



















Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA TOÁN KINH TẾ
----------*******-----------
BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
ĐỀ TÀI: HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
Họ và tên sinh viên : Nguyễn Thùy Linh Mã sinh viên : 11223680 Lớp tín chỉ : LLNL1106 Số thứ tự : 23
Hà Nội, ngày 7 tháng 6 năm 2023 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 3
1. Lý do lựa chọn đề tài 4 2. Mục tiêu nghiên cứu 4 3. Phạm vi nghiên cứu 4
4. Kết cấu của đề tài 4
PHẦN I: NHỮNG LÍ LUẬN VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 5
1. Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế 5
2. Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế 5
3. Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế 6
PHẦN II: PHÂN TÍCH CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI
CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 6
1. Tình hình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam 7
2. Cơ hội và thách thức trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 8 2.1. Cơ hội 8
2.1.1. Tạo cơ hội để mở rộng thị trường, thúc đẩy thương mại phát triển 8
2.2.2. Tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu theo hướng hợp lí 9
2.1.3. Nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và tiềm lực khoa học công nghệ quốc gia 10
2.1.4. Tạo điều kiện để tiếp thu những giá trị tinh thần văn hóa của nhân loại 11
2.1.5. Đảm bảo an ninh quốc gia, duy trì hòa bình, ổn định khu vực và quốc tế 12 2.2. Thách thức 12
2.2.1. Hội nhập làm gia tăng sự cạnh tranh gay gắt 12
2.2.2. Làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào thị trường thế giới 13
2.2.3. Nguy cơ chuyển dịch cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi 14
2.2.4. Hội nhập làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hóa truyền thống 15
2.2.5. Tạo ra thách thức đối với quyền lực Nhà nước chủ quyền quốc gia 15
2.3. Một số biện pháp nhằm đảm bảo lợi ích quốc gia trong hội nhập kinh tế quốc tế 16
PHẦN III: TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 18
1. Trách nhiệm chung của sinh viên Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 18
2. Liên hệ với sinh viên trường Đại học Kinh tế Quốc dân về vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế 19
PHẦN KẾT LUẬN 21 2
TÀI LIỆU THAM KHẢO 22
LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một
chủ đề quan trọng và nổi bật trong cuộc sống, kinh tế, chính trị và xã hội của các quốc gia
trên khắp thế giới. Cùng với sự phát triển không ngừng của công nghệ thông tin và viễn
thông, sự liên kết và tương tác giữa các quốc gia đã trở nên sâu sắc hơn bao giờ hết. Hiện
nay, không có quốc gia nào có thể tự mình tồn tại và phát triển mà không phụ thuộc vào
môi trường kinh tế toàn cầu.
Khái niệm hội nhập được đề cập lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội VIII của
Đảng (năm 1996): “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới,
hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong
nước sản xuất có hiệu quả”. Đến Đại hội IX (năm 2001), chủ trương hội nhập kinh tế
quốc tế tiếp tục được nhấn mạnh: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo
tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự
chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia,
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”.
Trong bối cảnh ngày nay, việc nghiên cứu về vấn đề hội nhập trở nên vô cùng quan
trọng và cấp thiết để có một cái nhìn sâu sắc hơn về vai trò của quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế đem lại. Đặc biệt là đối với đất nước đang phát triển và trên con đường hội nhập
như Việt Nam, ta càng phải quan tâm và chú trọng hơn nữa đến các vấn đề của hội nhập
để có thể chủ động nâng cao vị thế của nước nhà trên toàn thế giới.
Trên thực tế, hội nhập kinh tế quốc tế mang lại cả cơ hội và thách thức đối với mỗi
quốc gia. Trong khi tạo ra các cơ hội mới để tiếp cận và phát triển trên thị trường quốc tế
thì chính sự hội nhập cũng đã đặt ra những áp lực mạnh mẽ đối với các quốc gia, nhằm
khắc phục và cải tiến năng lực của mình. Tiểu luận này với mục đích xem xét các mặt cơ
hội và thách thức mà hội nhập kinh tế quốc tế đem lại cho Việt Nam nói riêng và các quốc
gia nói chung, đồng thời sẽ đề xuất một vài giải pháp để có thể khắc phục được những
vấn đề đó. Bằng cách xem xét các ví dụ và nghiên cứu trước đây, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn
về những cơ hội và thách thức mà Việt Nam đã trải qua để có kiến thức tổng quát hơn về
các vấn đề quan trọng như lợi ích kinh tế, văn hóa, chính trị và môi trường trong quá trình hội nhập.
Từ việc đánh giá chi tiết các khía cạnh và ảnh hưởng của hội nhập kinh tế quốc tế,
ta sẽ có cơ sở để đưa ra những phân tích và đề xuất chính sách nhằm tối ưu hóa lợi ích từ
hội nhập kinh tế quốc tế và giảm thiểu các rủi ro và bất cập có thể phát sinh. Cuối cùng, 3
mục tiêu của tiểu luận này là nhằm thúc đẩy sự hiểu biết và khả năng đối phó của chúng
ta với thế giới ngày càng hội nhập, từ đó tạo ra sự phát triển bền vững và thịnh vượng cho
tất cả các quốc gia trên toàn cầu.
1. Lý do lựa chọn đề tài
Nhận thấy tầm quan trọng của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là với
Việt Nam, hội nhập quốc tế là một trong những chủ đề có tác động với toàn bộ tiến trình
phát triển kinh tế - xã hội, liên quan trực tiếp đến quá trình thực hiện định hướng và mục
tiêu phát triển đất nước,. Vì vậy em lựa chọn đề tài: “Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam” để mong muốn tìm hiểu thêm về nội dung và các tác động của vấn đề hội nhập đến đất nước.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ nội dung, cơ hội và thách thức của vấn đề hội nhập kinh tế quốc
tế của Việt Nam qua các phân tích thực tiễn, từ đó có đưa ra những giải pháp và đề xuất
để có thể thay đổi và khắc phục, cải tiến nền kinh tế Việt Nam theo hướng đúng đắn và
hợp lí hơn. Đồng thời, liên hệ thực tế với thế hệ trẻ ngày nay về vấn đề hội nhập, đưa ra
những nhận thức đúng đắn và trách nhiệm cho thế hệ tương lai này.
3. Phạm vi nghiên cứu
Vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra với nhiều quốc gia trên toàn thế giới gồm
nhiều vấn đề liên quan khác nhau, tuy nhiên, trong phạm vi của đề tài này, bài nghiên cứu
tập trung chủ yếu vào nội dung chung của vấn đề hội nhập, đặc biệt nêu rõ về cơ hội và
thách thức của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Từ đó, đề xuất một vài
giải pháp cơ bản để khắc phục và nêu lên trách nhiệm của thế hệ trẻ nói chung và sinh
viên trường Đại học Kinh tế Quốc dân nói riêng.
4. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được chia theo 3 phần như sau:
PHẦN I: NHỮNG LÍ LUẬN VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
PHẦN II: PHÂN TÍCH CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI
CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
PHẦN III: TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 4
PHẦN I: NHỮNG LÍ LUẬN VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1. Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia là quá trình quốc gia đó thực hiện gắn
kết nền kinh tế của mình với nền kinh tế thế giới dựa trên sự chia sẻ lợi ích, đồng thời
tuân thủ các chuẩn mực quốc tế chung. Ở Việt Nam, thuật ngữ “hội nhập kinh tế quốc tế”
bắt đầu được sử dụng từ khoảng giữa thập niên 1990 cùng với quá trình Việt Nam gia
nhập ASEAN, tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và các thể chế kinh tế quốc tế khác.
