
















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61256830
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN, CHẤT LƯỢNG CAO & POHE -----***----- BÀI TẬP LỚN
Môn học: Kinh tế chính trị Mác-Lênin
Tên sinh viên : Nguyễn Ngọc Anh Thư
Mã sinh viên : 11230394 Số thứ tự : 40
Lớp học phần : LLNL1106 (223)
Lớp : Quản trị Marketing 65B Hà Nội, 4/2024 lOMoAR cPSD| 61256830 1 Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................................2
1. Đặt vấn đề.......................................................................................................................2
2. Phạm vi nghiên cứu..........................................................................................................3
3. Phương pháp nghiên cứu..................................................................................................3
ĐỀ BÀI...................................................................................................................................4
BÀI LÀM – NỘI DUNG.......................................................................................................5
Câu 1....................................................................................................................................5
1. Các bộ phận của lượng giá trị hàng
hóa........................................................................5
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng
hóa........................................................5
Câu 2....................................................................................................................................5
1. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư ................................................................................. 8
2. Ý nghĩa của hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư đối với các doanh nghiệp sảnxuất
ở nước ta ................................................................................................................................. 11
KẾT LUẬN .................................................................................................................... 15 lOMoAR cPSD| 61256830 2 LỜI MỞ ĐẦU 1. Đặt vấn đề
C. Mác - nhà kinh tế chính trị học, nhà triết học thiên tài Đức đã để lại cho nhân loại
biết bao học thuyết mà đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Chúng ta, ai cũng biết rằng: bất cứ một
học thuyết kinh tế nào ra đời hay hình thành cũng đều dựa trên hai tiền đề là thực tiễn và học
thuyết. Bởi lẽ tư duy học thuyết bắt nguồn từ thực tiễn rồi quay trở lại thực tiễn để kiểm
nghiệm tính đúng đắn của học thuyết. Hơn nữa một đặc điểm kinh tế của C. Mác là tính kế
thừa và tính phê phán: kế thừa cái đã có, còn đúng và phê phán để tìm ra những hạn chế của
học thuyết đã có để lọc bỏ, bổ sung, sáng tạo, phát triển và hoàn thiện.
Từ đầu năm 1857, C. Mác đã tập trung tinh thần sức lực vào việc nghiên cứu kinh tế
chính trị học. Trong một bức thư gửi cho Ph.Ăngghen, C.Mác đã viết: “Tôi làm việc như thằng
điên thâu đêm tổng kết những công trình nghiên cứu kinh tế của tôi để có được sự sáng tỏ ít
ra là trong những vấn đề cơ bản từ thời thượng cổ”.
Bắt đầu cho sự nghiên cứu là Kinh tế chính trị tư sản cổ điển ở Anh mở đầu từ
W.Petty (1623-1687) đến A.Smith (1723-1790) và kết thúc ở D.Ricardo (1772-1823) được
C.Mác thể hiện một cách sâu sắc và thành công trong cả hai chương (chương về hàng hoá và
chương về tiền tệ - hay lưu thông giản đơn), nhưng rõ nét và cô đọng nhất là trong Lời tựa của
tác phẩm. Những hạn chế cơ bản của trường phái kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh được
C.Mác phê phán, kế thừa và phát triển. Trong lý luận về giá trị lao động của C.Mác, kiến thức
về lượng giá trị hàng hóa giúp ta biết được tầm quan trọng của thời gian lao động xã hội cân
thiết, các bộ phận bao gốm trong lượng giá trị hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến nó. Từ
đó, sinh viên trang bị được cho mình kiến thức cần thiêt cho hoạt động kinh doanh, sản xuất
sau này một cách hợp lý, đúng đắn.
Một học thuyết trong bộ "Tư bản" là học thuyết giá trị thặng dư. Học thuyết giá trị thặng
dư của C. Mác ra đời trong bối cảnh lịch sử Tây Âu của những năm 40 thế kỷ XIX:
Về thực tiễn kinh tế: lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất dựa trên thành quả của cuộc
cách mạng công nghiệp đã hoàn thành. Chính nó đã tạo ra cơ sở vật chất để các phạm trù kinh
tế với tư cách là bản chất của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa bộc lộ khá rõ nét.
Về thực tiễn chính trị - xã hội: là thời kỳ có nhiều biến đổi về chính trị và xã hội đã và
đang diễn ra (Cách mạng phản phong kến của Pháp, Công xã Paris và phong trào công nhân lOMoAR cPSD| 61256830 3
Pháp, Phong trào hiến chương, Cuộc cách mạng tư sản 1848 mang tính toàn châu Âu). Đó là
những chất liệu quý giá cho sự hình thành các học thuyết của C. Mác.
Về tiền đề lý luận: C. Mác đã dựa vào kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh (W. Petty,
A.Smith, D.Ricardo), chủ nghĩa xã hội không tưởng của Pháp, Triết học cổ điển Đức (Hêghen
và Phoiơbắc). C. Mác đã kế thừa những tư tưởng của nhân loại, sửa đổi, bổ sung và phát triển
học thuyết kinh tế của mình ở trình độ cao hơn.
