-
Thông tin
-
Quiz
Bài tập cá nhân Chính trị học | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Chính trị học là gì? Trình bày đối tượng nghiên cứu của chính trị học? Trình bày nội dung tư tưởng chính trị cơ bản của Nho gia Trung Quốc? Trình bày quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về chính trị? Trình bày tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về chính trị? Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Chính Trị Học 142 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 2.5 K tài liệu
Bài tập cá nhân Chính trị học | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Chính trị học là gì? Trình bày đối tượng nghiên cứu của chính trị học? Trình bày nội dung tư tưởng chính trị cơ bản của Nho gia Trung Quốc? Trình bày quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về chính trị? Trình bày tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về chính trị? Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Chính Trị Học 142 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 2.5 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:




















Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
CHÍNH TRỊ HỌC CHÍNH TRỊ HỌC
Câu 1. Chính trị học là gì? Trình bày đối tượng nghiên cứu của chính trị học?
Chính trị học là khoa học nghiên cứu đời sống chính trị như một chỉnh thể, lấy
quyền lực chính trị làm phạm trù trung tâm nhằm nhận thức và vận dụng những
quy luật và tính quy luật chung nhất chi phối sự vận động và biến đổi của lĩnh vực chính trị
Chính trị học nghiên cứu ở lĩnh vực chính trị và được hiểu ở hai góc độ: CTH
đại cương; CTH chuyên biệt
Bàn về định nghĩa của chính trị học, chính trị học là khoa học nghiên cứu đời
sống chính trị nhằm sáng tỏ những quy luật, tính quy luật chung nhất của đời
sống chính trị xã hội, cùng những thủ thuật chính trị để hiện thực hóa những quy
luật, tính quy luật đó trong xã hội có giai cấp được tổ chức thành nhà nước. Hiểu sâu hơn, thì:
Chính trị học là khoa học (đối tượng, chức năng, nhiệm vụ, phương
pháp nghiên cứu, hệ thống các khái niệm, quy luật, nguyên lý)
Làm rõ những quy luật, tính quy luật của đời sống chính trị.
Hoạt động thông qua các lợi ích.
Bàn về lịch sử nghiên cứu của chính trị học, như bất kỳ một khoa
học nào khác, chính trị học cũng trải qua một quá trình phát triển
lâu dài tương ứng với sự phát triển của đời sống chính trị và phù
hợp với quy luật của quá trình nhận thức từ kinh nghiệm đến lý
luận. Thời cổ đại, ở phương Đông cũng như phương Tây, những tư
tưởng chính trị đã xuất hiện trong các tác phẩm nổi tiếng của
Platon, Arixtôt (Hy Lạp). Khổng Tử. Mạnh Tử, Hàn Phi Tử (Trung
Quốc)... Những tư tưởng này tập trung phản ánh những kinh
nghiệm chính trị được tích lũy, đặc biệt về cách tổ chức và thuật trị nước.
Chính trị học nghiên cứu 3 lĩnh vực là: Sự kiện chính trị, hoạt động chính trị,
quá trình chính trị và các thể chế chính trị. (viết vậy thôi cũng được tính điểm;
ko tìm đc nguồn phân tích)
Đối tượng nghiên cứu của Chính trị học là: những quy luật, tính
quy luật chung nhất của đời sống chính trị của xã hội, những cơ chế
tác động, cơ chế vận dụng, những phương thức, thủ thuật, công
nghệ chính trị để hiện thực hóa những quy luật, tính quy luật đó.
Để khái quát thành những quy luật, tính quy luật chung nhất của đời sống chính
trị, Chính trị học đi sâu nghiên cứu các hình thức hoạt động xã hội đặc biệt có
liên quan đến nhà nước:
- Hoạt động xác định mục tiêu chính trị trước mắt, mục tiêu triển vọng dưới
dạng khả năng và hiện thực, cũng như những con đường giải quyết các mục tiêu
đó có tính đến tương quan lực lượng xã hội, khả năng xã hội ở giai đoạn phát
triển tương ứng của nó.
- Hoạt động tìm kiếm, thực thi các phương pháp, phương tiện, những thủ thuật,
những hình thức tổ chức có hiệu quả đạt mục tiêu đã đề ra.
Việc lựa chọn, tổ chức, sắp xếp những cán bộ thích hợp nhằm hiện thực hóa có
hiệu quả mục tiêu. Đồng thời với việc nghiên cứu các hoạt động của các chủ thể.
Chính trị học còn nghiên cứu các quan hệ giữa các chủ thể chính trị:
- Quan hệ giữa các giai cấp, thực chất là quan hệ giữa các lợi ích chính trị và các
giai cấp theo đuổi để hình thành lý luận về liên minh giai cấp, đấu tranh và hợp
tác các giai cấp vì yêu cầu chính trị.
- Quan hệ giữa các chủ thể trong hệ thống tổ chức quyền lực: đảng chính trị, nhà
nước, các tổ chức chính trị - xã hội để hình thành lý luận về đảng chính trị, nhà
nước pháp quyền, và về hệ thống chính trị và cơ chế thực thi quyền lực chính trị.
- Quan hệ giữa các dân tộc để hình thành lý luận chính trị về vấn đề dân tộc
trong sự vận dụng vào điều kiện cụ thể của mối quốc gia dân tộc.
- Quan hệ giữa các quốc gia để hình thành học thuyết về chính trị quốc tế trong
thời đại quốc tế hóa hiện nay.
Câu 2, Trình bày nội dung tư tưởng chính trị cơ bản của Nho gia Trung Quốc?
Các trường phái tư tưởng chính trị Trung Quốc xuất hiện chủ yếu trong thời kỳ
Xuân Thu - Chiến Quốc (770-221 trước Công nguyên). Đây là giai đoạn với
những biến động xã hội to lớn, có ý nghĩa vạch đường, đất nền móng cho tư
tưởng Trung Quốc phát triển.
1. Điều kiện KT-XH của Trung Quốc thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc
Thời kỳ này Trung Quốc đang nằm trong sự chuyển giao hình thái kinh tế - xã
hội từ chiếm hữu nô lệ sang phong kiến.
Đồ sắt xuất hiện, năng suất lao động cao, mâu thuẫn xã hội gay gắt.
Nhà Chu thống trị thiên hạ chỉ về hình thức, các nước chư hầu
không phục tùng nhà Chu nữa mà mang quân thôn tính lẫn nhau, xã
hội đại loạn, chiến tranh nổ ra liên miên, đạo đức, trật tự xã hội bị
suy thoái. Tình trạng “tôi giết vua, con giết cha, em giết anh...” trở
nên phổ biến. Nhân dân bị đói khổ vì chiến tranh, vì bị áp bức, bóc lột nặng nề.
Nhiều học thuyết chính trị đã ra đời để đáp ứng sự đòi hỏi của lịch
sử. Dưới đây, chúng ta tìm hiểu tư tưởng chính trị của một trường
phái tiêu biểu giai đoạn này là Nho gia.
Tư tưởng Nho gia chiếm trí đặc biệt quan trọng trong lịch sử tưởng chính trị
Trung Quốc. Nó đã ảnh hưởng sâu sắc mọi mặt của đời sống xã hội Trung Quốc
và các nước láng giềng trong suốt hơn hai nghìn năm lịch sử. Hai nhân vật tiêu
biểu của trường phái Nho gia là Khổng Tử và Mạnh Tử.
2. Thân thế Khổng Tử- Mạnh Tử:
Khổng Tử (551-479 trước Công nguyên)
Khổng Tử là người sáng lập ra trường phái Nho gia. Ông tên là Khâu, tự là
Trọng Ni, sinh ra trong một gia đình quý tộc nhỏ ở nước Lỗ. Thời trẻ, ông đã
mở trường dạy học, sau đó làm chức quan nhỏ, quản lý kho và trông coi trâu, dê;
sau đó là Trung đô tể, quan Tư khấu. Vì không được trọng dụng, ông dẫn các
học trò đi chu du các nước hơn mười năm. Cuối đời, ông trở về nước Lỗ tiếp tục
dạy học và chỉnh lý, san định các thư tịch cổ như ngũ kinh và viết kinh Xuân Thu. 3. Bộ sách nhà nho:
Ở thời kỳ này có 2 bộ sách kinh điển của Trung Hoa: Tứ Thư và Ngũ Kinh. Các
sách này còn là những tác phẩm văn chương cổ điển của Trung Quốc.
Sự học của Nho giáo có nhiều lý tưởng cao siêu, nhưng có thể nói một cách vắn
tắt là: sự học chú trọng ở luân thường đạo lý, chủ trương biến hóa tùy thời, sự vụ
thực tế nên không bàn đến những cái viển vông ngoài sinh hoạt của con người nơi trần thế.
