



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61431571
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA HỆ THỐNG THÔNG TIN QUẢN LÝ (CHUYÊN NGÀNH) BÀI TẬP LỚN
MÔN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
ĐỀ BÀI: Có ý kiến cho rằng: “Con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội đã được khẳng định
một cách rõ ràng và đầy đủ trong Chính cương, Sách lược vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt
Nam ngay từ những này đầu thành lập Đảng. Hôm này và mai sau, chúng ta cứ theo đó là
thực thi” (Đây là tình huống giả định).
Bằng kiến thức triết học về mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn của cách
mạng Việt Nam, hãy bình luận ý kiến nêu trên.
Họ và tên sinh viên: Bùi Tuấn Anh MSV: 11243382
Lớp tín chỉ: LLNL1105(224)_17
Giảng viên: TS.Nguyễn Chí Thiện lOMoAR cPSD| 61431571
HÀ NỘI – 2025 MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
B. NỘI DUNG ..................................................................................................................... 2
1) Giải thích và xác định vấn đề đặt ra trong ý kiến .................................................. 2
1.1) Giải thích ý kiến .................................................................................................... 2
1.2) Xác định vấn đề cần bàn luận ............................................................................... 3
2) Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn theo triết học Mác – Lênin....................... 5
2.1) Lý luận về vai trò của lý luận trong hoạt động thực tiễn ...................................... 5
2.2) Sự vận động biện chứng giữa lý luận và thực tiễn ............................................... 7
3) Vận dụng lý luận vào cách mạng Việt Nam ............................................................ 9
3.1) Chính cương, Sách lược vắn tắt: vai trò định hướng lý luận ............................... 9
3.2) Thực tiễn và sự phát triển lý luận sau 1930 ....................................................... 12
4) Phân tích và bình luận ý kiến ................................................................................. 16
4.1) Những mặt đúng .................................................................................................. 16
4.2) Những hạn chế .................................................................................................... 17
5) Bài học kinh nghiệm về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn .......................... 18
C. KẾT LUẬN .................................................................................................................. 21 lOMoAR cPSD| 61431571 A. LỜI MỞ ĐẦU
Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn luôn giữ một
vai trò nền tảng, và là kim chỉ nam trong việc hoạch định các đường lối, cũng như chiến
lược phát triển đất nước. Ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930, vị lãnh tụ
anh minh Nguyễn Ái Quốc đã thông qua các văn kiện mang tính chiến lược quan trọng như
“Chính cương vắn tắt”, “Sách lược vắn tắt” và “Điều lệ tóm tắt” để từ đó xác định rõ con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội dân tộc Việt Nam. Những văn kiện này đã nêu rõ vai trò của
giai cấp công nhân, đồng thời, xác định một cách minh bạch mục tiêu giành độc lập dân tộc
gắn liền với tiến lên chủ nghĩa xã hội. Từ đó, tạo cơ sở lý luận ban đầu cho sự nghiệp giải
phóng và phát triển đất nước. Tuy nhiên trong thực tiễn cách mạng hơn 90 năm qua, từ các
cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc, rồi đến công cuộc đổi mới từ năm 1986 trở về
sau, nhiều vấn đề mới đã nảy sinh. Điều này đòi hỏi phải bổ sung và phát triển lý luận nhằm
đáp ứng nhu cầu lịch sử. Qua đó, nhận thấy được rằng việc áp dụng kiến thức triết học về
mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn của cách mang Việt Nam để bình luận về
ý kiến“Con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội đã được khẳng định một cách rõ ràng và đầy
đủ trong Chính cương, Sách lược vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ những này
đầu thành lập Đảng. Hôm này và mai sau, chúng ta cứ theo đó là thực thi” là hoàn toàn
hợp lý, đúng đắn và cần thiết, đặc biệt là dưới góc nhìn của Triết học Mác – Lênin. Và đây
cũng chính là lý do để em chọn đề tài này, để góp phần làm rõ rằng: Lý luận cách mạng
không phải là thứ bất biến, mà cần phải xuất phát từ thực tiễn, được kiểm nghiệm bởi thực
tiễn và không ngừng phát triển cùng với thực tiễn. Cũng như bên cạnh đó, khẳng định chắc
nịch vai trò chỉ đạo, định hướng đúng đắn của Đảng trong việc không ngừng đổi mới tư duy
lý luận để phù hợp bối cảnh lịch sử, nhằm từ đó đưa cách mạng Việt Nam phát triển vững
chắc trên con đường xã hội chủ nghĩa.
Thông qua đề tài lần này, em xin gửi một lời cảm ơn chân thành đến thầy Nguyễn Chí
Thiện vì thầy đã giúp em có thêm nhiều những hiểu biết hơn về triết học trong mối quan hệ
biện chứng giữa lý luận và thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Trong quá trình làm bài tiểu
luận, tuy đã cố gắng và vận dụng thật triệt để những khả năng nhưng em sẽ khó tránh khỏi
đôi chút sai sót, thiếu sót do trình độ còn hạn chế. Chính vì lí do này nên em rất mong thầy
sẽ đưa ra cho em những ý kiến đóng góp và nhận xét để em có thể hoàn thiện hơn bài tiểu
luận cũng như mở rộng và củng cố thêm vững chắc kiến thức của mình. Em xin trân trọng cảm ơn thầy! lOMoAR cPSD| 61431571 B. NỘI DUNG
1) Giải thích và xác định vấn đề đặt ra trong ý kiến
1.1) Giải thích ý kiến
Ý kiến được nêu ra trong đề bài cho rằng:“Con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội đã được
khẳng định một cách rõ ràng và đầy đủ trong Chính cương, Sách lược vắn tắt của Đảng
Cộng sản Việt Nam ngay từ những này đầu thành lập Đảng. Hôm này và mai sau, chúng ta
cứ theo đó là thực thi”. Đây là một nhận định mang tính khái quát và thể hiện niềm tin vào
nền tảng lý luận đã được Đảng xác lập nên ngay từ những ngày đầu thành lập. Tuy nhiên,
để có thể đánh giá một cách biện chứng và toàn diện nhất thì ta cần phải đi sâu và làm rõ
bản chất của mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn, cụ thể là nằm ở tiến trình cách mạng ở
Việt Nam. Vào thời điểm năm 1930, khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đất nước đang
chìm trong ách thống trị của thực dân Pháp, mâu thuẫn dân tộc đang ở đỉnh điểm. Chính vì
vậy, việc xác định đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đổ đế quốc và
phong kiến, giành độc lập dân tộc là nhiệm vụ trung tâm. Trong bối cảnh ấy, “Chính cương
vắn tắt” và “Sách lược vắn tắt” của Đảng thể hiện một bước phát triển vượt bậc về lý luận
– kết tinh từ tinh thần tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin, gắn với điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam.
