
















Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ Q ỐC DÂN U KHOA LUẬT BÀI TẬP NHÓM
Đề tài 06: So sánh và nêu mối quan hệ giữa pháp luật và tập quán? Cho ví dụ minh hoạ?
Phân tích thực trạng thực hiện tập quán ở Việt Nam hiện nay? Sinh viên thực hiện : Đinh Khánh Linh _ 11223371
Vũ Hà Khánh Linh _ 11223837 Đặng Thuý Nga _ 11224489
Phạm Phương Thảo _ 11225954
Nguyễn Thị Mai Xuân _ 11227033
Lớp: Kinh tế quốc tế 64B
Giáo viên giảng dạy: ThS. GVC. Nguyễn Hoàng Vân
MỤC LỤC
1. Khái niệm tập quán và pháp luật ......................................................................................................... 3
2. So sánh tập quán và pháp luật ............................................................................................................. 3 2.1.
Điểm giống nhau ....................................................................................................... 3 2.2.
Điểm khác nhau ........................................................................................................ 4
3. Mối quan hệ giữa tập quán và pháp luật ......................................................................................... 6 3.1.
Tập quán là nguồn hỗ trợ, bổ sung cho pháp luật ........................................................... 6 3.2.
Tập quán là tiền đề giúp cho pháp luật đi vào đời sống xã hội ......................................... 7 3.3.
Tập quán là nguồn nội dung của pháp luật .................................................................... 8 3.4.
Tác động của pháp luật tới tập quán ............................................................................. 9 3.5.
Tác động của tập quán tới pháp luật ............................................................................. 9 3.5.1.
Đối với việc hình thành pháp luật ......................................................................... 9 3.5.2.
Đối với việc thực hiện pháp luật ......................................................................... 10
4. Thực trạng thực hiện tập quán ở Việt Nam hiện nay .................................................................... 10 4.1.
Tập quán được quy định trong luật: ........................................................................... 10 4.2.
Việc áp dụng tập quán pháp: ..................................................................................... 11 4.3.
Ví dụ về việc áp dụng tập quán trong xét xử dân sự ..................................................... 12 4.3.1.
Tập quán về chuyển giao quyền sở hữu và chuyển giao quyền sử dụng tài sản ......... 12 4.3.2.
Tập quán về bồi thường ..................................................................................... 13 4.3.3.
Một số tập quán phổ biến khác ........................................................................... 14 4.3.3.1.
Tập quán giải quyết tranh chấp về vật nuôi, cây trồng .................................... 15 4.3.3.2.
Việc xâm hại, làm ảnh hưởng mồ, mả .......................................................... 15
5. Kết luận ......................................................................................................................................... 16 2
1. Khái niệm tập quán và pháp luật
- Tập quán là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng để xác định quyền, nghĩa vụ của
cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự cụ thể, được hình thành và lặp đi lặp lại
nhiều lần trong một thời gian dài, được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong một
vùng, miền, dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc trong một lĩnh vực dân sự.
- Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, do Nhà nước
ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội theo mục tiêu, định hướng cụ thể.
2. So sánh tập quán và pháp luật 2.1. Điểm giống nhau
- Pháp luật và tập quán đều là những khuôn mẫu, chuẩn mực để hướng dẫn
cách xử sự cho mọi người trong xã hội, để bất kỳ ai khi ở vào điều kiện, hoàn cảnh do chúng dự l ệ
i u thì đều phải xử sự theo những cách thức mà chúng đã nêu
ra. Căn cứ vào pháp luật, phong tục tập quán, các chủ thể sẽ biết mình được làm
gì, không được làm gì, phải làm gì và làm như thế nào khi ở trong một điều kiện, hoàn cảnh nhất định.
- Pháp luật và tập quán đều là tiêu chuẩn để xác định giới hạn và đánh giá hành
vi của con người. Căn cứ vào các quy định của pháp luật, của tập quán, có thể xác
định được hành vi nào là hợp pháp, hợp tập quán; hành vi nào là trái pháp luật, trái tập quán.
- Pháp luật và tập quán đều được đặt ra không phải cho một chủ thể cụ thể hay
một tổ chức, cá nhân cụ thể mà là cho tất cả các chủ thể tham gia vào quan hệ xã
hội do chúng điều chỉnh.
