








Preview text:
BÀI KIỂM TRA GIỮA KÌ
Thực hiện bởi nhóm 2:
Nguyễn Thị Kim Hiền
Môn: NHẬP MÔN NGHỀ NGHIỆP Võ Quỳnh Hương Lớp: TLH.B Võ Hoàng Khang GV: Cô Mai Mỹ Hạnh Dương Trần Tuệ Như Ngày: 1/12/2022 Trần Đình Phong (NT) Đinh Thị Phương Uyên Vu Nguyễn Hoàng Vy
Đề: Chân dung nhà Tâm Lý Học 
Câu 1: JEAN PIAGET- NHÀ TÂM LÝ HỌC NHẬN THỨC  1. Tiểu sử 
- Jean Piaget (1896 – 1980) là con trai cả của Arthur Piaget (người Thụy Sĩ) - 
giáo sư văn học thời trung cổ tại Đại học Neuchatel và Rebecca Jackson (người
Pháp). Piaget là một đứa trẻ sớm phát triển mối quan tâm đến sinh học và thế 
giới tự nhiên. Mối quan tâm ban đầu của ông về động vật học đã mang lại cho 
ông một danh tiếng trong số những người trong lĩnh vực này sau khi ông đã 
xuất bản một số bài báo về động vật thân mềm ở tuổi 15. Piaget bị cuốn hút 
rằng bằng cách nào đó, ông đã hình thành ký ức về vụ bắt cóc này, một ký ức 
vẫn tồn tại ngay cả sau khi ông hiểu nó là giả. Jean Piaget bắt đầu quan tâm 
đến nhận thức luận do sự thúc giục của cha đỡ đầu để nghiên cứu các lĩnh vực  triết học và logic.
- Ông Jean Piaget được đào tạo tại Đại học Neuchatel, và học một thời gian 
ngắn tại Đại học Zürich. Trong thời gian này, ông đã xuất bản hai bài báo triết 
học cho thấy hướng suy nghĩ của ông vào thời điểm đó, nhưng sau đó ông đã 
bác bỏ đó là suy nghĩ của tuổi mới lớn. Piaget chuyển từ Thụy Sĩ đến Paris sau 
khi tốt nghiệp và ông giảng dạy tại Trường nam sinh do Alfred Binet điều hành
(người đã phát minh ra bài kiểm tra IQ thực tế đầu tiên, bài kiểm tra Binet –  Simon.)
- Piaget đã hỗ trợ trong việc chấm các bài kiểm tra trí thông minh của Binet. Trong 
khi giúp chấm một số bài kiểm tra này, Piaget nhận thấy rằng trẻ nhỏ luôn trả lời sai 
cho một số câu hỏi nhất định. Piaget không tập trung quá nhiều vào thực tế là câu trả 
lời của trẻ em là sai, nhưng trẻ nhỏ luôn mắc phải những loại sai lầm mà trẻ lớn hơn và
người lớn có thể tránh được. Điều này dẫn ông đến giả thuyết rằng quá trình nhận thức
của trẻ nhỏ vốn dĩ khác với quá trình nhận thức của người lớn. 
 Ông đã đề xuất một lý thuyết toàn cầu về các giai đoạn phát triển nhận thức, 
trong đó các cá nhân thể hiện các mô hình nhận thức chung nhất định trong 
mỗi giai đoạn phát triển.
- Trong khi sự nghiệp ban đầu của ông bao gồm công việc trong lĩnh vực khoa
học tự nhiên, thì vào những năm 1920, ông bắt đầu chuyển sang làm việc như  một nhà tâm lý học - Năm 
, Piaget trở lại Thụy Sĩ với tư cách là giám đốc của Viện Rousseau 1921 ở Geneva. Năm 
, ông kết hôn với Valentine Chatenay 1923  và cặp đôi có ba  người con.