Nhận định được đưa ra mang hai ý nổi bật. Thứ nhất nằm ở việc nhấn mạnh tính đúng
đắn, đầy đủ và trọn vẹn của “Chính cương vắn tắt”, “Sách lược vắn tắt” do Chủ tịch Hồ
Chí Minh soạn thảo năm 1930. Tính đúng đắn ấy cụ thể được mô tả bằng một số khẳng định
chắc nịch trong văn kiện “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới
xã hội cộng sản.”,“Chính sách của Đảng là đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong
kiến…” [Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt (1930) – Hồ Chí Minh]. Thứ hai, nhận
định hàm ý rằng việc thực thi lý luận là một quá trình theo đúng như những gì đã vạch ra
từ đầu, không cần điều chỉnh hay phát triển, bổ sung. Tuy nhiên để có thể đánh giá được
nhận định này, ta cần phải đặt nó trong mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn –
thứ được coi là nền tảng của Triết học Mác – Lênin, đồng thời, cũng là nguyên tắc chỉ đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong toàn bộ tiến trình cách mạng. Cũng cần nhìn nhận rằng,
ý kiến nêu ra trong đề bài phản ánh một niềm tin phổ biến trong một bộ phận cán bộ, đảng
viên hoặc quần chúng – những người cho rằng tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của
Đảng lúc khai sinh đã quá đầy đủ, không cần thay đổi. Song khi nhìn vào thực tiễn, ta thấy
mỗi giai đoạn cách mạng đều đặt ra những yêu cầu và điều kiện hoàn cảnh khác nhau, điều
này khiến Đảng phải thường xuyên điều chỉnh lý luận sao cho phù hợp với tình hình mới
của cách mạng. Việc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hay lOMoAR cPSD| 61431571
là việc hội nhập quốc tế sâu rộng sau đổi mới, đều là kết quả của quá trình lý luận hóa từ
thực tiễn. Và đây cũng là điều mà văn kiện 1930 chưa thể dự đoán trước được đầy đủ. Và
do đó, để phát triển bền vững và tránh rơi vào một khuôn mẫu gò bó, cứng nhắc, việc không
ngừng bổ sung và làm mới lý luận trên cơ sở thực tiễn là yêu cầu khách quan, thể hiện đúng
tính thần biện chứng mà chủ nghĩa Mác – Lênin đã đề cao.
1.2) Xác định vấn đề cần bàn luận
Để một cây non có thể tồn tại, lớn lên và phát triển thì trước hết nó cần được gieo mầm
từ những hạt giống ban đầu. Triết học cũng như vậy, để tiến hành phân tích, đánh giá một ý
kiến bất kỳ trong khoa học xã hội, bước đầu tiên có ý nghĩa nền tảng là xác định rõ “Hạt
nhân lý luận mà ý kiến đó đặt ra là gì ?”. Với phát biểu đã được trích dẫn,“Con đường đi
lên Chủ nghĩa xã hội đã được khẳng định một cách rõ ràng và đầy đủ trong Chính cương,
Sách lược vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ những này đầu thành lập Đảng.
Hôm này và mai sau, chúng ta cứ theo đó là thực thi”, như đề bài đã nêu ra, chúng ta chỉ
đang đối mặt với một quan điểm mang tính giả định, tuy nhiên, quan điểm này lại rất điển
hình cho lối tư duy bảo thủ, giáo điều, trong đó, cụ thể đề cao lý luận đến mức tuyệt đối và
xem nhẹ sự vận động khách quan của thực tiễn lịch sử.
“Hạt nhân lý luận” của vấn đề cần bàn luận không nằm ở “tính đúng” của văn kiện năm
1930, mà ở “tính bất biến” của lý luận ấy theo thời gian. Đề bài đã chỉ rõ, văn kiện “Chính
cương vắn tắt”, “Sách lược vắn tắt” được đánh giá là đầy đủ, rõ ràng và có thể “thực thi
nguyên vẹn” không chỉ trong hiện tại mà còn ở cả tương lai. Tuy nhiên, nhìn đúng vào bản
chất của nhận định này thì nó không phải là sự xác nhận hay phủ định một cách toàn bộ văn
kiện, mà là đặt ra câu hỏi về khả năng duy trì tính hiệu lực, nguyên vẹn của một hệ thống
lý luận cách mạng qua các điều kiện thực tiễn không ngừng thay đổi.
Theo hướng nhìn nhận của chủ nghĩa Mác – Lênin, bản chất của lý luận cách không
phải là những công thức cố định, mà là hệ thống mở có khả năng thích ứng với thực tiễn.
Lý luận cách mạng không đơn thuần là bộ chỉ dẫn sẵn có, mà là sự khái quát từ thực tiễn
đấu tranh giai cấp và biến đổi xã hội. Do đó, việc cho rằng một văn kiện – dù được soạn
thảo công phu – có thể đủ đầy cho mọi thời đại là đi ngược với chính nguyên lý biện chứng
duy vật mà Mác đã từng chỉ rõ: “Lý luận, một khi thoát ly khỏi thực tiễn, sẽ biến thành ảo
tưởng” (C. Mác – F. Ăngghen, Toàn tập, tập 1, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 56).
Để làm rõ bản chất của giả định, ta cần đi sâu vào việc phân biệt giữa “giá trị lịch sử”
và “giá trị chỉ đạo toàn diện” của “Chính cương vắn tắt” và “Sách lược vắn tắt”. Văn kiện
năm 1930 là văn kiện có giá trị to lớn, nền tảng, vì nó đã đánh dấu sự ra đời của một Đảng
chính trị tiên phong trong sự nghiệp cách mạng vĩ đại. Tuy nhiên, giá trị lịch sử không đồng lOMoAR cPSD| 61431571
nghĩa với khả năng áp dụng vĩnh viễn, thực thi nó một cách đầy đủ, thiếu sửa đổi, điều
chỉnh. Giả định trong đề bài đã vô tình đồng nhất hai phạm trù này, từ đó dẫn đến lối tư duy
ngưng đọng, giáo điều, không chấp nhận sự thay đổi của bối cảnh lịch sử.