Kể từ khi học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác ra đời đến nay, thế giới đã trải qua
những biến đổi sâu sắc. Rất nhiều những sự kiện đã khẳng định tính đúng đắn của những kết
luận rút ra từ học thuyết giá trị thặng dư như: những cuộc “khủng hoảng giẫy chết” của chủ
nghĩa tư bản thế giới đầu thế kỷ XX; sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa hiện thực; phong
trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản chủ nghĩa; sự
tan rã của hệ thống thuộc địa;…Nhờ nó mà phương thức sản xuất của tư bản chủ nghĩa được
nêu ra một cách chính xác, mà trong đó hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư được áp
dụng rộng rãi, nhằm tạo ra tư bản và tái mở rộng sản xuất, đưa xã hội tư bản ngày càng phát
triển. Do đó, phương pháp sản xuất giá trị thặng dư cùng với tính thực tiễn của nó có ý nghĩa,
vai trò quan trọng trong sản xuất và kinh doanh trong nền kinh tế thị trường nói chung và trong
nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa nói riêng. 2.
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của bài tập lớn này bao gồm kiến thức nằm trong Chương 2 Hàng
hóa, thị trường và vai trò của các chủ thể tham gia thị trường - đối với kiến thức về lượng giá
trị hàng hóa; và Chương 3 - Giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường - đối với kiến thức
về phương pháp sản xuất giá trị thặng dư. 3.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của bài tập này sử dụng phương pháp thu thập lý thuyết, thu
thập, phân tích và tổng hợp kiển thức từ một số nguồn tài liệu tham khảo khác nhau để làm cơ
sở lý luận cho đề tài. lOMoAR cPSD| 61256830 4 ĐỀ BÀI
Câu 1 (5 điểm):
Lượng giá trị hàng hóa gồm bộ phận nào? Vì sao lượng giá trị hàng hóa gồm những bộ phận đó?
Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa
Câu 2 (5 điểm):
Phân tích hai phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư. Vì sao nói giá trị thặng dư siêu
ngạch là hình thức đặc biệt của giá trị thặng dư tương đối?
Làm rõ 2 phương pháp này có ý nghĩa như thế nào đối với các doanh nghiệp sản xuất ở nước ta? lOMoAR cPSD| 61256830 5 BÀI LÀM
Câu 1 (5 điểm): 1.
Các bộ phận của lượng giá trị hàng hóa:
Để sản xuất ra hàng hóa cần phải chi phí lao động, bao gồm lao động quá khứ và lao động sống:
Lao động quá khứ tồn tại trong các yếu tố tư liệu sản xuất như máy móc, công cụ,
nguyên vật liệu. Lao động sống hao phí trong quá trình chế biến tư liệu sản xuất thành sản phẩm mới.
Trong quá trình sản xuất, lao động cụ thể của người sản xuất có vai trò bảo tồn và di
chuyển giá trị của tư liệu sản xuất vào sản phẩm, đây là bộ phận giá trị cũ trong sản phẩm (ký
hiệu là c), còn lao động trừu tượng (biểu hiện ở sự hao phí lao động sống trong quá trình sản
xuất ra sản phẩm) có vai trò làm tăng thêm giá trị cho sản phẩm, đây là bộ phận giá trị mới
trong sản phẩm (ký hiệu là V + m).
Vì vậy, cấu thành lượng giá trị hàng hóa bao gồm hai bộ phận: giá trị cũ tái hiện (hao
phí lao động của quá khứ) và giá trị mới (hao phí lao động mới kết tình thêm). 2.
Các yếu tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa:
Do thời gian lao động xã hội cần thiết luôn thay đổi, nên lượng giá trị của hàng hóa
cũng là một đại lượng không cố định. Sự thay đổi lượng giá trị của hàng hóa tùy thuộc vào những nhân tố: -
Năng suất lao động
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động. Nó được đo bằng số lượng sản
phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc lượng thời gian lao động hao phí để sản xuất
ra một đơn vị sản phẩm.
Có hai loại năng suất lao động: năng suất lao động cá biệt và năng suất lao động xã hội.
Trên thị trường, hàng hóa được trao đổi không phải theo giá trị cá biệt mà là giá trị xã hội. Vì
vậy, năng suất lao động có ảnh hưởng đến giá trị xã hội của hàng hóa chính là năng suất lao động xã hội.
Năng suất lao động xã hội càng tăng, thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra
hàng hóa càng giảm, lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng ít. Ngược lại, năng suất lao
động xã hội càng giảm, thì thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa càng
tăng và lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng nhiều. Lượng giá trị của một đơn vị hàng
hóa tỷ lệ thuận với số lượng lao động kết tinh và tỷ lệ nghịch với năng suất lao động xã hội. lOMoAR cPSD| 61256830 6
Như vậy, muốn giảm giá trị của mỗi đơn vị hàng hóa xuống, thì ta phải tăng năng suất lao
động xã hội. Năng suất lao động lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: •
Trình độ khéo léo (thành thạo) trung bình của người công nhân •
Mức độ phát triển của khoa học, kỹ thuật, công nghệ •
Mức độ ứng dụng những thành tựu khoa học, kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất •
Trình độ tổ chức quản lý •
Quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất
Các điều kiện tự nhiên.