Đầu thập niên 60 trong tác phẩm “Lý thuyết về hội nhập kinh tế”, nhà kinh tế học
B.Balassa đưa ra quan điểm cho rằng: Hội nhập kinh tế, hiểu theo một cách chặt chẽ hơn,
là việc gắn kết mang tính thể chế giữa các nền kinh tế lại với nhau. Quan điểm này được
chấp nhận chủ yếu trong giới học thuật và thành lập chính sách.
2. Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế
Thứ nhất, do xu thế khách quan trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Toàn cầu hóa là quá trình tạo ra liên kết và sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng
giữa các quốc gia trên quy mô toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa diễn ra trên nhiều phương diện:
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, v.v trong đó, toàn cầu hóa kinh tế là xu thế nổi trội
nhất, vừa là trung tâm vừa là cơ sở và cũng là động lực thúc đẩy toàn cầu hóa các lĩnh vực
khác. Trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế trở thành tất yếu
khách quan vì toàn cầu hóa kinh tế lôi cuốn các nước vào hệ thống phân công lao động
quốc tế, các mối liên hệ quốc tế của sản xuất và trao đổi ngày càng gia tăng, khiến cho
nền kinh tế của các nước trở thành một bộ phận hữu cơ và không thể tách rời khỏi nền kinh tế toàn cầu.
Joseph E.Stiglitz bàn về tác động của toàn cầu hóa: “Toàn cầu hóa đã làm giảm đi
tình trạng cô lập mà các nước đang phát triển thường gặp và tạo ra cơ hội tiếp cận tri thức
cho nhiều người ở những nước đang phát triển, điều vượt xa tầm với, thậm chí những
người giàu nhất bất kỳ quốc gia nào một thế kỷ trước đây. Toàn cầu hóa không tốt, không
xấu. Nó có sức mạnh để đem lại vô số điều tốt. Với các nước Đông Á, đã thu được nhiều
lợi ích. Nhưng ở phần lớn các nơi khác, toàn cầu hóa không đem lại lợi ích tương xứng”.
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là phương thức phát triển phổ biến của các nước,
nhất là các nước đang và kém phát triển trong điều kiện hiện nay. 5
Đối với các nước đang và kém phát triển thì hội nhập kinh tế là cơ hội để tiếp cận
và sử dụng được các nguồn lực bên ngoài như tài chính, khoa học công nghệ, kinh
nghiệm của các nước phát triển. Hội nhập kinh tế là con đường có thể giúp cho các nước
đang và kém phát triển có thể tận dụng được thời cơ phát triển rút ngắn, thu hẹp khoảng
cách với các nước tiên tiến, khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng rõ rệt.
Tuy nhiên, điều cần chú ý ở đây là chủ nghĩa tư bản hiện đại với ưu thế về vốn và
công nghệ đang ráo riết thực hiện ý đồ chiến lược biến quá trình toàn cầu hóa thành quá
trình tự do hóa kinh tế và áp đặt chính trị theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Điều này khiến
cho các nước đang và kém phát triển phải đối mặt với không ít rủi ro, thách thức. Bởi vậy,
các nước đang và kém phát triển cần phải có chiến lược hợp lý, tìm kiếm các đối sách phù
hợp để thích ứng với quá trình toàn cầu hóa đa bình diện và đầy nghịch lý.
3. Nội dung hội nhập kinh tế quốc tế
Thứ nhất, chuẩn bị các điều kiện để thực hiện hội nhập hiệu quả, thành công.
Hội nhập là tất yếu, tuy nhiên đối với Việt Nam, hội nhập không bằng mọi giá.
Quá trình hội nhập phải được cân nhắc với lộ trình và cách thức tối ưu. Quá trình này đòi
hỏi phải có sự chuẩn bị các điều kiện trong nội bộ nền kinh tế cũng như các mối quan hệ
quốc tế thích hợp. Các điều kiện sẵn sàng về tư duy, sự tham gia của toàn xã hội, sự hoàn
thiện và hiệu lực của thể chế, nguồn nhân lực và sự am hiểu môi trường quốc tế; nền kinh
tế có năng lực sản xuất thực, v.v là những điều kiện chủ yếu để thực hiện hội nhập thành công.
Thứ hai, thực hiện đa dạng các hình thức, các mức độ hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể diễn ra theo nhiều mức độ. Theo đó, hội nhập kinh
tế quốc tế có thể được coi là nông, sâu tùy vào mức độ tham gia của một nước vào các
quan hệ kinh tế đối ngoại, các tổ chức kinh tế quốc tế hoặc khu vực. Theo đó, tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế được chia thành hai mức độ cơ bản từ thấp đến cao là: Thỏa
thuận thương mại ưu đãi (PTA), Khu vực mậu dịch tự do (FTA), Liên minh thuế quan
(CU), Thị trường chung ( hay thị trường duy nhất), v.v. Xét về hình thức, hội nhập kinh tế
quốc tế là toàn bộ các hoạt động kinh tế đối ngoại của một nước gồm nhiều hình thức đa
dạng như: Ngoại thương, đầu tư quốc tế, hợp tác quốc tế, dịch vụ thu ngoại tệ, v.v.
PHẦN II: PHÂN TÍCH CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI
CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1. Tình hình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam 6
Đảng và Nhà nước ta đã sớm nhận thức được tính cần thiết và tất yếu của hội nhập
kinh tế quốc tế. Từ đó đến nay, đường lối và chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của
Đảng ta không ngừng được hoàn thiện, phù hợp với tình hình cụ thể của từng giai đoạn,
phục vụ đắc lực cho sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước. Việt Nam luôn thực hiện nhất
quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối
ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, đồng thời mở rộng hợp
tác trên nhiều lĩnh vực. Trên cơ sở đó, Việt Nam đã chủ động và tích cực tham gia vào
các thiết chế kinh tế đa phương và khu vực, với các dấu mốc quan trọng. Theo đó, tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam có nhiều bước tiến quan trọng:
Về quan hệ hợp tác song phương: Tính đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ
ngoại giao với khoảng 180 quốc gia trên thế giới, mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu
hàng hóa tới trên 230 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ, ký kết gần 100 Hiệp định
thương mại song phương, trên 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, khoảng 70
Hiệp định tránh đánh thuế hai lần và nhiều Hiệp định hợp tác về văn hóa song phương với
các nước và các tổ chức quốc tế.
Về hợp tác đa phương và khu vực, Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với nhiều
tổ chức định chế tài chính quốc tế: Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) (1976), Ngân hàng thế giới
(WB) (1976), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) (1976).
Tháng 7/1995 Việt Nam đã gia nhập vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN) và chính thức tham gia khu vực Thương mại tự do ASEAN (AFTA) từ
1/1/1996. Kể từ sau khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã xây dựng quan hệ ngoại giao với
189/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc; có quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn
diện với 30 nước; tham gia và đóng góp tích cực ở hầu hết các tổ chức, diễn đàn quốc tế
quan trọng với vị thế, uy tín ngày càng cao tại khu vực thông qua ASEAN và quốc tế với
cương vị Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 -
2021 mà Việt Nam nhận được số phiếu ủng hộ gần như tuyệt đối.