“Vậy thì đâu là vấn đề cần làm rõ ?” Từ những phân tích về bản chất của nhận định
được nêu ra, vấn đề cần làm rõ có thể được cụ thể hóa bằng câu hỏi: “Đâu là giới hạn khách
quan của lý luận khi bối cảnh thực tiễn thay đổi?”. Thực tiễn là quá trình sống động, luôn
vận động và biến đổi theo sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Trong khi đó, lý luận
– dù được xây dựng công phu, tỉ mỉ, cẩn trọng – luôn có điểm giới hạn nhất định bởi điều
kiện lịch sử thời điểm ra đời của nó. V.I. Lenin từng nói: “Chúng ta không thể học một lần
là đủ... mà phải học cả trong và sau cách mạng, vì đời sống không bao giờ ngừng lại”
(Lenin, Toàn tập, tập 44, NXB Sự thật, tr. 35). Điều này đặt ra yêu cầu: phải thường
xuyên bổ sung, điều chỉnh lý luận để bắt kịp thực tiễn, không được rơi vào tình trạng gìn
giữ một cách nguyên trạng, cố định, như một món đồ cổ hay hiện vật trong bảo tàng – mà
phải được vận dụng, phát triển và cập nhật qua thực tiễn.
“Khi đặt trong bối cảnh Việt Nam sau 1930, đâu là những thay đổi lớn khiến lý luận
cần bổ sung ?” Khi “Chính cương vắn tắt” được soạn thảo, Việt Nam đang là thuộc địa,
mục tiêu cách mạng là giành độc lập dân tộc. Tuy nhiên, sau khi giành được độc lập (1945),
xây dựng chính quyền (1946), tiến hành kháng chiến chống Pháp (1946–1954), rồi kháng
chiến chống Mỹ (1954–1975), đến giai đoạn thống nhất và đổi mới (1986–nay), từng thời
kỳ đặt ra những yêu cầu chiến lược khác nhau, không thể chỉ sử dụng lý luận của năm 1930
để giải quyết toàn bộ các vấn đề phát sinh. Lịch sử đã từng ghi nhận những hậu quả nặng
nề của lối tư duy cứng nhắc, cụ thể: Trong giai đoạn 1976–1985, chính sách cải tạo công
thương nghiệp theo mô hình kế hoạch hóa tập trung đã gây ra khủng hoảng kinh tế trầm
trọng, do máy móc áp dụng mô hình từ Liên Xô mà không phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Nếu Đảng không tiến hành đổi mới từ năm 1986, lý luận giáo điều sẽ trở thành lực cản lớn
cho phát triển kinh tế - xã hội. Văn kiện Đại hội VI (1986) đã đánh dấu bước chuyển quan
trọng từ nhận thức lý luận cũ sang tư duy “đổi mới lý luận trên cơ sở tổng kết thực tiễn”.
Như vậy, ta có thể nhận thấy tính sâu sắc ở “hạt nhân lý luận” của ý kiến, có thể khái
quát hóa bằng một câu nói: “Khả năng tự điều chỉnh của lý luận là thước đo sức sống của
chủ nghĩa Mác – Lênin”. Chủ nghĩa Mác – Lênin không phải một hệ thống giáo điều, mà
là một phương pháp tư duy khoa học. Khả năng sống còn của chủ nghĩa này phụ thuộc vào
việc nó có tiếp thu và phản ánh được thực tiễn hay không. Như chủ tịch Hồ Chí Minh từng
nói: “Chủ nghĩa Mác – Lênin không phải là giáo điều, mà là kim chỉ nam cho hành động”
(Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 5, NXB Chính trị Quốc gia, tr. 295). Câu nói này chính là
lời bác bỏ thuyết “áp dụng nguyên xi lý luận đầu tiên cho mọi thời kỳ”. lOMoAR cPSD| 61431571
Bằng những phân tích đưa ra, “Chính cương, Sách lược vắn tắt” có vai trò như khời
đầu, là “hạt giống lý luận” chứ không phải kết thúc của tư duy chiến lược. Vậy nên nếu
muốn phát triển thì phải chăm bón bằng thực tiễn. Không thể giữ nguyên hạt giống mà
mong cây cách mạng trưởng thành. Điều đó cũng giống như việc dùng bản đồ từ thế kỷ
trước để tìm đường trong thời đại 4.0 – có giá trị tham khảo nhưng không đủ để dẫn đường,
đưa con người đến với điểm đến mong muốn.
Ta nhận thấy vấn đề cần phân tích ở đây là: “Mối quan hệ đó không bất biến, mà luôn
biến đổi lẫn nhau”. Lý luận sinh ra từ thực tiễn, và ngược lại, lý luận chỉ có giá trị khi được
thực tiễn kiểm nghiệm. Do đó, ý kiến trong đề bài cần được tiếp cận một cách biện chứng:
nó phản ánh niềm tin vào lý luận nhưng nếu tuyệt đối hóa, nó sẽ đi ngược lại chính nguyên
lý vận động của cách mạng. Điều này phản ánh tính chất mở và vận động của lý luận là nội
dung trung tâm của mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn.
Từ góc nhìn xây dựng Đảng, vấn đề nêu ra trong đề còn liên quan đến việc giữ gìn bản
chất cách mạng và khoa học của lý luận chính trị. Một Đảng cách mạng chân chính không
thể dùng lý luận cũ để đối phó với thách thức mới. Chủ nghĩa Mác – Lênin luôn đề cao
nguyên tắc: “Phải xuất phát từ thực tiễn để phát triển lý luận cách mạng”. Văn kiện Đại
hội XIII khẳng định rõ: “Tiếp tục tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” (Văn kiện Đại hội XIII, NXB Chính
trị Quốc gia, 2021, tập 1, tr. 135).
Tóm lại, phát biểu trong đề bài đặt ra một vấn đề triết học – chính trị lớn: “Làm thế nào
để phát huy sức mạnh chỉ đạo của lý luận mà không rơi vào giáo điều ?”. Muốn trả lời
đúng, phải vận dụng phương pháp biện chứng duy vật: mọi lý luận, kể cả những văn kiện
gốc, cần được đặt trong dòng chảy của thực tiễn cách mạng. Từ đó, ta mới thấy rõ rằng: “Lý
luận khởi đầu có giá trị khai mở, nhưng không thể thay thế cho toàn bộ tiến trình phát triển tư duy cách mạng”.
2) Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn theo triết học Mác – Lênin
2.1) Lý luận về vai trò của lý luận trong hoạt động thực tiễn
Trong triết học Mác – Lênin, lý luận không phải là thứ được sản sinh một cách tùy tiện
trong đầu óc của các nhà tư tưởng mà là sự phản ánh khái quát, có tính hệ thống và trừu
tượng cao từ chính đời sống thực tiễn. Mác từng khẳng định: “Lý luận trở thành một lực
lượng vật chất ngay khi nó thâm nhập vào quần chúng” (Karl Marx, Góp phần phê phán
triết học pháp quyền của Hêghen. Lời nói đầu, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1982, tr. 29.).
Điều này cho thấy, lý luận không chỉ là hệ thống tri thức mà còn là kim chỉ nam dẫn dắt
hành động cách mạng khi được thấm nhuần và vận dụng đúng đắn. Lý luận có khả năng soi
sáng con đường phát triển, tránh được những sai lầm mù quáng trong hành động. Điều này lOMoAR cPSD| 61431571
đặc biệt đúng trong cách mạng Việt Nam, khi những người cộng sản lựa chọn con đường
giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Lý luận đóng vai trò định hướng, giúp phân tích các mâu thuẫn cơ bản trong xã hội, từ
đó xác định được nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của phong trào cách mạng. Để mô tả một
cách cụ thể hơn, trong thời kỳ 1930–1945, lý luận về mâu thuẫn cơ bản giữa dân tộc Việt
Nam với thực dân Pháp giúp Đảng xác định đúng mục tiêu giành độc lập dân tộc là nhiệm
vụ trước tiên, phù hợp với yêu cầu khách quan. Nhờ có cơ sở lý luận đó mà Đảng đã đề ra
khẩu hiệu đúng đắn như: “Tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất”, “Tạm thời liên hiệp
với địa chủ kháng chiến” (giai đoạn 1945–1954), điều chỉnh sách lược phù hợp, không giáo
điều, biết thích nghi và điều chỉnh phù hợp với từng hoàn cảnh, giai đoạn khác nhau.
Một tổ chức cách mạng, đặc biệt là chính đảng kiểu mới như Đảng Cộng sản, phải được
trang bị lý luận tiên phong để tránh rơi vào khuynh hướng tả khuynh, hữu khuynh hoặc tự
phát. Lý luận là yếu tố quyết định sự trưởng thành chính trị của lưc lượng cách mạng, vì nó
không chỉ là “ngọn hải đăng” cho quần chúng mà còn là cơ sở để xây dựng đường lối,
cương lĩnh, nghị quyết. Khi mọi cán bộ, đảng viên đều nhận thức thống nhất về vai trò của
cách mạng, mục tiêu chiến lược và chiến thuật, tổ chức đó mới đủ sức chiến đấu và chiến
thắng. Lenin từng nhấn mạnh: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong
trào cách mạng” (V.I. Lênin, Làm gì?, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1970, tr. 24).
Trong thực tiễn cách mạng, có lúc thực trạng xã hội khiến con người dễ rơi vào tình
trạng bị cuốn theo những mâu thuẫn cục bộ, phiến diện. Lý luận chính là công cụ mang lại
tầm nhìn lịch sử, giúp nhìn xa trông rộng, vượt lên những giới hạn nhất thời. Cụ thể hóa
như sau, thời kỳ đầu đổi mới (1986), nhiều người băn khoăn về việc xây dựng kinh tế thị
trường có đi ngược với định hướng xã hội chủ nghĩa không. Chính lý luận mới được phát
triển trên nền tảng Mác – Lênin đã khẳng định rằng: “Phát triển kinh tế thị trường không
phải là đi ngược CNXH mà là một hình thức vận dụng linh hoạt, sáng tạo” (Đảng Cộng
sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia
– Sự thật, Hà Nội, 2001, tr. 83).
Khi phong trào cách mạng đi vào chiều sâu, việc tổng kết thực tiễn để phát hiện quy
luật vận động mới là rất quan trọng. Tuy nhiên, nếu không có lý luận làm cơ sở, làm nền
tảng giải quyết vấn đề, việc tổng kết dễ bị rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm. Ví dụ điển hình
cho điều này là: Sau kháng chiến chống Mỹ thắng lợi (1975), đất nước lâm vào khủng hoảng
kinh tế - xã hội do máy móc áp dụng mô hình kinh tế bao cấp. Tổng kết thực tiễn bằng cách
chỉ dựa vào kết quả bề mặt đã khiến nhiều năm đầu sau 1975, chúng ta gặp khó khăn. Chỉ
khi lý luận được cập nhật, đổi mới (1986), dựa trên sự nghiên cứu tổng thể lý luận về thị
trường và chủ nghĩa xã hội, Đảng mới đề ra đường lối đúng đắn hơn. lOMoAR cPSD| 61431571
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và mặt trái của sự đa nguyên, đa chiều, lý luận đóng vai
trò như một “hệ miễn dịch” của hệ tư tưởng, giúp phản bác lại các luận điệu xuyên tạc, phi
lịch sử và giữ vững lập trường tư tưởng. Đặc biệt, khi một số quan điểm cho rằng chủ nghĩa
xã hội là lỗi thời, lý luận Mác – Lênin được Đảng ta tiếp thu và vận dụng sáng tạo để chứng
minh rằng: “CNXH không phải là mô hình khép kín mà là một tiến trình phát triển mở, phản
ánh khát vọng công bằng, tiến bộ của nhân loại”. (Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX,
Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, 2001, tr. 17).
Tuy nhiên, lý luận không thể tách rời thực tiễn – nếu không sẽ trở thành giáo điều. Triết
học Mác – Lênin luôn nhấn mạnh: lý luận phải luôn vận động theo thực tiễn. Nếu chỉ giữ
nguyên lý luận cũ kỹ, không bổ sung từ thực tiễn mới thì lý luận sẽ bị “đóng khung” và trở
thành lực cản phát triển. V.I. Lenin từng cảnh báo: “Không có gì nguy hiểm hơn một lý luận
đã lỗi thời nhưng vẫn được vận dụng như chân lý tuyệt đối”. Đường lối của Đảng cũng đã
từng điều chỉnh nhiều lần cho phù hợp với hoàn cảnh: từ “tiến nhanh, tiến mạnh lên CNXH”
(1958) đến “lấy phát triển kinh tế làm trung tâm” (1986), thể hiện rõ sự vận động lý luận từ thực tiễn.