4. Nội dung chính trị của Nho gia
Tư tưởng chính trị của Khổng Tử là vì sự bình ổn của xã hội- một xã hội thái
bình thịnh trị. Theo Khổng Tử là chính đạo, đạo người làm chính trị là phải ngay
thẳng, lấy chính trị để dẫn dắt dân. Để thiên hạ có đạo, quay về lễ, phải củng cố
điều Nhân, coi trọng lễ nghĩa thì xã hội sẽ ổn định.
Để thực hiện lí tưởng chính trị của mình, Khổng Tử đã đề ra thuyết : “ Nhân – Lễ- Chính danh”.
- Nhân là phạm trù trung tâm trong học thuyết chính trị của Khổng Tử. Nó là
thước đo, là chuẩn mực quyết định thành hay bại, tốt hay xấu của chính trị.
Nhân là nhân đạo, thương yêu người, coi người như mình, giúp đỡ nhau. Khi
điều Nhân đã bao trùm thì không còn mâu thuẫn, xung đột, xã hội sẽ tự ổn định.
Theo Khổng Tử, đạo Nhân không phải để cho tất cả mọi người, mà chỉ có ở
người “quân tử” (quý tộc, trí thức thuộc giai cấp thống trị), còn kẻ “tiểu nhân”
(người lao động, giai cấp bị trị) thì không bao giờ có. Để đạt được điều Nhân, cần phải có Lễ.
- Lễ vốn là những quy định, nghi thức trong cúng tế. Khổng Tử đã lý luận hóa,
biến Lễ thành những quy định, trật tự phân chia thứ bậc trong xã hội, được thể
hiện trong phong cách sinh hoạt: hành vi, ngôn ngữ, trang phục, nhà cửa...
Lễ là chuẩn mực đạo đức, là khuôn mẫu cho mọi hành của cá nhân và các tầng
lớp trong xã hội. Lúc này lễ mang tính pháp lý, có tác dụng khống chế các hành
động thái quá. Ai địa vị nào thì chỉ được dùng Lễ ấy, tùy vào tính chất công việc
của nhau. Lễ là bộ phận của Nhân. Lễ là ngọn, Nhân là gốc.
Lễ tạo cho con người biết phân biệt trên dưới, biết thân phận, vai trò, địa vị của
mình trong xã hội, biết phục tùng làm theo điều lễ (hợp Lễ) và xa rời điều ác (trái Lễ).
Theo Khổng Tử, Lễ quy định chuẩn mực cho các đối tượng quan hệ cơ bản: vua
- tôi, cha – con, chống - vợ, anh - em, bạn bè. Các quan hệ này đều có hai chiều,
phụ thuộc vào nhau. “Vua sai khiến bề tôi phải theo Lễ, bề tôi thờ vua theo đạo
trung, cha đối với con phải nhân từ, con thờ cha phải hiếu thảo." Nhưng ông
cũng coi việc bề dưới lật đổ bề trên là hợp lý, khi bề trên không xứng đáng với danh vị của mình nữa.
- Chính danh là danh phận đúng đắn, ngay thẳng. Đây là phạm trù cơ bản trong
học thuyết chính trị của Khổng Tử. Chính danh là xác định và phân biệt quan hệ
danh phận, đẳng cấp giữa là gốc. Nói các giai cấp, thực chất là khẳng định tính
hợp lý của giai cấp quý hợp Lễ qua, khi tộc trong việc thực thi quyền lực của
mình. Nó vừa là điều kiện, vừa là mục đích của chính trị. Chính danh thể hiện ở các nội dung sau:
+) Xác định danh phận, đẳng cấp và vị trí của từng cá nhân, tầng lớp trong xã
hội. Ai ở vị trí nào thì làm tròn bổn phân ở vị trí ấy, không được “việt vị", làm
vượt quá chức năng, bổn phận của mình.
+) “Danh” phải phù hợp với “thực”, nội dung phải phù hợp với hình thức. Trong
chính trị, lời nói phải đi đối với việc làm.
+) Đặt con người vào đúng vị trí và chức năng. Phải xác định “danh” (tên gọi)
trước khi có “thực” (thực tài). Khi có danh thì thực mới có ý nghĩa, danh không
chính thì ngôn không thuận, ngôn không thuận thì việc không thành...
Giữa Chính danh và Lễ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau: muốn “danh” được
“chính” (đúng đắn, phù hợp với thực) thì phải thực hiện Lễ. Chính danh là điều
kiện để thực hiện, trau dồi Lê.
Chính danh là một biện pháp quy định và giúp mọi người nhận rõ cương vị,
quyền hạn và nghĩa vụ của mình trong quan hệ với chức vụ và đẳng cấp tương
ứng. Có xác định được danh phận
Về bản chất, học thuyết chính trị của Khổng Tử là duy tâm và phản động, vì nó
không tính đến các yếu tố vật chất của xã hội mà chỉ khai thác yếu tố tinh thần
(đạo đức). Mục đích của học thuyết này là bảo vệ chế độ đẳng cấp, củng cố địa
vị thống trị của giai cấp quý tộc đã lỗi thời, đưa xã hội trở về thời Tây Chu.
Mạnh Tử: là người nước Trâu, ông là học trò của Khổng Tử và
cũng là người kế thừa, phát triển những tư tưởng học thuyết do thầy để lại.
Còn Mạnh Tử, ông đã kế thừa và phát triển sáng tạo những tư tưởng của Khổng
Tử, xây dựng học thuyết “Nhân chính” (chính trị nhân nghĩa) của mình. Tư
tưởng chính trị của ông gồm có những nội dung cơ bản sau:
- Thuyết tính thiện. Theo Mạnh Tử, bản tính tự nhiên của con người là thiên
(nhân chi sơ tính bản thiện).
- Quan niệm về vua - tôi dân. Mạnh Tử cho rằng, trời ngấm ngầm trao quyền
cho vua- người có đức, hợp lòng dân. Quan hệ vua - tôi là quan hệ hai chiều:
“Vua coi bầy tới như chân tay thì bầy tôi coi vua như ruột thịt, vua coi bầy tôi
như chó ngựa thì bấy tôi coi vua như người dưng, vua coi bầy tôi như cỏ rác thì
bầy tôi coi vua như cừu địch”. Tiến thêm một bước, ông cho rằng; nếu vua
không ra vua thì phải loại bỏ, vua mà tàn ác thì phải gọi là thằng. Mạnh Tử cũng
đề xuất tư tưởng “nhường ngôi” (thiện nhượng). Thiên tử có thể nhường ngôi
cho vua chư hầu, căn cứ vào đức hạnh và khả năng thực hành nhân chính của ông ta.
Mạnh Tử là người đầu tiên đưa ra luận điểm tôn trọng dân. “Dân là quý nhất,
quốc gia đứng thứ hai, vua là không đáng trọng (dân vị quý, xã tắc thứ chi, quân
vi khinh). Nhưng dân ở đây chỉ là thần dần, kẻ phụ thuộc, bị thống trị. Coi trọng
dân chỉ là thủ đoạn chính trị để thống trị tốt hơn mà thôi.
- Quan niệm về quân tử - tiểu nhân: Quân tử là hạng người lao tâm, cai trị người
và được cung phụng. Tiểu nhân là hạng người lao lực, bị cai trị và phải cung phụng người.
-Chủ trương vương đạo: Mạnh Tử kịch liệt phản đối “bá 5 thể trở đạo (chiến
tranh, bạo lực), nguồn gốc của mọi rối ren, loạn lạc. Chính trị “vương đạo" là
nhân chính. Nhưng thực chất của “vương đạo” là người cai trị phải giáo dục dân
tuyệt đối phục tùng bề trên, thực hiện “tam cương, ngũ thường”, trói buộc ý thức
nông dân và luân lý Nho giáo để dễ bề cai trị họ.
Học thuyết “nhân chính” của Mạnh Tử có nhiều nhân tố tiến bộ hơn so với
Khổng Tử. Tuy vẫn đứng trên lập trường của giai cấp thống trị, nhưng ông đã
nhìn thấy được sức mạnh của nhân dân, chủ trưởng thi hành nhân chính, vương
đạo. Đó là những yếu tố dân chủ, tiến bộ. Điểm hạn chế của ông là còn tin vào
mệnh trời và tính thần bí trong lý giải vấn đề quyền lực.
Câu 3. Trình bày quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về chính trị?
1. Điều kiện kinh tế-xã hội châu Âu để ra đời học thuyết chính trị Mác-Lênin thời đó là:
Chủ nghĩa tư bản phát triển.
Giai cấp công nhân hiện đại ra đời.
Khủng hoảng hàng hóa thừa.
Việc mở rộng thị trường tư bản chủ nghĩa đã hình thành.
Giai cấp công nhân nổi lên đấu tranh nhưng thất bại.
→ Sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác - Lênin đánh dấu một bước chuyển biến
cách mạng trong lịch sử tư tưởng chính trị nhân loại. Khác với các học thuyết
chính trị trước đó, tư tưởng chính trị Mác - Lênin được xây dựng trên nền tảng
thế giới quan duy vật biện chứng về lịch sử xã hội, trên những tiền đề khoa học,
lý luận phát triển rực rỡ và trong điều kiện cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp
vô sản và giai cấp tư sản đã phát triển đến độ chín muồi. Sau đây là một số quan
điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác -Lênin về chính trị.
1. Bản chất của chính trị, đấu tranh chính trị và cách mạng chính trị.
Chủ nghĩa Mác- Lênin khẳng định, chính trị luôn mang bản chất giai cấp. Bản
chất giai cấp của chính trị được quy định bởi lợi ích, trước hết là lợi ích kinh tế của giai cấp.
Chính trị có tính dân tộc. Vấn đề dân tộc, đấu tranh giải phóng dân tộc, chống kỳ
thị dân tộc là nội dung quan trọng của hoạt động chính trị.
Chính trị có tính nhân loại. Vấn đề giai cấp, vấn đề dân tộc gắn liền với vấn đề
nhân loại. Chính trị hiện đại luôn coi trọng vấn đề nhân loại, giải quyết vấn đề
nhân loại trên cơ sở quan điểm giai cấp.
Các nhà kinh điển mácxít chỉ ra rằng, đấu tranh chính trị là đỉnh cao của đấu
tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp là hiện tượng tất yếu của lịch sử. Cuộc đấu
tranh này trải qua ba giai đoạn, phản ánh ba trình độ phát triển khác nhau của
đấu tranh Điều tôi là tự phát đến từ giác, từ sự thoả mãn những nhu cầu sinh
hoạt tức thời đến nhận thức và hiện thực hoá sứ mệnh lịch sử của giai cấp.
Trình độ thấp nhất của đấu tranh giai cấp là đấu tranh kinh tế. Thông qua đấu
tranh kinh tế, đã giác ngộ công nhân về lợi ích giai cấp. Tuy là hình thức thấp
nhất, nhưng đấu tranh kinh tế lại rất quan trọng, nó tạo môi trường thực tiễn,
giúp giai cấp công nhân giác ngộ vai trò sứ mệnh lịch sử của mình. Đấu tranh
kinh tế mà không phát triển lên thì phong trào sẽ có nguy cơ dừng lại. Ở chủ
nghĩa kinh tế thuần tuý, sa vào “chủ nghĩa công đoàn".
Giai đoạn thứ hai của đấu tranh giai cấp là đấu tranh tư tưởng lý luận. Theo VI
Lênin, để giác ngộ giai cấp làm cho công nhân hiểu rõ sứ mệnh lịch sử của mình
thì phải tiến hành cuộc đấu tranh tư tưởng, giải phóng công nhân khỏi hệ tư
tưởng tư sản và các tư tưởng không vô sản, đưa lý luận mác xít vào phong trào
công nhân, làm cho giai cấp vô sản từ giai cấp “tự nổ” (tự phát) thành giai cấp "cho nó" (tự giác).
Giai đoạn thứ ba (cao nhất) của đấu tranh giai cấp là đấu tranh chính trị. Nhiệm
vụ cơ bản của đấu tranh chính trị là thủ tiêu bộ máy nhà nước cũ, thiết lập nên
chuyên chính mới và sử dụng chuyên chính đó để xây dựng xã hội mới. Muốn
đạt tới đấu tranh chính trị thì giai cấp vô sản phải có In trên lý luận, có đội tiên
phong của giai cấp mình - Đảng Cộng sản. Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng,
cách mạng chính trị thực chất là cuộc cách mạng thay đổi thể chế chính trị. Cách
mạng vô sản thay thể chế tư sản bằng thể chế vô sản (chuyên chính vô sản). 7g
nhân Vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền.
Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra ba hình thức đấu tranh giai cấp cơ bản và
khẳng định rằng, các hình thức này có quan hệ mật thiết với nhau, ảnh hưởng và
bổ sung cho nhau. Đấu tranh tư tưởng lý luận và đấu tranh kinh tế phục vụ đấu
tranh chính trị. Đấu tranh chính trị là hình thức đấu tranh cao nhất quyết định
thắng lợi cuối cùng và căn bản của giai cấp vô sản đối với giai cấp tư sản.
2. Lý luận về tình thế và thời cơ cách mạng.
VI. Lênin nhấn mạnh các quan hệ chủ quan và khách quan trong tình thế cách
mạng. Theo V.I.Lenin thì cần chú ý đến lực lượng sản xuất (yếu tố khách quan)
và sự khủng hoảng xã hội (yếu tố chủ quan) vì đó là những nhân tố phản ánh
trạng thái xã hội, làm xuất hiện tình thế cách mạng. Căn cứ vào đó, VI Lênin
đưa ra 3 dấu hiệu của tình thế cách mạng:
Một là, giai cấp thống trị không thể thống trị như cũ, chính trị rơi vào khủng
hoảng dường như không còn kiểm soát được xã hội. Trong tình hình đó, giai cấp
thống trị buộc phải áp dụng biện pháp đàn áp - đàn áp cách mạng, đẩy xã hội tới đối đầu. Hai là, quần
chúng bị áp bức rơi vào tình trạng bần cùng, sự chịu đựng đã đến
giới hạn cuối cùng, không thể chịu đựng hơn được nữa, buộc phải đi đến một
hành động có tính lịch sử.
Ba là, tầng lớp trung gian đã sẵn sàng ngả về phía quần chúng cách mạng, đứng
về phía tiên tiến cách mạng.
→ XH xuất hiện cả 3 dấu hiệu trên thì CM ở trong khả năng rất gần.
Nhưng cách mạng muốn nổ ra thì phải có thời cơ cách mạng. Thời cơ cách
mạng là sự phát triển logic của tình thế cách mạng, khi cả ba dấu hiệu của tình
thế cách mạng phát triển đến đỉnh điểm, xã hội khủng hoảng trầm trọng. Theo
VILênin, tình thế cách mạng là khách quan, còn thời cơ cách mạng (ngoài yếu tố
khách quan) là yếu tố chủ quan, đòi hỏi sự có.... nhạy bén, quyết đoán của chủ thể cách mạng.
Thời cơ cách mạng gắn liền với các sự kiện, những tình huống trực tiếp có khả
năng đẩy cách mạng đến bước ngoặt quyết định; nó gắn với thời điểm cụ thể,
tức là gắn với không gian, thời gian chính trị. VILênin cũng chỉ rõ rằng thời cơ
xuất hiện rất nhanh và trời đi cũng rất mau. Sau đó, cách mạng có nổ ra hay
không và có thành công hay không sẽ phụ thuộc phần cực kỳ quan trọng ở vai
trò của chủ thể, ở sự chuẩn bị đầy đủ và toàn diện công cho cách mạng.
Dẫn chứng tham khảo: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga do Đảng
Bônsêvich và V.I Lenin lãnh đạo cũng như sự thành công của Cách mạng Tháng
Tám ở Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh
đạo là những bài học thắng lợi điển hình của nghệ thuật xử lý tình thế và thời cơ cách mạng.
3. Phương thức giành chính quyền và nghệ thuật thỏa hiệp
Các nhà kinh điển mác xít chỉ ra hai phương thức (hai khả năng) giành quyền
lực chính trị: phương thức giành chính quyền bằng bạo lực và phương thức
giành chính quyển bằng hoà bình.
Các ông chỉ rõ phương thức giành chính quyền bằng bạo lực là phương thức
phổ biến trong lịch sử. Bạo lực ở đây bao gồm cả sức mạnh vật chất và sức
mạnh tinh thần, là gắn liền sức mạnh tinh thần với sức mạnh vật chất, kết hợp
giữa kinh tế với chính trị giữa chính trị với quân sự, giữa chính trị với văn hoá...
Việc giành chính quyền bằng con đường hoà bình là rất quý và rất hiểm. Và nếu
khả năng giành quyền lực bằng con đường hoà bình xuất hiện, dù là mầm mống
thì cũng hết sức tận dụng. Còn khi khả năng ấy không còn nữa thì giai cấp vô
sản không được mơ hồ, ảo tưởng, mà phải dứt khoát và nhanh chóng chuyển đổi phương thức đấu tranh.
Đây là vấn đề khoa học, đồng thời là vấn đề nghệ thuật để xử lý tình huống ở
đây, trong việc lựa chọn phương pháp nảy sinh vấn đề "thỏa hiệp". Lênin chỉ ra
hai loại thỏa hiệp: thỏa hiệp có nguyên tắc và thỏa hiệp vô nguyên tắc.
- Thỏa hiệp có nguyên tắc là loại thỏa hiệp không bao giờ xa rời mục tiêu,
nhưng biện pháp, cách thức tiến hành có thể thay đổi, thậm chí trong những
hoàn cảnh cụ thể có thể phải hy sinh một số lợi ích trước mắt để bảo vệ mục tiêu lâu dài.