Tháng 7/1995, Việt Nam đã ký kết hiệp định khung về hợp tác kinh tế, khoa học
kỹ thuật và một số lĩnh vực khác với công đồng Châu Âu (EU), đồng thời bình thường
hóa quan hệ với Mỹ. Năm 1996 Việt Nam tham gia sáng lập Diễn đàn hợp tác Á – Âu
(ASEM). Thị trường ASEM đã và đang tạo nhiều cơ hội hơn cho Việt Nam trong thu hút
nguồn vốn FDI và gia tăng khối lượng thương mại với các đối tác trong ASEM. Các dự
án đầu tư của của các nước thành viên ASEM chiếm 53% tổng dự án đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam. Ngoài ra, Việt Nam đã thu hút được khá nhiều vốn ODA từ các nước
ASEM, các nhà đầu tư ASEM có mặt ở hầu hết các tỉnh, thành phố của Việt Nam. Có thể
nói, đầu tư của các nước ASEM vào Việt Nam trong những năm qua đã góp phần tích cực
vào việc tạo việc làm cho người lao động, tăng một khối lượng đáng kể hàng hóa xuất
khẩu và tiêu dùng trong nước, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 7
Tháng 11/1998, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của diễn đàn hợp tác
kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Đây là khu vực có ý nghĩa quan trọng, chiến
lược đối với an ninh, phát triển của Việt Nam.
Tháng 7/2000, hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA) đã được ký kết.
Thời điểm Hiệp định Thương mại Việt Mỹ (BTA) có hiệu lực, thương mại song phương 2
nước đã tăng trưởng một cách nhanh chóng. Có thể nói BTA góp phần thúc đẩy xuất khẩu
Việt Nam tăng trưởng một cách nhanh chóng trong thời gian ngắn, từ mức 11 tỷ USD
năm 1999 lên 26 tỷ USD năm 2004.
Ngày 11/1/2007 Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới
(WTO). Không chỉ vậy, Việt Nam đã trở thành thành viên của nhiều Hiệp định thương
mại và cũng đang tham gia đàm phán một số hiệp định thương mại quan trọng khác. Tính
đến tháng 05/2023, Việt Nam đã ký kết và thực thi 15 FTA, hoàn tất đàm phán 1 FTA và
đang đàm phán 3 FTA. Điều này đã khẳng định được vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế, cũng như ghi dấu mốc lịch sử quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong suốt thời gian qua.
2. Cơ hội và thách thức trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 2.1. Cơ hội
Hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan và xu thế chung của toàn thế
giới. Nó đã đem lại cho nước ta rất nhiều tác động tích cực và cơ hội.
2.1.1. Tạo cơ hội để mở rộng thị trường, thúc đẩy thương mại phát triển
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội để mở rộng thị trường, thúc đẩy thương mại
phát triển, bên cạnh tạo điều kiện cho sản xuất trong nước còn giúp nước ta tận dụng các
lợi thế kinh tế trong phân công lao động quốc tế, phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng kinh
tế nhanh, bền vững và chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang chiều sâu với hiệu quả cao.
Một trong những hành trình đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam là lễ kết
nạp Việt Nam gia nhập WTO diễn ra vào ngày 7/11/2006 được tổ chức tại trụ sở WTO ở
Geneva, Thụy Sĩ. Kể từ khi chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương
mại thế giới lớn này, Việt Nam đã được góp phần đổi mới tư duy chính sách, đồng thời
hoàn thiện chuẩn mực quản lý nhà nước, định hình được khuôn khổ pháp lý và các chuẩn
mực phát triển thể chế kinh tế- thương mại. Nhờ những bước tiến quan trọng này, đã hình
thành nên được cơ sở pháp lý vững chắc làm cầu nối để đất nước ta có thể từng bước mở
cửa, mở rộng quy mô thị trường hàng hóa và dịch vụ, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động thương mại quốc tế theo các thỏa thuận đa phương và song phương đã cam kết.
Dấu ấn WTO được ghi nhận rõ nét trong việc đưa Việt Nam trở thành một nền
kinh tế có độ mở cao, tới 200% GDP và cải thiện cán cân thương mại hàng hóa, chuyển từ 8
nhập siêu sang xuất siêu 6 năm liên tục kể từ 2016 đến 2021.Theo Tổng cục Thống kê,
nếu năm 2006, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước chỉ ở mức 84,7 tỷ USD (xuất
khẩu 39,8 tỷ USD), thì đến năm 2021, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt tới
668,5 tỷ USD, tăng 22,6% so với năm 2020 và tăng hơn 7 lần so với năm 2006.
Nhìn chung, với sự hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam ta đã và đang từng bước cố
gắng và hoàn thiện hơn nữa trong nền kinh tế nói riêng và sự phát triển của đất nước nói
chung. Cụ thể, nhờ sự gia nhập các tổ chức quốc tế, Việt Nam đã có thêm được các bước
tiến và cải thiện trong các cơ sở pháp lí, nền kinh tế thị trường,v.v. Từ đó có thể đạt được
các thành tựu to lớn trong thị trường thế giới.
2.1.2. Tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu theo hướng hợp lí
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu theo hướng hợp
lý, cụ thể là thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, qua đó hình thành các lĩnh
vực kinh tế mũi nhọn để nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của
sản phẩm và doanh nghiệp trong nước, góp phần làm tăng khả năng thu hút khoa học
công nghệ hiện đại và đầu tư bên ngoài vào nền kinh tế.
Theo nghị quyết 23-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng xây dựng chính sách
phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2023, tầm nhìn đến 2045 ban hành ngày
22/3/2018 đã nêu bật lên được vai trò và tầm quan trọng của khoa học và công nghệ trong
chặng đường phát triển nền công nghiệp quốc gia về trung và dài hạn, tạo một bước đệm
vững chắc để phát triển nền kinh tế của cả đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Đặc biệt, nhờ sự hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam ta đã áp dụng được những thành
tựu mới nhất của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong quá trình này, từ đó Việt
Nam có ưu thế trong cách thức tiếp cận, đi tắt, đón đầu một cách hợp lý để phát triển các
ngành Công nghiệp, một trong những ngành chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của nền kinh
tế nước nhà. Bên cạnh đó, hội thảo này cũng đã tập trung trao đổi, thảo luận nội dung về
công nghiệp mũi nhọn như năng lượng chế biến, chế tạo, phân tích về giá trị gia tăng,
xuất khẩu, v.v từ đó có thể đề xuất được các chính sách phát triển ngành Công nghiệp ưu
tiên, công nghiệp mũi nhọn đến năm 2023, tầm nhìn 2045.