Chủ nghĩa Mác – Lênin không phải là hệ thống đóng kín, mà là phương pháp mở. Lý
luận chân chính là lý luận được phát triển dựa trên thực tiễn biến đổi. Như Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng từng viết: “Chủ nghĩa xã hội không phải là một mô hình có sẵn, được
sao chép từ nước khác, mà là sản phẩm của sự tìm tòi, phát triển trên nền tảng lý luận Mác
– Lênin và thực tiễn Việt Nam” (Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật,
Hà Nội, 2011, tr. 22). Điều này càng cho thấy, lý luận chân chính phải là lý luận sống động,
có khả năng hấp thụ cái mới, lý giải được các hiện tượng xã hội mới, đồng thời gợi mở con
đường đi tới tương lai. Như vậy, lý luận cần được phát triển không ngừng, và phản ảnh
trung thực hiện thực vận động.
2.2) Sự vận động biện chứng giữa lý luận và thực tiễn
Theo triết học Mác – Lênin, vận động biện chứng là quá trình phát triển không ngừng
của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy, diễn ra thông qua sự thống nhất và
đấu tranh giữa các mặt đối lập. Lý luận và thực tiễn không tồn tại tách rời mà nằm trong
mối quan hệ biện chứng, trong đó mỗi yếu tố đều vừa độc lập vừa tác động qua lại lẫn nhau.
Trong hệ thống triết học Mác – Lênin, biện chứng giữa lý luận và thực tiễn phản ánh sự vận
động tiến bộ của nhận thức: từ thực tiễn đến lý luận, và từ lý luận trở lại thực tiễn. C.Mác
từng khẳng định: “Lý luận cũng trở thành một lực lượng vật chất khi nó thâm nhập vào
quần chúng” (Mác - Ăngghen, Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, 1995, tr.422). lOMoAR cPSD| 61431571
Lý luận không phải là một hệ thống khô cứng, bất biến, mà là sản phẩm của quá trình
tổng kết thực tiễn và phải luôn được cập nhật, điều chỉnh theo sự thay đổi của hiện thực
khách quan. Ví dụ rõ nét là trong cách mạng Việt Nam, lý luận cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân do Đảng ta vận dụng được hình thành và phát triển từ thực tiễn đấu tranh với thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ. Việc lý luận phải gắn bó và thường xuyên điều chỉnh theo thực
tiễn là biểu hiện rõ rệt của sự vận động biện chứng. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:
“Chủ nghĩa Mác - Lênin không phải là một học thuyết giáo điều mà là kim chỉ nam cho
hành động” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, 2000, tr.302).
Thực tiễn là nền tảng, là tiêu chuẩn của chân lý, là nơi nảy sinh các vấn đề mới, thách
thức mới, từ đó đặt ra yêu cầu phải xây dựng, phát triển lý luận mới tương ứng, làm sâu sắc
thêm nhận thức khoa học. Cụ thể, trong thời kỳ đổi mới, thực tiễn phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa đặt ra nhiều vấn đề chưa từng có trong thời kỳ kế hoạch
hóa tập trung. Đó chính là động lực để Đảng ta phát triển lý luận về kinh tế thị trường định
hướng XHCN – một lý luận chưa từng có tiền lệ trong lịch sử chủ nghĩa Mác. Điều này cho
thấy thực tiễn không những là “cội nguồn” mà còn là “chất xúc tác” cho quá trình phát triển lý luận.
Một lý luận dù khoa học, chặt chẽ đến đâu nhưng nếu không gắn với thực tiễn, không
có khả năng áp dụng để giải quyết những vấn đề của cuộc sống thì cũng trở nên vô nghĩa.
Trong tác phẩm “Luận cương về Phơ-bách”, C.Mác nêu rõ: “Vấn đề liệu tư duy con người
có thể đạt đến chân lý khách quan hay không không phải là vấn đề lý luận mà là vấn đề
thực tiễn. Chính thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý” (Mác - Ăngghen, Toàn tập, tập 3,
Nxb Chính trị quốc gia, 1995, tr.36). Khi lý luận được ứng dụng thành công vào thực tiễn
thì nó sẽ tạo ra những thay đổi có ý nghĩa trong đời sống xã hội – đây là kết quả của quá
trình vận động biện chứng trở lại từ lý luận đến thực tiễn.
Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn không đồng hành một cách tuyến tính, mà là theo
chu kỳ vận động lặp: Thực tiễn → Lý luận → Thực tiễn mới → Lý luận mới… với mỗi chu
kỳ có trình độ cao hơn trước. Chu kỳ đó biểu thị cho quá trình nhận thức tiến bộ của con
người, phản ánh quy luật “phủ định biện chứng” – cái cũ bị phủ định nhưng không mất
hoàn toàn mà được nâng lên trình độ cao hơn. Đây là lý do tại sao trong cách mạng, những
vấn đề tưởng chừng đã được lý luận hóa vẫn cần tiếp tục xem xét, bổ sung khi điều kiện
thực tiễn thay đổi. Điều này giúp lý luận không bị tụt hậu và luôn là công cụ định hướng
đúng đắn cho thực tiễn.
Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn không thể tự vận hành nếu không có sự tác động
của con người – chủ thể tư duy lý luận và hành động thực tiễn. Hay nói cách khác, con
người giữ vai trò quyết định trong mối quan hệ vận động biện chứng. Khả năng tư duy, tổng lOMoAR cPSD| 61431571
hợp, khái quát, vận dụng đúng đắn của con người quyết định sự thành công của quá trình
vận động biện chứng giữa hai mặt này. Điều này đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải có năng lực
lý luận, khả năng “học tập lý luận gắn với thực tiễn” – một phẩm chất mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh từng nhấn mạnh: “Lý luận mà không liên hệ với thực tế là lý luận suông, thực tế mà
không có lý luận soi đường thì làm việc mò mẫm, dễ lạc lối” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập
6, Nxb Chính trị quốc gia, 2000, tr.147).