Dẫn chứng tham khảo: V.I Lênin đã thể hiện khá rõ nguyên tắc này qua “một
bước tiến, hai bước lùn, rồi Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vận dụng nó theo
phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến" bằng việc ký Hiệp định sơ bộ ngày 6-
3-1946 với Pháp để bảo toàn lực lượng, sau đó ngày 19-12-1946 đã kêu gọi toàn
quốc kháng chiến khi toàn dân toàn quân ta đã sẵn sàng đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc.
- Thoả hiệp võ nguyên tắc về thực chất là sự đầu hàng, bán rẻ phong trào vì một
lợi ích hẹp hòi trước mắt, sớm muộn sẽ rơi vào hàng ngũ kẻ thù của cách mạng.
Dẫn chứng: Goocbachop, Tổng thống Liên Xô (cũ) vì lợi ích cá nhân đã bán rẻ
phong trào cách mạng, đi hết từ nhân nhượng này đến nhân nhượng khác và
cuối cùng làm sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô.
4. Xây dựng thể chế sau thắng lợi của cách chính trị mang
Đây là một đề vấn đề rất lớn, cũng là trọng tâm tư tưởng chính trị của C.Mác,
Ph.Ăngghen và VI Lênin. Nó bao gồm một số nội dung sau:
- Xác lập cơ sở kinh tế - xã hội của thể chế mới. Đó là việc xác lập quan hệ sản
xuất mới - thay sở hữu tư nhân từ bản chỉ nghĩa bằng sở hữu xã hội, tạo cơ sở
xoá bỏ mọi áp bức bóc lột đồng thời phát triển lực lượng toàn xã hội.
- Đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng hối lộ. thực hành dân chủ. Chủ
nghĩa Mác- Lênin luôn coi quan liêu, tham nhũng là kẻ thù nguy hiểm nhất của
chủ nghĩa xã hội và không bao giờ nương nhẹ cuộc đấu tranh chống quan liêu,
hối lộ, thực hành dân chủ rộng rãi cả trong chính trị và kinh tế, cả trong lĩnh vực
tư tưởng văn hóa, đồng thời dân chủ gắn liền pháp luật. Đặc biệt các ông để cập
rất kỹ nguyên tắc “tập trung dân chủ”, xem tập trung dân chủ là cái bảo đảm cho
tổ chức và hoạt động của thể chế mới đi tới thắng lợi cuối cùng và triệt để là chủ nghĩa cộng sản.
-Về xây dựng đảng cộng sản cầm quyền, chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định
rằng, cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản phải phát triển thành tự giác, và
một trong những yêu cầu quan trọng nhất là giai cấp công nhân phải tổ chức ra
chính đảng của mình. Việc xây dựng đảng đạt tầm cao trí tuệ, vững mạnh cả về
chính trị, tư tưởng, tổ chức là bảo đảm tiên quyết cho thắng lợi của sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Và để tránh khỏi việc đảng bị
thoái hoá, biến dạng về mọi mặt, chủ nghĩa Mác - Lênin thường xuyên quan tâm
đến việc xây dựng đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; vững
mạnh về đội ngũ cán bộ chủ chốt của đảng và coi đây là điều kiện tiên quyết bảo
đảm cho việc giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước phục vụ nhân dân, phục
vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
5. Chuyên chính vô sản là hình thức tổ chức quyền lực chính trị quá độ đi tới xã
hội không còn giai cấp và nhà nước
Một trong những tư tưởng chính trị cơ bản của toàn bộ học thuyết Mác- Lênin là
đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản tá yếu dẫn tới chuyên chính vô sản và bản
thân nền chuyên chính này cũng chỉ là hình thức chính trị quá độ để đi tới xã hội
không còn giai cấp và nhà nước.
Sự thống trị của giai cấp vô sản (tức chuyên chính vô sản) theo C. Mác và Ph. Ăngghen là nhằm:
- Dùng sự thống trị của mình mà từng bước đoạt lấy toàn bộ tư bản vào tay mình.
- Quốc hữu hóa (tập trung tất cả các công cụ sản xuất vào tay nhà nước, tức
trong tay giai cấp vô sản đã được tổ chức thành giai cấp thống trị).
-Phát triển kinh tế (tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản xuất lên).
- Xóa bỏ nạn người bóc lột người, xóa bỏ nạn áp bức dân tộc.
- Xây dựng quan hệ xã hội mới tốt đẹp, tự do và phát triển.
Để thực hiện được những nhiệm vụ trên đây, giai cấp vô sản phải nhất thiết trải
qua một thời kỳ quá độ chính trị, thời kỳ chuyên chính vô sản. Chuyên chính vô
sản không phải là để duy trì sự áp bức bóc lột, sự thống trị của giai cấp mà là để
thủ tiêu hoàn toàn sự áp bức bóc lột, sự thống trị của giai cấp nói chung. trong đó có giai cấp vô sản.
VI.Lênin cũng khẳng định: "Chỉ khi nào không thể có tình trạng đó nữa (tức là
tình trạng người bóc lột người - TG), thì chúng ta thời vứt bỏ được bộ máy ấy
vào đống sắt vụn (tức nhà nước - TG). Khi ấy, sẽ không có nhà nước, không có bóc lột…
Vì lẽ đó, chuyên chính vô sản không chỉ là bạo lực, mà nhiệm vụ chủ yếu của nó
- quyết định thắng lợi toàn diện của chủ nghĩa cộng sản, là tổ chức xây dựng. Do
đó, nhà nước chuyên chính vô sản đã không còn là nhà nước "theo nguyên
nghĩa” mà là “nửa nhà nước”, "nhà nước quá độ" trên con đường đi tới sự tự tiêu vong".
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sự thống trị của giai cấp công nhân
như vậy hoàn toàn cho thấy rõ mục đích của giai cấp công nhân giành quyền lực
chính trị về tay mình không phải là để tiếp tục duy trì sự thống trị, thay thế sự áp
bức này bằng một áp bức khác, mà sự thống trị ấy chỉ là một phương tiện, một
điều kiện cần thiết để đi tới huỷ bỏ mọi sự thống trị, đi tới giải phóng con người.
Câu 4. Trình bày tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về chính trị?
1. Điều kiện kinh tế-xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX:
Pháp tăng cường khai thác thuộc địa và bóc lột xã hội nặng nề.
Đời sống nhân dân cực khổ.
Phong trào yêu nước ở Việt Nam đã phát triển và thoái trào.
Hàng loạt các cuộc khởi nghĩa bị dìm trong bể máu.
Là một bộ phận cấu thành của tư tưởng Hồ Chí Minh (câu này là sao), tư tưởng
chính trị Hồ Chí Minh có vị trí đặc biệt quan trọng, bởi lẽ:
Bản thân Hồ Chí Minh là một "nhà chính trị chuyên nghiệp" Lĩnh vực chính trị
Việt Nam gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc được Hồ Chí Minh để tâm nhiều hơn cả.
Chính trị là một lĩnh vực mà Hồ Chí có nhiều sáng tạo độc đáo. Nhất là sự sáng
tạo ấy có ảnh hưởng tích cực tới cách mạng thế giới, được quốc tế thừa nhận.
2. Nguồn gốc ra đời tư tưởng HCM:
Từ phương diện Chính trị học, có thể hiểu tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh là sản
phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước; là lý luận về cách mạng Việt Nam từ cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng
con người, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ
và giàu mạnh, góp phần tích cực vào cách mạng thế giới.
Có thể khái quát một số nội dung chủ yếu của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh như sau:
1. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
( Nguồn gốc )Trong toàn bộ tiến trình đấu tranh cách mạng của dân tộc ta, tư
tưởng bao trùm là tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Tư tưởng đó
được Người quán triệt và thể hiện trong toàn bộ quá trình lãnh đạo cách mạng là
“độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội". Đây là hạt nhân cốt lõi nhất
trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh, đồng thời là tư tưởng trọng tâm xuyên
suốt toàn bộ hệ thống. Độc lập dân tộc, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh bao gồm những nội dung:
- Dân tộc đã phải thoát khỏi nô lệ (dưới mọi hình thức ) bằng con đường cách
mạng do chính dân tộc đó tiến hành.
- Dân tộc đó phải có chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, phủ có quyền tự quyết định
sự phát triển của dân tộc mình.
- Độc lập dân tộc phải là một nền độc lập thật sự chứ không phải giả hiệu, phải
thực hiện các giá trị như tự do, dân chủ, công bằng, bình đẳng đối với nhân dân
chứ không phải chỉ là những lời tuyên bố hoa mỹ.