- Từ năm 1925 đến năm 1929, Piaget làm giáo sư tâm lý học, xã hội học và triết học
khoa học tại Đại học Neuchatel. Năm  ,
1929  Jean Piaget nhận chức vụ Giám đốc
Văn phòng Giáo dục Quốc tế và vẫn là người đứng đầu tổ chức quốc tế này cho đến năm  . Hàng năm  1968
ông soạn thảo "Bài phát biểu của Giám đốc" cho Hội
đồng IBE và Hội nghị Quốc tế về Giáo dục Công cộng, trong đó ông đã đề cập
rõ ràng cương lĩnh giáo dục của mình.
- Jean Piaget từng giảng dạy tại Đại học Geneva và Đại học Paris, vào năm
1964, Piaget được mời làm cố vấn chính tại hai hội nghị tại Đại học Cornell và
Đại học California, Berkeley. Các hội nghị đã đề cập đến mối quan hệ nghiên
cứu về nhận thức và phát triển chương trình giảng dạy để cố gắng đưa ra ý
nghĩa về sự phát triển nhận thức của trẻ em.
-  Năm 1979, ông được trao Giải thưởng Balzan về Khoa học Xã hội và
Chính trị. Ông qua đời vào năm   
1980 và được chôn cất cùng gia đình trong
một ngôi mộ không được đánh dấu ở Cimetière des Rois (Nghĩa trang của các
vị vua) ở Geneva. Đây là theo yêu cầu của ông ấy.
- Ông Piaget rất coi trọng việc giáo dục trẻ em. Với tư cách là Giám đốc Văn
phòng Giáo dục Quốc tế, ông tuyên bố vào năm   
1934 rằng "chỉ có giáo dục
mới có khả năng cứu xã hội của chúng ta khỏi sự sụp đổ có thể xảy ra." Lý
thuyết của ông về sự phát triển của trẻ được nghiên cứu trong các chương trình
giáo dục tiền công vụ. Các nhà giáo dục tiếp tục kết hợp các chiến lược dựa trên kiến tạo.
2. Thuyết phát triển nhận thức của Jean Piaget 
- Là một nhà sinh học, Piaget quan tâm đến cấu trúc của cơ thể thích nghi với 
môi trường xung quanh như thế nào. Piaget không chỉ quan tâm đến bản chất 
của tư tưởng mà còn quan tâm đến cách nó phát triển và hiểu được cách thức di
truyền học ảnh hưởng đến quá trình này.
- Trong khi đang làm việc tại phòng thí nghiệm của A.Binet ở Paris ông đặc 
biệt quan tâm đến tư duy của trẻ em. Ông phát hiện ra rằng những câu trả lời 
của trẻ em thường có xu hướng có nội dung khác hơn so với những đứa lớn 
hơn chúng. Điều đó gợi cho ông rằng những đứa trẻ không hề ngốc nghếch mà 
chỉ là những sự giải đáp về những thắc mắc của chúng khác biệt hơn những 
đứa bạn cùng tuổi vì chúng có suy nghĩ khác nhau. Một trong những đóng góp 
quan trọng, đánh dấu tầm ảnh hưởng của ông trong lĩnh vực Tâm lý học Phát 
triển nói riêng và Tâm lý học nói chung
- Lý thuyết phát triển nhận thức của ông Piaget xác định bốn giai đoạn như sau:
- Giai đoạn nhạy cảm: Giai đoạn phát triển đầu tiên kéo dài từ sơ sinh đến
khoảng hai tuổi. Ở thời điểm phát triển này, trẻ nhận biết thế giới chủ yếu
thông qua các giác quan và vận động cơ thể.
- Giai đoạn tiền vận động: Giai đoạn phát triển thứ hai kéo dài từ hai tuổi
đến bảy tuổi và được đặc trưng bởi sự phát triển của ngôn ngữ và sự xuất hiện
của trò chơi biểu tượng.
- Giai đoạn hoạt động cụ thể: Giai đoạn thứ ba của quá trình phát triển nhận
thức kéo dài từ 7 tuổi đến xấp xỉ 11 tuổi. Lúc này, tư duy logic đã xuất hiện,
nhưng trẻ vẫn gặp khó khăn với tư duy lý thuyết và trừu tượng.