Khi nhìn vào tiến trình cách mạng Việt Nam, ta có thể đưa ra một số ví dụ minh họa rõ
nét về sự vận động biện chứng. Thực tiễn phong trào công – nông trong những năm 1920
đã thôi thúc sự ra đời của lý luận cách mạng vô sản ở Việt Nam. Rồi sau đó, “Cương lĩnh
chính trị” đầu tiên của Đảng (1930) là kết quả tổng kết từ phong trào yêu nước và tiếp thu
lý luận Mác – Lênin, rồi sau đó được thử thách và tiếp tục điều chỉnh qua thực tiễn đấu
tranh giành chính quyền (1945), kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, đổi mới (1986). Quá
trình đổi mới cũng cần được đưa ra để giải thích cho sự vận động này: Từ thực tiễn khủng
hoảng cuối những năm 1970 – đầu 1980, lý luận “kinh tế nhiều thành phần”, “đổi mới tư
duy kinh tế” được hình thành, rồi dẫn dắt thành công công cuộc Đổi mới toàn diện đất nước.
3) Vận dụng lý luận vào cách mạng Việt Nam
3.1) Chính cương, Sách lược vắn tắt: vai trò định hướng lý luận
Tình hình quốc tế và trong nước đầu thế kỷ XX tạo nên tiền đề cho sự hình thành hệ tư
tưởng cách mạng Việt Nam: sự khủng hoảng của chế độ phong kiến, sự xâm lược của thực
dân Pháp, cùng với làn sóng cách mạng vô sản lan rộng sau Cách mạng Tháng Mười Nga
năm 1917. Việt Nam lúc này chưa có một cương lĩnh chính trị chính thống, dẫn đến sự phát
triển phân tán và thiếu định hướng trong các phong trào yêu nước. Trong bối cảnh đó, sự ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930 và các văn kiện đầu tiên của Đảng như
“Chính cương vắn tắt”, “Sách lược vắn tắt” do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo đóng vai trò nền
tảng lý luận đầu tiên, đặt nền móng tư tưởng, phương hướng và phương pháp cho cách
mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh khẳng định rằng: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản” (Hồ Chí Minh, Toàn
tập, tập 2, NXB Chính trị Quốc gia, 2011, tr. 284).
Các văn kiện này xác định rõ tính chất, nhiệm vụ và lực lượng cách mạng, đặt nền móng
cho tư duy cách mạng Việt Nam. Trong “Chính cương vắn tắt”, Đảng xác định cách mạng
Việt Nam là cách mạng tư sản dân quyền, là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới.
Văn kiện đưa ra khẩu hiệu hành động, xác định mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn giữa nhân
dân Việt Nam và thực dân Pháp, giữa đại đa số nhân dân lao động với chế độ phong kiến
tay sai. Đây là điểm khởi đầu quan trọng giúp thống nhất về nhận thức, từ đó dẫn dắt hành
động cách mạng trong thực tiễn. Lý luận ở đây không mang tính lý thuyết suông, mà được lOMoAR cPSD| 61431571
cụ thể hóa để giải quyết yêu cầu bức thiết của dân tộc – đó là vấn đề độc lập, dân chủ, ruộng đất và quyền sống.
“Sách lược vắn tắt” không chỉ xác định mục tiêu mà còn vạch rõ phương pháp, chiến
lược – chiến thuật đấu tranh: Đảng đề ra những hình thức tổ chức cách mạng phù hợp với
đặc điểm xã hội thuộc địa như công hội, nông hội, mặt trận dân tộc thống nhất,... Những
điểm như: lợi dụng mâu thuẫn giữa đế quốc với đế quốc, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân
lao động thế giới, phân hóa hàng ngũ kẻ thù... thể hiện tư duy biện chứng và linh hoạt trong
vận dụng lý luận Mác – Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam. Đây chính là nét đặc trưng trong
đường lối cách mạng Việt Nam, vừa có nguyên tắc lý luận vững chắc, vừa có phương pháp
linh hoạt, bám sát thực tiễn đấu tranh.
Mặc dù chịu ảnh hưởng nền tảng từ chủ nghĩa Mác – Lênin, các văn kiện đầu tiên này
không sao chép máy móc kinh nghiệm của Liên Xô hay Trung Quốc mà được Nguyễn Ái
Quốc điều chỉnh theo đặc điểm cụ thể của một nước thuộc địa nửa phong kiến, mang tính
độc lập, sáng tạo trong lý luận. Đây là đặc trưng của chủ nghĩa Mác – Lênin ở Việt Nam.
Thay vì đặt nhiệm vụ đấu tranh giai cấp lên hàng đầu như trong Cách mạng Tháng Mười,
Đảng ta xác định ưu tiên trước tiên là nhiệm vụ dân tộc – giành độc lập, từ đó mở đường
cho sự phát triển dân chủ và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là biểu hiện sinh động cho
nguyên lý “lý luận gắn với thực tiễn” – không có lý luận chung chung, mà luôn có lý luận
mang tính chất chỉ đạo thực tiễn cụ thể. Như V.I. Lênin từng nhấn mạnh: “Không có lý luận
cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng” (V.I. Lênin Toàn tập, tập 23,
Nxb. Tiến Bộ, Moscow, 1980, tr. 49–58).
Nguyễn Ái Quốc không chỉ là người truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam
mà còn là người đầu tiên chuyển hóa lý luận đó thành một hệ tư tưởng chính trị – hành động
phù hợp với hoàn cảnh dân tộc. Ông không trình bày lý luận theo kiểu bác học, trừu tượng,
mà sử dụng cách viết ngắn gọn, dễ hiểu, có tính hướng dẫn cụ thể cho các đảng viên – điều
đó phù hợp với trình độ văn hóa và điều kiện xã hội lúc bấy giờ. Tư duy chiến lược của
Nguyễn Ái Quốc được thể hiện ở việc đặt trọng tâm vào vấn đề dân tộc, xem đó là “mấu
chốt” để huy động lực lượng xã hội rộng lớn, tạo ra mặt trận dân tộc thống nhất.