Đặc biệt, việc hội nhập kinh tế quốc tế mang lại cho chúng ta một nguồn lợi khổng
lồ đến từ sự đầu tư, giúp đỡ, hợp tác với các nước trên thế giới. Việt Nam đã trở thành
một trong những nước thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư nước ngoài (FDI), góp phần
cung cấp vốn cho các doanh nghiệp và giải quyết vấn đề nợ quốc tế
Theo Cục Đầu tư nước ngoài, tính đến 20/12/2021, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều
chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài (FDI) đạt 31,15 tỷ USD, tăng
9,2% so với cùng kỳ năm 2020. Tại thời điểm này, các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư
vào 18 ngành trong tổng số 21 ngành kinh tế quốc dân; trong đó, ngành công nghiệp chế 9
biến, chế tạo dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đạt trên 18,1 tỷ USD, chiếm 58,2% tổng vốn đầu tư đăng ký.
cơ cấu vốn fdi theo ngành năm 2021
Công nghiệp chế biến, chế tạo 9% 5% 3%
Sản xuất, phân phối điện, khí, nước, điều hòa
Hoạt động kinh doanh bất động sản 58%
Bán buôn và bán lẻ, sữa chữa ô tô, 18% mô tô, xe máy
Hoạt động chuyên môn, KHCN Các ngành khác
Bảng 1: Cơ cấu vốn FDI theo ngành năm 2021
Nguồn: TỔNG CỤC THỐNG KÊ
Tính đến ngày 20/3/2022, tổng số vốn đăng ký mới, vốn bổ sung, vốn góp và
quyền mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt trên 8,9 tỷ USD, tương đương 87,9%
so với cùng kỳ năm 2021. Vốn thực hiện của dự án đầu tư nước ngoài ước đạt 4,42 tỷ
USD, tăng 7,8% so với cùng kỳ năm 2021
TỔNG SỐ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM 8,000.00 7,000.00 6,000.00 5,000.00 4,000.00 3,000.00 2,000.00 1,000.00 0.00 Đăng kí cấp mới Đăng kí điều chỉnh Góp vốn, mua cổ phẩn 3 tháng năm 2021 3 tháng năm 2022
Bảng 2: Tổng số vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
Nguồn: TỔNG CỤC THỐNG KÊ
2.1.3 Nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và tiềm lực khoa học công nghệ quốc gia 10
Hội nhập kinh tế quốc tế giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và tiềm lực
khoa học công nghệ quốc gia. Nhờ đẩy mạnh hợp tác giáo dục - đào tạo và nghiên cứu
khoa học với các nước mà nâng cao khả năng hấp thụ khoa học - công nghệ hiện đại và
tiếp thu công nghệ mới thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển giao công nghệ
nhằm nâng cao chất lượng nền kinh tế.
Việt Nam đã không ngừng chủ động và học hỏi để có thể phát triển trong nền hội
nhập quốc tế, ngoài việc chú trọng đẩy mạnh nền kinh tế trong và ngoài nước, Việt Nam
đã đẩy mạnh được việc mở rộng các mạng lưới cùng hợp tác quốc tế về các lĩnh vực giáo
dục, nghiên cứu khoa học, khoa học công nghệ, v.v. Phải kể đến mạng lưới hợp tác về trí
tuệ nhân tạo Việt - Úc (VietNam-Australia AI) do bộ Khoa học và Công nghệ khởi xướng
nhằm hiện thực hóa Chiến lược quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng AI đến
năm 2030 được Thủ tướng ký ban hành đầu năm 2021. Mạng lưới hình thành với mong
muốn tập hợp các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức đang hoạt động về Trí tuệ nhân tạo (AI)
tại Việt Nam cùng hợp tác với Australia.
Mạng lưới này sẽ tạo cơ hội cho các thành viên hợp tác với các đối tác của Úc và
cập nhật tình hình AI tại Việt Nam, Úc và thế giới. Bước đầu, mạng lưới sẽ xây dựng
phần mềm quản lý và không gian cộng đồng trực tuyến để các thành viên tham gia sinh
hoạt định kỳ, chia sẻ, đóng góp và phát triển ngành AI tại Việt Nam. Sau đó, mạng lưới sẽ
mở rộng hợp tác tới nhiều quốc gia khác và hướng tới xây dựng một cộng đồng AI bền
vững với nhiều hoạt động phát triển ngành khoa học máy tính này tại nước ta. Mạng lưới
được khởi động để làm tiền đề xây dựng một cộng đồng hợp tác bền vững về trí tuệ nhân
tạo tại Việt Nam cũng như quốc tế trong tương lai.
2.1.4. Tạo điều kiện để tiếp thu những giá trị tinh thần văn hóa của nhân loại
Bên cạnh đó, hội nhập kinh tế quốc tế là tiền đề cho hội nhập về văn hoá, tạo điều
kiện để tiếp thu những giá trị tinh hoa văn hoá của nhân loại thông qua việc tham gia
Cộng đồng văn hóa - xã hội ASEAN, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn Hóa của Liên
Hợp Quốc (UNESCO). Bên cạnh đó, các vấn đề xã hội như lao động, việc làm, bảo vệ
môi trường, chăm sóc và bảo vệ trẻ em, bình đẳng giới và các vấn đề khác cũng ngày
càng được giải quyết triệt để nhờ sự hợp tác giữa Việt Nam với nhiều tổ chức quốc tế và
quốc gia trên thế giới, điển hình là Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF)
Vào ngày 11/6/2021, Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) hoan nghênh chính
phủ Việt Nam phê duyệt chương trình quốc gia đầu tiên về bảo vệ trẻ em trên môi trường
mạng giai đoạn 2021-2025. Chương trình này nhằm bảo vệ trẻ em khỏi bạo lực, bóc lột và
xâm hại trên internet cũng như hỗ trợ trẻ em tương tác lành mạnh và an toàn trên môi
trường mạng. Với sự hợp tác và giúp đỡ của tổ chức quốc tế UNICEF, ngay khi chương
trình bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng được phê duyệt, Chính phủ Việt Nam đã hợp 11
tác với ngành công nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông để theo kịp tốc độ thay độ
và bảo vệ trẻ em khỏi những nguy cơ và tác hại mới, đảm bảo rằng Internet luôn an toàn
cho trẻ. Chương trình quốc gia về bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng đã giúp Việt Nam
có thể lan tỏa được việc bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng nói riêng và bảo vệ được trẻ
em ở các vấn đề khác nói chung.
2.1.5. Đảm bảo an ninh quốc gia, duy trì hòa bình, ổn định khu vực và quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế còn giúp đảm bảo an ninh quốc gia, duy trì hòa bình, ổn
định khu vực và quốc tế để tập trung cho phát triển kinh tế xã hội, cùng phối hợp để giải
quyết những vấn đề chung như môi trường, biến đổi khí hậu, phòng chống tội phạm và
buôn lậu quốc tế. Việt Nam luôn đề cao tinh thần trách nhiệm, bình đẳng, sẵn sàng đóng
góp cho mục tiêu chung mà tập thể quốc tế đang hướng tới.
Ngày 28/7/1995, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á (ASEAN). Từ đó đến nay, Việt Nam luôn thể hiện là một thành viên
tham gia một cách tích cực, chủ động và có trách nhiệm đối với sự phát triển chung của tổ
chức này. Có thể nói, việc gia nhập ASEAN đã đem lại lợi ích nhiều mặt cho Việt Nam.
Điều này được thể hiện và chứng minh trên nhiều khía cạnh, lĩnh vực khác nhau.
Về mặt Chính trị - An ninh, gia nhập ASEAN giúp Việt Nam củng cố môi trường
hòa bình, ổn định của khu vực nói chung và Việt Nam nói riêng nhờ gia tăng đối thoại,
tăng cường hợp tác giữa các nước trong khu vực nhằm ứng phó với những thách thức
chung. ASEAN cũng tạo môi trường và không khí thuận lợi để Việt Nam thúc đẩy quan
hệ láng giềng với các nước trong khu vực, giải quyết những vấn đề trong quan hệ song
phương do lịch sử để lại hoặc mới phát sinh. Là thành viên ASEAN, Việt Nam cũng góp
phần xây dựng và thúc đẩy các cơ chế, tiến trình hợp tác khu vực phát triển đúng hướng,
phù hợp với lợi ích quốc gia. Trong quan hệ đối ngoại, ASEAN giúp tăng cường vị thế và
tiếng nói của Việt Nam trên trường quốc tế, hỗ trợ Việt Nam thúc đẩy quan hệ với các đối
tác, trong đó có nhiều nước lớn như: Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, Nga.
