Bài tập giữa kỳ chính trị học | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Chính trị là gì? Trình bày đối tượng, chức năng, nhiệm vụ nghiên cứu của Chính trị học? Phân tích luận điểm “Chính trị vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật”. Phân tích nội dung tư tưởng chính trị của Pháp gia? Ảnh hưởng của tư tưởng đó đến đời sống chính trị Việt Nam hiện nay? Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Chính Trị Học
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
VIỆN BÁO CHÍ - TRUYỀN THÔNG
--------------------------------------------------------------- BÀI TẬP GIỮA KÌ
MÔN: CHÍNH TRỊ HỌC
Giảng viên hướng dẫn : Tô Thị Oanh
Sinh viên thực hiện : VŨ HOÀNG MAI Lớp
: Báo mạng điện từ K42 Mã số sinh viên : 2256070025 Hà Nội, 2024 MỤC LỤC
Câu 1: Chính trị là gì? Trình bày đối tượng, chức năng, nhiệm vụ nghiên cứu
của Chính trị học? Phân tích luận điểm “Chính trị vừa là khoa học, vừa là nghệ
thuật”………………………………………………………………………………3
Câu 2: Phân tích nội dung tư tưởng chính trị của Pháp gia? Ảnh hưởng của tư
tưởng đó đến đời sống chính trị Việt Nam hiện nay?...........................................7
Phân tích nội dung tư tưởng chính trị của Pháp gia? Ảnh hưởng của tư tưởng
đó đến đời sống chính trị Việt Nam hiện
nay?......................................................15
Câu 4: Khái niệm quyền lực chính trị? Trình bày quá trình hình thành quyền
lực chính trị và sự chuyển hóa quyền lực chính trị thành quyền lực nhà nước?
Tại sao nói: Ở Việt Nam, quyền lực chính trị thuộc về nhân
dân?....................23
Câu 5. Phân tích nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện
nay? Biện pháp kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay?.............27
Câu 6: Đảng chính trị là gì, nêu vai trò và bản chất của đảng chính trị, liên hệ
với vai trò và bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam…………………………31
Câu 7. Thủ lĩnh chính trị là gì? Hãy lựa chọn một Thủ lĩnh chính trị mà mình
tâm đắc nhất, từ đó phân tích phẩm chất tiêu biểu và vai trò của Thủ lĩnh
chính trị đối với sự phát triển của quốc gia
đó?.............................................................38
Câu 8: Phân tích nội dung mối quan hệ chính trị với kinh tế? Thực chất quá trình đổi mới ở Việt
Nam?.....................................................................................41
Câu 9: Văn hóa chính trị là gì? Phân tích các chức năng của Văn hóa chính
trị? Văn hóa từ chức có phải là văn hóa chính trị không? Ở Việt Nam đã có
văn hóa từ chức chưa? Tại sao?………………………………………………...48 2
Câu 10: Chính trị quốc tế là gì? So sánh chính trị quốc gia và chính trị quốc
tế. Trình bày cấu trúc của chính trị quốc tế đương
đại…………………………..53
Câu 1: Chính trị là gì? Trình bày đối tượng, chức năng, nhiệm vụ nghiên
cứu của Chính trị học? Phân tích luận điểm “Chính trị vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật” Trả lời:
1. Chính trị học là gì? Trình bày đối tượng, chức năng, nhiệm vụ nghiên
cứu của Chính Trị học.
Khái niệm chính trị học
- Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, các dân
tộc và các quốc gia với vấn đề giành, giữu, tổ chức và sử dụng quyền lực
nhà nước. Là sự tham gia của nhân dân vào công việc nhà nước và xã hội.
Là hoạt động thực tiễn của các giai cấp, đảng phái, nhà nước nhằm thỏa mãn lợi ích.
- Chính trị học là khoa học nghiên cứu về lĩnh vực chính trị nhằm làm sáng
tỏ những quy luật, tính quy luật của đời sống chính trị - xã hội, cùng những
thủ thuật chính trị để hiện thực hóa những quy luật, tính quy luật trong xã
hội có giai cấp và được tổ chức thành nhà nước.