- Giai đoạn hoạt động chính thức: Trong giai đoạn thứ tư và giai đoạn cuối
của quá trình phát triển nhận thức, kéo dài từ 12 tuổi và đến tuổi trưởng thành,
trẻ trở nên thành thạo hơn nhiều trong suy nghĩ trừu tượng và suy luận.
3. Những đóng góp nổi bật 
- Thuyết phát sinh nhận thức của Piaget là thuyết đầu tiên đề cập đến quá
trình bên trong của tư duy của con người. Là nền tảng cho những nhà Tâm lý
học trong tương lai nghiên cứu sâu hơn về quá trình phát triển nhận thức của
trẻ. Thể hiện được sự hiệu quả của phương pháp quan sát trong nghiên cứu
khoa học. Đồng thời nhấn mạnh được tầm quan trọng trong sự “tự khám phá
của trẻ”. Mặt khác, thuyết này tập trung nhấn mạnh đến vai trò của yếu tố tự
thân, gia đình, bạn bè mà không nhấn mạnh đến tầm quan trọng của nền văn
hóa, giới tính, động cơ trong khả năng học tập của trẻ.
- Các lý thuyết của Piaget tiếp tục được nghiên cứu trong các lĩnh vực tâm
lý học, xã hội học, giáo dục học và di truyền học. Công việc của ông đã góp
phần vào sự hiểu biết của chúng ta về sự phát triển nhận thức của trẻ em. Trong
khi các nhà nghiên cứu trước đây thường xem trẻ em đơn giản là phiên bản nhỏ
hơn của người lớn, Piaget đã giúp chứng minh rằng thời thơ ấu là một giai
đoạn phát triển độc đáo và quan trọng của con người.
- Ông Piaget đã hỗ trợ cho ý tưởng rằng trẻ em suy nghĩ khác với người lớn 
và nghiên cứu của ông đã xác định một số mốc quan trọng trong sự phát triển 
tinh thần của trẻ em. Công việc của ông cũng tạo ra sự quan tâm đến tâm lý học
nhận thức và phát triển. Các lý thuyết của Piaget ngày nay được nghiên cứu 
rộng rãi bởi sinh viên cả tâm lý học và giáo dục học.
- Piaget đã giữ nhiều vị trí chủ tịch trong suốt sự nghiệp của mình và thực 
hiện các nghiên cứu về tâm lý học và nhận thức luận. Ông thành lập Trung tâm
Nhận thức Di truyền Quốc tế vào năm 1955 và giữ chức vụ giám đốc cho đến 
khi qua đời vào ngày 16 tháng 9 năm 1980. 
- Ông Piaget được coi là nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất đến tâm lý học phát
triển. Tuy nhiên, nhiều khía cạnh trong lý thuyết của ông không còn được các
nhà tâm lý học chính thống chấp nhận. Các nhà tâm lý học phát triển ngày nay
không xem sự phát triển diễn ra theo từng giai đoạn và nhiều phát hiện thực
nghiệm của Piaget đã bị lật ngược bởi các nghiên cứu sau đó. 