Trong lĩnh vực hợp tác về bảo vệ môi trường, tính đến nay đã gần 1/4 thế kỷ Việt
Nam bắt đầu tham gia hợp tác về môi trường từ năm 1996. Ngay sau khi thành lập, tổ
chức các quan chức cao cấp ASEAN về môi trường Việt Nam đã nhanh chóng hòa nhập
và tích cực tham gia vào tất cả các lĩnh vực hợp tác môi trường như đa dạng sinh học,
biến đổi khí hậu, hóa chất và chất thải, môi trường biển và đới bờ, công nghệ môi trường,
giáo dục môi trường, kiểm soát ô nhiễm khói mù xuyên biên giới, quản lý tài nguyên
nước và sản xuất, tiêu dùng bền vững. 12
2.2. Thách thức
Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đưa lại nhiều cơ hội, trái lại, nó cũng đặt ra
nhiều tác động tiêu cực và thách thức.
2.2.1. Hội nhập làm gia tăng sự cạnh tranh gay gắt
Hội nhập kinh tế quốc tế làm gia tăng sự cạnh tranh gay gắt khiến nhiều doanh
nghiệp và ngành kinh tế nước ta gặp khó khăn trong phát triển, thậm chí là phá sản, gây
nhiều hậu quả bất lợi về mặt kinh tế - xã hội.
Cạnh tranh được hiểu là sự ganh đua giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm
giành được ưu thế hơn về cùng một loại sản phẩm hàng hoá hoặc dịch vụ, về cùng một
loại khách hàng so với các đối thủ cạnh tranh. Kết quả của cạnh tranh là loại bỏ những
đơn vị làm ăn kém hiệu quả và sự lớn mạnh của những công ty làm ăn có hiệu quả. Ngoài
việc cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước, các doanh nghiệp Việt Nam còn phải
cạnh trạnh với các doanh nghiệp nước ngoài trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam ngày
càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế.
Với sức hấp dẫn của thị trường gần 90 triệu dân đang thu hút nhiều nhà bán lẻ
nước ngoài đẩy mạnh đầu tư vào Việt Nam. Không quá khi sử dụng từ "đổ bộ" để nói về
sự xuất hiện ngày càng nhiều doanh nghiệp bán lẻ và hàng Thái Lan tại thị trường Việt
Nam, qua các thương vụ chuyển nhượng lên tới con số hàng tỷ USD. Vừa mua lại hệ
thống siêu thị Big C Việt Nam (gồm 33 siêu thị, 10 cửa hàng tiện lợi và một trang thương
mại điện tử với giá 1,05 tỷ USD), Tập đoàn Central Group (Thái Lan) mở Trung tâm mua
sắm Robinson, mua lại 49% cổ phần của hệ thống siêu thị điện máy Nguyễn Kim, v.v.
Hàng hóa Thái Lan với ưu thế về chất lượng, mẫu mã, giá cả đã nhanh chóng chiếm được
niềm tin của người tiêu dùng Việt Nam, khiến doanh nghiệp trong nước không khỏi lo
ngại về nguy cơ bị gạt ra khỏi hệ thống bán lẻ hiện đại. Với các trường hợp này, ông Vũ
Vinh Phú, Chủ tịch Hiệp hội Siêu thị Hà Nội cho biết, cộng đồng kinh tế ASEAN cho
phép hàng hóa từ các nước vào Việt Nam hết sức thuận lợi. Khi doanh nghiệp nước ngoài
nắm trong tay hệ thống bán lẻ thì hàng ngoại càng mạnh hơn, vì ông chủ nước ngoài
đương nhiên ưu tiên hàng hóa của nước họ. Khi đó, doanh nghiệp Việt phải chấp nhận
vừa cạnh tranh, vừa cộng tác để có thể có cơ hội chen chân vào hệ thống phân phối hiện đại.
Tuy vậy, trong thách thức luôn mở ra cơ hội, cụ thể ở đây chính áp lực cạnh tranh
đã trở thành động lực để các doanh nghiệp Việt Nam chủ động thay đổi, khắc phục điểm
yếu và nâng cao chất lượng sản phẩm của mình. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp bán lẻ và
sản xuất nội bắt tay nhau cũng chính là cách để thúc đẩy sản xuất, tạo nguồn hàng bảo
đảm chất lượng; đồng thời vừa cạnh tranh, vừa cộng tác với các đối thủ ngoại.
2.2.2. Làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào thị trường thế giới 13
Việc hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào
thị trường khu vực và thế giới. Điều này khiến ta dễ bị sa lầy vào các cuộc khủng hoảng
kinh tế toàn cầu hay khu vực.
Trong bối cảnh hội nhập mới có nhiều biến động như căng thẳng Mỹ, nhà nước
Hồi giáo tự xưng IS, Trung Quốc và các nước ASean cùng chung biển Đông, đã làm cho
những thay đổi về kinh tế, chính trị trở nên khó lường. Hay một ví dụ cụ thể để minh hoạ
cho quan điểm này thời gian gần đây nhất chính là cuộc chiến tranh Nga - Ukraine đã nổ
ra trong thời gian qua, nhiều nước trên thế giới đã phải hứng chịu hậu quả từ cuộc khủng
hoảng nhiên liệu, trong đó có Việt Nam - khi giá xăng dầu tăng lên đến mức cao nhất
trong lịch sử. Điều này đã gây ảnh hướng rất lớn đến người dân và các công ty, doanh
nghiệp trong nước bởi nguyên nhân chủ yếu chính là nền kinh tế Việt Nam vẫn còn phụ
thuộc vào xuất khẩu dầu mỏ. Bên cạnh đó, cũng theo Bộ Nông nghiệp – Phát triển Nông
thôn, thương mại nông nghiệp Việt Nam với Nga và Ukraine cũng bị suy giảm đáng kể.
Kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang Nga hàng năm đạt khoảng 500 triệu
USD, năm 2021 là 550 triệu USD. Trong đó, một số mặt hàng có giá trị xuất khẩu đáng
kể như: thủy sản đạt 164 triệu USD, cà phê 173 triệu USD, tiêu và điều khoảng 60 triệu
USD. Khi xung đột nổ ra, giao dịch xuất khẩu sang Nga đều phải tạm dừng bởi rủi ro về
giao dịch ngân hàng, thiếu tàu vận chuyển và chi phí cao. Các doanh nghiệp hiện nay đều
phải theo dõi tình hình để xử lý hàng tồn hoặc tìm cách xuất khẩu sang các thị trường
khác. Việc thiếu hãng tàu và tăng chi phí vận chuyển khiến các doanh nghiệp nhập khẩu
đầu vào của Việt Nam phải dừng giao dịch với Nga và chuyển sang các tìm nhà cung ứng
từ các nước Úc, Nam Mỹ, Nam Phi. Quan trọng hơn là sự thiếu hụt nguồn cung từ Nga và
Ukraine làm tăng giá nguyên liệu đầu vào cho sản xuất trên toàn cầu. Cụ thể, giá lúa mỳ,
ngô,v.v đã tăng lên khoảng 10-20%, giá phân bón tăng trên 20% trong thời gian gần đây,
ảnh hưởng xấu đến ngành chăn nuôi và trồng trọt.