Vì vậy, muốn tăng năng suất lao động phải hoàn thiện các yếu tố trên.
Tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động tác động khác nhau đối với lượng
giá trị hàng hóa. Cường độ lao động là khái niệm nói lên mức độ khẩn trương, là sự tích cực
của hoạt động lao động trong sản xuất. Vì vậy, khi cường độ lao động tăng lên, thì lượng lao
động hao phí trong cùng một đơn vị thời gian cũng tăng lên và lượng sản phẩm được tạo ra
cũng tăng lên tương đương, còn lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm thì không đổi. Xét về
bản chất, tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài thời gian lao động. -
Cường độ lao động
Cường độ lao động là đại lượng chỉ mức độ khẩn trương, là sự tích cực của hoạt động
lao động trong sản xuất trong một đơn vị thời gian. Nó cho thấy mức độ khẩn trương, nặng
nhọc hay căng thẳng của lao động. Cường độ lao động tăng lên tức là mức hao phí sức cơ bắp,
thần kinh trong một đơn vị thời gian tăng lên, mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng thẳng của lao động tăng lên.
Nếu cường độ lao động tăng lên thì số lượng (hoặc khối lượng) hàng hóa sản xuất ra
tăng lên và sức hao phí lao động cũng tăng lên tương ứng, vì vậy giá trị của một đơn vị hàng
hóa vẫn không đổi. Tăng cường độ lao động thực chất cũng như kéo dài thời gian lao động
cho nên hao phí lao động trong một đơn vị sản phẩm không đổi.
Tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động giống nhau là đều dẫn đến lượng
sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng lên. Nhưng chúng khác nhau là tăng năng
suất lao động làm cho lượng sản phẩm (hàng hóa) sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng
lên, nhưng làm cho giá trị của một đơn vị hàng hóa giảm xuống.
Tăng năng suất lao động có thể phụ thuộc nhiều vào máy móc, kỹ thuật, do đó, nó gần
như là một yếu tố có "sức sản xuất" vô hạn, còn tăng cường độ lao động, làm cho lượng sản
phẩm sản xuất ra tăng lên trong một đơn vị thời gian, nhưng giá trị của một đơn vị hàng hóa không đổi. lOMoAR cPSD| 61256830 7
Tăng cường độ lao động phụ thuộc nhiều vào thể chất và tinh thần của người lao động,
do đó, nó là yếu tố của "sức sản xuất" có giới hạn nhất định. chính vì vậy, tăng năng suất lao
động có ý nghĩa tích cực hơn đối với sự phát triển kinh tế. -
Độ phức tạp của lao động
Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến lượng giá trị của hàng
hóa. Theo mức độ phức tạp của lao động, có thể chia lao động thành lao động giản đơn và lao động phức tạp. •
Lao động giản đơn là lao động mà một người lao động bình thường không cần
phải trải qua đào tạo cũng có thể thực hiện được. Lao động giản đơn là sự hao
phí lao động một cách thông thường mà bất kỳ một người lao động bình thường
nào không cần phải được đào tạo cũng có thể làm được. •
Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện mới có thể
tiến hành được. Đây là lao động phải được đào tạo, huấn luyện thành lao động lành nghề.
Giá trị hàng hóa được xét cả về mặt chất và mặt lượng. Khi nghiên cứu tính chất hai
mặt của lao động sản xuất hàng hóa, có một vấn đề đặt ra là: phải chăng trong cùng một đơn
vị thời gian lao động, thì bất cứ ai làm việc gì, nghề gì cũng đều tạo ra một lượng giá trị như nhau?
C.Mác chỉ rõ: trong một giờ lao động, người thợ sửa chữa đồng hồ tạo ra nhiều giá trị
hơn người rửa bát. Bởi vì, lao động của người rửa bát là lao động giản đơn, có nghĩa là bất kỳ
một người bình thường nào, không phải trải qua đào tạo, không cần có sự phát triển đặc biệt,
cũng có thể làm được. Còn lao động của người thợ sửa chữa đồng hồ là lao động phức tạp đòi
hỏi phải có sự đào tạo, phải có thời gian huấn luyện tay nghề.
Trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn.
Lao động phức tạp thực chất là lao động giản đơn được nhân lên. Trong quá trình trao đổi
hàng hóa, mọi lao động phức tạp đều được quy về lao động đơn giản trung bình, và điều đó
được quy đổi một cách tự phát sau lưng những hoạt động sản xuất hàng hóa, hình thành những
hệ số nhất định thể hiện trên thị trường.