- Độc lập về chính trị phải gắn liền với sự phồn thịnh về mọi mặt: kinh tế, văn
hoá, xã hội. Phải tự giành lấy bằng con đường cách mạng, tự lực tự cường và tự
trọng. Người cho rằng, một dân tộc không có khi năng ý thức độc lập, tự lực, tự
cường thì dân tộc đó không xứng đáng được hưởng độc lập.
( Mối quan hệ giữa ĐLDT và CNXH ) Hồ Chí Minh rút ra kết luận: Trong thời
đại ngày nay, độc lập dân tộc phải thực sự gắn liền với chủ nghĩa xã hội trở
thành xu hướng mang tính phổ biến của cách mạng thế giới, mang tính quy luật
của thời đại, trong đó độc lập là tiền đề, là điều kiện để đi đến chủ nghĩa xã hội,
còn chủ nghĩa xã hội là bảo đảm chắc chắn nhất, thực chất nhất cho độc lập dân
tộc. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trở thành xu hướng mang tính
phổ biến của cách mạng thế giới, mang tính quy luật của thời đại.
Rút ra ý nghĩa: Người khẳng định: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới
giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của
chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”. Đó là con đường đúng đắn nhất
để giải phóng dân tộc ta và các dân tộc bị phụ thuộc. Tư tưởng cách mạng đó
của Người đã đặt nền tảng vững chắc cho đường lối xuyên suốt toàn bộ quá
trình cách mạng Việt Nam.
2. Tư tưởng về đại đoàn kết
Nguồn gốc hình thành tư tưởng: Đại đoàn kết là một tư tưởng lớn trong tư tưởng
chính trị của Hồ Chí Minh, trở thành chiến lược đại đoàn kết của Đảng ta và là
một nhân tố cực kỳ quan trọng thường xuyên góp phần quyết định thắng lợi
trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta qua mọi thời kỳ. Hồ Chí
Minh quan niệm sức mạnh là ở đoàn kết toàn dân, ở mẹ sự đồng lòng của toàn
xã hội. Đoàn kết trên lập trường của giai cấp công nhân, được thực hiện trên mọi
phương diện: đoàn kết giai cấp, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Vai trò của tư tưởng: Đoàn kết, theo Hồ Chí Minh, phải dựa trên cơ sở có lý, tổ
tình, có nghĩa; đoàn kết là để phát triển, để làm tốt hơn nhiệm vụ cách mạng,
cách mạng muốn thắng lợi thì phải đoàn kết; đoàn kết lấy liên minh công - nông
- trí thức làm nền tảng, lấy lợi ích tối cao của dân tộc làm điểm quy tụ để bảo
đảm hài hòa giữa các lợi ích.
Ý nghĩa: Chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí Minh vừa là sự đúc kết và phát
huy truyền thống đại đoàn kết của dân tộc ta qua hàng nghìn năm dựng nước,
giữ nước và phát triển đất nước, vừa thể hiện tinh thần bất hủ chủ nghĩa Mác -
Lênin là “Vô sản các nước và các dân tộc bị áp bức toàn thế giới đoàn kết lại”.
Trong sự nghiệp đổi mới hôm nay, Đảng và nhân dân ta hơn bao giờ hết, đã và
đang giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân, thực hiện chính sách đối ngoại
độc lập tự chủ, phấn đấu vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.
3. Tư tưởng về xây dựng thể chế chính trị:
Bản chất của nhà nước:
Hồ Chí Minh rất chú trọng tới xây dựng Nhà nước kiểu mới- nhà nước dân chủ
cộng hoà. Điều mà Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm là tính chất nhà nước. Nhà
nước đó có phải là nhà nước của dân hay không? Chế độ dân chủ có phù hợp với
chế độ nhà nước không?
Tư tưởng của nhà nước của dân, do dân và vì dân: Hồ Chí Minh khẳng định:
Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu quyền lợi đều vì dân; Bao nhiêu quyền hạn
đều của dân Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân; Sự nghiệp
kháng chiến kiến quốc là công việc của dân; Chính quyền từ xã đến Chính phủ
Trung ương do dân cử ra; Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên:
Nói tóm lại, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân"
Về dân chủ: Dân chủ có nghĩa là “dân làm chủ”. Hồ Chí Minh quan niệm, giá trị
thực chất của dân chủ là phải có cơm ăn, áo mặc học hành... Người chỉ rõ vai trò
động lực của dân chủ, xem dân chủ là chìa khóa của tiến bộ xã hội. Người chủ
trương thực hiện dân chủ rộng rãi trong nhân dân, giáo dục nhân dân ý thức
chấp hành pháp luật, quyền gắn liền với nghĩa vụ của công dân, dân chủ gắn với
pháp luật, gắn với tập trung. Hồ Chí Minh phê phán bệnh độc đoán chuyên
quyền, quan liêu, vô chính phủ.
Người chỉ rõ “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà tất cả quyền bính
trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam..." và "Do tổng tuyển cử mà toàn
dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội sẽ cử ra chính phủ. Chính phủ đó là thật là chính
phủ của toàn dân." “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và Hội đồng
nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”.
Nhà nước pháp quyền: Về bản chất giai cấp của nhà nước ta, Hồ Chí Minh chỉ
rõ rằng, Đảng ta là Đảng cầm quyền, nhà nước ta do Đảng cộng sản Việt Nam
lãnh đạo, mang tính chất dân chủ nhưng dựa trên khối đại đoàn kết toàn dân mà
nòng cốt là liên minh công nhân - nông dân - trí thức, do giai cấp công nhân
lãnh đạo; tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ: quản lý xã hội
bằng hiến pháp và pháp luật; thực hiện sự thống nhất quyền lực nhưng phân công, phân cấp rõ ràng.
Về cán bộ nhà nước: Cùng với những quan điểm trên. Hồ Chí Minh còn nêu lên
quan điểm phục vụ của cán bộ nhân viên nhà nước là: "Việc gì quan lợi cho dân,
thì phải làm cho kỳ được. Việc gì có hại cho dân, thì phải hết sức tránh. Chú ý
thật sự đến quyền lợi của nhân dân thì trước hết phải quan tâm đến quyền lợi
thiết thân hàng ngày của dân", chống đặc quyền đặc lợi và các tiêu cực khác, giữ
bộ máy nhà nước thật trong sạch.
Người căn dặn cán bộ phải tôn trọng lợi ích chính đáng của nhân dân, công bằng
và bình đẳng, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân, thực hành "cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư", nếu phạm khuyết điểm thì cả quyết công khai sửa lỗi của mình.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân đã trở thành
nguyên tắc xuyên suốt, thuộc về bản chất của nhà nước ta từ năm 1945 đến nay
và mãi mãi về sau này, chủng nào xã hội còn giai cấp và nhà nước.
4. Lý luận về đảng cầm quyền.
Phát triển sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về đảng chính trị nói chung,
đảng của giai cấp công nhân nói riêng. Hồ Chí Minh luôn coi xây dựng Đảng
của giai cấp công nhân Việt Nam là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, là nhân tố
quyết định trước hết đối với mọi thắng lợi của cách mạng.
BẢN CHẤT: Theo cách thể hiện của Hồ Chí Minh, thì: “đảng cách mệnh” có
nghĩa là “đảng của giai cấp vô sản”, “đội tiên phong của vô sản giai cấp”, xây
dựng trên cơ sở những nguyên tắc về đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác-Lênin,
lấy chủ nghĩa Mác- Lenin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho tổ chức và
mọi hoạt động của Đảng.
SỰ RA ĐỜI: Quan điểm của Hồ Chí Minh về sự hình thành một Đảng cộng sản
ở Việt Nam vừa quán triệt đầy đủ học thuyết Mác Lênin về Đảng cộng sản, vừa
phù hợp với hoàn cảnh một nước thuộc địa lạc hậu chậm phát triển, nơi có
truyền thống đấu tranh yêu nước lâu đời của nhân dân, nơi số lượng giai cấp
công nhân còn ít ỏi nhưng đã có mối quan hệ chặt chẽ với phong trào yêu nước
ngay từ dấu. Đảng cộng sản Việt Nam là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác -
Lênin với phong trào công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam.
HỆ TƯ TƯỞNG: Ở Việt Nam, quan điểm trên của Hồ Chí Minh có ý nghĩa
cực kỳ quan trọng đối với chính sách đại đoàn kết dân tộc trong lịch sử, đối với
việc xây dựng củng cố và tăng cường khối liên minh giai cấp công nhân, giai
cấp nông dân và tầng lớp trí thức đối với việc tăng cường lãnh đạo của giai cấp
công nhân mà đội tiên phong đó là Đảng cộng sản Việt Nam; đối với việc giải
quyết các vấn đề về mối quan hệ giữa Đảng - giai cấp - dân tộc cả trong cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân và trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
5. Về phương pháp cách mạng
Là lãnh tụ chính trị của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh chẳng
những đã xác định đường lối đúng đắn cho cách mạng nước ta mà còn xác định
và vận dụng những phương pháp cách mạng đầy sáng tạo.