Đối tượng, chức năng và nhiệm vụ nghiên cứu của Chính trị học o
Mọi khoa học, như Ph.Ăng - ghen khẳng định, đều có đối tượng
nghiên cứu riêng là nhưng quy luật, tinh quy luật thuộc khách thế
nghiên cứu của nó. Điều đó cùng hoàn toàn dùng với Chinh trị học,
khoa học lấy lĩnh vực chính trị làm khách thể nghiên cứu. 3 o
Cùng khách thể, có thể có nhiều khoa học nghiên cứu. Linh vực
chính trị là khách thế nghiên cứu của: chủ nghĩa xã hội khoa học,
nhà nước và pháp luật, luật học, xã hội học, xây dựng Đảng... Sự
phân biệt Chính trị học với các khoa học chính trị khác trước hết là
ở đối tượng nghiên cứu. o
Chính trị học nghiên cứu khái quát đời sống chính trị của xã hội
nhằm đạt được những trí thức mang tính bản chất, từ đó làm cơ sở
cho việc nhận thức đúng đắn những quy luật, tính quy luật chi phối
Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, các
dân tộc và các quốc gia với vấn đề giành, giữu, tổ chức và sử dụng
quyền lực nhà nước. Là sự tham gia của nhân dân vào công việc nhà
nước và xã hội. Là hoạt động thực tiễn của các giai cấp, đảng phái,
nhà nước nhằm thỏa mãn lợi ích. o
Chính trị học là khoa học nghiên cứu về lĩnh vực chính trị nhằm làm
sáng tỏ những quy luật, tính quy luật của đời sống chính trị - xã hội,
cùng những thủ thuật chính trị để hiện thực hóa những quy luật, tính
quy luật trong xã hội có giai cấp và được tổ chức thành nhà nước. o
Mọi khoa học, như Ph.Ăng - ghen khẳng định, đều có đối tượng
nghiên cứu riêng là nhưng quy luật, tinh quy luật thuộc khách thế
nghiên cứu của nó. Điều đó cùng hoàn toàn dùng với Chinh trị học,
khoa học lấy lĩnh vực chính trị làm khách thể nghiên cứu. o
Cùng khách thể, có thể có nhiều khoa học nghiên cứu. Linh vực
chính trị là khách thế nghiên cứu của: chủ nghĩa xã hội khoa học,
nhà nước và pháp luật, luật học, xã hội học, xây dựng Đảng... Sự
phân biệt Chính trị học với các khoa học chính trị khác trước hết là
ở đối tượng nghiên cứu. 4 o
Chính trị học nghiên cứu khái quát đời sống chính trị của xã hội
nhằm đạt được những trí thức mang tính bản chất, từ đó làm cơ sở
cho việc nhận thức đúng đắn những quy luật, tính quy luật chi phối
các phương pháp, phương tiện, những thủ thuật, những hình thức tổ
chức có hiệu quá đạt mục tiêu đề ra. Việc lựa chọn, tố chức, sắp xếp
những cán bộ thích hợp nhằm hiện thực hóa có hiệu quả mục tiêu. o
Đồng thời, với việc nghiên cứu các hoạt động của các chủ thể, chính
trị học còn nghiên cứu các quan hệ giữa các chủ thể chính trị. o
Quan hệ giữa các giai cấp, thực chất là quan hệ giữa các lợi ích
chính trị mà các giai cấp theo đuổi để hình thành lý luận về liên
minh giai cấp, đấu tranh và hợp tác các giai cấp vì yêu cầu chính trị. o
Quan hệ giữa các chủ thể trong hệ thống tổ chức quyền lực: đảng
chính trị, nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội để hình thành lý
luận về đảng chính trị, nhà nước pháp quyền, và về hệ thống chính
trị và cơ chế thực thi quyền lực chính trị. Quan hệ giữa các dân tộc
để hình thành lý luận chính trị về vấn đề dân tộc trong sự vận dụng
vào điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, dân tộc. Quan hệ giữa các
quốc gia để hình thành học thuyết về chính trị quốc tế trong thời đại quốc tế hoa hiện nay.
2. Phân tích luận điểm “Chính trị vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật”
Luận điểm "Chính trị vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật" là một quan điểm phổ
biến trong lĩnh vực chính trị và khoa học xã hội. Phân tích điều này có thể được
thực hiện từ nhiều góc độ khác nhau: Khoa học chính trị: 5
- Chính trị có thể được xem như một lĩnh vực nghiên cứu khoa học, trong
đó nhà nghiên cứu tìm hiểu và phân tích cơ cấu, quy trình và hệ thống của chính trị.
- Khoa học chính trị đào tạo nhà chính trị và quan chức về kiến thức và kỹ
năng cần thiết để tham gia vào quản lý và quyết định trong hệ thống chính trị.
Nghệ thuật chính trị:
- Chính trị cũng đòi hỏi một phần nghệ thuật trong việc tạo ra tầm nhìn, xây
dựng mối quan hệ, và tương tác với cộng đồng và công chúng.
- Nghệ thuật chính trị bao gồm kỹ năng giao tiếp, thuyết phục, và lãnh đạo,
các yếu tố không thể được đo lường và tính toán một cách chính xác như trong khoa học.
Kết hợp giữa khoa học và nghệ thuật:
- Trong thực tế, chính trị thường không phải là một bộ môn hoàn toàn khoa
học hoặc nghệ thuật, mà là sự kết hợp của cả hai.
- Khoa học cung cấp cơ sở kiến thức và phương pháp nghiên cứu, trong khi
nghệ thuật cung cấp kỹ năng linh hoạt và sáng tạo để áp dụng những kiến thức đó vào thực tế.
Tính linh hoạt và đa dạng:
- Chính trị thường thay đổi theo thời gian và vùng đất cụ thể, vì vậy nó đòi
hỏi sự linh hoạt và đa dạng trong cách tiếp cận và ứng phó.