Câu 2 (5 điểm): lOMoAR cPSD| 61256830 8 1.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư:
Mục đích của nhà tư bản là gia tăng giá trị thặng dư. Vì vậy, nhà tư bản sử dụng nhiều
phương pháp để tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư. Có hai phương pháp chính để sản
xuất giá trị thặng dư: giá trị thặng dư tuyệt đối và giá trị thặng dư tương đối. -
Phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối:
Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi kỹ thuật còn thấp,
kỹ thuật chậm chạp thì phương pháp chủ yếu để tăng giá trị thặng dư là là phương pháp giá trị
thặng dư tuyệt đối. Giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp kéo dài thời gian lao động thặng
dư, tức là thời gian mà công nhân làm việc vượt quá thời gian cần thiết để bù đắp giá trị sức lao động của họ.
Để có nhiều giá trị thặng dư, người mua hàng hóa sức lao động phải tìm mọi cách để
kéo dài thời gian lao động và tăng cường độ lao động.
Một ví dụ cụ thể: Ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ, thời gian
lao động thặng dư là 4 giờ, mỗi giờ công nhân tạo ra một giá trị mới là 10 đơn vị, thì giá trị
thặng dư tuyệt đối là 40 và tỷ suất giá trị thặng dư là: m' = x 100 % = 100%
Nếu kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ nữa, mọi điều kiện khác vẫn như cũ, thì giá trị
thặng dư tuyệt đối tăng lên 60 và m' cũng tăng lên thành: m' = x 100 % = 150 %
Tuy nhiên, ngày lao động chịu giới hạn về mặt sinh lý (công nhân bị hạn chế về thể lực,
sức khỏe; công nhân cần có thời gian ăn, ngủ, nghỉ, giải trí,...) nên không thể kéo dài bằng
ngày tự nhiên, còn cường độ lao động cũng không thể tăng vô hạn vượt quá sức chịu đựng của con người.
Hơn nữa, công nhân kiên quyết đấu tranh đòi rút ngắn ngày lao động. Quyền lợi hai
bên có mâu thuẫn, thông qua đấu tranh, tùy vào tương quan lực mà tại các dân tộc trong từng
giai đoạn lịch sử cụ thể có thể quy định độ dài nhất định của ngày lao động. lOMoAR cPSD| 61256830 9 -
Phương pháp giá trị thặng dư tương đối:
Khi sản xuất tư bản chủ nghĩa đã phát triển đến giai đoạn công nghiệp cơ khí, kỹ thuật
đã tiến bộ làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, thì các nhà tư bản chuyển sang
phương pháp mới để tăng giá trị thặng dư bằng cách tăng năng suất lao động xã hội, tức là
phương pháp giá trị thặng dư tương đối. Giá trị thặng dư tương đối là phương pháp giảm giá
trị sức lao động bằng cách nâng cao năng suất lao động, tức là giảm thời gian cần thiết để sản xuất một hàng hóa.
Ví dụ, ngày lao động là 10 giờ, trong đó 5 giờ là lao động tất yếu, 5 giờ là lao động
thặng dư. Nếu giá trị sức lao động giảm đi 1 giờ thì thời gian lao động tất yếu xuống còn 4
giờ. Do đó, thời gian lao động thặng dư tăng từ 5 giờ lên 6 giờ và m' tăng từ 100% lên 150%.
Theo phương pháp giá trị thặng dư tương đối, giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời
gian lao động cần thiết trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi. Muốn rút ngắn thời
gian lao động cần thiết phải giảm giá trị sức lao động. Muốn hạ thấp giá trị sức lao động phải
giảm giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết của công nhân. Muốn vậy phải tăng năng suất
lao động trong các ngành sản xuất ra những tư liệu tiêu dùng hay tăng năng suất lao động trong
các ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt đó.
Sở dĩ phương pháp này là đặc trưng của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa vì bản chất của
nó là làm tăng năng suất lao động khiến cho thời gian lao động cá biệt giảm xuống, dẫn đến
thời gian lao động tất yếu giảm. Đồng thời, đối với sản xuất giá trị thặng dư tương đối, thời
gian lao động không đổi thậm chí có thể giảm và vẫn có giới hạn dưới là thời gian lao động
tất yếu còn giới hạn trên chỉ tương đối nên nó phù hợp với khả năng lao động của người công
nhân, giúp họ có thời gian tái sản xuất sức lao động. Phương pháp này được áp dụng trong
suốt thời kỳ chủ nghĩa tư bản, phù hợp với khả năng lao động của công nhân và mang lại lợi nhuận cao.
Trong thực tế, việc cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động ở một hoặc vài xí nghiệp,
làm cho các hàng hóa ở các xí nghiệp ấy sản xuất ra có giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội,
và do đó, sẽ thu được một giá trị thặng dư trội hơn so với các xí nghiệp khác. Phần giá trị
thặng dư trội hơn đó là giá trị thặng dư siêu ngạch. -
Giá trị thặng dư siêu ngạch:
Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá thặng dư thu được do tăng năng suất lao động
cá biệt, làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị thị trường của nó.