Cũng như các nhà kinh điển, bản thân Hồ Chí Minh chưa đưa ra một định nghĩa
về phương pháp cách mạng, song Người và bác thấy về phương pháp cách mạng
trong mọi thời kỳ, mọi giai đoạn cách mạng, trong toàn bộ tiến trình cách mạng
Việt Nam, phương pháp cách mạng của Hồ Chí Minh vừa là cách mạng vừa là
nghệ thuật mang tính thực tiễn sâu sắc. Nó rất đa dạng và phong phú. Có những
phương pháp thuộc từng lĩnh vực, từng thời kỳ, từng giai đoạn của cách mạng,
có những phương pháp chung được vận dụng cho toàn bộ tiến trình cách mạng
Việt Nam. Có thể hiểu phương pháp cách mạng Việt Nam theo hai nghĩa như sau: ( KHÁI NIỆM ).
- Theo nghĩa rộng: đó là sự vận động của tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn.
- Theo nghĩa hẹp, đó là cách thức tiến hành cách mạng với tính cách là hệ thống
các nguyên tắc được thể hiện bằng hình thức, biện pháp, bước đi thích hợp để
thực hiện thắng lợi đường. lối cách mạng, biến đường lối cách mạng thành hiện thực.
Phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh là phương pháp cách mạng vô sản được
vận dụng và phát triển một cách sáng tạo vào một nước thuộc địa nửa phong
kiến. Nó thể hiện đầy đủ ba yếu tố tác động biện chứng với nhau trong một thể
thống nhất: Yêu tố về hình thức, biện pháp, bước đi thích hợp với tính cách là
thống các nguyên tắc Hồ Chí Minh nhằm định hướng, điều chỉnh hành động;
yếu tố chủ thể hành động là các lực lượng cách mạng, trong đó giai cấp công
nhân và đội tiền phong của nó là Đảng cộng sản là lực lượng lãnh đạo, quần
chúng nhân dân là lực lượng tiến hành cách mạng; yếu tố về mục tiêu cách mạng
là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Có thể khái quát một hệ thống các phương pháp cách mạng chung, cơ bản của
Hồ Chí Minh như sau: ( CÁC PHƯƠNG PHÁP)
- Xuất phát từ thực tế Việt Nam, lấy cải tạo biến đổi hiện thực Việt Nam làm
mục tiêu cho mọi hoạt động cách mạng.
- Thực hiện đại đoàn kết dân tộc, tập hợp, huy động là lượng toàn dân; kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
- Dĩ bất biến, ứng vạn biến.
-Nắm vững thời cơ, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa thời, thế, lực.
- Biết thắng từng bước, biết phát động và biết kết thúc chiến tranh.
- Kết hợp các phương pháp đấu tranh cách mạng một cách sáng tạo.
TỔNG KẾT: Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh mà nội dung cốt lõi là “độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” cũng như toàn bộ hệ thống tư tưởng của
Người là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện Việt Nam,
một nước thuộc địa nửa phong kiến tiến lên chủ nghĩa- xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành tài sản tinh thần quý báu của
toàn Đảng, toàn dân ta. Nó đã và đang biến thành lực lượng vật chất hùng hậu
và là kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam.
Ngày nay, chúng ta có thể khẳng định rằng việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh
là học tập tinh thần cách mạng, khoa học và nhân văn cao cả của Hồ Chí Minh,
là nắm vững lập trường, quan điểm và phương pháp của Hồ Chí Minh để xử trí mọi việc.
Câu 5. Quyền lực chính trị là gì? Nêu quá trình hình thành quyền lực chính
trị và chuyển hóa quyền lực chính trị thành quyền lực nhà nước.
KHÁI NIỆM QUYỀN LỰC:
Từ thời lịch sử: Ngay từ thời Cổ đại, trong tác phẩm Chính trị Aten, Arixtốt -
nhà bách khoa của thời cổ đại Hy Lạp - đã coi quyền lực không phải chỉ là cái
vốn có của mọi sự vật biết cảm giác, mà còn của cả thế giới tự nhiên vô cảm,
theo đó cái gì có sức mạnh là có quyền lực. Các nhà thần học thời Trung đại lại
coi “quyền lực Thượng để” là quyền lực đứng trên tất cả, ngay cả loài người
cũng chỉ là cái phát sinh từ quyền lực Thượng đế. Thời Phục hưng, các nhà
“Bách khoa thư” đã đặt vấn đề lật đổ quyền lực của vua phong kiến, xác lập
quyền lực của giai tầng thứ ba- giai cấp tư sản. Tuy nhiên, họ cũng chỉ nhấn
mạnh tới quyền lực nhà nước và coi nhà nước là “vương quốc của lý tính”.
Quan niệm hiện nay: Quyền lực là cái (cơ sở) mà ai (chủ thể) nắm được thì
buộc người khác (đối tượng) phải phục tùng. (Quan hệ giữa người với người).
Đặc trưng cơ bản của quyền lực: quyền lực là phạm trù dùng để chỉ loại quan
hệ xã hội đặc biệt của con người có những đặc trưng cơ bản sau:
- Quyền lực gắn với sức mạnh nên người nào, hoặc một số l người nào (chủ thể
quyền lực) năm được nó thì buộc người khác hoặc một số người khác phải phục tùng.
- Nhờ nó mà đạt được mục đích trong hoạt động phối hợp và trên cơ sở thừa nhận của người khác.
Các phương thức để đạt được quyền lực:
- Dùng sức mạnh bạo lực để bắt buộc phải phục tùng.
- Dùng lợi ích để dụ dỗ. - Thuyết phục.
- Thẩm quyền chính thức. - Chuyên môn.
Cấu trúc của quyền lực:
Quyền lực trong xã hội có cấu trúc phức tạp, được tạo thành từ nhiều nguồn gốc,
nhiều loại khác nhau: quyền lực kinh tế, quyền lực chính trị, quyền lực văn hoá,
quyền lực xã hội. Ngoài ra có thể phân thành quyền lực tôn giáo, quyền lực đạo
đức... Quyền lực có thể được hợp pháp hoá hay không hợp pháp hóa, song điều
giống nhau của mọi quyền lực là sức mạnh cưỡng chế của nó, dựa trên những
phương tiện, biện pháp trừng phạt đối với ai không tuân theo.
Định nghĩa quyền lực chính trị: Quyền lực chính trị là quyền được sử dụng sức
mạnh chính trị cho mục đích chính trị và phải được nhà nước thừa nhận (hoặc
được thừa nhận về mặt nhà nước) được tổ chức thành những hình thức khác nhau.
Cấu trúc của quyền lực chính trị:
Chủ thể và đối tượng. Mục tiêu và nội dung.
Công cụ và phương tiện thực hiện.
Chức năng của quyền lực chính trị:
Một là, lập ra hệ thống chính trị của xã hội.
Hai là, tổ chức đời sống chính trị, thiết lập các quan hệ chính trị.
Ba là, quản lý công việc của nhà nước và xã hội.
Bốn là, lãnh đạo các cơ quan quyền lực, các hoạt động chính trị và phi chính trị.
Năm là, kiểm soát các quan hệ chính trị và các quan hệ xã hội.
Quá trình hình thành quyền lực chính trị:
- Sự phát triển của LLSX dẫn đến mâu thuẫn với QHSX hiện có và đòi hỏi phải thay thế QHSX cũ
công cụ lao động của con người, lực lượng sản xuất của xã hội luôn nằm trong
quá trình biến đổi và phát triển không ngừng. Sự biến đổi và phát triển của công
cụ lao động, của lực lượng sản xuất dẫn tới sự xuất hiện các nhóm xã hội mới về
mặt giai cấp, làm xuất hiện đối kháng mới về mặt lợi ích, về mặt giai cấp - xã
hội. Kết quả là các lực lượng chính trị mới tương ứng ra đời như là chủ thể đại
diện của các lợi ích giai cấp mới đó.
- Mâu thuẫn về XH nảy sinh, giai cấp mới đại diện cho LLSX mới tiến bộ ra
đời, thành lập tổ chức của mình và đòi hỏi sự thừa nhận nhận về mặt pháp lý.
Và điều này đưa tới một sự cọ xát, sự đụng độ giữa các lực lương chính trị mới
với lực lượng chính trị cũ (nhất là với quyền lực chính trị của giai cấp cầm
quyền). Dần dần hay nhanh chóng, sớm hay muộn thì lực lượng chính trị mới sẽ
vươn lên để tự khẳng định mình về mặt nhà nước. Khi mà lực lượng chính trị
mới buộc nhà nước hiện tồn phải thừa nhận nó về mặt pháp lý là nó đã giành
được quyền tồn tại về mặt pháp lý, và như thế, quyền lực chính trị của giai cấp
mới (hay của nhóm xã hội mới về mặt giai cấp) đã được thừa nhận về mặt nhà
nước, trong khuôn khổ của nhà nước hiện tồn. Lúc đó người ta nói rằng, lực
lượng chính trị mới đã đạt được quyền chính trị, và quyền lực chính trị của
nhóm xã hội mới về mặt giai cấp (hay của giai cấp mới) đã được hình thành.