- Pháp luật và tập quán đều được thực hiện nhiều lần trong thực tế cuộc sống,
bởi vì chúng được ban hành không phải để điều chỉnh một quan hệ xã hội cụ thể,
một trường hợp cụ thể mà để điều chỉnh một quan hệ xã hội chung, tức là mọi
trường hợp, khi điều kiện hoặc hoàn cảnh do chúng dự kiến xảy ra. 3
- Cả pháp luật và tập quán đều tham gia điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm
thiết lập và giữ gìn trật tự xã hội. Chúng được đảm bảo thực hiện bằng những
biện pháp nhất định như tuyên truyền, thuyết phục, khuyến khích… 2.2. Điểm khác nhau
Mặc dù pháp luật và phong tục tập quán đều là những chuẩn mực để đánh giá
hành vi của con người. Tuy nhiên, đây là hai hiện tượng độc lập tương đối, do đó
chúng có sự khác nhau nhất định trong sự tồn tại và phát huy giá trị. Tiêu chí Pháp luật Tập quán
Quá trình hình - Pháp luật có tính quyền lực Nhà Tập quán được hình thành
thành và phát nước, bởi vì pháp luật được hình một cách tự phát trong triển
thành bằng con đường Nhà nước, một cộng đồng dân cư
do Nhà nước đặt ra (ví dụ như các nhất định, là thói quen
quy định về tổ chức bộ máy Nhà ứng xử có tính chất lặp đi
nước), hoặc do Nhà nước thừa lặp lại hằng ngày; được
nhận (các phong tục tập quán, các bảo đảm thực hiện bằng
quan niệm, quy tắc đạo đức...) nên thói quen, bằng dư luận xã pháp luật luôn thể h ệ
i n ý chí của hội, bằng sức thuyết phục Nhà nước. của chúng và bằng các
- Pháp luật được Nhà nước bảo biện pháp cưỡng chế phi
đảm thực hiện bằng nhiều biện Nhà nước, của cộng đồng.
pháp, từ tuyên truyền, phổ biến, Vì thế, tập quán thường
giáo dục, thuyết phục, động viên, thể hiện ý chí của một
khen thưởng, tổ chức thực hiện cộng đồng dân cư trong
cho đến áp dụng các biện pháp những địa phương nhất cưỡng chế Nhà nước. định. Chủ thể ban
- Pháp luật có tính quy phạm phổ Tập quán thường chỉ có hành và tính
biến, nó có giá trị bắt buộc phải tác động trong một cộng
tôn trọng và thực hiện đối với mọi 4 bắt buộc
tổ chức và cá nhân có liên quan đồng dân cư ở một địa chung
trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. phương nhất định.
- Pháp luật có tác động bao trùm
lên toàn xã hội, tới mọi tổ chức và
cá nhân có liên quan trong xã hội;
đồng thời có tác động thường
xuyên, liên tục trên toàn lãnh thổ
và trong nhiều lĩnh vực hoạt động của xã hội.
Có những quan hệ xã hội pháp Có những quan hệ xã hội
luật điều chỉnh nhưng tập quán tập quán điều chỉnh
không điều chỉnh; ví dụ như nhưng pháp luật không
những quan hệ liên quan tới việc điều chỉnh; ví dụ như tập
tổ chức bộ máy Nhà nước. quán ma chay, cưới hỏi …
Tính hệ thống Pháp luật có tính hệ thống, bởi vì Tập quán không có tính hệ
pháp luật là một hệ t ố
h ng các quy thống. Ví dụ: tập quán về
phạm để điều chỉnh nhiều loại ma chay và tập quán về
quan hệ xã hội phát sinh trong các cưới hỏi là hoàn toàn khác
lĩnh vực khác nhau của đời sống biệt nhau và không có liên
như dân sự, kinh tế, lao động..., quan tới nhau.
song các quy phạm đó không tồn
tại một cách biệt lập mà giữa
chúng có mối liên hệ nội tại và
thống nhất với nhau để tạo nên
một chỉnh thể là hệ thống pháp luật.
Tính xác định Pháp luật có tính xác định về hình Tập quán không có tính
thức, tức là pháp luật thường được xác định về hình thức, bởi 5
thể hiện trong những hình thức vì nó tồn tại dưới dạng bất
nhất định, có thể là tập quán pháp, thành văn, được lưu
tiền lệ pháp hoặc văn bản quy truyền từ đời này sang đời phạm pháp luật. khác bằng hình thức
Trong các văn bản quy phạm pháp truyền miệng.
luật, các quy định của pháp luật
thường rõ ràng, cụ thể, bảo đảm
có thể được hiểu và thực hiện
thống nhất trong một phạm vi rộng.
Sự ra đời và Pháp luật chỉ ra đời và tồn tại Tập quán ra đời và tồn tại tồn tại
trong những giai đoạn lịch sử nhất trong tất cả các giai đoạn
định, giai đoạn có sự phân chia phát triển của lịch sử.
giai cấp, mâu thuẫn và đấu tranh giai cấp.