Xét từng trường hợp đơn vị sản xuất cá biệt, giá trị thặng dư siêu ngạch là một hiện
tượng tạm thời, xuất hiện rồi mất đi. Bởi lẽ, trong môi trường cạnh tranh khốc liệt như hiện lOMoAR cPSD| 61256830 10
nay với sự xuất hiện có nhiều tập đoàn, công ty lớn kinh doanh cùng một loại sản phẩm khiến
cho thị phần trên thị trường bị thu hẹp, chia thành nhiều miếng nhỏ, đòi hỏi các doanh nghiệp
phải tích cực trong việc đổi mới phương thức sản xuất, áp dụng kỹ thuật – công nghệ mới vào
hoạt động sản xuất nhằm tăng năng suất lao động tạo ra thật nhiều giá trị thặng dư siêu ngạch.
Tuy nhiên các đối thủ cạnh tranh cũng không đứng yên một chỗ một khi doanh nghiệp này áp
dụng thành công những cải tiến về mặt kỹ thuật làm tăng năng suất lao động thì ngay lập tức
các doanh nghiệp khác cũng sẽ áp dụng phương pháp đó hay phát triển nhiều phương thức sản
xuất mới khiến cho giá trị thặng dư siêu ngạch của các doanh nghiệp khác bị mất đi và cứ tác
động qua lại trong xu thế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp giá trị thặng dư siêu ngạch nhanh
chóng xuất hiện rồi cũng nhanh chóng mất đi. Nhưng nếu xét toàn bộ xã hội tư bản thì giá trị
thặng dư siêu ngạch lại là hiện tượng tồn tại thường xuyên.
Giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản ra sức cải
tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động. hoạt động riêng lẻ đó của từng nhà tư bản đã dẫn đến
kết quả làm tăng năng suất lao động xã hội, hình thành giá trị thặng dư tương đối, thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển.
Giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ do một số nhà tư bản có kỹ thuật tiên tiến thu được. Xét
về mặt đó, nó không chỉ biểu hiện mối quan hệ giữa tư bản và lao động làm thuê, mà còn trực
tiếp biểu hiện mối quan hệ cạnh tranh giữa các nhà tư bản.
Nhân tố cố định
Nhân tố biến đổi
- Ngày lao động không đổi.
- Năng suất lao động tăng lên.
- Cường độ lao động không đổi.
- Thời gian lao động cần thiết giảm xuống.
- Thời gian lao động thặng dư tăng lên.
- Tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên.
- Sức lao động được giảm nhẹ.
Nói giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức đặc biệt của giá trị thặng dư tương đối vì: •
Cả hai đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động, do người công nhân tạo ra. •
Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do tăng năng suất
lao động cá biệt làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thường của nó. •
Giá trị thặng dư tương đối do toàn bộ nhà tư bản đều có thể thu được, nhưng giá
trị thặng dư siêu ngạch chỉ do 1 số nhà tư bản có kỹ thuật tiên tiến mới thu được, lOMoAR cPSD| 61256830 11
nó không chỉ thể hiện quan hệ bóc lột giữa nhà tư bản và công nhân mà còn thể
hiện quan hệ cạnh tranh giữa các nhà tư bản. •
Giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực mạnh nhất để thúc đẩy tư bản cải tiến kĩ
thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất nhằm tăng năng suất lao động.
Vậy nên, chủ nghĩa tư bản chủ yếu tạo ra giá trị thặng dư tương đối song giá trị thặng
dư siêu ngạch là mục đích tối thượng của bất kỳ nhà tư bản nào. 2.
Ý nghĩa của hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư đối với các doanh nghiệp
sản xuất ở nước ta:
Ở nước ta hiện nay, đẩy mạnh xã hội hoá sản xuất theo định hướng XHCN từ một nền
sản xuất nhỏ lên nền sản xuất lớn để sản xuất ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư, cần phải: •
Làm cho kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể trở
thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. •
Khuyến khích và tạo điều kiện để các thành phần kinh tế khai thác tối đa các
nguồn lực để nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống cho nhân dân. •
Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu. •
Giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tăng cường hiệu lực
quản lý vĩ mô của Nhà nước; phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.
Học thuyết giá trị thặng dư của Mác ra đời trên cơ sở nghiên cứu phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa. Phát hiện giá trị thặng dư làm nổ ra cuộc cách mạng thực sự trong toàn bộ
khoa học kinh tế, trang bị cho giai cấp vô sản thứ vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa tư bản. Ngày nay, từ quan niệm đổi mới về chủ nghĩa xã hội, học thuyết này còn có
ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây dựng, phát triển nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Ở nước ta, việc nghiên cứu, khai thác để vận dụng học thuyết giá trị thặng
dư của Mác trở thành việc làm cần thiết trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Việc vận dụng học thuyết giá trị thặng dư của Mác trước hết phải nhận thức đúng khái
niệm bóc lột và bóc lột giá trị thặng dư trong học thuyết Mác. “Bóc lột” là một bộ phận người
trong xã hội hoặc tập đoàn xã hội nào đó, chiếm đoạt không có bồi thường thành quả lao động lOMoAR cPSD| 61256830 12
của một người khác hoặc của một tập đoàn khác. Nhưng việc “chiếm hữu không có bồi
thường” thành quả lao động của người khác hoặc tập đoàn xã hội, không chỉ dựa vào sở hữu
tư liệu sản xuất hoặc tư bản tiền tệ mà cũng có thể thông qua bạo lực, quyền lực, chinh phục
bằng vũ lực. Theo Mác, việc bóc lột lao động đều có trong tất cả các hình thái xã hội từ trước
tới nay vận động trong những mâu thuẫn giai cấp. Nhưng chỉ khi nào kẻ sở hữu tư liệu sản
xuất tìm ra được người công nhân tự do, với tư cách là đối tượng bóc lột, và bóc lột người
công nhân đó nhằm mục đích sản xuất ra hàng hoá để thu được giá trị tăng thêm, chỉ khi đó
mới là bóc lột giá trị thặng dư, tư liệu sản xuất mới mang tính chất đặc biệt là tư bản. Vậy câu
hỏi đặt ra trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, giá trị thặng dư còn tồn tại?