Sự chuyển hoá quyền lực chính trị thành quyền lực nhà nước.
- Quyền lực nhà nước là quyền lực của giai cấp thống trị, là bộ phận cơ bản nhất
của quyền lực chính trị. Quyền lực nhà nước được chia thành quyển lập pháp,
quyền hành pháp, quyền tư pháp.
- Trong xã hội có giai cấp và đối kháng giai cấp về cơ bản có hai loại QLCT:
QLCT của giai cấp thống trị (đã trở thành QLNN)
QLCT của các giai cấp, tầng lớp còn lại trong xã hội:
QL của nhóm giai cấp, tầng lớp tuy khác nhưng không đối kháng với giai cấp thống trị
QL của nhóm giai cấp, tầng lớp đối kháng với giai cấp thống trị:
. Nhóm đại diện cho phương thức sản xuất lỗi thời của xã hội trước- tàn dư
. Nhóm đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ của xã hội sau này- mầm mống
Khi lực lượng chính trị đại diện cho một giai cấp mới xuất hiện đấu tranh với
nhà nước hiện tồn thì thường sẽ xuất hiện một trong hai kết cục sau đây trong sự vận động của nó.
+) Hoặc là nó sẽ bị xoá bỏ hoàn toàn và triệt để bởi quyền lực nhà nước hiện tồn
(đây là trường hợp quyền lực chính trị của nhóm xã hội hay các giai cấp xã hội
của quá khứ thuộc phương thức sản xuất đã bị vượt bỏ, đã bị cách mạng thanh
toán, nhưng còn rơi rớt trong nhà nước mới).
+) Hoặc là nó sẽ ngày càng mạnh lên, bất chấp sự trấn áp của nhà nước hiện tổn,
cho tới lúc nó đủ sức lại đổ quyền lực chính trị của giai cấp đang cầm quyền,
xóa bỏ quyền lực nhà nước và đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp ấy, thiết lập
bộ máy nhà nước mới dùng vào việc tổ chức lại xã hội theo cách mới phù hợp
với lợi ích giai cấp của nó. Khi đó, người ta nói quyền lực chính trị đã chuyển
hoá thành quyền lực nhà nước.
Câu 6. Trình bày khái niệm và các yếu tố cấu thành hệ thống tổ chức quyền lực chính trị. ❖ Khái niệm:
- Các quan niệm khác nhau về hệ thống tổ chức quyền lực chính trị :
• Là đồng nhất với thể chế chính trị.
• Bao gồm thể chế chính trị, cơ chế vận hành, nguyên tắc hoạt động, quan hệ giữa chúng cùng
với môi trường xã hội mà hệ thống đó tồn tại và vận động
- Quan niệm của Việt Nam hệ thống tổ chức quyền lực chính trị gồm:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam
2. Nhà nước CHXHCN Việt Nam
3. Các tổ chức đoàn thể (Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các Tổ chức chính trị-xã
hội). Hệ thống tổ chức quyền lực chính trị là một chỉnh thể bao gồm : Nhà nước,
đảng phái , các tổ chức chính trị xã hội hợp Pháp và mối quan hệ tác động qua
lại giữa chúng nhằm bảo vệ duy trì củng cố và phát triển chế độ xã hội .
❖ Các yếu tố cấu thành hệ thống tổ chức quyền lực chính trị : 1. Đảng chính trị : 1. Khái niệm :
Là sản phẩm tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp .
Là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng của xã hội.
Theo quan điểm CN Mác -Lênin là bộ phận tích cực nhất ,có tổ chức của
1 giai cấp nào đó hay của 1 tầng lớp nào đó của 1 giai cấp. 2. Bản chất :
Mang bản chất giai cấp.
Ra đời: khi có giai cấp, đấu tranh giai cấp.
Mục đích: nắm quyền lực nhà nước để bảo vệ lợi ích giai cấp mà nó đại điện.
Mất đi: Khi giai cấp mất đi. 3. Vai trò :
Tích cực : Tổ chức bầu cử và hướng bầu cử vào quỹ đạo đã được quy
định của Pháp luật hiện hành;sau khi thắng cử,Đảng cầm quyền định
hướng phát triển kinh tế- xã hội thông qua cương lĩnh chính trị ,bố trí
tuyển lựa thành viên của Đảng vào các cương vị chủ chốt của chính
quyền, chuẩn bị các chính sách, chiến lược hoạt động nhà nước.
Tiêu cực : Chia rẽ nhân dân ,tách nhân dân ra khỏi chính trị, để đạt mục
đích đảng chính trị đã hành động kể cả bằng những thủ đoạn, kích thích
sự thèm khát quyền lực chính trị và tạo thêm những điều kiện cho tham
nhũng, tước bỏ quyền dân chủ của nhân dân... 2. Thể chế nhà nước : 1. Khái niệm:
Giác độ bản chất:Thể chế nhà nước để cập tới tính chất cai trị, điều hành
của một nhà nước thông
qua những biện pháp nhất định, trong đó biện pháp cưỡng chế là biện pháp đặc quyền của nhà nước.
Giác độ cơ cấu: Thể chế nhà nước được xem xét từ khía cạnh tổ chức bộ
máy, định rõ các vị trí,
thẩm quyền chức năng của từng cơ quan trong bộ máy nhà nước (lập pháp, hành pháp và tư pháp)
2. Nguyên tắc tổ chức nhà nước :
Nguyên tắc phân quyền được chia thành 3 quyền:Lập -Hành-Tư Pháp.
Các quyền này độc lập và
chế ước lẫn nhau (phân lập).
Nguyên tắc tập quyền(không có xung đột): gắn liền với tư tưởng của
J.Rútxô khi cho rằng quyền lực nhà nước gắn bó với một chủ thể không
thể phân chia - chủ quyền nhân dân. Quyền lực nhân dân được thể hiện
và thực hiện tập trung thống nhất vào một cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân đó là quốc hội.
VD: Việt Nam theo cách tập quyền vì do nhân dân bầu ra chịu trách nhiệm nhân dân.
3. Hệ thống các cơ quan nhà nước:
Nhằm thực hiện các chức năng thống trị chính trị và chức năng công
quyền. Bất kỳ một nhà nước nào cũng phải thành lập một hệ thống cơ
quan nhà nước, tuỳ thuộc tính chất và nội dung nhiệm vụ mà các cơ
quan nhà nước có hình thức và hoạt động khác nhau.
4. Những nguyên tắc hoạt động của nhà nước:
Đó là những tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt mọi hoạt động của nhà nước
trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, trong hoạt động đối
nội và đối ngoại đều phải quán triệt. Căn cứ vào bản chất giai cấp, vào
sự tương quan lực lượng giai cấp trong xã hội; đồng thời căn cứ vào
truyền thống dân tộc mà mỗi nhà nước có những nguyên tắc hoạt động
khác nhau. Song nhìn chung, hoạt động của các nhà nước bao giờ cũng
phải tuân theo các nguyên tắc chung sau:
Bảo đảm địa vị thống trị của giai cấp cầm quyền (và của nhân dân trong
điều kiện chủ nghĩa xã hội).
Bảo đảm duy trì và phát triển chế độ.
Trấn áp sự phản kháng của giai cấp và các lực lượng thù địch.
3. Các tổ chức chính tri-xã hội:
Tổ chức chính trị- xã hội là tổ chức của những cộng đồng người trong cơ cấu xã hội dựa trên
nguyên tắc tự nguyện, tự chủ và thống nhất hoạt động. lấy hoạt động chính trị -
xã hội làm phương thức chủ yếu để tập hợp, tổ chức hành động của các thành
viên nhằm gây ảnh hưởng (tích cực hay tiêu cực) với mức độ khác. nhau đối với
quyền lực chính trị và lợi ích của các thành viên trong tổ chức mình.
Hình thức tổ chức, phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị - xã
hội bị quy định bởi tính chất và trạng thái của thể chế chính trị. Nhìn
chung các tổ chức chính trị - xã hội ngoài nhà nước. được tổ chức và vận
hành theo 3 nguyên tắc cơ bản: tự nguyện, tự chủ về tài chính (trừ một
số trường hợp đặc biệt); tự quản.
Sự ra đời của các tổ chức chính trị - xã hội nhằm thực hiện 3 chức năng cơ bản sau:
Một là: Bảo vệ những lợi ích của các thành viên trong tổ chức mình trong quan hệ với nhà nước.