Những văn kiện này củng cố tính chính danh và vai trò tiên phong của Đảng trong phong
trào giải phóng dân tộc. Nhờ có đường lối lý luận rõ ràng, Đảng đã tập hợp được lực lượng
xã hội rộng rãi và phát triển từ một tổ chức bí mật thành tổ chức lãnh đạo toàn dân tộc. Sự
vững vàng về lý luận cũng giúp Đảng vượt qua thử thách của các đợt khủng bố, đàn áp,
phân hóa và cấm đoán trong giai đoạn đầu. Như Tổng Bí thư Trường Chinh sau này đánh
giá: “Đường lối chính trị đúng đắn là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”. lOMoAR cPSD| 61431571
“Chính cương vắn tắt”, “Sách lược vắn tắt” là di sản lý luận cho các chặng đường cách
mạng sau, vì nó không chỉ là cơ sở tư tưởng ban đầu mà còn là tiền đề cho những Cương
lĩnh, đường lối lớn sau này như: “Luận cương chính trị” (1930), “Cương lĩnh Mặt trận
Việt Minh” (1941), “Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam” (1951), “Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (1991),... Các nguyên lý như:
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là bước quá độ cần thiết, cách mạng muốn thành công
cần có Đảng lãnh đạo, vận dụng linh hoạt lý luận gắn với điều kiện dân tộc… trở thành nền
tảng xuyên suốt cho chiến lược cách mạng Việt Nam. Do đó, các văn kiện này không chỉ
có giá trị thời điểm, mà còn có ý nghĩa trường tồn về mặt lý luận và phương pháp, là mẫu
mực cho cách xây dựng cương lĩnh chiến lược cho một phong trào cách mạng.
Với những đóng góp to lớn về định hướng tư tưởng, chiến lược hành động và xác lập
đường lối phù hợp, “Chính cương vắn tắt” và “Sách lược vắn tắt” là bước ngoặt về mặt lý
luận trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Chúng không chỉ đóng vai trò trong giai đoạn khởi
đầu mà còn là điểm tựa lý luận cho toàn bộ quá trình cách mạng lâu dài, thể hiện sự kết tinh
giữa tư tưởng Mác – Lênin và thực tiễn Việt Nam. Vai trò của lý luận trong giai đoạn này
cho thấy: lý luận không chỉ để nhận thức, mà là phương tiện hành động, tổ chức và định
hướng thực tiễn, và chỉ khi nào lý luận phản ánh đúng yêu cầu lịch sử – dân tộc thì mới phát huy sức mạnh.
Như vậy, thứ nhất, cần khẳng định rằng “Chính cương vắn tắt” và “Sách lược vắn tắt”
là kết tinh lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin phù hợp với hoàn cảnh cách mạng Việt Nam
những năm 1930. Đây là một bước nhảy vọt mang tính lịch sử: Đưa lý luận chủ nghĩa cộng
sản khoa học vào phong trào công nhân Việt Nam, xác định rõ tính tất yếu của con đường
cách mạng vô sản và mục tiêu cuối cùng là tiến lên chủ nghĩa xã hội. Như Hồ Chí Minh
khẳng định, việc thành lập Đảng và thông qua các văn kiện đầu tiên đã “Kết hợp chủ nghĩa
Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước” (Hồ Chí Minh toàn tập,
tập 3, NXB CTQG, tr. 243). Tuy nhiên, xét theo quan điểm triết học, lý luận chỉ là sự phản
ánh hiện thực trong những điều kiện lịch sử nhất định. “Lý luận không phải là cái bất biến,
mà luôn phải được kiểm nghiệm, bổ sung và phát triển thông qua thực tiễn cách mạng”
(Giáo trình Triết học Mác – Lênin, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, 2021, tr. 178). Do
đó, coi “Chính cương” và “Sách lược” là “khuôn mẫu bất biến” là không đúng với tinh thần biện chứng duy vật.
Thứ hai, lý luận chỉ đúng khi phản ánh đúng thực tiễn và dẫn đường cho thực tiễn phát
triển. Nhưng thực tiễn lịch sử Việt Nam sau 1930 đã trải qua những biến động rất lớn: từ
cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương, đến cuộc kháng chiến
chống Pháp, chống Mỹ và công cuộc đổi mới. Mỗi giai đoạn ấy đều đòi hỏi sự phát triển,
điều chỉnh về mặt lý luận. Nếu “cứ theo đó mà thực thi” mà không có sự sáng tạo, linh hoạt lOMoAR cPSD| 61431571
thì sẽ rơi vào giáo điều, cứng nhắc. Như V.I. Lênin từng nhấn mạnh: “Lý luận xám, cây đời
mãi xanh tươi”, có nghĩa là lý luận dù quan trọng nhưng luôn cần được sống động hóa trong thực tiễn.
Thứ ba, “Lý luận là kim chỉ nam, nhưng thực tiễn mới là tiêu chuẩn kiểm nghiệm chân
lý” (Giáo trình Triết học Mác – Lênin, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, 2021, tr. 180).
Chính nhờ việc đối chiếu với thực tiễn, lý luận trong Chính cương và Sách lược vắn tắt mới
được làm phong phú thêm, từ mục tiêu “cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân” đến công
cuộc “đổi mới toàn diện” ngày nay. Sự kế thừa lý luận cần được đặt trong quá trình vận
động, phát triển không ngừng.