3. Mối quan hệ giữa tập quán và pháp luật
Giữa pháp luật và tập quán có mối quan hệ tác động qua lại với nhau. Sự tác động
của chúng có thể theo nhiều chiều hướng, tích cực hoặc tiêu cực, hỗ trợ hay cản
trở việc thực thi, xây dựng pháp luật.
3.1. Tập quán là nguồn hỗ trợ, bổ sung cho pháp luật
Ở Việt Nam hiện nay, sự phát triển ở các vùng miền, các dân tộc còn không
đồng đều, vẫn còn có sự chênh lệch không nhỏ về trình độ phát triển, đời sống
văn hóa, tinh thần giữa các vùng miền, cộng đồng dân cư. Vì vậy, không phải khi
nào và ở đâu, các quy phạm pháp luật với tính khái quát cao cũng hoàn toàn phù
hợp để điều chỉnh một cách chính xác, thỏa đáng những vấn đề pháp lý phát sinh
ở các vùng miền, các cộng đồng dân cư khác nhau đó. “Do vậy, mỗi một cộng
đồng làng xã cụ thể luôn cần đến các quy định cụ thể, gần gũi, dễ hiểu, dễ thực
hiện cho mọi thành viên trong làng, phản ánh được nhu cầu tổ chức và phát triển 6
của mỗi làng, xã cụ thể”. Điều này đặt ra nhu cầu tất yếu phải áp dụng tập quán
nhằm hỗ trợ cho pháp luật quản lý xã hội.
Sẽ khó để một Nhà nước có thể ban hành một hệ thống các quy phạm pháp
luật điều chỉnh được hết mọi vấn đề phát sinh trong xã hội, do đó, khi xây dựng
và ban hành các quy phạm pháp luật, các nhà làm luật không thể dự liệu hết được
các tình huống pháp lý phát sinh trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Nói cách khác,
Nhà nước không thể nào “luật hóa” được mọi lĩnh vực, mọi ngõ ngách của đời
sống xã hội, vì thế, trong thực tiễn sẽ luôn có những tình huống thiếu pháp luật
thành văn để điều chỉnh, trong khi đó tập quán lại rất phong phú và đa dạng, với
cơ chế điều chỉnh mềm dẻo, linh hoạt chính là nguồn hỗ trợ, bổ sung quan trọng
cho pháp luật trong điều chỉnh các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ dân sự nói riêng.
Ví dụ: Phong tục bảo vệ rừng thiêng của người H’mông.
3.2. Tập quán là tiền đề giúp cho pháp luật đi vào đời sống xã hội
Tập quán có tác động không nhỏ đến việc tiếp nhận và thi hành pháp luật của
người dân. Tập quán lạc hậu sẽ trở thành lực cản trong việc tiếp nhận và thi hành
pháp luật. Ngược lại, tập quán tiến bộ sẽ đóng vai trò tích cực trong việc tiếp nhận
và thi hành pháp luật một cách tự giác của người dân. Việc áp dụng “tập quán tốt
đẹp sẽ đóng vai trò tích cực trong việc xây dựng tình đoàn kết nội bộ, giải quyết
các tranh chấp bằng con đường hoà giải, giải quyết linh hoạt, kịp thời, có tình, có
lý các mâu thuẫn trong cộng đồng dân cư, phù hợp với điều kiện của từng địa
phương, bảo đảm ổn định trật tự xã hội và do vậy, sẽ hỗ trợ cho việc thực hiện
pháp luật, xây dựng ý thức pháp luật”.
Yếu tố tập quán chính là tiền đề, là điều kiện khách quan giúp cho pháp luật
của Nhà nước gần với đời sống của người dân hơn, dễ được người dân chấp nhận
hơn. Ví dụ: luật cấm đánh bắt cá với các hình thức, các phương pháp gây hại cho
nguồn lợi thủy sản như xung điện, chất nổ, hóa chất ... Nhữn
g tập quán rất cụ thể
như loại hình đánh bắt nào bị cấm và loại cá nào bị cấm. Vì vậy, vai trò bổ trợ và
hỗ trợ của hải quan là rất rộng. 7
3.3. Tập quán là nguồn nội dung của pháp luật
Gắn lịch sử hình thành và phát triển của mình, các quốc gia, dân tộc trên thế
giới đều có các tập quán riêng để quản lý đời sống xã hội trong cộng đồng của
họ. Ở Việt Nam hiện nay, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Nhà nước cũng đã thừa nhận rất nhiều những tập quán tốt đẹp có sẵn, biến chúng thành pháp luật.