Ví dụ, các nhà tâm lý học không còn xem trẻ nhỏ không có khả năng
hiểu các khái niệm trừu tượng, và không còn tin rằng trẻ sơ sinh không hiểu
tính vĩnh viễn của đối tượng. Mặc dù vậy, các nhà tâm lý học phát triển thừa
nhận tầm quan trọng của di sản của Jean Piaget với tư cách là người sáng lập
lĩnh vực của họ. Họ ghi nhận công việc thực nghiệm sáng tạo của ông, nỗ lực
tích hợp các kết quả của mình vào một mô hình lý thuyết thống nhất và cách
ông tạo ra con đường cho các nhà nghiên cứu trong tương lai noi theo. Câu 2: L  EV SE M  Y  O  N  OVICH VYGOTSKY  1. Tiểu sử: 
Ông đã từng viết “Bi kịch là một cuộc bạo loạn với sức mạnh tối đa của con  người” 
- Vygotsky là người Do Thái, ông có cha là thương gia kiêm chủ ngân hàng, 
còn mẹ ông là nhà giáo. Những đứa trẻ trong gia đình Vygodsky được dạy phải 
chăm sóc lẫn nhau, những người lớn tuổi chăm sóc những đứa trẻ nhỏ hơn. Có 
một phong tục cảm động: vào buổi tối, khi cha tôi đi làm về, cả gia đình sẽ quây 
quần uống trà, và mọi người sẽ kể lại những chuyện đã xảy ra trong ngày. Có lẽ 
chính sự kết hợp giữa lễ giáo ấm áp, sự siêng năng và tư tưởng tự do mà cha mẹ 
ông đã truyền lại cho ông đã đặt nền móng cho những khám phá rực rỡ trong 
tương lai của Lev Vygotsky.
- Năm 1913, ông bắt đầu học luật tại Đại học Moscow
- Ông được nhận xét là một người tốt bụng, lạc quan với khiếu hài hước tuyệt 
vời, kết hợp với sự lễ phép đáng kinh ngạc và luôn tràn đầy năng lượng. Nhờ 
nguồn năng lượng sôi sục này, anh có đủ sức mạnh để tham gia các buổi thuyết 
trình miễn phí tại khoa Lịch sử và Triết học của Đại học Shanyavsky cùng với 
việc học luật. Năm 1917, ông hoàn thành chương trình học ở đó, cuối cùng từ 
bỏ luật. Khi cuộc cách mạng tháng Mười đã diễn ra và Vygotsky tham gia vào  hoạt động chính trị.
- Vào năm 1924, Vygotsky trở nên nổi tiếng sau khi gây ấn tượng với cộng 
đồng tâm lý học thực nghiệm Nga bằng một bài diễn văn về khoa học thần kinh. 
Từ đó trở đi, ông làm nghiên cứu viên và là giáo sư tại Viện Tâm lý học Thực 
nghiệm ở Moscow. Trong giai đoạn này của cuộc đời, Vygotsky là một tác 
giả chuyên nghiệp cũng như một người hướng dẫn quan trọng trong lĩnh  vực tâm lý học
- Năm 1926, ông mất việc vì bệnh lao; 
- Ông qua đời vì căn bệnh này vào năm 1934, khi ông chỉ mới 37 tuổi, để lại 
một di sản lý thuyết rộng lớn được thu thập bởi Aleksandr Luria và những người khác.
2. Những thành tựu: 
Nếu như Jean Piaget quá nổi tiếng bới học thuyết Tâm lý học nhận thức, học
thuyết tìm hiểu về chiều sâu trong quá trình nhận thức của trẻ em, của con người 
thì Lev Seyomovich Vygotsky lại có cái nhìn khác khi đưa ra Thuyết Văn hóa xã 
hội, tìm hiểu về bề rộng trong nhận thức của trẻ em và con người.
Như đã nói ở trên Thuyết Văn hóa xã hội, tìm hiểu về các vấn đề bề rộng 
trong nhận thức, đồng nghĩa với việc tìm hiểu về các tác nhân ảnh hưởng đến quá 
trình phát triển về nhận thức, tư duy của trẻ. Sau đây là 4 nguyên tắc cơ bản trong 
khuôn khổ Thuyết Văn hóa xã hội của Vygotsky:
Ngôn ngữ đóng vai trò trung tâm trong sự phát triển trí tuệ (điểm 
khác biệt với Piaget):
Xem xét những lời nói cá nhân (private speech) mà trẻ em tự nói với chính 
mình (các bạn có thể thấy trẻ em trong độ tuổi mẫu giáo thường hay tự “lẩm 
bẩm” với chính mình khi đang chơi hay làm một việc gì đấy) để lên kế hoạch 
hay hướng dẫn hành vi của chúng – đây là hành vi phổ biến nhất ở trẻ mẫu giáo, 
đối tượng chưa phù hợp để được học những kỹ năng xã hội mà đúng hơn là 
chúng chỉ mới khám phá những ý tưởng của nó – trẻ thường sử dụng lời nói khi 
nhiệm vụ trở nên quá khó khăn và chúng không biết làm thế nào để tiến hành. 