Học thuyết giá trị thặng dư của Mác được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu lịch sử nền
sản xuất hàng hoá hàng hóa tư bản chủ nghĩa. Cho nên, chính Mác chứ không phải ai khác là
một trong những người nghiên cứu sâu sắc về nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa hay gọi
là kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay, với nhiều thành phần kinh tế trong đó có thành phần kinh tế tư nhân, không thể phủ nhận
chủ doanh nghiệp tư bản tư nhân thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh hợp pháp đã góp
phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và nâng cao mức sống của người lao động. Tuy
nhiên, xét một cách biện chứng thì thu nhập của chủ doanh nghiệp tư bản tư nhân là lợi nhuận
(tức giá trị thặng dư) nên vẫn tồn tại bóc lột giá trị thặng dư. Cũng cần khẳng định chiếm đoạt
giá trị thặng dư là đối lập với xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng nhưng chừng nào
nó vẫn còn có tác dụng chúng ta vẫn phải tạo điều kiện cho nó tồn tại và làm cho nó gia tăng.
Và như vậy, việc vận dụng học thuyết giá trị thặng dư trong phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là cần thiết, tập trung khai thác, vận dụng những vấn đề sau:
Một là, khai thác những di sản lý luận C. Mác về phương pháp sản xuất ra giá trị thặng
dư trong nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa.
Ngay từ khi mới ra đời, chủ nghĩa tư bản đã phát triển nền kinh tế hàng hóa, thông qua
thị trường, giai cấp tư sản mới mua được tư liệu sản xuất và sức lao động, mới bán được hàng
hóa và bóc lột được giá trị thặng dư do người lao động tạo ra. Trong nền kinh tế của chủ nghĩa
tư bản, dưới sự tác động của các quy luật kinh tế, trong đó có quy luật giá trị thặng dư, nhà tư
bản thực hiện phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là thực hiện kéo dài ngày lao
động, tăng cường độ lao động nhưng phương pháp này vấp phải những phản kháng của người
lao động nên các nhà tư bản thực hiện phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối bằng
cách ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất để tăng năng suất lao động lOMoAR cPSD| 61256830 13
xã hội, bên cạnh đó các nhà tư bản còn tích cực cải tiến tổ chức sản sức, tiết kiệm chi phí sản
xuất, tìm hiểu nhu cầu của thị trường. Các tiềm năng về vốn, khoa học công nghệ, trình độ
quản lý sản xuất kinh doanh được khơi dậy và phát triển mạnh mẽ, từ đó làm cho nền kinh tế
năng động. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, các
thành phần kinh tế cần phải vận dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư mà các nhà
tư bản đã vận dụng để phát triển sản xuất đặc biệt là chú trọng vận dụng phương pháp sản xuất
giá trị thặng dư tương đối để năng cao năng suất lao động, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển
kinh tế kết hợp với phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế nhằm nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần cho người lao động.
Những năm gần đây, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực mạnh mẽ trong việc cải thiện năng
suất lao động (NSLĐ), nhờ đó đã có những cải thiện đáng kể, cả về giá trị và tốc độ. Theo Báo
cáo của Tổ chức Năng suất Châu Á (APO) năm 2020 đã cho thấy: năng suất lao động của Việt
Nam được cải thiện rõ nét, bình quân giai đoạn 2016-2020 tăng 5,8%/năm, cao hơn giai đoạn
2011-2015 (4,3%) và vượt mục tiêu đề ra (5%). Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp
(TFP) bình quân 5 năm đạt khoảng 45,2% (mục tiêu đề ra là 30-35%). Cũng theo Báo cáo
2020 của Tổ chức Năng suất châu Á (APO), năng suất lao động Việt Nam tụt hậu so với Nhật
Bản 60 năm, so với Malaysia 40 năm và Thái Lan 10 năm. Điều này cho thấy Việt Nam cần
phải có nhiều nỗ lực mạnh mẽ hơn nữa trong việc cải thiện năng suất quốc gia.