Tất cả điều này cho chúng ta thấy rằng, mặc dù hội nhập có ý nghĩa trong việc giúp
ta học hỏi và tiếp thu để đẩy mạnh sự phát triển của nước nhà, nhưng nếu trở nên quá bị
động và phụ thuộc thì chính những sự hợp tác ấy lại khiến cho nước ta bị ảnh hưởng ít
nhiều trong cả ngắn hạn và dài hạn.
2.2.3. Nguy cơ chuyển dịch cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các nước đang phát triển như nước ta
phải đối mặt với nguy cơ chuyển dịch cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi, do thiên hướng tập
trung vào các ngành sử dụng nhiều tài nguyên, nhiều sức lao động, nhưng có giá trị gia
tăng thấp. Do vậy, dễ trở thành bãi thải công nghiệp và công nghệ thấp, bị cạn kiệt nguồn
tài nguyên thiên nhiên và hủy hoại môi trường ở mức độ cao.
Tại Việt Nam, trong những năm gần đây các nhà máy xí nghiệp nước ngoài không
ngừng mọc lên, cung cấp một lượng lớn việc làm và đóng góp vào GDP cả nước, tiêu 14
biểu là sự góp mặt của rất nhiều “ông lớn" của nền kinh tế thế giới như Apple, Samsung,
Coca Cola, v.v. Thế nhưng, nhiều nhà máy đồng nghĩa với việc chúng ta phải đối mặt với
nhiều hơn lượng rác thải công nghiệp cũng như khí đốt độc hại. Tiêu biểu nhất là vụ việc
công ty Gang Thép Formosa của Đài Loan (đặt nhà máy tại Hà Tĩnh) đã xả trực tiếp một
lượng lớn chất thải chưa qua xử lí vào vùng biển miền Trung nước ta năm 2016, điều này
đã gây ra cái chết hàng loạt của các loại hải sản, nguồn thu nhập chính của người dân địa
phương, ngoài ra nó còn ảnh hưởng ít nhiều đến dịch vụ du lịch biển tại đây. Cho đến
nay, hậu quả đã phần nào được khắc phục nhưng nó đã chỉ ra một thực tại rằng chấp nhận
cho các nhà máy nước ngoài đặt tại Việt Nam tức là chấp nhận lượng rác thải công nghiệp
khổng lồ, và nếu không có giải pháp để xử lí số rác thải ấy, nước ta sẽ sớm trở thành một
trong những “bãi rác công nghiệp” của thế giới.
2.2.4. Hội nhập làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hoa truyền thống
Hội nhập có thể làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hóa truyền thống
Việt Nam bị xói mòn trước sự “xâm lăng” của văn hóa nước ngoài.
Trong quá trình toàn cầu hóa, văn hóa, tư duy, phong cách ăn măc, cung cách làm
ăn, v.v của các nước trên thế giới cũng đem lại những lợi ích nhất định cho Việt Nam ta,
như về các mặt kinh tế, thu nhập quốc dân, mức sống, tiện nghi vật chất, nhưng mặt khác
của vấn đề hội nhập này chính là sự tổn hại đáng báo động về mặt tinh thần, đạo lý và các
giá trị truyền thống của đất nước
Một ví dụ cụ thể cho vấn đề này là câu chuyện mặc áo dài của các bạn trẻ vài năm
gần đây. Giới trẻ bắt đầu có hướng tìm đến áo dài trong mỗi dịp Tết, nhưng thay vì là mẫu
áo dài truyền thống Việt Nam, họ thường ưa chuộng những kiểu áo dài khác, như là áo
cách tân, phần tay và tà áo ngắn, mặc cùng váy hoặc quần lửng ống rộng vừa qua gối.
Kiểu cách tân này gây tranh cãi với 2 luồng ý kiến, một số bạn trẻ cho rằng kiểu áo năng
động, hiện đại; phần lớn ý kiến phản bác là không phù hợp với chuẩn mực của áo dài,
cách tân áo dài mặc cùng váy ngắn trên gối, nhìn rất kém thẩm mỹ. Hay tệ hơn nữa, còn
xuất hiện một số hình ảnh phản cảm, hình ảnh mặc áo dài chỉ với nội y được lan truyền
rộng rãi cũng đã phần lớn ảnh hưởng đến vẻ đẹp áo dài Việt Nam trong mắt mọi người
Người trẻ dễ dàng tiếp cận một cách đa chiều nhiều nền văn hóa khác nhau trên thế
giới và những làn sóng, trào lưu mới cũng ảnh hưởng nhanh chóng. Được tiếp thu nhiều
nền văn hóa khác nhau là một lợi thế, tuy nhiên cần phải biết chọn lọc và nhất là giữ riêng
cho bản thân mình một bản sắc, không bị lạc trong văn hóa xứ người. Rõ ràng là trước
những thực trang này, việc thiết yếu là cần có ngay những giải pháp thích hợp để chỉnh
đốn lại những nền nếp truyển thống, đồng thời tìm cách phát huy cái hay, cái đẹp, cái độc
đáo của bản sắc Việt Nam trên đường hội nhập vào kho tàng văn hóa toàn cầu.
2.2.5. Tạo ra thách thức đối với quyền lực Nhà nước chủ quyền quốc gia 15
Trên lĩnh vực xã hội, hội nhập kinh tế quốc tế có thể tạo ra một số thách thức đối
với quyền lực Nhà nước, chủ quyền quốc gia và phát sinh nhiều vấn đề phức tạp đối với
việc duy trì an ninh và ổn định trật tự, an toàn xã hội, ví dụ như là tình trạng khủng bố
quốc tế, buôn lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp, v.v.
Trao đổi với báo giới tại buổi hội thảo giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu về
vấn đề di cư bất hợp pháp và nhận trở lại công dân diễn ra ngày 17/1/2020 tại Hà Nội, ông
Hervé Bolot - Đại sứ Pháp, nhân danh Chủ tịch Liên minh châu Âu, cho biết hiện chưa có
con số thống kê chính xác có bao nhiêu người Việt Nam nhập cư trái phép vào châu Âu
nói chung và Pháp nói riêng nhưng con số này đang tăng rõ rệt.
“Chúng ta phải đấu tranh chống tệ nạn này bởi lẽ những người tham gia vào quá
trình di cư bất hợp pháp đó thường di cư trong những điều kiện rất tồi tệ cũng như công
việc mà họ làm khi đến được châu Âu còn tồi tệ hơn khi ở trong nước, dù để đến được
đây, họ đã phải trả một khoản tiền rất lớn”, ông Hervé Bolot khẳng định. Quá trình hội
nhập kinh tế khiến nước ta phát sinh ra các vấn đề phức tạp và bất ổn, cụ thể như là vấn
đề nhập cư bất hợp phát của người dân, nhưng cũng chính sự hội nhập, hợp tác quốc tế sẽ
đóng vai trò quan trọng trong việc đưa ra giải pháp để han chế được vấn nạn này đến mức có thể.
Chung quy lại, trong quá trình hội nhập, ta phải chấp nhận đồng thời cả những cơ
hội và thách thức là hai mặt không thể tránh khỏi. Nhưng không vì thế mà chúng ta bỏ đi
thời cơ của mình. Trái lại, chúng ta “Hòa nhập chứ không hòa tan”, các doanh nghiệp
Việt Nam không tự chôn mình mà phải chủ động tìm những giải pháp nâng cao năng lực
cạnh tranh. Nói một cách chung nhất, chúng ta hãy tranh thủ thời cơ, khắc phục khó khăn,
đẩy mạnh quá trình chủ động hội nhập hơn nữa.