- Điều này cũng hỗ trợ cho quan điểm về sự kết hợp giữa khoa học và nghệ
thuật, vì sự linh hoạt và đa dạng đều yêu cầu kiến thức và sự sáng tạo. 6
Tóm lại, quan điểm "Chính trị vừa là khoa học, vừa là nghệ
thuật" nhấn mạnh vào sự đa chiều và phức tạp của lĩnh vực
chính trị, nơi mà cả kiến thức và kỹ năng nghệ thuật đều đóng
vai trò quan trọng trong việc hiểu và tham gia vào quá trình chính trị.
Một số nhà chính trị gia nổi tiếng đã thành công trong việc kết hợp cả kiến thức
khoa học và kỹ năng nghệ thuật để đạt được thành công trong sự nghiệp của mình.
Ví dụ điển hình là Nelson Mandela, người lãnh đạo của phong trào chống phân biệt
chủng tộc ở Nam Phi. Ông không chỉ là một nhà lãnh đạo chính trị xuất sắc, mà
còn là một nghệ sĩ của lời nói và hành động. Bằng cách sử dụng kỹ năng giao tiếp
và thuyết phục, Mandela đã có thể tạo ra sự đoàn kết và tiếp tục chiến đấu cho mục
tiêu của mình trong thời kỳ khó khăn. Ông đã kết hợp sự hiểu biết sâu rộng về
chính trị và xã hội với sự tinh tế và nhạy bén của một nghệ sĩ, từ đó tạo ra một
phong cách lãnh đạo độc đáo và hiệu quả.
Câu 2: Phân tích nội dung tư tưởng chính trị của Pháp gia? Ảnh hưởng
của tư tưởng đó đến đời sống chính trị Việt Nam hiện nay? Trả lời:
Hoàn cảnh ra đời:
Vào thời chiến quốc, quá trình phát triển kinh tế xã hội ngày càng mạnh mẽ. Phân
hóa giai cấp ngày càng sâu sắc dẫn đến giai cấp địa chủ mới và thương nhân ra đời.
Do áp dụng phương thức sản xuất tiến bộ và chính sách kinh tế phù hợp nên tầng
lớp này đã nắm giữ và chi phối toàn bộ đời sống kinh tế xã hội đất nước. 7
Trong khi quyền lực chính trị vẫn do tầng lớp quý tộc cũ nắm giữ, trở thành vật
cản của phát triển xã hội. Yêu cầu kết thúc tình trạng phân tranh cát cứ, mở đường
cho lực lượng sản xuất phát triển.
Tư tưởng Pháp gia không những đóng vai trò thúc đẩy nhất định về chính trị, kinh
tế lúc đó mà nó còn ảnh hưởng sâu sắc cho đến ngày nay, trở thành một trang
không thể phai mờ trong lịch sử tư tưởng của Trung Quốc. Nó đã đưa nước Tần trở
thành bá chủ, thống nhất Trung Quốc vào năm 221 TCN.
Phái Pháp gia gồm nhiều nhà tư tưởng, nhiều trường phái khác nhau như o
+ Phái trọng pháp: Quản Trọng, Thương Ưởng. o
+Phái trọng thuật: Thân Bất Hại. o
+ Phái trọng thế: Thận Đáo.
Hàn Phi tử là người tổng kết và phát triển học thuyết này Hàn Phi Tử và tư tưởng
chính trị của phái Pháp gia:
- Hàn Tử Phi (khoảng 280 -233 TCN)
Là nhà tư tưởng cuối cùng của thời Tiên Tần, con vua nước Hàn. Là học trò của
Tuân Tử – nhà tư tưởng lớn nhất đương thời.
Tác phẩm kinh điển “Hàn Phi Tử” của ông nổi bật cho tư tưởng Pháp gia. Tư
tưởng chính trị của phái Pháp gia: Hàn Phi Tử cho rằng: o
+ Xã hội loài người luôn luôn biến đổi, phát triển theo hướng đi lên. Bản
tính con người ta là ham lợi. Điều này ảnh hưởng và chi phối các mối quan hệ trong xã hội. o
+ Chính trị đương thời không nên bàn chuyện nhân nghĩa cao xa mà cần có
biện pháp cụ thể cứng rắn, kiên quyết.