Hai là, khai thác những luận điểm của Mác về những biện pháp, thủ đoạn nhằm thu
được nhiều giá trị thặng dư của các nhà tư bản để góp phần vào việc quản lý thành phần kinh
tế tư nhân (đặc biệt là kinh tế tư bản tư nhân) trong nền kinh tế ở nước ta sao cho vừa khuyến
khích phát triển, vừa hướng thành phần kinh tế này đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội. Điều
này cần có chính sách thúc đẩy thành phần kinh tế này để qua đó thu hút được nhiều lao động
xã hội, sử dụng nhiều trình độ lao động để tạo ra nhiều sản phẩm thỏa mãn nhu cầu xã hội.
Trong thực tế, sau hơn 30 năm kể từ khi Luật đầu tư được ban hành năm 1987, đây là văn bản
pháp quan trọng nhất chính thức hóa việc tiếp nhận đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện mời gọi
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Hơn 30 năm qua, khu vực có vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang trở thành một phần không thể thiếu của nền kinh tế,
đóng góp không nhỏ sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam.
Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, sau hơn 30 năm đón vốn FDI, từ năm 1988
đến tháng 8/2018, 63 tỉnh, thành phố của cả nước thu hút 26.438 dự án FDI của 129 quốc gia
và vùng lãnh thổ còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký 333,83 tỷ USD. Vốn FDI đầu tư vào
19/21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân. Đầu tư nước ngoài hiện là nguồn
vốn bổ sung quan trọng chiếm khoảng 25% tổng vốn đầu tư cả nước, đóng góp khoảng 20% lOMoAR cPSD| 61256830 14
GDP. Năm 2017, khu vực FDI đóng góp khoảng 8 tỷ USD, chiếm 14,4% tông thu ngân sách.
10 đối tác đứng đầu có số vốn đăng ký khoảng 82%, trong đó phải kể đến Hàn Quốc, Nhật
Bản, Singapor và Đài Loan (Trung Quốc).
Nhưng để đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước cần phải quản lý doanh
nghiệp này để nhằm hạn chế việc bóc lột người lao động quá mức như kéo dài thời gian lao
động vượt quá thời gian quy định của luật lao động mà không có sự thống nhất của người lao
động, việc cắt xén tiền công, cắt xén các chế độ của người lao động như bảo hiểm y tế, bảo
hiểm thất nghiệp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm tai nạn lao động. Việc nghiên cứu lý luận giá trị
thặng dư sẽ cho chúng ta thấy rằng chúng ta thừa nhận bóc lột này không thể như trong chế
độ tư bản chủ nghĩa được mà người lao động cần phải được bảo vệ thông qua hệ thống pháp
luật của Việt Nam. Thực tế, nhà nước ta đã có hệ thống luật pháp bảo vệ người lao động như:
Luật lao động, Luật bảo hiểm, quy định về tiền lương tối thiểu cho khu vực doanh nghiệp
nhưng vẫn chưa đầy đủ. Tuy nhiên, yếu kém nhất hiện nay trong bảo vệ người lao động là
thiếu sự kiểm soát chặt chẽ và xử lý vi phạm nghiêm minh của các cơ quan chức năng đối với
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nhiều cuộc đình công, bãi công của công nhân nước
ta ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ lệ khá cao trong các cuộc đình công
đặc biệt là năm 2011 đạt kỷ lục với 857 cuộc đình công. Hiện nay, tuy đã giảm nhưng vẫn còn
diễn ra các cuộc đình công mà nguyên nhân dẫn đến có liên quan đến các vấn đề về bảo hiểm
xã hội, tiền lương, chế độ ngày nghỉ, chất lượng bữa ăn ca. Nếu khắc phục được những yếu
kém này, chúng ta sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển đồng thời đảm bảo lợi ích chính đáng của
người lao động, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường.
Ba là, nghiên cứu học thuyết giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản để có cơ chế, chính
sách phân phối giá trị thặng dư đảm bảo công bằng trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
C.Mác đã khẳng định giá trị thặng dư không phải do tư bản (tiền) được đầu tư vào sản
xuất sinh ra, hoặc do máy móc tạo ra. Giá trị thặng dư là do lao động thặng dư của người lao
động tạo ra. Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta,
người lao động không chỉ bao gồm người công nhân trực tiếp đứng máy, mà còn có những
người lao động khác như lao động của những người chủ doanh nghiệp, lao động của bộ phận
quản lý sản xuất kinh doanh… Nếu người chủ doanh nghiệp cũng là người trực tiếp quản lý
thì lao động của họ cũng tạo ra giá trị thặng dư. Lao động quản lý gọi là lao động phức tạp.
Như vậy, chủ doanh nghiệp được hưởng một phần giá trị thặng dư từ hoạt động sản xuất và
kinh doanh của doanh nghiệp là hoàn toàn chính đáng. Vấn đề đặt ra làm sao lượng hóa chính lOMoAR cPSD| 61256830 15
xác số lượng lao động thặng dư của từng bộ phận, từng người lao động để thực hiện phân phối
giá trị thặng dư một cách công bằng trong các doanh nghiệp hiện nay.
Doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân đều có hai hình thức phân phối: Theo
tiền lương, tiền công và phân phối theo phúc lợi. Vấn đề là lượng hóa một cách chính xác số
lượng, chất lượng lao động. Số lượng thì đơn giản, nhưng về chất lượng thì khó hơn. Mặc dù,
lao động phức tạp là bội số của lao động giản đơn, nhưng bội số là bao nhiêu thì rất khó. Vậy
cần phải dựa vào hai yếu tố: Một là, dựa trên sự thỏa thuận hợp đồng của người thuê lao động
và người lao động, mối quan hệ này được điều chỉnh theo quy luật của thị trường, quy định
mặt bằng chung về giá cả sức lao động, về cạnh tranh của doanh nghiệp để thu hút lao động
bằng tiền lương, tiền thưởng. Hai là, sự điều chỉnh của Nhà nước bằng chính sách tiền lương và luật lao động.
Như vậy, hiện nay ở nước ta, mục đích nghiên cứu kinh tế chính trị nói chung và lý luận
giá trị thặng dư nói riêng có sự thay đổi. Nếu trước đây, mục đích nghiên cứu của kinh tế chính
trị là để phê phán phương thức sản xuất TBCN tìm ra bản chất bóc lột giá trị thặng dư của
CNTB cổ điển và xu hướng thay thế CNTB bằng một xã hội tốt đẹp hơn, thì giờ đây, bên cạnh
mục đích như trước, chúng ta còn nghiên cứu, khai thác học thuyết giá trị thặng dư với tư cách
là một hệ thống lý luận phong phú và sâu sắc nhằm vận dụng vào công cuộc xây dựng và phát
triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. KẾT LUẬN
Có thể thấy, hai nguyên lý kinh tế của C. Mác đều mang ý nghĩa và vai trò quan trọng
trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Từ góc độ lí luận của C.Mác về lượng giá trị của hàng hóá, ta có thể đưa ra những giải
pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh về giá của các doanh nghiệp trên thị trường. Hàng
hóa là sản phẩm của lạo động, nó có thể thỏa mãn những nhu cầu nhất định nào đó của con
người thông qua trao đổi, mua bán. Tìm hiều về hàng hoá, bên cạnh điều kiện ra đời, tồn tại
và đặc trưng cơ bản của sản xuất hàng hóa và các thuộc tính của nó, chúng ta cũng cần quan
tâm đến lượng giá trị của hàng hóá. Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập và phát triển, xây
dựng nền kinh tế thị trường có điều tiết, sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường
ngày càng tăng cao, đặc biệt là cạnh tranh về giá cà của hàng hóa. Khi nước ta đã là thành viên
của WTO, bên cạnh những thuận lợi, các doanh nghiệp Việt Nam cũng gặp không ít những
khó khăn, thách thức đòi hỏi phải nâng cao năng lực cạnh tranh để xác lập một thị trường vững
chắc. Nắm bắt được lí luận của C. Mác về lượng giá trị của hàng hóa sẽ giúp các doanh nghiệp lOMoAR cPSD| 61256830 16
Việt Nam tìm ra những giải pháp nhằm tăng chất lượng của sản phẩm và hạ giá thành của sản
phẩm làm ra, nói cách khác là tăng năng lực cạnh tranh về giá của sản phẩm.
Ngoài ra, khi phân tích về bản chất và các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, có
thể thấy mục đích chung của mọi nhà tư bản cũng như nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đều là
sản xuất tối đa hóa giá trị thặng dư. Nó không chỉ phản ánh mục đích của nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa mà còn vạch rõ phương tiện, công cụ, cách thức mà các nhà tư bản sử dụng để đạt
được mục đích. Nghiên cứu để khẳng định sự đúng đắn về lý luận giá trị thặng dư không phải
để nhằm kỳ thị thành phần kinh tế tư nhân. Trái lại, hiểu rõ mục đích, bản chất động lực của
kinh tế tư nhân, để có chính sách thích hợp, vừa khuyến khích nó phát triển, vừa có chính sách
quản lý và điều tiết hợp lý để sử dụng kinh tế tư nhân phục vụ cho sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở một nước kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Khuyến khích kinh tế tư
nhân không phải là một “thủ đọan vỗ béo để làm thịt”, không phải dụ tư nhân bỏ vốn ra, đầu
tư phát triển sản xuất, kinh doanh rồi lại “dẹp”, “xóa” như trước đây. Lại càng không phải để
kinh tế tư nhân phát triển tự phát theo con đường tư bản chủ nghĩa. Khai thác động lực kinh
tế tư nhân là để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Có chính sách đúng
đắn và bảo đảm mức lợi nhuận thỏa đáng cho tư nhân. Đây không chỉ là một khoản “cống
nộp” mà còn phải coi là một khoản “học phí” để có cơ hội tiếp xúc với trang thiết bị và công
nghệ hiện đại, với phương pháp tổ chức quản lý tiên tiến, có hiệu quả. Hiện nay, kinh tế tư
nhân ở nước ta đã đóng góp 60% GDP và thu hút 91% lao động việc làm trong cả nước.
Theo tinh thần đó, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay, việc vận dụng học thuyết giá trị thặng dư và lượng giá trị hàng hóa là cần thiết và có lợi.