3. Một số biện pháp nhằm đảm bảo lợi ích quốc gia trong hội nhập kinh tế quốc tế
Để đảm bảo lợi ích quốc gia của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế, có thể
thực hiện một số biện pháp cơ bản như sau:
3.1. Hoàn thiện thể chế kinh tế và luật pháp
Một trong những điều kiện của hội nhập kinh tế quốc tế là sự tương đồng giữa các
nước về thể chế kinh tế. Trên thế giới ngày nay hầu hết các nước đều phát triển theo mô
hình kinh tế thị trường tuy có sự khác biệt nhất định. Việc phát triển theo mô hình “kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của nước ta mặc dù có sự khác biệt với các
nước về định hướng chính trị của sự phát triển nhưng nó không hề cản trở sự hội nhập.
Vấn đề có ảnh hưởng lớn hiện nay là cơ chế thị trường của nước ta chưa hoàn
thiện; hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ, chính sách điều chỉnh kinh tế
trong nước chưa phù hợp với điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế; môi trường cạnh tranh 16
còn nhiều hạn chế. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả của hội nhập kinh tế cũng như đảm bảo
lợi ích của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập, cần hoàn thiện cơ chế thị trường trên cơ sở
đổi mới mạnh mẽ về sở hữu, coi trọng khu vực tư nhân, đổi mới sở hữu và doanh nghiệp
nhà nước; hình thành đồng bộ các loại thị trường; đảm bảo môi trường cạnh tranh bình
đẳng giữa các chủ thể kinh tế. Đi đôi với hoàn thiện cơ chế thị trường cần đổi mới cơ chế
quản lý của nhà nước trên cơ sở thực hiện đúng các chức năng của nhà nước trong định
hướng, tạo môi trường, hỗ trợ và giám sát hoạt động các chủ thể kinh tế. Quá trình hội
nhập đòi hỏi phải cải cách hành chính, chính sách kinh tế, cơ chế quản lý ngày càng minh
bạch hơn, làm thông thoáng môi trường đầu tư, kinh doanh trong nước để thúc đẩy mạnh
mẽ đầu tư trong và ngoài nước.
3.2. Nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành kinh tế Việt Nam
Trong những năm gần đây, để duy trì được một nhà nước công bằng và đảm bảo
lợi ích của quốc gia trong quá trình đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ, Việt Nam
đã thực hiện nhiều giải pháp nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh của quốc gia và đạt
được nhiều kết quả tích cực. Theo số liệu thống kê cho thấy, trải qua hơn 10 năm, chỉ số
năng lực cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam được cải thiện đáng kể, tăng 13 bậc, và
chuyển từ nhóm nửa dưới của bảng xếp hạng cạnh tranh toàn cầu lên nhóm nửa trên. Mặc
dù năng lực cạnh tranh quốc gia đã đạt được những tiến bộ nhất định nhưng cũng cần
nhìn thẳng vào sự thật là các xếp hạng mà Việt Nam đạt được chỉ ở vị trí trung bình thấp,
đòi hỏi các giải pháp đột phá để phục hồi và phát triển bền vững.
Để ứng phó với khó khăn đó, mỗi doanh nhân, doanh nghiệp cần sẵn sàng đối mặt
với những thách thức, chủ động nắm bắt, chắt chiu từng cơ hội đổi mới và sáng tạo, có
phương án đón đầu xu hướng kinh doanh mới, chú trọng đến đầu tư, cải tiến công nghệ để
nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Đặc biệt là phải học hỏi cách thức kinh doanh
trong bối cảnh mới: học tìm kiếm cơ hội kinh doanh, học kết nối cùng chấp nhận cạnh
tranh, học cách huy động vốn, học quản trị sự bất định, học đồng hành với chính phủ, học
“đối thoại pháp lý”. Nhà nước cần phải tăng cường hỗ trợ các doanh nghiệp, giúp các
doanh nghiệp vượt qua những thách thức của thời kỳ hội nhập. Nhà nước cần chủ động,
tích cực tham gia đầu tư và triển khai các dự án xây dựng nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao, gắn với nhu cầu của các doanh nghiệp; tổ chức các khóa đào tạo,
trao đổi kinh nghiệm về kỹ năng hội nhập, quản trị theo cách toàn cầu, đề cao năng lực
sáng tạo, đặc biệt là kiến thức về quy định, luật kinh tế, thương mại quốc tế. Đồng thời,
đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo đầu tư những
lĩnh vực mới, hiện đại và dành sự quan tâm đặc biệt để nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, cấu trúc lao động nhằm thích ứng và đón đầu các xu hướng mới của thị trường. 17
3.3. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ của Việt Nam
Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ không chỉ xuất phát từ quan điểm, đường lối
chính trị độc lập tự chủ mà còn là đòi hỏi của thực tiễn, nhằm đảm bảo độc lập tự chủ
vững chắc về chính trị, bảo đảm phát triển bền vững và có hiệu quả cho nền kinh tế, cho
việc mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế. Việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với
chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với nước ta trong tình hình mới, đảm bảo lợi ích quốc gia trong quá trình hội
nhập. Độc lập, tự chủ còn là cơ sở để giữ gìn bản sắc dân tộc. Càng hội nhập sâu rộng
càng đòi hỏi khẳng định bản sắc, càng có nhu cầu giữ gìn giá trị văn hóa, truyền thống
dân tộc. Nước ta phát triển kinh tế để đi lên chủ nghĩa xã hội, bối cảnh quốc tế có nhiều
diễn biến phức tạp, các lực lượng chống đối chủ nghĩa xã hội thường xuyên tìm cách
chống phá sự nghiệp xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nếu không xây dựng
một nền kinh tế độc lập tự chủ thì dễ bị lệ thuộc, bị các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề
kinh tế lôi kéo, khống chế, ép buộc chúng ta đi lệch quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội. Nói
cách khác, có xây dựng được nền kinh tế độc lập tự chủ thì mới tạo được cơ sở kinh tế, cơ
sở vật chất - kỹ thuật của chế độ chính trị độc lập tự chủ. Độc lập tự chủ về kinh tế là nền
tảng vật chất để đảm bảo cho sự độc lập tự chủ bền vững về chính trị.
3.4. Nâng cao năng lực của lực lượng lao động
Từ góc độ khách quan nhận xét, đất nước ta có nguồn nhân lực chất lượng cao, song
vẫn đang phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, do đó cần có các biện pháp để phát
huy tốt nguồn lực trọng yếu này trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Điều này có thể
biểu hiện qua việc nâng cao hiểu biết và sự đồng thuận của cả xã hội, trong đó chú trọng
vai trò của doanh nghiệp, doanh nhân đối với các thỏa thuận quốc tế, đặc biệt là cơ hội,
thách thức và những yêu cầu phải đáp ứng khi tham gia thực hiện các hiệp định thương
mại tự do thế hệ mới cho từng ngành hàng, hiệp hội, doanh nghiệp và cộng đồng. Đảng và
Nhà nước cần chú trọng việc tuyên truyền cho các chủ doanh nghiệp về sự giao thương và
bối cảnh hiện nay trên toàn thế giới, xác định rõ vị thế của nước ta trong thời kỳ kỷ
nguyên số đang phát triển mạnh mẽ hiện nay.