Những lời nói cá nhân giúp đứa trẻ có thể hoàn thành nhiệm vụ. Vygotsky tin 
rằng những lời nói cá nhân đó thay đổi theo lứa tuổi, với việc nói nhỏ hơn hay 
thậm chí chỉ còn là những lời thì thầm khi trẻ lớn dần lên và trở thành lời nói nội
tâm đối với những người trưởng thành. Người ta cho rằng trẻ thông minh thường
mất đi lời nói cá nhân sớm hơn những trẻ khác.
Sự phát triển không thể tách rời với hoàn cảnh xã hội:
“Định hướng thực sự của sự phát triển tư tưởng không phải từ cá nhân đến 
xã hội, mà từ xã hội đến cá nhân”.
Lý thuyết này cho rằng, các tương tác xã hội dẫn đến việc từng bước thay 
đổi liên tục trong suy nghĩ và hành vi của trẻ và việc này có thể khác nhau rất 
nhiều giữa những nền văn hóa. Sự phát triển phụ thuộc vào sự tương tác với 
con người và các công cụ mà nền văn hóa đó cung cấp để giúp trẻ hình thành 
cái nhìn của chúng về thế giới xung quanh. Có 3 cách mà công cụ văn hóa 
(culture tool) có thể truyền từ người này sang người khác là:
Học tập bằng cách bắt chước (imitative learning)
Học tập bằng huấn luyện, hướng dẫn (instructed learning)
Học tập bằng cách tự điều chỉnh (self – regulated learning)
“Sự hướng dẫn, tham dự của người lớn giúp cho trẻ phát triển nhận thức. 
Nhưng nhận thức ấy chỉ bền vững khi nó được áp dụng vào trò chơi với bạn 
đồng lứa hoặc trở thành nét tính cách thông qua giao tiếp và ứng xử trong 
nhóm bạn bè…trong quá trình chơi và giao tiếp với bạn bè, trẻ em thu nhận 
kiến thức và rèn luyện kỹ năng ứng xử xã hội”
Học tập đem lại sự phát triển:
Vygotsky tin rằng bất kỳ phương pháp sư phạm nào tạo ra quá trình học tập
cũng đều mang lại sự phát triển nhận thức
Và từ đó ông đưa ra 2 khái niệm nổi tiếng nhất của ông:
Đầu tiên là khái niệm MKO (Người hiểu biết hơn – More Knowledgeable  Other):
+ MKO được hiểu là khả năng tự giải thích. Khái niệm này đề cập đến một 
người có hiểu biết hoặc trình độ năng lực cao hơn so với người học đối với một
nhiệm vụ, quá trình hay khái niệm mới.
+ Tuy ngụ ý ám chỉ đến người giáo viên hay người lớn, MKO không nhất 
thiết chỉ giới hạn trong phạm vi đó. Trong nhiều trường hợp, bạn đồng trang 
lứa của trẻ hay chính trẻ so với người lớn có thể là những cá nhân có nhiều 
hiểu biết, kinh nghiệm hơn. Ví dụ, giữa trẻ và cha mẹ, ai là người am hiểu hơn 
về những ban nhạc tuổi teen, về cách phá màn trò chơi điện tử mới nhất, hoặc 
làm thế nào thực hiện chính xác điệu nhảy đang rất hot trong thời gian gần  đây?