Từ nhận thức đó, học thuyết chính trị của ông được xây dựng trên cơ sở thống nhất pháp – thuật – thể. 8
- Nội dung tư tưởng của Pháp gia:
Pháp gia nhiều tính cách triết lý chính trị thực tiễn, với châm ngôn kiểu “khi thời
đại thay đổi, những đường lối cũng thay đổi” làm nguyên tắc chính của mình, hơn
là một triết học về luận. Trong hoàn cảnh đó, “Pháp gia” ở đây có thể mang ý
nghĩa “triết lý chính trị tán thành sự cai trị của pháp luật” và vì thế, khác biệt so với
ý nghĩa của Pháp gia phương Tây. Hàn Phi người tập đại thành tư tưởng Pháp gia,
ông đã tiếp thu điểm ưu trội của ba trường phái “pháp”, “thuật”, “thế” để xây dựng
và phát triển một hệ thống lý luận pháp trị tương đối hoàn chỉnh và tiến bộ so với
đương thời. Coi pháp luật là công cụ hữu hiệu để đem lại hoà bình, ổn định và
công bằng. Hàn Phi đã đề xuất tư tưởng để trị nước. Ông đưa ra một số quy tắc cơ
bản trong xây dựng và thực thi pháp luật, như pháp luật phải nghiêm minh, không
phân biệt sang hèn, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật … Với những tư
tưởng đó, học thuyết của Hàn Phi được người xưa gọi là “học thuyết của đế
vương” theo ba nguyên tắc sau:
1. Quy tắc Pháp của Pháp gia: luật hay quy tắc. Luật pháp phải được trình bày
rõ ràng và thông báo rộng rãi cho công chúng. Tất cả thần dân của nhà cai trị
đều bình đẳng trước pháp luật. Luật pháp phải thưởng cho những người tuân
phục và trừng phạt những người bất tuân. Vì thế, nó đảm bảo được rằng mọi
phán xét của pháp luật là đều có thể suy luận theo hệ thống để biết trước được.
Hơn nữa, hệ thống luật pháp cai quản đất nước, chứ không phải là nhà vua
cai trị. Theo Hàn Phi Tử: “Bậc thánh nhân hiểu rõ cái thực tế của việc phải
và trái, xét rõ thực chất của việc trị và loạn, cho nên trị nước thì nêu rõ pháp
luật đúng đắn, bày ra hình phạt nghiêm khắc để chữa cái loạn của dân chúng,
trừ bỏ cái họa trong thiên hạ. Khiến cho kẻ mạnh không lấn át người yếu, kẻ
đông không xúc phạm số ít, người già cả được thỏa lòng, người trẻ và cô độc 9
được trưởng thành, biên giới không bị xâm lấn, vua và tôi thân yêu nhau,
cha con giữ gìn cho nhau”. Nếu có thể làm cho pháp luật có hiệu lực, thậm
chí một vị vua kém tài cũng trở nên mạnh mẽ.
Then chốt của việc xây dựng đất nước giàu mạnh là phải dựa vào pháp luật.
Có pháp luật, pháp luật được thi hành một cách phổ quát và đúng đắn thì xã
hội mới ổn định, xã hội ổn định lại là tiền đề quan trọng để xây dựng đất
nước giàu mạnh, làm cho dân chúng được yên bình, hạnh phúc. Hàn Phi
hiểu rất rõ và sâu sắc về pháp luật, coi "pháp luật là mệnh lệnh ban bố rõ
ràng ở nơi cửa công, hình phạt chắc chắn đối với lòng dân, thưởng cho
những kẻ cần thận giữ pháp luật, nhưng phạt những kẻ làm trái lệnh". Đây là
một tư tưởng hết sức tiến bộ so với đương thời. Cái gọi là "mệnh lệnh ban
bố rõ ràng khơi cửa công" khác xa so với cách cai trị bởi ý muốn chủ quan
của các cá nhân quý tộc nắm quyền đương thời. Pháp luật rõ ràng được ban
bố cho trăm họ, làm cho dân biết pháp luật để tránh phạm pháp; lấy đó làm
chuẩn tắc cho hành vi của mọi người, chứ không phải là cái bẫy để hại dân.
Các điều luật minh bạch là phương thức phòng bị tích cực, chứ không phải
là một thủ đoạn chế tài tiêu cực. Đồng thời, nó cũng chính là "hiến lệnh" -
một công cụ - để vua cai trị thần dân. Nội dung chủ yếu của "pháp" có thể
quy về 2 khái niệm chủ yếu là "thưởng" và "phạt".
- Thực hành pháp trị tắt phải xây dựng pháp luật. Hàn Phi cho rằng, lập
pháp cần phải xét đến các nguyên tắc sau:
1. Tính tư lợi. Hàn Phi quan niệm nền tảng của quan hệ giữa con người với
con người là tư lợi, ai cũng muốn giành cái lợi cho mình. “Ông thầy thuốc
khéo hút mủ ở vết thương người ta, ngậm máu người ta không phải vì có
tình thương cốt nhục, chẳng qua làm thế thì có lợi. Cho nên, người bán cỗ xe
làm xong cỗ xe thì muốn người ta giàu sang. Người thợ mộc đóng xong 10
quan tài thì muốn người ta chết non. Đó không phải vì người thợ đóng cỗ xe
có lòng nhân, còn người thợ đóng quan tài không phải ghét người ta, nhưng
cái lợi của anh ta là ở chỗ người ta chết”.Luật pháp đặt ra thì cái lợi của nó phải lớn hơn cái hại.
2. Hợp với thời thế. Đây chính là thuyết biến pháp của Hàn Phi. Nguyên tắc
thực tế của việc xây dựng pháp luật, hay tính thực tiễn của luật pháp, là nét
nổi bật trong tư tưởng pháp trị của Hàn Phi. Đối với ông, không có một pháp
luật siêu hình hay một mô hình pháp luật trừu tượng tiên thiên để mà noi
theo. Chỉ duy nhất có yêu cầu và tiêu chuẩn của thực tiễn. “Pháp luật thay
đổi theo thời thì trị; việc cai trị thích hợp theo thời thì có công lao... Thời thế
thay đổi mà cách cai trị không thay đổi thì sinh loạn... Cho nên, bậc thánh
nhân trị dân thì pháp luật theo thời mà thay đổi và sự ngăn cấm theo khả năng mà thay đổi”.
3. Ổn định, thống nhất. Mặc dù pháp luật phải thay đổi cho hợp với thời thế,
song trong một thời kỳ, pháp lệnh đã đặt ra thì không được tùy tiện thay đổi
("số biến pháp"), vì nếu vậy thì dân chúng không những không thể theo, mà
còn tạo cơ hội cho bọn gian thần.
4. Phù hợp với tình người, dễ biết dễ làm.
5. Đơn giản mà đầy đủ.
6. Thưởng hậu phạt nặng.
- Đối với việc chấp pháp, nguyên tắc của Hàn Phi là:
1. Tăng cường giáo dục pháp chế, tức là “dĩ pháp vi giáo”.
2. Mọi người, ai ai cũng bình đẳng trước pháp luật, tức “pháp bất a quý”, “hình
bất tị đại thần, thưởng thiện bất di tứ phu”. Đến bậc quân chủ, nhà vua cũng
phải tôn trọng và tuân thủ pháp luật: “Kẻ làm vua chúa là kẻ phải giữ pháp 11
luật, căn cứ vào kết quả mà xét để lập công lao.”. Nếu xét theo ý nghĩa của
những luận điểm này thì có thể thấy rằng, mặc dù Hàn Phi chủ trương quân
quyền thần thánh không thể xâm phạm, song hình thái quân quyền này vẫn
bị chế ước bởi pháp quyền.
3. Nghiêm khắc cẩn thận, “tín thưởng tất phạt”, không được tùy ý thưởng cho
người không có công, vô cớ sát hại người vô tội.
4. Dùng sức mạnh đạo đức hỗ trợ cho việc thi hành pháp luật.
5. Quy tắc Thuật của Pháp gia: phương pháp, thủ đoạn hay nghệ thuật. Những
thủ đoạn đặc biệt và “bí mật” được vị vua cai trị dùng để đảm bảo rằng
những người khác (quan lại...) không thể chiếm quyền kiểm soát quốc gia.
Điều đặc biệt quan trọng là không một ai có thể biết được những động cơ
thực sự của những hành động của nhà vua, và vì thế không ai biết được cách
đối xử thế nào để có thể tiến thân, ngoại trừ việc tuân theo “pháp” hay các
luật lệ. Hàn Phi chủ trương pháp trị, song cũng rất chú trọng đến "thuật" của
nhà vua, bởi vì “bầy tôi đối với nhà vua không phải có tình thân cốt nhục,
chỉ vì bị tình thế buộc không thể không thờ”. Nhà vua dựa vào pháp trị để
làm cho đất nước giàu mạnh, song nếu “không có cái thuật để biết kẻ gian
thì chỉ lấy cái giàu mạnh của nước mà làm giàu có cho các quan đại thần mà
thôi”. Do vậy, nhà vuaphảicó “thuật” để dùng người. Đối với Hàn Phi,
“thuật” chính là một loạt các phương pháp bổ nhiệm, miễn nhiệm, thi cử,
thưởng phạt của nhà vua. Trong đó, phép hình danh là một thuật không thể
thiếu được của bậc quân chủ. Với cách nhìn như vậy thì "pháp" và "thuật"
gắn bó chặt chẽ với nhau: “Nhà vua không có thuật trị nước thì ở trên bị che
đậy; bầy tôi mà không có pháp luật thì cái loạn sinh ra ở dưới. Hai cái không
thể thiếu cái nào, đó đều là những công cụ của bậc đế vương”. 12
6. Quy tắc Thế của Pháp gia: : tính chính thống, quyền lực hay uy tín. Chính vị
trí của nhà vua cai trị, chứ không phải nhà vua, nắm giữ quyền lực. Vì thế
việc phân tích khuynh hướng, hoàn cảnh và những yếu tố thực tại là điều căn
bản của một vị vua cai trị thực sự.