Ngoài ra, cần áp dụng theo phương hướng, nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực
trong thời gian tới mà Đại hội XII đã đề ra: “Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân
lực cho đất nước, cho từng ngành, từng lĩnh vực, với những giải pháp đồng bộ, trong đó
tập trung cho giải pháp đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực trong nhà trường cũng như
trong quá trình sản xuất, kinh doanh, chú trọng nâng cao tính chuyên nghiệp và kỹ năng
thực hành”. Thêm vào đó, các doanh nghiệp cần quán triệt sâu sắc quan điểm: “Thực
hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo
của trí thức. Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp của trí 18
thức. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống
hiến; có chính sách đặc biệt đối với nhân tài của đất nước”.
PHẦN III: TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ
1. Trách nhiệm chung của sinh viên trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Thứ nhất, phải trung thành tuyệt đối với đường lối xây dựng đất nước nói chung
và mở rộng kinh tế đối ngoại nói riêng của Đảng và Nhà nước ta. Luôn trau dồi đạo đức,
lý tưởng cách mạng, có lối sống văn hóa để trở thành những người có phẩm chất tốt đẹp,
có khí phách và quyết tâm hành động thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Thứ hai, phải hiểu biết một cách nhuần nhuyễn các quy luật của nền kinh tế thị
trường vận động trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội ở các khâu sản xuất, phân
phối, trao đổi và tiêu dùng, ở các hoàn cảnh cụ thể của thị trường trong nước và thị trường
thế giới để vận dụng một cách sáng tạo vào việc giải quyết các công việc sản xuất kinh
doanh đối ngoại của mình, đạt hiệu quả cao nhất, hạn chế thấp nhất những thiệt hại do sự
rủi ro hoặc thiếu trách nhiệm gây ra.
Thứ ba, không ngừng học tập bồi dưỡng để nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên
môn và trình độ ngoại ngữ, trình độ hiểu biết luật pháp đặc biệt là luật kinh tế để giải
quyết một cách thông thạo các quan hệ giao dịch và kinh doanh ngang tầm đòi hỏi của thị trường thế giới.
Thứ tư, biết tìm kiếm và phát hiện kịp thời những thế mạnh của sản xuất và thị
trường trong nước và thế yếu của thị trường thế giới để khai thác tốt nhất trong việc mở
rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta theo hướng đa phương và đa dạng hoá.
Thứ năm, làm công việc gì, ở đâu, với nước nào, cũng đều phải đặt lợi ích quốc
gia, lợi ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân. Trong bất cứ trường hợp nào cũng đều phải giữ
vững mục tiêu đưa nền kinh tế nước ta đi theo định hướng XHCN, không vì lợi ích kinh
tế trước mắt mà đánh mất lợi ích chính trị xã hội lâu dài.
Hội nhập kinh tế quốc tế theo đường lối của Đảng và Nhà nước đề ra là một quá
trình lâu dài phức tạp và gian khổ, nhưng nhất định sẽ thành công. Thế hệ trẻ Việt nam có
vai trò quan trọng trong việc tham gia thực hiện các mục tiêu của chiến lược hội nhập
kinh tế quốc tế. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và được giáo dục đào tạo trong môi trường
mới, chắc chắn là họ sẽ có đủ năng lực và trí tuệ để hoàn thành được những nhiệm vụ của xã hội giao cho. 19
2. Liên hệ với sinh viên trường Đại học Kinh tế Quốc dân về vấn đề hội nhập kinh tế
quốc tế ngày nay
Xem xét rõ hơn với môi trường của trường Đại học Kinh tế Quốc dân về vấn đề
hội nhập kinh tế quốc tế ngày này, nhà trường đã phối hợp với các cơ quan và các tổ chức
quốc tế khác nhau để có thể đem lại một môi trường học tập có sự hội nhập cho sinh viên
thỏa sức phát triển. Điển hình là trong chuỗi các hoạt động của Hội thảo khu vực Sáng
kiến thủ lĩnh trẻ Đông Nam Á YSEALI 2023, chương trình Đổi mới quốc tế hóa trong
giáo dục đại học do Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội phối hợp với Đại học Kinh tế Quốc
dân tổ chức tại Việt Nam. Sáng ngày 19/5/2023, 75 đại biểu tài năng đến từ 10 quốc gia
ASEAN và Đông Timor đã có chuyến tham quan tới Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
Trong chuyến thăm này, các nhà lãnh đạo trẻ đã có cơ hội được nghe chia sẻ từ TS. Đào
Thanh Tùng - Trưởng phòng Hợp tác Quốc tế (ĐH KTQD) và TS. Lê Việt Thuỷ - Giám
đốc Trung tâm Ứng dụng công nghệ thông tin (ĐHKTQD) về những nỗ lực đổi mới và
quốc tế hóa trong giáo dục đại học tại NEU. Mỗi nhóm quốc gia còn có cơ hội chia sẻ,
giới thiệu, trao đổi về các hoạt động đổi mới và quốc tế hoá tại đất nước mình. Qua đó
tiếp thêm sức mạnh cho các nỗ lực chuyển đổi trong giáo dục đại học của người tham gia,
đồng thời thúc đẩy hoạt động hợp tác quốc tế cho các tổ chức giáo dục đại học, đẩy mạnh
hợp tác giữa các quốc gia Đông Nam Á.
Bên cạnh các hoạt động ngoại khóa như trên, trường Đại học Kinh tế còn có những
chương trình học quốc tế và liên kết với các trường Đại học khác nhau trên toàn thế giới
để có thể tạo điều kiện cho sinh viên theo học được các bài giảng, giáo trình nước ngoài
tại Việt Nam. Có thể kể đến là chương trình học hệ IBD, là Chương trình liên kết Quốc tế
với đối tác là các trường Đại học uy tín. Với Chương trình này, sinh viên có thể nhận
được bằng Cử nhân Quốc tế của Đại học West of England, Đại học Coventry, Đại học
Leeds Beckett (Anh) với lộ trình học tập linh hoạt, năm cuối có thể chuyển tiếp ra nước
ngoài và nhận bằng Cử nhân của các trường Đại học tại Anh, Úc, Mỹ, v.v với nhiều chuyên ngành đa dạng
Đối với khoa Toán Kinh tế của trường Đại học Kinh tế Quốc dân, khoa cũng đã có
các chương trình đạo tạo liên kiết quốc tế đó là ISFA và chương trình đào tạo Actuary.
Học viện Khoa học Tài chính và Bảo hiểm – ISFA (Institut de Science Financiere et
d’Assurances), trực thuộc Đại học Tổng hợp Claude Bernard Lyon 1, là cơ sở thực
hiện chương trình liên kết đào tạo Cử nhân và Thạc sĩ chuyên ngành Actuary (Định phí
bảo hiểm và Quản trị rủi ro) giữa Trường đại học Kinh tế Quốc dân và Trường Đại học
Tổng hợp Claude Bernard Lyon 1 của Cộng hòa Pháp.
Từ đó, ta có thể nhận thấy rằng chính trong môi trường học tập của trường Đại học
Kinh tế Quốc dân nói riêng và nền Giáo dục Việt Nam nói chung đã có sự phát triển trong
quá trình hội nhập này. Điều này ngoài việc nâng cao vị thế nền giáo dục nước nhà, nó 20