Hai là: Tập hợp các thành viên tham gia vào đời sống chính trị của đất nước.
Ba là: Giáo dục nâng cao trình độ mọi mặt của các thành viên để thực
hiện có hiệu quả mục tiêu mà tổ chức đó đặt ra.
Câu 7. Hãy nêu khái niệm thủ lĩnh chính trị và các phẩm chất của thủ lĩnh chính trị. ❖ Khái niệm :
Quan điểm nhà tư tưởng Hy Lạp cổ đại Xênophon: Thủ lĩnh chính trị là
người đứng đầu của hệ thống chính trị.
Quan điểm nhà tư tưởng La Mã cổ đại Xixeron: Thủ lĩnh chính trị phải là nhà thông thái.
Ở Trung Quốc thời kỳ cổ đại, quan niệm về thủ lĩnh chính trị thực chất là quan niệm về người
làm vua. Vua đứng đầu đất nước, có quyền lực tối cao. Quan niệm Mác-Lê nin:
TLCT xuất hiện trong những hoàn cảnh lịch sử nhất định
Sự xuất hiện TLCT là tất yếu
TLCT ra đời do đòi hỏi của lịch sử, của quần chúng nhân dân
TLCT đóng vai trò quan trọng cho việc thực hiện sứ mệnh lịch sử
TLCT sản phẩm của thời đại lịch sử nhất định
Mỗi thời kỳ lịch sử có hình mẫu TLCT đặc trưng
Định nghĩa: TLCT là người đứng đầu một tổ chức chính trị.Đó là cá nhân xuất sắc trong lĩnh vực
chính trị, xuất hiện trong những điều kiện lịch sử nhất định, có sự giác ngộ lợi
ích, mục tiêu, lý tưởng giai cấp, có khả năng nắm bắt và vận dụng quy luật, có
năng lực tổ chức và tập hợp quần chúng để giải quyết những nhiệm vụ chính trị do lịch sử đặt ra.
❖ Phẩm chất của thủ lĩnh chính trị 1. Trình độ hiểu biết:
Là người thông minh, hiểu biết sâu rộng các lĩnh vực.
Có trí tuệ, tư duy khoa học.
Nắm được quy luật vận động chính trị.
Có khả năng dự đoán được tình hình ,làm chủ được khoa học và công
nghệ lãnh đạo ,quản lý. 2. Phẩm chất chính trị:
Là người giác ngộ được lợi ích giai cấp, đại diện cho lợi ích giai cấp;
Trung thành với mục tiêu, lý tưởng đã chọn;
Đấu tranh bảo vệ lợi ích giai cấp;
Có bản lĩnh chính trị vững vàng trước những biến cố của lịch sử 3. Năng lực tổ chức:
Là người có năng lực tổ chức, đề ra được mục tiêu đúng;
Tổ chức tốt nhiệm vụ chính trị, phân công công việc phù hợp với khả năng của từng người;
Biết động viên, khích lệ mọi người;
Có khả năng kiểm tra công việc 4. Đạo đức, tác phong:
Là người trung thực, công bằng, không tham lam;
Cởi mở, cương quyết;
Có lối sống giản dị;
Có khả năng giao tiếp và ảnh hưởng đến mọi người;
Lắng nghe ý kiến người khác;
Tự tin; có chính kiến
Có thể tự kiểm soát được bản thân trong mọi trường hợp, bảo vệ uy tín; say mê công việc. 5. Khả năng làm việc:
Có sức khỏe tốt; làm việc với cường độ cao;
Giải quyết vấn đề nhanh chóng, chính xác; phải năng động, nhạy cảm;
Phát hiện cái mới và bảo vệ cái mới
Câu 8.Hãy trình bày quan niệm của Chủ nghĩa Mác-Lenin về mối quan hệ chính trị với kinh tế
❖ Khái niệm quan hệ chính trị với kinh tế - Chính trị:
Chính trị thực chất là việc định hướng, tạo động lực cho phát triển kinh tế thông
qua các chính sách, chủ trương, đường lối - Kinh tế:
Là tổng hợp các quan hệ sản xuất tương ứng với trình độ lực lượng sản xuất hợp
thành cơ cấu kinh tế của một xã hội; kinh tế là nguồn gốc của mọi biến đổi xã hội
- Quan hệ chính trị với kinh tế:
là sự lãnh đạo của nhà nước bằng chủ trương, chính sách nhằm phát triển kinh
tế, củng cố địa vị thống trị
❖ Bản chất mối quan hệ chính trị với kinh tế
Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế
1. Chính trị là một hình thức biểu hiện của kinh tế một cách tập trung nhất, cô đọng nhất.
2. Chính trị không ngoài mục đích nào khác là hướng vào sự phát triển kinh tế. Kinh tế là gốc
của chính trị là thước đo tính hợp lý của chính trị
3. Tính đúng đắn của đường lối chính sách kinh tế của đảng cầm quyền giữ vai trò quan trọ
Chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế
(1) Thắng lợi của cách mạng chính trị là tiền đề điều kiện đầu tiên và quyết định cho những
biến đổi về chất và phát triển kinh tế diễn ra tiếp theo.
(2) Với tính độc lập tương đối, chính trị có sự tác động trở lại với kinh tế theo những hướng khác nhau có thể:
(3)Chính trị đóng vai trò định hướng và tạo môi trường chính trị-xã hội ổn định cho phát triển kinh tế.
Sự định hướng chính trị cho phát triển kinh tế thể hiện ở tất cả các khâu của quá trình kinh tế:
(4) Chính trị còn tham gia kiểm soát chặt chẽ những vấn đề cơ bản, then chốt
của kinh tế: ngân sách, vốn, hoạt động tài chính tiền tệ, chính sách kinh tế đối ngoại.
Câu 9. Văn hóa chính trị là gì ? Trình bày đặc điểm và chức năng của văn hóa chính trị
❖ Khái niệm văn hóa :
Văn hoá là khái niệm chỉ trình độ phát triển nhất định của xã hội (nhóm
người, bộ phận người...) được thể hiện qua khả năng sáng tạo những giá
trị vật chất và tinh thần của con người (nghệ thuật, văn chương, lối sống,
quyền cơ bản của con người, hệ thống các giá trị, tập tục, tín ngưỡng, di
sản, danh thắng, di vật, cổ vật, bảo vật...) nảy sinh trong hoạt động thực tiễn.
❖ Khái niệm văn hóa chính trị :
Văn hóa chính trị là bộ phận của văn hóa nói chung. Văn hóa chính trị là
một lĩnh vực, một biểu hiện đặc biệt của văn hóa của loài người trong xã
hội có giai cấp , là trình độ phát triển của con người thể hiện ở trình độ
hiểu biết về chính trị , trình độ tổ chức hệ thống tổ chức quyền lực theo
một chuẩn giá trị xã hội nhất định nhằm điều hòa các quan hệ lợi ích
giữa các giai cấp và bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền , phù hợp với
xu thế phát triển và tiến bộ xã hội.
❖ Cấu trúc của văn hóa chính trị :
a)Văn hóa chính trị với tư cách là chủ thể chính trị :
Được tạo thành bởi kết quả của sự thống nhất và tác động qua lại của văn hóa chính trị cá
nhân và văn hóa chính trị tổ chức (cộng đồng)
♦ Văn hóa chính trị cá nhân :
Sự phát triển đầy đủ và toàn điện văn hóa chính trị cá nhân phản ánh trình
độ chín muồi của chế độ dân chủ . Thể hiện trên 3 mặt :
1. Trình độ hiểu biết về chính trị.
2. Khả năng , năng lực của cá nhân tham gia vào việc xây dựng và hoàn
thiện hệ thống tổ chức quyền lực chính trị.
3. Mức độ hoàn thiện nhân cách.
Chịu sự chi phối bởi các tư tưởng xã hội, động cơ chính trị và lợi ích giải cấp ;phụ thuộc vào
trình độ dân chủ xã hội và truyền thống của dân tộc, đồng thời cũng phụ thuộc
vào toàn bộ kinh nghiệm sống, kết quả đào tạo, tự đào tạo, sự phát triển trong
hoạt động thực tiễn, sự tự ý thức, tự phát triển.
Bộc lộ qua văn hóa ứng xử, giao tiếp, tranh luận và cả ở năng lực, khả năng hoạt động sáng
tạo, đặc biệt trong việc tham gia vào quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống tổ chức quyền lực chính trị.
Để hình thành văn hóa chính trị cá nhân, đòi hỏi mỗi cá nhân phải thường xuyên trau dồi tư
duy khoa học trên cơ sở hoàn chỉnh về kiến thức, phải tích lũy kinh nghiệm,
nhất kinh nghiệm sống trực tiếp trong hoạt động chính trị, phải học tập văn hóa ứng xử khoan dung…