Ngoài "pháp" và "thuật", Hàn Phi đặc biệt coi trọng "thế". "Thế" còn được
gọi là "quyền thế", "uy thế", "thế trọng", nó chi một sức mạnh quyền uy
tuyệt đối, cũng chính là quyền thống trị tối cao của ông vua, bao gồm quyền
sử dụng người, quyền thưởng phạt, v.v.. Hàn Phi cho rằng, chỉ khi nào nắm
quyền thống trị trong tay, thì một người nào đấy mới là kẻ thống trị, mới có
thể cai trị dân chúng. Trong thiên "Bát kinh", ông viết: “Cái thế là cơ sở để
thắng đám đông” (Thế giả, thắng chúng chi tư dã). Để yên ổn trị nước, bậc
quân chủ tất phải nắm giữ quyền thế. Hàn Phi quan niệm rất rõ ràng những
điểm trọng yếu về thế: 1/Vua không được cho bề tôi mượn quyền thế. 2/
Vua không được dùng chung quyền thế với bề tôi. 3/ Cần sử dụng thuật
thưởng phạt để củng cố quyền thế. 4/ Vua phải duy trì địa vị độc tôn của
mình, không được để bề tôi quá quý hiển, đề phòng đại thần tiếm quyền. Vì
vậy, nếu chỉ xét về bản thân vị vua, thì "thế" là cái cốt lỗi nhất, quan trọng
nhất, còn "pháp" và "thuật" chỉ là công cụ.
Sử dụng "pháp", "thuật", "thế" cốt yếu là để tăng cường sức mạnh của tập
quyền quân chủ, tạo nên bối cảnh chính trị "việc tuy ở bốn phương song then
chốt ở tại trung ương, thánh nhân nắm giữ cái chủ yếu, bốn phương đến
phục dịch" (sự tại tứ phương, yếu tại trung ương, thánh nhân chấp yếu, tứ
phương lai hiệu. "Hàn Phi tử. Dương quyền"); từ đó, góp phần tạo ra một xu
thế lịch sử cho việc xây dựng một nhà nước trung ương tập quyền phong kiến thống nhất. Ý nghĩa: 13
- Đứng lên lập trường của giai cấp địa chủ mới, tư tưởng Pháp gia đã khai
thông các bế tắc xã hội, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển.
- Tư tưởng Pháp gia đã phục vụ đắc lực cho chế độ phong kiến trung ương tập
quyền, góp phần không nhỏ cho việc củng cố chế độ phong kiến đời Tần.
- Tuy còn mang tính sơ khai nhưng nó đã đặt nền móng cho sự phát triển của
các luồng tư tưởng sau này.
- Tính đa dạng của các học thuyết nói lên tính phức tạp của thức tiễn chính
trị , sự khốc liệt trong thời kỳ hình thành và phát triển các chế độ phong
kiến. Cuộc đấu tranh giữa hai phái Pháp gia và Nho gia phản ánh mâu thuẫn
gay gắt giữa giai cấp quý tộc và giai cấp địa chủ mới do có tư tưởng cấp tiến.
- Phái Pháp gia đã tích cực thúc đẩy lịch sử phát triển và có công trong việc thống nhất đất nước.
Liên hệ với Việt Nam:
- Điểm chung nhất của các học thuyết chính trị là muốn cho xã hội ổn định và
phát triển nên những tri thức chính trị có giá trị chung cho mọi thời đại. Việc
kế thừa chọn lọc những tri thức đó là cần thiết cho thực tiễn chính trị hôm
nay. Đối với Việt Nam, tư tưởng Pháp gia của Hàn Phi Tử chiếm một ý
nghĩa quan trọng trong đời sống chính trị.
- Từ thời phong kiến, các vua chúa đã biết đề ra các quy tắc, chuẩn mực xã
hội buộc mọi người phải tuân theo. Những quy tắc dù đôi chỗ có thể thiếu
hợp lý, phần lớn lại đảm bảo cho quyền lực của giai cấp thống trị nhưng điều
quan trọng là “phép tắc xã hội đã duy trì được ổn định xã hội”. Tùy từng
thời đại, tùy từng con người mà những quy chuẩn xã hội đó có thể được thay
đổi nhưng mục đích cuối cùng vẫn là duy trì quyền lực của giai cấp thống trị
và duy trì sự phát triển bền vững của xã hội. 14
- Biểu hiện ở thời hiện đại: Trước hết đó là việc xây dựng hệ thống pháp luật
để quản lý và duy trì sự phát triển bền vững của đất nước. Sau Cách mạng
Tháng Tám năm 1945, nước ta giành được độc lập, với tầm nhìn chiến lược
và sự hiểu biết sâu rộng trong lĩnh vực chính trị, chủ tịch Hồ Chí Minh –
lãnh tụ đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã chỉ đạo sự ra đời
của Hiến Pháp đầu tiên năm 1946, đánh dấu sự tồn tại và phát triển của một
quốc gia độc lập. Hiến pháp năm 1946 dần dần được sửa đổi và hoàn thiện
để ngày càng phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Cho đến hôm nay, nhờ sự có mặt của luật pháp mà nước ta đã duy trì được
chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa, duy trì được sự ổn định chính trị tạo đà cho
kinh tế phát triển. Nhờ đó, Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc
gia có nền chính trị ổn định nhất khu vực và thế giới.
