Quốc tế. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, giáo trình Công pháp quốc tế (quyển 1),
Nhà xuất bản Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam