Bài tập Kinh tế chính trị Mác – Lênin - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen
Bài tập Kinh tế chính trị Mác – Lênin - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết qủa
Môn: Kinh tế chính trị Mác-Lênin (DC102EL01)
Trường: Đại học Hoa Sen
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Bùi Phúc Phú – 2021008323
TRƯNG ĐI HC
TI CHNH - MARKETING BI THU HOCH
HC PHN: Kinh tế chính trị Mác – Lênin
Ngày kim tra: 21/6/2021
Họ tên sinh viên: Bùi Phúc Phú M Đ:1
M s sinh viên : 2021008323
M lp học phn: 2021101113518
Bài làm gm: 13 trang Đim CB chấm thi Bằng số Bằng chữ (Ký, ghi rõ họ tên)
BI LM: Câu 1: ❖ Giá trị t ặ h ng dư là gì?
1. Nguồn gốc của giá trị thăng dư
1.1 . Công thức chung của tư bản a. Theo C.Mác:
+ Công thức lưu thông hàng hóa giản đơn : H – T – H (Tiền đóng vai trò
là trung gian để trao đổi các hàng hóa với nhau).
+ Công thức chung của tư bản: T – H – T’ (Tiền T dùng để sản xuất, mua
hàng hóa và khi bán hàng hóa đi sẽ thu được lượng tiền lớn hơn T’=T + ∆𝑡).
+ ∆𝑡 phải là số dương thì lưu thông T – H – T’ mới có ý nghĩa.
b. Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản : 1
Bùi Phúc Phú – 2021008323
+ C.Mác khẳng định : “Tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng
không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu
thông và đồng thời không phải trong lưu thông.”
+ Mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản chỉ được giải quyết khi
nhà tư bản tìm thấy trên thị trường một loại hàng hóa đặc biệt, đó là hàng hóa sức lao động.
1.2 . Hàng hóa sức lao động.
a. Sức lao động là toàn bộ n ữ
h ng năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong
cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng
mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó.
b. Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa :
- Một là, Người lao động được tự do về thân thể.
- Hai là, Người lao động không có đủ các tư liệu sản xuất cần thiết .
c. Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động : -
Một là, Giá trị của hàng hóa sức lao động cũng do thời gian lao động
xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động quyết định. Do
hàng hóa sức lao động tồn tại trong con người đang sống, nên để sống và
tái sản xuất sức lao động, người lao động phải tiêu dùng lượng tư liệu sinh
hoạt nhất định. Ví dụ muốn sản xuất và tái sản xuất sức lao động thì người
công nhân phải tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định về ăn, mặc,
ở, học tập, giải trí…Ngoài ra, người công nhân còn phải thỏa mãn những
nhu cầu của gia đình và con cái của họ.
Vậy giá trị sức lao động là giá trị của toàn bộ các tư liệu sinh hoạt
cần thiết để nuôi sống người công nhân và gia đình bao gồm :
+ Giá trị những tư liêu sinh hoạt cần thiết để duy trì sức lao động của
bản thân người công nhân.
+ Chi phí đào tạo tùy theo tính chất phức tạp của sức lao động.
+ Giá trị những tư liệu sản xuất cần thiết cho gia đình và con cái của người công nhân. -
Hai là, Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động. Biểu hiện trong
quá trình tiêu dùng sức lao động ( hay còn gọi là quá trình hoạt động của
công nhân). Trong quá trình lao động, sức lao động tạo ra một lượng giá
trị mới hơn giá trị của bản thân nó. Phần giá trị dôi ra so với giá trị sức lao
động chính là giá trị thặng dư ( tức giá trị thặng dư chính bằng hiệu của
giá trị mới do sử dụng sức lao động mà có so với giá trị sức lao động). 2
Bùi Phúc Phú – 2021008323
Vậy giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động có tính chất đặc biệt, nó
là nguồn gốc sinh ra giá trị thặng dư, tức là nó có thể tạo ra giá trị mới lớn
hơn giá trị bản thân của nó.
* Hàng hóa sức lao động là loại hàng hóa đặc biệt, nó mang yếu tố tinh thần
và lịch sử. Hơn thế, giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động có tính năng
đặc biệt mà không một hàng hóa thông thường nào có được, đó là trong khi
sử dụng nó, không những giá trị của nó được bảo tồn mà còn tạo ra được
lượng giá trị lớn hơn khác với các hàng hóa khác khi sử dụng sẽ bị hao mòn,
hư hỏng. Đây chính là chìa khóa chỉ rõ nguồn gốc của giá trị lớn hơn do đâu mà có. [1]
2. Quá trình sản xuất thặng dư : là sự thống nhất của quá trình tạo ra và làm tăng giá trị.
Quá trình sản xuất thặng dư có đặc điểm :
- Công nhân làm việc dưới sự k ể
i m soát của nhà tư bản.
- Sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản.
Ví dụ : Để sản xuất thép, nhà tư bản ứng số tiền là 20 USD để mua 20 kg sắt,
khấu hao máy móc cho 20kg sắt để sản xuất thành 20kg thép là 2 USD, 10
USD mua hàng hóa sức lao động của công nhân để sử dụng trong 1 ngày làm
việc 8 giờ. Như vậy, nhà tư bản ứng ra 32 USD.
Trong quá trình sản xuất thép, bằng lao động cụ thể, người công nhân biến
sắt thành thép, theo đó giá trị của sắt và hao mòn máy móc được chuyển vào
giá trị của thép ; bằng lao động trừu tượng người công nhân tạo ra giá trị mới.
Giả định, trong 4 giờ lao động công nhân đã chuyển toàn bộ 20kg sắt thành
thép. Giá trị thép gồm :
Giá trị 20kg sắt chuyển vào : 20 USD Hao mòn máy móc : 2 USD
Giá trị mới bằng giá trị sức lao động : 10 USD TỔNG CỘNG : 32 USD
Nhà tư bản ứng ra 32 USD, bán thép thu về 32 USD. Nếu quá trình lao động
dừng lại tại điểm này thì không có giá trị thặng dư, tiền ứng ra chưa trở thành
tư bản. Mà muốn có giá trị thặng dư, nhà tư bản mua sức lao động của công
nhân 8 giờ chứ không phải 4 giờ. 3
Bùi Phúc Phú – 2021008323
Công nhân làm việc tiếp 4 giờ nữa nhưng nhà tư bản chỉ bỏ ra thêm 20 USD
để mua 20kg sắt và 2 USD hao mòn máy móc, quá trình lao động trong 4 giờ
này diễn ra như quá trình ban đầu. Số thép tạo ra trong 4 giờ lao động sau cũng có giá trị 32 USD.
Tổng cộng, nhà tư bản ứng ra 40 + 4 + 10 = 54 USD, trong khi số thép sản
xuất ra có giá trị 64 USD. Do đó, nhà tư bản thu được lượng chênh lệch là :
64 – 54 = 10 USD đây chính là Giá trị thặng dư. 3. Giá trị t ặ h ng dư : là bộ p ậ
h n giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do
người bán sức lao động (người lao động làm thuê) tạo ra và thuộc về nhà tư
bản (người mua hàng hóa sức lao động). C.Mác ký hiệu giá trị t ặ h ng dư là m.
❖ Có hai phương pháp sản xuất giá trị t ặ
h ng dư trong nền kinh tế thị trường:
- Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối Giá trị t ặ
h ng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao
động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị
sức lao động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi. Ví dụ tăng giờ lao
động của một người công nhân sản xuất gỗ từ 8 giờ/ngày lên thành 12 giờ/ngày
trong khi tiền lương vẫn không thay đổi. Hai cách sản x ấ
u t giá trị thặng dư tuyệt đối :
- Tăng thời gian làm việc trong ngày, tháng, năm.
Ví dụ: công nhân các khu công nghiệp, chế xuất phải làm tăng ca.
- Tăng cường độ lao động
Ví dụ: Tăng lượng gỗ sản xuất được của người công nhân trong 8 giờ từ
10 sản phẩm lên 15 sản phẩm.
Giới hạn ngày lao động: thời gian lao động tất yếu < ngày lao động < giới
hạn sinh lý của người lao động.
Trong phạm vi giới hạn nói trên, độ dài của ngày lao động là một đại lượng
không cố định và có nhiều mức khác nhau. Độ dài cụ thể của ngày lao động
do cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản trên cơ sở tương
quan lực lượng quyết định. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đòi ngày
lao động tiêu chuẩn, ngày làm 8 giờ đã kéo dài hàng thế kỷ. Vì họ bị các nhà
tư bản bóc lột giờ làm trong khi tiền lương không thay đổi. [2] 4
Bùi Phúc Phú – 2021008323
2. Sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được nhờ rút ngắn thời
gian lao động tất yếu, kéo dài tương ứng thời gian lao động thặng dư.
Biện pháp rút ngắn thời gian lao động tất yếu : hạ thấp giá trị sức lao động,
giảm giá trị tư liệu sinh hoạt của công nhân. Do đó phải tăng năng suất lao
động xã hội trong các ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt và tư liệu sản xuất, tăng
năng suất lao động xã hội.
Giá trị thăng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do áp dụng
công nghệ mới làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó. Giá trị t ặ
h ng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời đối với mỗi nhà tư bản,
nhưng đối với xã hội nó là phổ biến. Vì đối với nhà tư bản sau một thời gian
sản xuất công nghệ họ chậm lại so với các nhà tư bản mới khác dẫn đến giá
trị thặng dư siêu ngạch khô g
n còn trong khi xã hội luôn có các nhà tư bản mới cải tiến và duy trì, â
n ng cao giá trị thặng dư siêu ngạch.
Giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị t ặ h ng dư
tương đối. Vì giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối đều
dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động (mặc dù một bên là dựa vào tăng năng
suất lao động cá biệt, còn một bên dựa vào tăng năng suất lao động xã hội).
Sự khác nhau giữa giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương
đối còn thể hiện ở chỗ giá trị thặng dư tương đối do toàn bộ giai cấp các nhà tư bản thu được.[2]
Xét về mặt đó, nó thể hiện quan hệ bóc lột của toàn bộ giai cấp tư sản đối
với toàn bộ giai cấp công nhân làm thuê. Giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ do
một số các nhà tư bản có kỹ thuật tiên tiến thu được. Xét về mặt đó, nó không
chỉ biểu hiện mối quan hệ giữa tư bản và lao động làm thuê, mà còn trực tiếp
biểu hiện mối quan hệ cạnh tranh giữa các nhà tư bản.[2]
Từ đó, ta thấy rằng giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực trực tiếp, mạnh
nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản
xuất, hoàn thiện tổ c ứ
h c lao động và tổ chức sản xuất để tăng năng suất lao
động, giảm giá trị của hàng hoá.[2]
❖ Trên cơ sở đó, với vai người bán sức lao động em có một vài phương pháp
bảo vệ lợi ích của mình trong quan hệ lợi ích với người sử dụng lao độn g : 5
Bùi Phúc Phú – 2021008323 -
Tiền lương : Khi bản thân làm tăng ca, vượt quá thời gian lao động
trong ngày đã thỏa thuận kí với doanh nghiệp, thì cần đề nghị người thuê
có chính sách gia tăng tiền lương trong khoảng thời gian đó cao hơn hoặc
làm việc vào các khung giờ ban đêm khuya khác giờ sinh học bình
thường thì cũng cần phải tăng lương. -
Đề xuất lên với doanh nghiệp, người sử dụng lao động nhập về các
thiết bị hiện đại, tổ chức, đào tạo cho người lao động nâng cao tay nghề,
trình độ từ đó sử dụng các thiết bị h ệ
i n đại để nâng cao năng suất đồng
thời tăng lương cho người lao động khi đã được đào tạo. -
Xin bổ sung thêm nhân lực khi công việc đang quá tải nhằm giảm
bớt áp lực cho người lao động. -
Cần có những chính sách khen thưởng khi đạt kết quả tốt trong lao
động sản xuất trong tháng, quý, năm nhằm tạo động lực cho người lao
động trong hợp đồng lao động. -
Tổ chức hệ thống quản lí lao động đưa ra các điều khoản, quy tắc
trong lao động như thời gian làm việc, nguyên tắc làm việc nhằm mang
lại sự công bằng bình đẳng cho tất cả người lao động. -
Ngăn chặn, phản đối, tố cáo việc hủy, chấm dứt hợp đồng lao động
đột ngột mà không có lí do chính đáng. Ví dụ :Không được chấm dứt hợp
đồng lao động đối với phụ nữ đang trong thời kỳ mang thai không thể đi làm được. -
Thỏa thuân không được tùy tiện thay đổi gia tăng giờ làm đối với
công nhân vượt ngưỡng chịu đựng của họ hay còn gọi là giới hạn sinh lí của người lao động.
❖ Nhà nước ta đã và đang làm để chăm lo, bảo vệ qu ề
y n và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của người lao động : -
Nhà nước ta đã ban hành Luật lao động, thành lập các Liên đoàn lao
động nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi và lợi ích của người lao động. -
Trừng trị, xử lí theo pháp luật những hành vi đang lợi dụng, bóc lột
và áp bức đối với người lao động. -
Cải cách hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng dựa trên nguyên tắc đóng
- hưởng, chia sẻ - bền vững. -
Trợ cấp cho người lao động, người đang trong tình trạng thất nghiệp,
gặp khó khăn trong kinh tế. Ví dụ trong thời kỳ đại dịch Covid đang
bùng phát và vẫn còn tiếp diễn ở nước Việt Nam thì Đảng và nhà nước
ta đã có chính sách hỗ trợ chi phí cho người lao động đang gặp khó khăn.
Xây dựng nhà ở cho các gia đình công nhân có thu nhập thấp. 6
Bùi Phúc Phú – 2021008323 -
Khuyến khích các doanh nghiệp không ngừng đầu tư, đổi mới công
nghệ, phát triển kỹ th ậ
u t, nâng cao trình độ nhân công để giảm áp lực cho người lao động, ă
t ng năng suất lao động. -
Xây dựng các cơ sở y tế, trường học, đường xá, phương tiện, cơ sở
hạ tầng,… nhằm đảm bảo các nhu cầu thiết yếu của người lao động. -
Nâng cao dân trí, trình độ học vấn cho người lao động để họ có những
hiểu biết, nhận thức đúng đắn về quyền lợi của mình trong lao động. -
Động viên, hỗ trợ quà tặng cho người lao động trong các dịp lễ lớn
nhất là Tết Nguyên Đán. -
Nâng cao trách nhiệm vai trò của chủ doanh nghiệp và công nhân
trong mối quan hệ lao động. Câu 2 :
❖ Mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam. 1.
Độc lập, tự chủ ở đây là khẳng định chủ quyền quốc gia, dân tộc ,là
năng lực của quốc gia giữ vững chủ quyền và sự tự quyết về đối nội, đối
ngoại, bảo vệ lợi ích quốc gia của mình, không bị sự thống trị, lệ thuộc,
chi phối mang tính cưỡng bức, áp đặt, bắt buộc từ các lực lượng bên ngoài.
Một đất nước độc lập, tự chủ là một đất nước có quyền, có năng lực quyết
định việc lựa chọn con đường, mô hình phát triển, chế độ chính trị của
mình, là đất nước có độc lập, tự chủ cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Độc lập, tự chủ là lý tưởng, mục tiêu
phấn đấu của các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam ta; là lý tưởng,
mục tiêu phấn đấu của dân tộc ta trong suốt lịch sử hàng nghìn năm dựng
nước và giữ nước, cũng là mục tiêu, lý tưởng phấn đấu của Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta ngày nay.[3] 2.
Hội nhập quốc tế là quá trình quốc gia thực hiện gắn kết nền kinh tế
của mình với nền kinh tế thế giới dựa trên sự chia sẻ lợi ích đồng thời tuân
thủ các chuẩn mực quốc tế chung. Ngày nay, với sự phát triển của khoa
học công nghệ, kinh tế thị trường, các tập đoàn kinh tế lớn, các hoạt động
kinh tế đã vượt khỏi biên giới các quốc gia; các hoạt động kinh tế, thương
mại, đầu tư kinh doanh của đa quốc gia, nhiều tập đoàn kinh tế lớn đã diễn
ra trên quy mô toàn cầu, hình thành nên thị trường toàn cầu, các chuỗi sản
xuất toàn cầu, phân công lao động và hợp tác kinh tế trên quy mô toàn
cầu. Đây là một xu hướng khách quan, tiến bộ của lịch sử. Xu hướng khách
quan, tiến bộ đó của thế giới, của thời đại đã thu hút sự tham gia của ngày 7
Bùi Phúc Phú – 2021008323
càng nhiều quốc gia. Hội nhập quốc tế trở thành nhu cầu, phương thức
phát triển của các quốc gia. Hội nhập đem lại cho các quốc gia những
nguồn lực, cơ hội để phát triển: đó là thị trường, thành tựu khoa học công
nghệ, nguồn vốn, kinh nghiệm quản lý, quản trị hiện đại cho phát triển
kinh tế; các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ phong phú để nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần của người dân; để đất nước tiến cùng thời đại. Hội nhập
quốc tế, tăng cường sự liên kết, tạo sự đan xen lợi ích, củng cố, tăng cường
quan hệ hợp tác, hữu nghị, lòng tin giữa các quốc gia là nhân tố rất quan
trọng để giải quyết những bất đồng, mâu thuẫn phát sinh, duy trì môi
trường hòa bình, ổn định cho sự phát triển chung... Hội nhập quốc tế để
phát triển, muốn phát triển cần phải hội nhập quốc tế. Đây cũng là một xu
hướng khách quan, tiến bộ. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế đối với các quốc
gia không chỉ có cơ hội, thuận lợi mà còn có không ít khó khăn thách thức;
trong đó, thách thức lớn nhất là phải bảo vệ, giữ vững được độc lập, tự
chủ của đất nước. Mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ với hội nhập quốc tế,
do đó, là một trong những mối quan hệ đặc biệt quan trọng cần được quán
triệt và giải quyết tốt trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nước ta.[3] 3.
Tại nghị quyết Trung ương 8 khóa IX nhấn mạnh : “độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cơ bản của cách mạng và cũng là lợi ích
căn bản của quốc gia.”. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu cơ bản của cách
mạng và lợi ích căn bản của đất nước, trong bối cảnh thế g ới i ngày nay,
chúng ta cần giữ vững độc lập, tự chủ đi đôi với chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.[4]
Giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế có mối quan hệ biện chứng;
vừa mâu thuẫn, vừa tạo tiền đề cho nhau và phát huy lẫn nhau, vừa thống
nhất với nhau trong việc thực hiện mục tiêu cơ bản của cách mạng và lợi
ích căn bản của đất nước của dân tộc.
Độc lập, tự chủ cũng vì lợi ích của đất nước, tự do, hạnh phúc của
nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định chân lý “Không có gì quý
hơn độc lập, tự do”, từng nói lên khát vọng cháy bỏng của nhân dân ta trong
những ngày Cách mạng tháng Tám năm 1945 “Dù có phải đốt cháy cả dải
Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập, tự do”; đồng thời, Bác cũng
từng nói nước được độc lập mà nhân dân không có tự do, hạnh phúc thì độc
lập cũng chẳng có ý nghĩa gì. Độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế còn có
quan hệ gắn bó, là tiền đề, điều kiện của nhau. Độc lập, tự chủ là cơ sở, tiền
đề, điều kiện cho hội nhập quốc tế, cụ thể là cho việc xác định chiến lược 8
Bùi Phúc Phú – 2021008323
hội nhập, nội dung, bước đi, cách thức hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực
để hội nhập quốc tế đạt hiệu quả cao nhất. Mục tiêu của hội nhập quốc tế
phải phục vụ mục tiêu phát triển, nâng cao sức mạnh tổng hợp của đất nước,
củng cố độc lập, tự chủ của đất nước. Nội dung, bước đi, cách thức hội nhập
trên các lĩnh vực phải xuất phát từ chiến lược phát triển chung của đất nước,
từ tình hình đất nước và bối cảnh quốc tế trong từng giai đoạn... [3]
Trong thời đại ngày nay độc lập, tự chủ không có nghĩa là biệt lập,
“đóng cửa” với thế g ới
i , vì điều đó không phù hợp với xu thế khách quan
của thời đại, sẽ không thể phát triển và tất yếu làm suy yếu độc lập, tự chủ.
Việc không giữ vững độc lập, tự chủ thì quá trình hội nhập sẽ chuyển hóa
thành “hòa tan”, mục tiêu phát triển an ninh đều không đạt được. Trái lại,
càng hội nhập quốc tế có hiệu quả sẽ càng có thêm điều kiện và tạo được
thế thích hợp để giữ vững độc lập, tự chủ thông qua việc tranh thủ các nguồn
lực bên ngoài, tạo lập sự đan xen lợi ích với đối tác, nâng cao vị thế của
Việt Nam ở khu vực và trên thế giới, cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh…[4] 4.
Hội nhập quốc tế cũng tạo nên những thách thức mới đối với nhiệm
vụ giữ vững độc lập, tự chủ. Xây dựng chiến lược và lộ trình hội nhập kinh
tế phù hợp để tránh gia tăng sự cạnh tranh gay gắt làm cho nhiều doanh
nghiệp và ngành kinh tế đất nước gặp khó khăn, có thể dẫn đến thua lỗ, phá
sản, gây nhiều hậu quả bất lợi về kinh tế - xã hội. Từ đó dễ bị lệ thuộc vào
nước khác, đặc biệt rất dễ xảy ra đối với các nước nghèo và đang phát triển
trong đó có Việt Nam dẫn đến suy giảm về độc lập, tự chủ của chủ quyền
quốc gia trước các thế lực thù địch bên trong và ngoài đất nước.
5. Để hội nhập có hiệu quả, không thể tuyệt đối hóa độc lập, tự chủ.
Nếu xem quan niệm về độc lập, tự chủ là bất biến thì sẽ là rào cản để hội
nhập quốc tế, bỏ lỡ thời cơ, giảm tính hiệu quả của hội nhập từ đó tác động
tiêu cực lại tới độc lập, tự chủ làm suy yếu đi. Mặt khác, nếu không xây
dựng chiến lược, lộ trình hội nhập quốc tế một cách phù hợp mà chạy theo
số đông thì dễ bị ảnh hưởng tiêu cực của hội nhập từ đó kéo theo độc lập,
tự chủ cũng gặp nhiều thách thức.
Việt Nam đã và đang chủ động, tích cực trong việc quán triệt, xử lí thành công mối quan hệ g ữ
i a độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế đã góp phần
quan trọng giúp đất nước ta đạt được những thành tựu phát triển to lớn, có
ý nghĩa lịch sử qua hơn 30 năm đổi mới. 9
Bùi Phúc Phú – 2021008323
Đến nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 184 nước thuộc tất cả các
châu lục, có quan hệ với tất cả các nước lớn, các ủy viên thường trực Hội
đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc; có quan hệ kinh tế, thương mại với 230 nước
và vùng lãnh thổ, ký kết hơn 90 hiệp định thương mại song phương, đa
phương, trong đó có nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới; gần 60
hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư. Việt Nam là thành viên Liên Hiệp
Quốc, nhiều tổ chức quốc tế và khu vực, như Tổ chức thương mại thế giới
(WTO), Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), thành viên
ASEAN, APEC, ASEM...Giao lưu kinh tế thế giới, thu hút các nhà đầu tư,
công ty lớn đặt nhà máy, trụ sở ở Việt Nam để sản xuất nhằm kế thừa, học
hỏi công nghệ các nước bạn như Samsung, Pepsi, Mercedes,…
❖ Các nghị quyết của Đảng đã xác định rõ những nguyên tắc, phương châm,
mục tiêu, nhiệm vụ và phương hướng lớn cho quá trình hội nhập quốc tế.
Để xây dựng thành công nền kinh tế độc lập, tự chủ đi đôi với tích cực và
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam cần phải thực hiện những giải pháp :
1. Thứ nhất, xác định rõ và luôn kiên định lợi ích quốc gia là mục tiêu
cao nhất trong quá trình hội nhập quốc tế. Lợi ích quốc gia là trên hết,
mọi vấn đề liên quan đến quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế phải
được soi chiếu từ lợi ích quốc gia - dân tộc. Bảo đảm lợi ích tối cao của
quốc gia – dân tộc là giá trị cốt lõi trong quan hệ quốc tế. Không đặt lợi
của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào lên trên lợi ích quốc gia.[5]
Ví dụ : Đặt quan hệ quốc tế với các nước khác nhằm mục đích đẩy mạnh
khả năng xuất khẩu gạo trong nước ra ngoài quốc tế đem lại nguồn thu
lớn cho người nông dân.
2. Thứ hai, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia về chính trị - đối
ngoại, kinh tế, văn hóa – xã hội, quốc phòng – an ninh. Nâng cao sức
mạnh tổng hợp quốc gia là yếu tố quyết định thành công của quá trình
hội nhập quốc tế. Đó là sức mạnh được tạo nên từ sự lãnh đạo sáng suốt
của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, của khối đoàn kết toàn dân
tộc, của văn hóa, con người Việt Nam; sức mạnh của nền quốc phòng
toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân
và thế trận an ninh nhân dân vững chắc.[5]
Ví dụ : Nhà nước luôn luôn xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, thúc
đẩy kinh tế phát triển, nâng cao tri thức người dân, xóa đi nạn mù chữ
đồng thời đẩy mạnh phát triển quốc phòng – an ninh như thực hiện
nghĩa vụ quân sự, nghiên cứu, phát triển các thiết bị khoa học công nghệ 10
Bùi Phúc Phú – 2021008323
hiện đại trong quốc phòng – an ninh nhằm ngăn chặn mọi hành vi chống
phá, chia rẽ khối đại đoàn kết từ các thế lực bên ngoài. Có như thế việc
hội nhập quốc tế sẽ trở nên vững chắc.
3. Thứ ba, thực hiện nhất quán phương châm đa dạng hóa, đa phương
hóa trong quan hệ quốc tế, lấy nguyên tắc của luật pháp quốc tế để xử
lý quan hệ hệ đối ngoại. Nước ta là một bộ phận không thể tách rời thế
giới, gắn liền với tiến trình phát triển của thế giới. Xa rời sự vận động
chung, sẽ tự cô lập mình với thế giới bên ngoài và ảnh hưởng đến sự
phát triển của đất nước. Lịch sử cho thấy “nhất biên đảo” hoặc chỉ quan
hệ với một vài đối tác là nguồn gốc gây ra mất độc lập, tự chủ vì sẽ dễ
bị bó hẹp trong sự lựa chọn và nếu không đủ bản lĩnh và nội lực sẽ dễ
trở thành công cụ của quốc gia khác. Đa phương hóa, đa dạng hóa là
cách dễ đan cài lợi ích với các đối tác, qua đó tăng cường tư thế đất
nước, giữ vững độc lập, tự chủ quốc gia.[5]
Là một thành viên của cộng đồng quốc tế, Việt Nam chấp nhận “luật
chơi” chung, không thể hành động đơn phương không tính đến lợi ích
của nước khác. Đường lối, chính sách đối ngoại và đối nội của mỗi quốc
gia đều có ảnh hưởng với những mức độ nhất định của những yếu tố tác
động từ bên ngoài hoặc từ nước khác. Trong quá trình hội nhập quốc tế
vừa hợp tác, vừa đấu tranh, không tránh khỏi sự va chạm với các nước
khác, khi đó dùng luật pháp quốc tế để xử lý sẽ có sự công bằng hơn và
bảo vệ độc lập, tự chủ hữu hiệu hơn[5]. Đơn cử trong việc bảo vệ lãnh
thổ, chủ quyền biển đảo của Việt Nam nhờ có hội nhập quốc tế mà ta
có sự giúp đỡ của các nước bạn đồng minh, quốc tế liên tiếng phản đối
trong việc Trung Quốc đặt giàn khoan 981 trên lãnh thổ Việt Nam, bản
đồ hình “Lưỡi bò” xâm phạm đến chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
4. Thứ tư, chủ động phát hiện, ngăn chặn “từ sớm, từ xa” các nguy cơ
đối với đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, quốc phòng – an
ninh của đất nước. Quá trình hội nhập có sự tác động lẫn nhau giữa các
nước lớn với nước vừa và nhỏ, giữa các nước có thể chế chính trị - xã
hội khác nhau nên sẽ xuất hiện những xung đột về lợi ích hoặc các âm
mưu chống phá từ bên ngoài. Vì vậy, việc chủ động phát hiện từ khoảng
cách xa về không gian và sớm về thời gian những nguy cơ có thể xảy
ra là yêu cầu bức thiết phải làm để có thể chủ động ngăn chặn, vô hiệu
hóa, hóa giải các nguy cơ đó một cách kịp thời, hiệu quả. Phòng, chống
một cách chủ động mọi âm mưu, hoạt động lợi dụng hội nhập quốc tế
để chuyển hóa nội bộ; phát hiện ngăn chặn kịp thời các đối tác nước 11