Tập quán không chỉ là nguồn bổ sung cho pháp luật, là tiền đề khách quan đưa
pháp luật vào cuộc sống mà còn là nguồn nội dung của pháp luật, là “chất liệu
quý” để hoàn thiện một nền pháp luật tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Vì vậy,
trên cơ sở xác định đúng đắn vị trí, vai trò, giá trị của tập quán trong giai đoạn phát triển hiện nay.
Ví dụ: Nghị quyết 48 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 Bộ Chính trị đã chỉ rõ
cần “nghiên cứu về khả năng khai thác, sử dụng án lệ, tập quán và quy tắc của
các hiệp hội nghề nghiệp, góp phần bổ sung và hoàn thiện pháp luật”.
Dù xã hội đã có những biến đổi theo thời gian nhưng những giá trị tích cực
của tập quán xưa vẫn là “những mạch ngầm ẩn dưới tầng sâu của văn hoá dân tộc
và không hề dứt”. Bởi lẽ, “nhân dân Việt Nam vốn có tinh thần trân quý những
giá trị truyền thống, có những phương pháp lưu giữ tập quán rất bền vững. Chính
vì vậy, các tập quán tốt đẹp hoặc thuận lợi cho nhân dân hầu như không mai một.
Đây chính là điều kiện quan trọng để đảm bảo tính khả thi cho việc áp dụng tập quán”.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, không phải tập quán nào tồn tại trên thực tế cũng
tiến bộ, cũng hoàn toàn phù hợp để áp dụng trong điều kiện hiện nay. Ví dụ:
Trong lời “Tựa” cuốn “Việt Nam Phong Tục”, nhà nghiên cứu Phan Kế Bính
cũng đã khẳng định: “Đại để tục gì cũng vậy, phải trải lâu tháng lâu năm mới
thành được, mà trong những tục ấy cũng có tục hay, cũng có tục dở”.
Vì vậy, để phát huy được vai trò, giá trị của tập quán trong điều chỉnh các quan
hệ xã hội nói chung, quan hệ dân sự nói riêng, góp phần đảm bảo quyền lợi chính 8 đáng cho các chủ t ể
h , cũng như đảm bảo trật tự xã hội thì việc áp dụng tập quán
cần phải tuân theo những nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo trong quá trình áp
dụng tập quán có thể kế thừa được những tập quán “hay” và loại bỏ được những tập quán “dở”.
3.4. Tác động của pháp luật tới tập quán
Pháp luật có thể ghi nhận, bảo vệ, góp phần củng cố, phát huy vai trò, tác dụng
thực tế của các tập quán khi chúng phù hợp với ý chí của N
hà nước và được thừa nhận trong pháp luật.
Ví dụ: Các phong tục ăn Tết cổ truyền, Giỗ Tổ Hùng Vương khi được Nhà
nước thừa nhận thì sẽ được Nhà nước bảo đảm thực hiện, tạo điều kiện cho các
phong tục đó được củng cố, phát huy vai trò, tác dụng trong thực tế thông qua
việc cho phép người lao động, giáo viên, học sinh, sinh viên được nghỉ để ăn Tết,
ăn Giỗ, tổ chức các nghi lễ q ố
u c gia để kỷ niệm những ngày này.
Ngược lại, pháp luật cũng có thể góp phần hạn chế, loại trừ các tập quán trái
với thuần phong mỹ tục, lạc hậu, không phù hợp với tiến trình phát triển của xã
hội. Chẳng hạn, phong tục tảo hôn, cướp vợ, thách cưới… trái với ý chí của Nhà
nước ta nên được pháp luật loại trừ, thanh toán dần bằng quy định: Hôn nhân là
tự nguyện, trên cơ sở tình yêu giữa nam và nữ, cấm yêu sách của cải trong việc cưới hỏi…
3.5. Tác động của tập quán tới pháp luật
3.5.1. Đối với việc hình thành pháp luật
Nhiều phong tục tập quán mang bản sắc dân tộc, phù hợp với ý chí của Nhà
nước được thừa nhận trong pháp luật đã góp phần tạo nên pháp luật. Ví dụ, tập
quán xác định họ hoặc xác định dân tộc cho con, tập quán giải thích giao dịch dân sự… ở nước ta.
Những tập quán trái với ý chí của Nhà nước sẽ trở thành tiền đề để hình
thành nên những quy phạm thay thế chúng, từ đó góp phần và làm phong phú thêm cho pháp luật. 9
Ví dụ: tập quán sản xuất pháo và đốt pháo, phong tục thách cưới… ở nước ta
3.5.2. Đối với việc thực hiện pháp luật
Những tập quán phù hợp với ý chí của Nhà nước, được thừa nhận trong
pháp luật sẽ góp phần làm cho pháp luật được thực hiện một cách nghiêm chỉnh,
tự giác hơn, bởi vì các tập quán đó đã ngấm sâu vào tiềm thức của nhân dân thành
thói quen xử sự của họ.