+ Hay nói đơn giản hơn khái niệm này giúp người ta hình dung được những
nơi mà một con người có thể học tập, tiếp nhận kiến thức, không chỉ học tập từ 
những người lớn hơn mà ta có thể học tập và phát triển bản thân từ những 
người đồng trang lứa hoặc nhỏ tuổi miễn họ hiểu biết lĩnh vực đó hơn mình
Tiếp theo là khái niệm ZPD (Vùng phát triển gần – Zone of Proximal  Development)
+ Đây là khái niệm nói lên sự khác biệt khi trẻ/người học tự mình tìm hiểu 
kiến thức với trẻ/người học có được sự hướng dẫn của người có kỹ năng cao  hơn trong việc này.
+ Theo Vygotsky, trình độ của trẻ/người học thường chia thành hai loại: 
Trình độ phát triển hiện tại, biểu hiện trẻ em/người học có thể giải quyết vấn đề
trong khả năng hiện tại của mình; 
Trình độ phát triển tiềm năng, biểu hiện ở việc trẻ/người học phải thông 
qua sự giúp đỡ của người có kiến thức và kinh nghiệm cao hơn để hoàn thành 
nhiệm vụ. Vùng nằm giữa hai khoảng này là vùng phát triển gần 
+ Vùng phát triển gần là một mục tiêu di động nên khi người học đạt được 
các kỹ năng và khả năng mới thì vùng này sẽ di chuyển dần về phía trước. ZPD
dẫn dắt người học đến vùng phát triển tiềm năng, thuyết này nhấn mạnh vai trò 
của người hướng dẫn (giáo viên, cha mẹ…) với người học và nhiệm vụ tìm 
cách truyền đạt lại kiến thức và kinh nghiệm cho người học.
Trẻ em tự xây dựng nên kiến thức của chúng:
Vygotsky tin rằng trẻ em tự xây dựng kiến thức của mình và không thụ 
động sao chép những gì được trình bày cho chúng. Chúng tò mò và muốn 
khám phá thế giới xung quanh, tự mày mò, tìm hiểu những vấn đề mà chúng  quan tâm.
Học thuyết trên không chỉ giúp xã hội đương thời mà còn ảnh hưởng rất 
sâu sắc đến nền giáo dục và phát triển hiện đại. Lấy học sinh làm nhân, giáo 
viên là những nhà hỗ trợ để chính bản thân các học sinh ấy tự có thể lính hội 
kiến thức, phát triển năng lực của bản thân
3. Những đóng góp của ông: 
- Hoàn thành luận án và đạt danh hiệu Nghiên cứu viên cao cấp tương đương 
với bằng Tiến sĩ hiện tại Viết gần hai trăm tác phẩm về tâm lý trẻ em, sư phạm, 
văn học và nghệ thuật. Trở thành người sáng lập ra khái niệm văn hoá - lịch sử 
về sự phát triển, vốn vẫn đang được các nhà tâm lý học và giáo dục học trên thế  giới nghiên cứu. 
- Ông có ảnh hưởng không chỉ tới ngành Tâm lý học mà mạnh mẽ hơn là 
ngành giáo dục của những năm 90 đặc biệt là ở Liên Xô. Các tác phẩm và học 
thuyết của ông luôn có giá trị rất lớn đối với ngành Tâm lý học và ngành giáo 
dục hiện đại như câu “Giáo viên phải chấp nhận vai trò của người hướng dẫn, 
không phải nhà cung cấp nội dung”, đã làm rõ vai trò của một nhà giáo dục sau  này. 
- Góc nhìn của riêng ông “Học tập của con người giả định trước một bản chất 
xã hội cụ thể và một quá trình trẻ em tiếp cận với đời sống trí tuệ của những  người xung quanh”
- Trong số các tác phẩm nổi bật nhất của tác giả này là "Tâm lý giáo dục", 
"Tâm trí trong xã hội
Ý nghĩa lịch sử của khủng hoảng tâm lý học ", " Sự  ", "
phát triển của các quá trình tâm lý cao hơn
Tâm lý học nghệ thuật ", " " và 
"Suy nghĩ và lời nói", cuốn sách có ảnh hưởng nhất của ông, được xuất bản sau  khi ông qua đời.   
