Câu 1:
Những hệ thống chữ viết đầu 琀椀 ên không tự xuất hiện. Chúng bắt nguồn từ các tập quán c
xưa của các hệ thống biểu tượng. Những hệ thống này không thể coi là chữ viết, nhưng chúng
có rất nhiều đặc điểm liên hệ với chữ viết sau này, vì vậy có thể gọi là hệ thống 琀椀 ền ký tự
(nguồn gốc của chữ viết). Chúng là các hệ thống biểu tượng khá dễ nhớ và ghi lại ý, cho phép
truyền đạt thông 琀椀 n nhất định. Tuy vậy, chúng không có nội dung ngôn ngữ. Những hệ
thống này xuất hiện ở đầu thời kỳ đồ đá mới, khoảng thiên niên kỷ thứ 7 TCN. Đáng chú ý có hệ
biểu tượng Vinca có những cải 琀椀 ến về biu tượng giản đơn ở đầu thiên niên kỷ 7 TCN, dần
tăng nh phức tạp trong thiên niên kỷ 琀椀 ếp theo và lên đến đỉnh cao là những bản ghi
Tartaria vào thiên niên kỷ 5 TCN. Những biểu tượng được xếp theo hàng lối chặt chẽ, giúp
chúng ta liên tưởng ngay đến văn bản. Các ký tự ợng hình của Cận đông thời cổ đại (Ai Cập,
Cuneiform琀椀 n thân nền văn minh Sumer, Cretan) dường như không bắt nguồn từ những
hệ thống biểu tượng trên. Vì vậy, khó có thể kết luận rằng hệ thống chữ viết đã kế thừa biểu
ợng 琀椀 ền chữ viết thời điểm nào.
Năm 2003, các biểu tượng khắc trên mu rùa được phát hiện ở Jiahu, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc.
Phương pháp xác định tuổi bằng đồng vị carbon cho thấy những mu rùa này có từ thiên niên kỷ
2 trước công nguyên. Các mu rùa được m thấy khi khai quật những di chỉ ở 24 hang động
thời đồ đá mới ở Jiahu, tỉnh Nam, Trung Quốc. Theo một số nhà khảo cổ, những chữ viết
trên mai rùa có những điểm tương đồng với ký tự viết trên những thẻ xương động vật ở thiên
niên kỷ 2 TCN. Tuy nhiên, nhiều nhà khảo cổ khác không đồng ý với quan điểm đó. Họ cho rằng
những phác họa hình học giản đơn như thế không hề liên hệ đến chữ viết cổ xưa.
nền văn minh sông Ấn, chuỗi biểu tượng m thấy có thể tạo thành hệ biểu tượng 琀椀 n
ký tự, có thể là chu ảnh hưởng từ sự xuất hiện chữ viết Lưỡng Hà.
Câu 2:
Học thuyết về Nhà nước của Chủ nghĩa Marx – Lenin hay còn gọi là Lý luận về Nhà nước và
Pháp luật của Chủ nghĩa Marx – Lenin là hệ thống những kiến thức của chủ nghĩa Marx – Lenin
về những quy luật phát sinh, phát triển đặc thù, những đặc nh chung và biểu hiện quan
trọng nhất của nhà nước nói chung và nhà nước Xã hội chủ nghĩa nói riêng.
[1]
Tập trung vào
phân ch nguồn gốc và bản chất của nhà nước, Lý luận của những người Marxist đi sâu
nghiên cứu về nhà nước một cách tổng thể những vấn đề chung nhất về bản chất, chức năng,
vai trò của nhà nước, hình thức nhà nước, bộ máy nhà nước và làm sáng tỏ mối quan hệ gia
các bộ phận trong thượng tầng kiến trúc chính trịpháp lý với các tổ chức xã hội, giữa nhà
ớc với cá nhân.
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Marx – Lenin thì nhà nước thực chất là một tổ chức đặc biệt của
quyn lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ ỡng chế và thực hiện chức năng qun
đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị
trong xã hội. Những nội dung cơ bản ban đầu về học thuyết này được phản ánh thông qua tác
phm Nguồn gốc của gia đình, chế độ sở hữu và của nhà nước của F. Engels. Qua tác phẩm này,
Engels đã phân ch các vấn đề về gia đình, nguồn gốc của giai cấp và của nhà nước và những
quy luật 琀椀 ếp tục phát triển và biến đổi sau này của chúng.
F. Engels đã chỉ ra rằng nhà nước chỉ ra đời ở một giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội trên cơ
sở xuất hiện chế độ tư hữu và gắn liền với nó là sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối
kháng, ông cũng luận chứng về nh chất giai cấp nh lịch sử của nhà nước, làm sáng tỏ
chức năng giai cấp cơ bản của nhà nước.
[2]
Sau đó lý luận này được những người Marxist 琀椀
ếp tục phát triển và hoàn thiện trong điều kiện mới. Lý luận về nhà nước và pháp luật là một
môn học bắt buộc trong chương trình học Đại học đối với các ngành khoa học xã hội như Luật
học, chính trị, hành chính, khoa học xã hội và nhân văn ở các Trường Đại học tại Việt Nam.
Câu 3:
Luật tự nhiên hay luật của tự nhiên (琀椀 ếng La 琀椀 nh lex naturalis) là hệ thống luật được
xác định bởi tự nhiên, do đó có nh phổ quát. Đây là quy luật tồn tại độc lập với luật lệ đưc
đặt ra bởi một trật tự chính trị, xã hội hay một quốc gia. Đây là một thuật ngữ vừa được sử
dụng trong triết học vừa sử dụng trong luật học. Lý thuyết về luật của tự nhiên được Aristotle
đề cập lần đầu 琀椀 ên. Ông cho rằng trong tự nhiên đã có sẵn những quy luật, luật lệ và công
, và con người tốt nhất là phải soạn thảo những quy luật tuân theo luân lý của tự nhiên. Mặc
dù ông cho rằng một xã hội chính trị hoàn hảo có thể không cần đến pháp luật, nhưng nếu cn
đến pháp luật thì pháp luật tự nhiên sẽ là pháp luật tốt nhất.
Học thuyết luật tự nhiên được 琀椀 ếp tục phát triển trong bối cảnh Ki-tô giáo bởi Thánh
Thomas Aquinas. Ông gắn quan điểm về luật tự nhiên với Thiên chúa giáo. Theo ông, luật có
bốn loại:
-Ý Chúa -Luật tự nhiên -Luật của con người -Luật thiêng liêng St Thomas Aquinas cho rằng Luật ý
Chúa là luật có giá trị cao nhất, quyết định sự tồn tại của vạn vật. Luật Tự nhiên là sự tham gia
của con người vào Luật ý Chúa. Do vậy, Luật Tự nhiên phải tuân thủ theo nguyên tắc: cái xấu
phải tránh, cái tốt phải được thực hiện. Luật của con người là sự áp dụng Luật Tự nhiên của các
Chính phủ vào Xã hội. Luật Thiêng liêng là những gì được ghi ở Kinh Thánh.
Nói về Học thuyết luật tự nhiên còn phải kể tới Hugo Gro 琀椀 us và Thomas Hobbes. Hugo Gro
琀椀 us cho rằng luật tự nhiên cũng có vai trò hình thành nên hệ thống pháp luật giữa các quốc
gia. Ông cho rằng luật tự nhiên được mọi người ủng hộ do nh hợp lý của nó. Nhưng trái với
Aquinas, ông cho rằng luật tự nhiên sẽ tồn tại dù Chúa tồn tại hay không. Ngoài ra, ông còn
nhấn mạnh vai trò bảo vệ cá nhân của luật tự nhiên. Thomas Hobbes cho rằng luật tự nhiên là
những nguyên tắc được hình thành từ tự nhiên bởi vì con người không thể làm gì phá hủy cuộc
sống của họ. Theo đó, luật tự nhiên phải được xã hội áp dụng để bảo vệ cho cuộc sống con
người.
Vluật học, luật của tự nhiên là một loại hình luật theo nguyên tắc sự vật như nó có vì nó vốn
như thế. Loại hình luật này phổ biến Scotland, nơi luật của tự nhiên là một loại luật tồn tại
bên cạnh luật dân sự và hình sự và các cuộc tranh luận về loại luật này không chỉ giới hạn ở loài
người.
Trong triết học, nhất là ở các nước theo truyền thống luật Anh-Mỹ, nguyên tắc luật của tự nhiên
được đề cập một cách hàm ý hay công khai chỉ trong các văn kiện như Magna Carta Tuyên
ngôn Độc lập Hoa K, khi các quyền được đề cập một cách ám chỉ hay rõ ràng trong các văn kiện
trên là thuộc nh vốn có của con người. Ví dụ, trích dẫn từ Tuyên ngôn Độc lập Hoa K: "...tt
cả con người sinh ra đều bình đẳng, Tạo hóa đã cho hnhững Quyền được sống và mưu cầu
hạnh phúc cho bản thân và những người xung quanh " nêu rõ quyền này là thuộc nh luôn có
của con người.

Preview text:

Câu 1:
Những hệ thống chữ viết đầu 琀椀 ên không tự xuất hiện. Chúng bắt nguồn từ các tập quán cổ
xưa của các hệ thống biểu tượng. Những hệ thống này không thể coi là chữ viết, nhưng chúng
có rất nhiều đặc điểm liên hệ với chữ viết sau này, vì vậy có thể gọi là hệ thống 琀椀 ền ký tự
(nguồn gốc của chữ viết). Chúng là các hệ thống biểu tượng khá dễ nhớ và ghi lại ý, cho phép
truyền đạt thông 琀椀 n nhất định. Tuy vậy, chúng không có nội dung ngôn ngữ. Những hệ
thống này xuất hiện ở đầu thời kỳ đồ đá mới, khoảng thiên niên kỷ thứ 7 TCN. Đáng chú ý có hệ
biểu tượng Vinca có những cải 琀椀 ến về biểu tượng giản đơn ở đầu thiên niên kỷ 7 TCN, dần
tăng 琀 nh phức tạp trong thiên niên kỷ 琀椀 ếp theo và lên đến đỉnh cao là những bản ghi
Tartaria vào thiên niên kỷ 5 TCN. Những biểu tượng được xếp theo hàng lối chặt chẽ, giúp
chúng ta liên tưởng ngay đến văn bản. Các ký tự tượng hình của Cận đông thời cổ đại (Ai Cập,
Cuneiform – 琀椀 ền thân nền văn minh Sumer, Cretan) dường như không bắt nguồn từ những
hệ thống biểu tượng trên. Vì vậy, khó có thể kết luận rằng hệ thống chữ viết đã kế thừa biểu
tượng 琀椀 ền chữ viết ở thời điểm nào.
Năm 2003, các biểu tượng khắc trên mu rùa được phát hiện ở Jiahu, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc.
Phương pháp xác định tuổi bằng đồng vị carbon cho thấy những mu rùa này có từ thiên niên kỷ
2 trước công nguyên. Các mu rùa được 琀 m thấy khi khai quật những di chỉ ở 24 hang động
thời đồ đá mới ở Jiahu, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Theo một số nhà khảo cổ, những chữ viết
trên mai rùa có những điểm tương đồng với ký tự viết trên những thẻ xương động vật ở thiên
niên kỷ 2 TCN. Tuy nhiên, nhiều nhà khảo cổ khác không đồng ý với quan điểm đó. Họ cho rằng
những phác họa hình học giản đơn như thế không hề liên hệ đến chữ viết cổ xưa.
Ở nền văn minh sông Ấn, chuỗi biểu tượng 琀 m thấy có thể tạo thành hệ biểu tượng 琀椀 ền
ký tự, có thể là chịu ảnh hưởng từ sự xuất hiện chữ viết ở Lưỡng Hà. Câu 2:
Học thuyết về Nhà nước của Chủ nghĩa Marx – Lenin hay còn gọi là Lý luận về Nhà nước và
Pháp luật của Chủ nghĩa Marx – Lenin là hệ thống những kiến thức của chủ nghĩa Marx – Lenin
về những quy luật phát sinh, phát triển đặc thù, những đặc 琀 nh chung và biểu hiện quan
trọng nhất của nhà nước nói chung và nhà nước Xã hội chủ nghĩa nói riêng.[1] Tập trung vào
phân 琀 ch nguồn gốc và bản chất của nhà nước, Lý luận của những người Marxist đi sâu
nghiên cứu về nhà nước một cách tổng thể những vấn đề chung nhất về bản chất, chức năng,
vai trò của nhà nước, hình thức nhà nước, bộ máy nhà nước và làm sáng tỏ mối quan hệ giữa
các bộ phận trong thượng tầng kiến trúc chính trị – pháp lý với các tổ chức xã hội, giữa nhà nước với cá nhân.
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Marx – Lenin thì nhà nước thực chất là một tổ chức đặc biệt của
quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện chức năng quản
lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị
trong xã hội. Những nội dung cơ bản ban đầu về học thuyết này được phản ánh thông qua tác
phẩm Nguồn gốc của gia đình, chế độ sở hữu và của nhà nước của F. Engels. Qua tác phẩm này,
Engels đã phân 琀 ch các vấn đề về gia đình, nguồn gốc của giai cấp và của nhà nước và những
quy luật 琀椀 ếp tục phát triển và biến đổi sau này của chúng.