Ngược lại, những phong tục tập quán trái với ý chí của Nhà nước sẽ cản
trở việc thực hiện pháp luật trong thực tế. Việc sản xuất pháo và đốt pháo ở nước
ta đã bị Nhà nước cấm từ lâu nhưng một số người vẫn lén lút thực hiện, đó là
hành vi vi phạm pháp luật nên đã cản trở việc thực hiện pháp luật.
Như vậy, pháp luật và phong tục tập quán cùng có vai trò, tác động qua lại với
nhau, phong tục tập quán là một phần trong việc hình thành pháp luật, còn pháp
luật lại là cơ sở giúp cho phong tục tập quán có sự phát triển toàn diện, phù hợp
với xã hội. Pháp luật không ngăn cấm, loại trừ mọi phong tục tập quán mà tồn tại
đồng hành với phong tục trong một thời gian nhất định, tạo điều kiện phát triển
những phong tục lành mạnh, có ý nghĩa, để nó có tồn tại mãi trong đời sống xã
hội, pháp luật chỉ ngăn cấm, loại bỏ những phong tục tập quán có hại cho xã hội,
không phù hợp với tiến bộ của xã hội. Trong một số trường hợp thì pháp luật và
phong tục tập quán phải vận dụng kết hợp với nhau và với các quy phạm xã hội
khác để đạt hiệu quả điều chỉnh cao nhất.
4. Thực trạng thực hiện tập quán ở Việt Nam hiện nay
4.1. Tập quán được quy định trong luật :
Từ ngàn đời xưa, những phong tục tập quán đã in sâu trong tâm thức người
dân Việt Nam, nhiều phong tục tập quán đã được pháp luật công nhận hoàn toàn
hoặc sửa đổi cho phù hợp với nguyện vọng của Nhà nước.
Ví dụ: Phong tục tập quán đã quy định những thủ tục khi cô dâu và chú rể kết
hôn. Đó là phong tục tập quán mang tính bản sắc truyền thống dân tộc, nên dễ 10
dàng đi vào cuộc sống và được mọi người tự giác thực hiện. Đồng thời, chính
quyền không cấm việc tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán ngày xưa, mà
chỉ ban hành “quy chế thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới hỏi”. Theo
đó, quy định rằng: “Các thủ tục có tính phong tục tập quán như chạm ngõ, lễ hỏi,
xin dâu cần được tổ chức đơn giản và gọn nhẹ” và “việc cưới cần được tổ chức
trang trọng, vui tươi, lành mạnh, phù hợp với phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc”.
Một số phong tục tập quán lạc hậu đã được pháp luật điều chỉnh. Ví dụ: Điều
19, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Vợ, chồng bình đẳng với
nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt trong gia đình”.
Việc thừa nhận phong tục tập quán là nguồn hình thức của pháp luật đã được
thể hiện cụ thể trong một số đạo luật của nước ta. Ví dụ: Điều 3 Bộ Luật Dân sự
2005 quy định: “Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không
có thoả thuận thì có thể áp dụng tập quán; nếu không có tập quán thì áp dụng quy
định tương tự của pháp luật. Tập quán và quy định tương tự của pháp luật không
được trái với những nguyên tắc quy định trong Bộ Luật này.”, hoặc Điều 6 Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000: “Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, những
phong tục tập quán thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc mà không trái với những
nguyên tắc quy định của Luật này thì được tôn trọng và phát huy”.
4.2. Việc áp dụng tập quán pháp:
Khoản 1, Điều 9 Luật Giao thông đường bộ, phần quy tắc chung có viết:
“Người tham gia giao thông phải đi bên phải theo chiều đi của mình, đi đúng làn
đường, phần đường quy định và phải chấp hành hệ t ố
h ng báo hiệu đường bộ”.
Từ trước khi Bộ Luật Giao thông đường bộ được soạn thảo, người dân đã có
ý thức đi bên phải theo chiều đi của mình. Và từ đó, khi chính phủ bắt đầu soạn
thảo hiến pháp và cụ thể hơn là pháp luật thì điều này đã được quy định sớm nhất
trong Bộ Luật Giao thông đường bộ năm 2001 và cho đến hiện tại điều luật đó
vẫn đang được quy định và thực hiện hàng ngày.
Thực trạng có hai xu hướng thường xảy ra liên quan đến việc áp dụng các quy
phạm pháp luật có viện dẫn tập quán: 11
• Thứ nhất, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành ra một văn bản
quy phạm pháp luật mới, điều chỉnh luôn vấn đề được quy định là áp dụng theo tập quán.