- Nhờ pháp luật vì lẽ phải và phục vụ lợi ích chung mà trong những năm qua
công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta đã đạt được một số
thành tựu đáng kể. Đó là thành tựu trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, an ninh
quốc phòng,… Nhân dân ta đoàn kết một lòng, xây dựng đời sống văn hóa ở
khu dân cư, xây dựng nếp sống tốt đẹp. Trong lĩnh vực chính trị, dân chủ
hóa xã hội được mở rộng. Nhân dân là người bỏ phiếu để bầu ra lực lượng đại diện cho mình.
- Sự công bằng của pháp luật đã đảm bảo cho việc thực hiện nó một cách
nghiêm túc. Đó là điểm được áp dụng ở mọi quốc gia, không riêng gì Việt
Nam. Trong môi trường công bằng của pháp luật, mọi người dân đều có
quyền phát triển tự do và bình đẳng. Yếu tố này không những duy trì sự ổn
định chế độ mà còn kích thích việc tìm ra nhân tài cho đất nước.
Tư tưởng Pháp gia là một trong những tư tưởng chủ yếu và chi phối đời sống
chính trị nước ta. Nhờ kế thừa và phát huy học thuyết chính trị của Hàn Phi 15
Tử mà mỗi quốc gia đã xây dựng cho mình một chế độ độc lập, tự chủ.
Riêng với Việt Nam, đó còn là chế độ của một xã hội nhân văn.
Câu 3: Trình bày nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về chính tri? Chứng
minh những sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc vận dụng học thuyết
chính trị Mác-Lênin và điều kiện Việt Nam. Trả lời:
- Có thể hiểu theo phương diện chính trị học, tư tưởng Hồ Chí Minh về chính
trị là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước. Đây là một bộ phận cấu thành có vị trí quan
trọng đặc biệt trong tư tưởng Hồ Chí Minh bởi lẽ lĩnh vực chính trị Việt
Nam gắn liền với cuộc đấu tranh giải phong dân tộc được Người kế thừa,
sáng tạo độc đáo và bản thân Hồ chủ tịch cũng là một “nhà chính trị chuyên nghiệp”.
- Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị được khái quát qua những nội dung sau:
+ Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội: Tư tưởng bao trùm
của cách mạng dân tộc ta là “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Và
điều đó được thể hiện trong quá trình lãnh đạo của Người với tư tưởng
“độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Đây là hạt nhân cốt
lõi, tư tưởng trọng tâm xuyên suốt toàn bộ hệ thống.
- Độc lập dân tộc, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh bao gồm 5 nội dung:
+ Dân tộc đó phải thoát khỏi nô lệ (dưới mọi hình thức) bằng con đường
cách mạng chính dân tộc đó tiến hành – “đem sức ta mà giải phóng cho ta”. 16
+ Dân tộc đó phải có chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, phải có quyền tự quyết
định sự phát triển của dân tộc mình.
+ Độc lập dân tộc phải là một nền độc lập thực sự chứ không phải giả hiệu,
phải thực hiện được các giá trị như tự do, dân chủ, công bằng, bình đẳng đối
với nhân dân chứ không chỉ là những lời tuyên bố hoa mỹ.
+ Độc lập về chính trị phải gắn liền với sự phồn thịnh mọi mặt: kinh tế, văn hóa, xã hội.
+ Phải tự giành lấy bằng con đường cách mạng, tự lực tự cường và tự trọng.
Người cho rằng, một dân tộc không có khả năng ý thức độc lập, tự lực, tự
cường thì dân tộc đó không xứng đáng được hưởng độc lập.
- Hồ Chí Minh đã đưa ra kết luận quan trọng: Trong thời đại ngày nay, độc
lập dân tộc phải thực sự gắn liền với chủ nghĩa xã hội. o
Độc lập dân tộc là tiền đề, là điều kiện đi đến chủ nghĩa xã hội, còn chủ
nghĩa xã hội là bảo đảm chắc chắn, thực chất nhất cho độc lập dân tộc.
Điều này là bản chất của sự vận động lịch sử được người đúc kết lại. o
Người chỉ rõ: giai cấp phong kiến và giai cấp tư sản cũng giành giữ độc
lập dân tộc, nhưng sau đó lại quay lại thống trị dân tộc, áp bức dân tộc.
Chỉ có giai cấp công nhân sau khi giành độc lập dân tộc thì không chỉ
giải phóng mình mà còn giải phóng toàn xã hội. o
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trở thành xu hướng mang
tính phổ biến của cách mạng thế giới, mang tính quy luật thời đại: “Chỉ
có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai
cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới.” 17
Tư tưởng cách mạng của Người đã đặt nền tảng vững chắc cho đường lỗi
xuyên suốt toàn bộ quá trình cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng về đại đoàn kết: Là tư tưởng lớn, trở thành chiến lược Đại đoàn kết
của Đảng ta và là một nhân tố cực ký quan trọng thường xuyên góp phần
quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng qua mọi thời kỳ.
- Sức mạnh là ở đoàn kết toàn dân, đồng lòng của toàn xã hội. Người nói:
“đồng bào ta từ già đến trẻ đều đoàn kết thành một khối, cho nên Cách mạng
đã thành công”. Hay Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại
đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành công”.