F. Engels đã chỉ ra rằng nhà nước chỉ ra đời ở một giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội trên cơ
sở xuất hiện chế độ tư hữu và gắn liền với nó là sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối
kháng, ông cũng luận chứng về 琀 nh chất giai cấp và 琀 nh lịch sử của nhà nước, làm sáng tỏ
chức năng giai cấp cơ bản của nhà nước.[2] Sau đó lý luận này được những người Marxist 琀椀
ếp tục phát triển và hoàn thiện trong điều kiện mới. Lý luận về nhà nước và pháp luật là một
môn học bắt buộc trong chương trình học Đại học đối với các ngành khoa học xã hội như Luật
học, chính trị, hành chính, khoa học xã hội và nhân văn ở các Trường Đại học tại Việt Nam. Câu 3:
Luật tự nhiên hay luật của tự nhiên (琀椀 ếng La 琀椀 nh lex naturalis) là hệ thống luật được
xác định bởi tự nhiên, do đó có 琀 nh phổ quát. Đây là quy luật tồn tại độc lập với luật lệ được
đặt ra bởi một trật tự chính trị, xã hội hay một quốc gia. Đây là một thuật ngữ vừa được sử
dụng trong triết học vừa sử dụng trong luật học. Lý thuyết về luật của tự nhiên được Aristotle
đề cập lần đầu 琀椀 ên. Ông cho rằng trong tự nhiên đã có sẵn những quy luật, luật lệ và công
lý, và con người tốt nhất là phải soạn thảo những quy luật tuân theo luân lý của tự nhiên. Mặc
dù ông cho rằng một xã hội chính trị hoàn hảo có thể không cần đến pháp luật, nhưng nếu cần
đến pháp luật thì pháp luật tự nhiên sẽ là pháp luật tốt nhất.
Học thuyết luật tự nhiên được 琀椀 ếp tục phát triển trong bối cảnh Ki-tô giáo bởi Thánh
Thomas Aquinas. Ông gắn quan điểm về luật tự nhiên với Thiên chúa giáo. Theo ông, luật có bốn loại:
-Ý Chúa -Luật tự nhiên -Luật của con người -Luật thiêng liêng St Thomas Aquinas cho rằng Luật ý
Chúa là luật có giá trị cao nhất, quyết định sự tồn tại của vạn vật. Luật Tự nhiên là sự tham gia
của con người vào Luật ý Chúa. Do vậy, Luật Tự nhiên phải tuân thủ theo nguyên tắc: cái xấu
phải tránh, cái tốt phải được thực hiện. Luật của con người là sự áp dụng Luật Tự nhiên của các
Chính phủ vào Xã hội. Luật Thiêng liêng là những gì được ghi ở Kinh Thánh.
Nói về Học thuyết luật tự nhiên còn phải kể tới Hugo Gro 琀椀 us và Thomas Hobbes. Hugo Gro
琀椀 us cho rằng luật tự nhiên cũng có vai trò hình thành nên hệ thống pháp luật giữa các quốc
gia. Ông cho rằng luật tự nhiên được mọi người ủng hộ do 琀 nh hợp lý của nó. Nhưng trái với
Aquinas, ông cho rằng luật tự nhiên sẽ tồn tại dù Chúa tồn tại hay không. Ngoài ra, ông còn
nhấn mạnh vai trò bảo vệ cá nhân của luật tự nhiên. Thomas Hobbes cho rằng luật tự nhiên là
những nguyên tắc được hình thành từ tự nhiên bởi vì con người không thể làm gì phá hủy cuộc
sống của họ. Theo đó, luật tự nhiên phải được xã hội áp dụng để bảo vệ cho cuộc sống con người.
Về luật học, luật của tự nhiên là một loại hình luật theo nguyên tắc sự vật như nó có vì nó vốn
như thế. Loại hình luật này phổ biến ở Scotland, nơi luật của tự nhiên là một loại luật tồn tại
bên cạnh luật dân sự và hình sự và các cuộc tranh luận về loại luật này không chỉ giới hạn ở loài người.
Trong triết học, nhất là ở các nước theo truyền thống luật Anh-Mỹ, nguyên tắc luật của tự nhiên
được đề cập một cách hàm ý hay công khai chỉ trong các văn kiện như Magna Carta và Tuyên
ngôn Độc lập Hoa Kỳ, khi các quyền được đề cập một cách ám chỉ hay rõ ràng trong các văn kiện
trên là thuộc 琀 nh vốn có của con người. Ví dụ, trích dẫn từ Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ: "...tất
cả con người sinh ra đều bình đẳng, Tạo hóa đã cho họ những Quyền được sống và mưu cầu
hạnh phúc cho bản thân và những người xung quanh " nêu rõ quyền này là thuộc 琀 nh luôn có của con người.