• Thứ hai, tránh áp dụng tập quán mặc dù đã được pháp luật cho phép áp dụng tập quán.
Có hiện tượng này do nhiều nguyên nhân, trong đó, có một nguyên nhân quan
trọng là đối với cơ quan xét xử, hiệu quả của việc áp dụng tập quán chưa cao.
Một nguyên nhân cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của việc áp dụng
tập quán, gây ra tâm lý né tập quán, đó là do các quy định liên quan đến việc áp
dụng tập quán còn chưa rõ ràng, minh bạch.
4.3. Ví dụ về việc áp dụng tập quán trong xét xử dân sự
Để tập quán pháp phát huy hiệu quả cao khi tham gia điều chỉnh các quan hệ
xã hội trong lĩnh vực dân sự, cần có một hệ thống giải pháp đồng bộ, trong đó có
những giải pháp quan trọng như:
• Một là, xây dựng các quy phạm pháp luật định nghĩa về tập quán, tập quán pháp.
• Hai là, tập hợp tập quán theo các tiêu chí cụ thể.
• Ba là, lựa chọn hội thẩm nhân dân trong trường hợp giải quyết vụ việc
dân sự có áp dụng tập quán.
• Bốn là, phát huy vai trò của các cá nhân, tổ chức có uy tín trong việc áp dụng tập quán.
• Năm là, hoàn thiện pháp luật quy định về tập quán theo nguyên tắc hài
hòa, phù hợp, tránh xu hướng coi nhẹ cũng như quá đề cao vai trò của tập quán.
4.3.1. Tập quán về chuyển giao quyền sở hữu và chuyển giao quyền sử dụng tài sản
Đồng bào dân tộc Mường ở Hoà Bình có truyền thống tổ chức lễ hội sau
khi đã thu hoạch xong vụ mùa hàng năm. Trong lễ hội của người Mường, không
thể thiếu tiếng cồng (chiêng). Vào ngày lễ hội, ông A cho ông B mượn chiêng để 12
sử dụng. Sau lễ hội, ông B mang chiêng trả cho ông A. Ông A không ở nhà, ông
B tự mang chiêng vào trong nhà ông A và treo lên chỗ để chiêng. Ba ngày sau,
ông A yêu cầu ông B phải bồi thường thiệt hại do khi ông B sử dụng đã làm mặt
chiêng bị nứt, vỡ, nhưng ông B không chấp nhận yêu cầu của ông A.
Trường hợp này cũng thiếu căn cứ để yêu cầu ông B bồi thường, vì khi
chuyển giao chiêng cho ông B, các bên không có bất kỳ văn bản nào xác định
thực trạng của chiêng. Tuy nhiên, nếu áp dụng tập quán thì lại có cơ sở b ộ u c ông
B có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho ông A do sử dụng chiêng mà gây thiệt hại.
Theo tập quán của người Mường (Hoà Bình) thì khi mượn chiêng, cả bên
cho mượn và bên mượn phải mang chiêng ra trước cửa hoặc sân của chủ cho
mượn, chủ của chiêng gõ chiêng một hồi ba tiếng hoặc ba hồi chín tiếng và tiếng
chiêng ngân lên ở tần số cao nhất. Nếu các bên hoặc một bên sau khi nghe xong
hồi chiêng mà không cảm thấy chiêng bị rè do bị vỡ, bị nứt thì việc chuyển giao
chiêng bình thường. Ngược lại, khi bên mượn chiêng trả lại chiêng thì cũng phải
làm thủ tục tương tự như khi mượn, là gõ một hồi ba tiếng hoặc ba hồi chín tiếng
để mọi người cùng nghe xem tiếng chiêng có bị rè hoặc khác biệt so với khi mượn
không. Căn cứ vào tập quán trên, ông B khi trả chiêng đã không thực hiện nghi
thức theo tập quán, do vậy chiêng bị rè, nứt vỡ là do ông B trong khi sử dụng đã
làm hư hỏng, theo đó ông B có trách nhiệm phải bồi thường cho ông A.
Vụ việc trên đã thể hiện việc áp dụng tập quán là rất thực tế và phù hợp,
giải quyết thoả đáng các tranh chấp phát sinh. Dù các tập quán được áp dụng để
giải quyết các tranh chấp trên rất khác các quy định của pháp luật, ngoài pháp
luật, nhưng không trái pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Tập quán được áp
dụng để giải quyết những tranh chấp trên đây là rất tinh tế và được áp dụng đã mang lại hiệu quả cao.