- Đoàn kết trên mọi phương diện: đoàn kết giai cấp, đoàn kết dân tộc, đoàn
kết quốc tế. Người nói: “Toàn dân đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi…”
- Đoàn kết trên lập trường của giai cấp công nhân và nền tảng công – nông –
binh. Từ đó giữ vững định hướng, lấy lợi ích tối cao của dân tộc làm điểm
quy tụ để đảm bảo hài hoà giữa các lợi ích.
- Đoàn kết, theo Hồ Chí Minh, phải trên cơ sở có lý, có tình, có nghĩa. Đoàn
kết trên cơ sở đấu tranh mang tính khoa học, khách quan.
=> Vừa là sự đúc kết và phát huy truyền thống đại đoàn kết của dân tộc, vừa thể
hiện tinh thần bất hủ của chủ nghĩa Mác – Lênin. Và trong sự nghiệp đổi mới ngày
hôm nay, Đảng ta vẫn áp dụng tư tưởng này của Người.
Tư tưởng về xây dựng thể chế chính trị: Nội dung giữ vị trí đặc biệt của tư
tưởng chính trị Hồ Chí Minh. Trong xây dựng thể chế chính trị, tiêu biểu
nhất là xây dựng thể chế nhà nước: nhà nước dân chủ của dân, do dân, vì dân.
- Dân chủ có nghĩa là “dân là chủ”. Theo Người, giá trị thực chất của nhân
dân là phải có cơm ăn, áo mặc, học hành… Người chủ trương lập nhà nước 18
Cộng hòa dân chủ (tức là nhà nước dân chủ nhân dân. Hồ Chí Minh phê
phán bệnh độc đoán chuyên quyền, quan liêu, vô chính phủ.
- Nhà nước của dân: Người chỉ rõ “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng
hòa, tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam…”
+ Nhà nước của dân cũng có nghĩa là dân có quyền kiểm soát nhà nước. Người
viết: “Chính phủ ta là chính phủ của nhân dân, chỉ có một mục đích là ra sức phụng
sự lợi ích của nhân dân”. Người dân được đặt ở vị trí tối thượng và quyền có được
bảo đảm trong thực tế chứ không chỉ ở trên lời nói.
+ Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, dân còn có quyền bãi miễn đại biểu quốc hội
và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với
sự tín nhiệm của nhân dân.
- Nhà nước do dân: Người khẳng định “Do Tổng tuyển cử mà dân bầu ra Quốc hội.
Quốc hội sẽ cử ra Chính phủ…” và “Chính phủ rất mong đồng bảo giúp đỡ, đốc, kiểm soát và phê bình…
- Nhà nước vì dân: Người nêu ra quan điểm phục vụ của cán bộ nhân viên nhà
nước là “việc gì có lợi cho dân, thì phải làm cho kỳ được. Việc gì có hại cho dân,
thì phải hết sức tránh”. Phải quan tâm đến quyền lợi thiết thân hàng ngày của dân,
“làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có
học hành”. Bên cạnh đó cần chống đặc quyền đặc lợi và các tiêu cực khác, cán bộ
viên chức không phải những người làm “quan cách mạng”.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh đã trở thành nguyên tắc xuyên suốt, thuộc về
bản chất nhà nước ta từ 1945 đến nay và tương lai.
Lý luận về đảng cầm quyền: Người luôn coi xây dựng Đảng của giai cấp
công nhân Việt Nam là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, là nhân tố quyết 19
định trước hết đối với mọi thắng lợi của cách mạng. “Đảng có vững cách
mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy.”
- Theo Hồ Chí Minh, “Đảng cách mệnh” có nghĩa là “Đảng của giai cấp vô sản”,
“Đội tiên phong của vô sản giai cấp”, xây dựng trên cơ sở những nguyên tắc về
đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác – Lênin:
+ Lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng và kim chỉ nam cho tổ chức và mọi
hoạt động của Đảng. => Đảng mang bản chất giai cấp công nhân.
+ Đảng phải là của dân tộc Việt Nam, “quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động và của dân tộc là một.”
- Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với
phong trào công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam.
Luận điểm có ý nghĩa cực kì quan trọng đối với đường lối, chủ trương, chính
sách đại đoàn kết dân tộc và giải quyết tất cả các vấn đề về mối quan hệ
Đảng – giai cấp – dân tộc.
Về phương pháp cách mạng: Phương pháp cách mạng vô sản được vận dụng
và phát triển một cách sáng tạo vào một nước thuộc địa nửa phong kiến. Có thể khái quát như sau:
- Xuất phát từ thực tế Việt Nam, lấy cải tạo, biến đổi hiện thực Việt Nam làm mục
tiêu cho mọi hoạt động cách mạng.
- Thực hiện đại đoàn kết dân tộc, tập hợp, huy động lực lượng toàn dân; kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
- Dĩ bất biến ứng vạn biến. 20