4.3.2. Tập quán về bồi thường
Hai dân tộc Êđê và M’nông ở Tây Nguyên đều có luật tục về bồi thường
thiệt hại: người gây thiệt hại là người có trách nhiệm bồi thường; mức bồi thường 13
cũng căn cứ vào hình thức lỗi của người gây thiệt hại; ngoài khoản bồi thường
vật chất, người gây thiệt hại còn phải thực hiện những nghi lễ nhất định để chuộc
lỗi; bồi thường thiệt hại cũng theo nguyên tắc toàn bộ và kịp thời.
Ví dụ: Luật tục M’nông quy định hành vi của người đốt rẫy, để cháy sang
rẫy của người khác là có lỗi vô ý, phải bồi thường: “rẫy cháy không sạch phải
dọn; chòi bị cháy phải đền; không được đòi quá đáng; không được bắt đền to”.
Hoặc: “Nuôi lợn cố tình thả rông; nuôi trâu cố tình thả rông; nuôi voi cố tình thả
hoang, chúng ăn rẫy phải chịu, phá chòi phải đền. Lợn, trâu, voi làm sai, chủ phải đền.”
Luật tục Êđê và M’nông đều quy định về trách nhiệm do gây thiệt hại về
tài sản và mức bồi thường thiệt hại. Thiệt hại do con người gây ra gồm: đốt rẫy
cháy lan sang rẫy của người khác, đánh thuốc độc bắt cá suối, không chăm sóc
trâu bò bị dịch, trâu bò bị dịch không thông báo, gây hại do cháy rừng, không tắt
lửa nhà mình mà gây thiệt hại, gây thiệt hại về gia súc, gia cầm cho người khác,
thả rông trâu, bò khi chưa đến mùa, giết gia súc trong vườn, rẫy của người khác.
Những thiệt hại do con người gây ra được xác định dựa trên các yếu tố lỗi. Lỗi
của người gây thiệt hại về tài sản phần nhiều là lỗi vô ý.
4.3.3. Một số tập quán phổ biến khác
Với bề dày lịch sử hàng ngàn năm, các dân tộc Việt Nam có hệ thống tập
quán rất đa dạng, phong phú và nhiều tập quán hàm chứa yếu tố hiện đại, văn
minh. Vì vậy, khi xây dựng và ban hành pháp luật, không thể không tham khảo
tập quán để luật phù hợp hơn với đời sống xã hội.
Hơn nữa, ở nông thôn đang tồn tại rất nhiều “hương ước” của mỗi xã, mỗi
làng. Những hương ước này đều có nội dung và mục đích củng cố tình làng, nghĩa
xóm và có tính giáo dục cao trong cộng đồng, chứa đựng rất nhiều tập quán tốt
đẹp trong cộng đồng dân cư. Vì vậy, khi áp dụng tập quán cũng cần phải quan
tâm đến hương ước của cộng đồng, bởi các hương ước được hình thành trên cơ
sở thoả thuận của cộng đồng dân cư đơn vị làng, xã. Trong các hương ước hàm 14
chứa một số nội dung đã trở thành tập quán có giá trị như các quy định của pháp luật. Ví dụ:
4.3.3.1. Tập quán giải quyết tranh chấp về vật nuôi, cây trồng
Thông thường, khi tranh chấp đồi cây hoặc rừng cây (rừng nguyên sinh,
rừng cây tái sinh mà không rõ ranh giới) thì tập quán giải quyết tranh chấp sẽ là xác định điểm cao n ấ
h t trên đỉnh đồi rồi chia đôi, lấy nước đổ lên đỉnh cao nhất
được xác định, nước sẽ chảy cả ra hai phía, tách quả đồi làm hai theo vệt chảy.
Phía dưới xác định là chỗ trũng nhất (khe suối) cũng theo phương pháp xác định
giữa dòng chia đôi (phong tục này áp dụng cho cả việc tranh chấp sông, suối giữa
địa giới hành chính cả làng, xóm, xã).
Việc tranh chấp về địa giới liên quan đến địa hình của điều kiện tự nhiên
như đồi, rừng rất phức tạp vì mốc giới hoặc không có hoặc đã bị mất dấu vết, cho
nên việc áp dụng tập quán trên đây (của đồng bào Mường tỉnh Hoà Bình) theo
chúng tôi là có hiệu quả cao, giữ được mối đoàn kết trong nhân dân, tôn trọng tập
quán của nhân dân và giải quyết được triệt để tranh chấp phát sinh thuộc lĩnh vực
đồi, rừng. Mục đích của pháp luật cũng chỉ cần như vậy.
Khi có tranh chấp vật nuôi, tập quán được áp dụng thường là theo
nguyên tắc "mẹ nào, con nấy". Tức là đàn lợn con hay nghé, bê vừa sinh ra hoặc
đã lớn đi theo con mẹ nào thì xác định con mà nó đi theo là mẹ nó và con mẹ nào
thuộc đàn nhà ai thì đương nhiên con mà nó đi theo thuộc nhà đó. Có tập quán
này vì thói quen chăn thả rông (trâu bò, lợn) nên các loài gia súc, gia cầm này
sinh nở tự nhiên trên đồi núi, nên phải xác định chủ của chúng. Đây là một tập
quán rất văn minh. Tập quán này dựa trên bản năng của động vật, nằm ngoài ý
chí của con người, ngăn chặn được những hành vi trái pháp luật muốn chiếm đoạt
tài sản của người khác. Tập quán này (của đồng bào Mường tỉnh Hoà Bình) rất
có hiệu quả điều chỉnh các tranh chấp liên quan đến gia súc, gia cầm. Vì vậy, theo
chúng tôi, tập quán này nên được ưu tiên áp dụng. Áp dụng tập quán này khi giải
quyết sẽ không bị phụ thuộc vào chủ quan của con người, của cơ quan xét xử.
4.3.3.2. Việc xâm hại, làm ảnh hưởng mồ, mả 15
Mồ mả là nơi linh thiêng, vì vậy, bất cứ hành vi xâm hại nào như: phóng
uế, đào củ, rễ cây vào khu vực mồ mả thì sẽ bị cộng đồng phạt bằng một con lợn.
Căn cứ vào tính chất mức độ xâm phạm mà có thể phạt con lợn to hoặc nhỏ.
Thông thường, kích thước con lợn bị bắt phạt tính bằng nấm (gang tay), thường
là từ 3 - 4 nấm tay tính từ mông lợn đến đầu con lợn (một nấm có thể tương đương 10kg lợn hơi). 5. Kết luận
Tóm lại, phong tục tập quán và pháp luật là hai hình thức giữ vai trò công cụ quan
trọng, không thể thiếu trong việc điều chỉnh những hành vi ứng xử, đạo đức của
con người. Một dân tộc với những tinh hoa của phong tục tập quán và những giá
trị nghiêm minh của pháp luật song song tồn tại sẽ là động lực thúc đẩy quá trình
hội nhập với nền văn minh tiên tiến của nhân loại mà Việt Nam là một điển hình tiêu biểu. 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Luật Dân sự (số 91/2015/QH13) ngày 24/11/2015
2. Luật Giao thông đường bộ (số 26/2001/QH10) ngày 29/06/2001
3. So sánh pháp luật với phong tục, tập quán và phân tích mối quan hệ giữa chúng,
https://luanvan.co/luan-van/so-sanh-phap-luat-voi-phong-tuc-tap-quan-va- phan-tic -
h moi-quan-he-giua-chung-9212/, 22/11/2022
4. Luật sư Lê Kiều Hoa (2021), So sánh pháp luật với đạo đức và tập quán,
https://luatminhkhue.vn/so-san -
h phap-luat-voi-dao-duc-va-tap-quan.aspx#22- diem-khac-nhau, 22/11/2022
5. 2013, Mối quan hệ giữa pháp luật và phong tục tập quán,
https://123docz.net/document/289810-moi-quan-he-giua-phap-lua - t va-phong- tuc-tap-quan.htm, 22/11/2022
6. ThS. LS. Phạm Quang Thanh (2020), Phân tích mối quan hệ giữa pháp luật và
tập quán, https://iluatsu.com/kien-thuc-chung/phan-tich-moi-quan-he-giua- phap-lua - t va-tap-quan/, 22/11/2022
7. PGS, TS. Phùng Trung Tập (2015), Phong tục, tập quán và áp dụng tập quán trong công tác xét xử án dân sự,
http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=208328&fbclid=IwAR3
FHa1HQthSQ6TDBZlGpvZNXlPAK6oWudfgVBRpVc74- 4oZN1l2zNXoNCU, 24/11/2022
8. Luật sư Lê Kiều Hoa (2021), Áp dụng tập quán để giải quyết các quan hệ dân
sự, https://luatminhkhue.vn/ap-dung-tap-quan-de-giai-quyet-cac-quan-he-dan-
su.aspx#:~:text=%E1%BB%9E%20Lai%20Ch%C3%A2u%2C%20ng%C6%B
0%E1%BB%9Di%20d%C3%A2n,nghi%20th%E1%BB%A9c%20c%E1%BB
%A7a%20t%E1%BA%ADp%20qu%C3%A1n., 24/11/2022 17