3.2) Thực tiễn và sự phát triển lý luận sau 1930
Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ 1930 đã đặt ra yêu cầu hoàn thiện lý luận cách mạng
phù hợp với bối cảnh trong nước. Cách mạng Việt Nam sau năm 1930 bước vào giai đoạn
đấu tranh quyết liệt, đòi hỏi lý luận không chỉ định hướng chung mà phải gắn chặt với từng
giai đoạn cụ thể của thực tiễn. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1930 đã
đánh dấu bước ngoặt lịch sử trong phong trào cách mạng nước ta. Từ đây, lý luận cách mạng
không chỉ mang tính định hướng mà còn phải điều chỉnh, phát triển dựa trên các điều kiện
cụ thể đang biến động từng ngày như sự khủng bố trắng của thực dân Pháp, sự phân hoá
giai cấp trong xã hội, hay đặc điểm của nông thôn Việt Nam. Chủ trương “tạm gác khẩu
hiệu cách mạng ruộng đất” trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ (1936–1939) là ví dụ cho sự
điều chỉnh lý luận theo thực tiễn. Giai đoạn 1936– 1939, phong trào dân chủ dâng cao ở
Pháp dẫn tới sự thay đổi trong chiến lược cách mạng ở Việt Nam. Thay vì tiếp tục thúc đẩy
cách mạng ruộng đất, Đảng tạm gác khẩu hiệu đó và chuyển sang hình thức hợp pháp, nửa
hợp pháp, vận động dân sinh, dân chủ. Điều này không phải là từ bỏ lý luận giai cấp, mà là
sự vận dụng biện chứng giữa mục tiêu lâu dài và sách lược ngắn hạn, giữa lý tưởng và khả
năng thực thi trong hoàn cảnh cụ thể. Lý luận ban đầu dựa trên chủ nghĩa Mác – Lênin,
nhưng phải phát triển để đáp ứng tính chất thuộc địa nửa phong kiến của Việt Nam. Chủ
nghĩa Mác – Lênin xây dựng trong bối cảnh châu Âu tư bản phát triển, trong khi Việt Nam
lại là thuộc địa nửa phong kiến. Thực tiễn này đòi hỏi các nhà lãnh đạo phải tiếp thu sáng
tạo lý luận chứ không sao chép máy móc. Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Chủ nghĩa Mác
– Lênin không phải là một giáo điều, mà là kim chỉ nam cho hành động” (Hồ Chí Minh
Toàn tập, tập 12, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2011, tr. 503). Việc xây dựng lực
lượng cách mạng thống nhất cũng là sự phát triển lý luận dựa trên thực tiễn Việt Nam. Trong
điều kiện xã hội Việt Nam có nhiều tầng lớp khác nhau, lý luận cách mạng phải được điều
chỉnh để không chỉ lôi kéo giai cấp công nhân mà cả nông dân, trí thức, tiểu tư sản, địa chủ
yêu nước… Việc xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất là minh chứng cho việc bổ sung
lý luận phù hợp thực tiễn liên minh các giai cấp chống đế quốc. Từ năm 1930 đến trước lOMoAR cPSD| 61431571
Cách mạng Tháng Tám 1945, lý luận được phát triển thành hệ thống chiến lược – sách lược
cách mạng. Nếu “Chính cương vắn tắt” năm 1930 đưa ra cương lĩnh cơ bản, thì từ thực tiễn
hoạt động cách mạng đã dần hình thành hệ thống chiến lược – sách lược rõ ràng như: (1)
xác định nhiệm vụ chống đế quốc là hàng đầu, (2) tranh thủ các điều kiện quốc tế có lợi,
(3) phân biệt kẻ thù chính – thứ yếu… Đây là sự bổ sung quan trọng về mặt lý luận. Thực
tiễn khốc liệt buộc người cách mạng phải thường xuyên rút kinh nghiệm và điều chỉnh nhận
thức lý luận. Sự thất bại của Xô viết Nghệ Tĩnh năm 1930–1931 cho thấy dù có lý tưởng lớn
nhưng thiếu phân tích tương quan lực lượng sẽ dẫn tới tổn thất. Từ đó, Đảng rút ra nhiều
bài học, nhất là về phương pháp đấu tranh và xây dựng cơ sở quần chúng. Đây là cơ sở để
phát triển tư duy lý luận ngày càng phù hợp thực tiễn. Lý luận về cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân hình thành từ thực tiễn trước Cách mạng Tháng Tám 1945. Từ những điều
chỉnh chiến lược và phân tích tình hình cụ thể, Đảng đã phát triển thành lý luận cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân – con đường quá độ gián tiếp phù hợp với Việt Nam. Lý luận này
trở thành nền tảng cho toàn bộ tiến trình cách mạng tiếp theo.
Ở giai đoạn năm 1945–1975, lý luận đã được phát triển trên cơ sở thực tiễn đấu tranh
giữ nước và xây dựng chính quyền. Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, việc giữ vững thành
quả cách mạng buộc Đảng phải bổ sung lý luận về nhà nước cách mạng non trẻ. Lần đầu
tiên trong lịch sử dân tộc, một chính quyền cách mạng do nhân dân đứng đầu được thành
lập. Nhưng trong bối cảnh “thù trong giặc ngoài”, chưa có kinh nghiệm xây dựng chính
quyền và quản lý đất nước, Đảng buộc phải từng bước phát triển lý luận về tổ chức, lãnh
đạo nhà nước cách mạng, trong đó nhấn mạnh nguyên tắc “Dựa vào dân, phát huy sức dân,
vì lợi ích của dân” (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8, NXB
Chính trị quốc gia Sự thật, 2000, tr. 156). Tiếp dến là cuộc kháng chiến chống Pháp
(1946–1954) là giai đoạn lý luận quân sự và chiến tranh nhân dân được bổ sung từ thực tiễn
đấu tranh. Chiến tranh du kích, toàn dân kháng chiến, chiến tranh toàn diện là những nội
dung không hề có sẵn trong lý luận kinh điển, mà được hình thành từ thực tiễn nước ta.
Đảng khẳng định nguyên tắc: “Chiến tranh nhân dân là sự nghiệp của toàn dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng, lấy lực lượng vũ trang làm nòng cốt”. Đây là sự kế thừa có sáng tạo tư
tưởng quân sự Mác – Lênin, gắn với điều kiện địa lý, xã hội và truyền thống đánh giặc của
dân tộc. Đối với giai đoạn 1954–1975, thực tiễn hai miền Nam – Bắc với hai nhiệm vụ cách
mạng khác nhau thúc đẩy phát triển lý luận về cách mạng song song. Ở miền Bắc, cách
mạng xã hội chủ nghĩa tập trung vào công cuộc cải cách ruộng đất, công – nông – trí thức
đoàn kết, phát triển sản xuất; còn ở miền Nam là đấu tranh giải phóng dân tộc. Tình hình
này đòi hỏi sự phát triển lý luận về cách mạng hai miền: vừa hỗ trợ lẫn nhau, vừa thực hiện
nhiệm vụ riêng. Đảng đã bổ sung nhận thức: “Một nước có hai chế độ xã hội là tình trạng
tạm thời, nhưng hợp lý trong quá trình quá độ” (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện toàn
tập, tập 26, NXB CTQG, tr. 219–220). Bên cạnh đó, việc xây dựng và lãnh đạo lực lượng lOMoAR cPSD| 61431571
vũ trang nhân dân là sự phát triển thực tiễn thành lý luận có tính quy luật. Cụ thể, sự thành
lập Quân đội Nhân dân Việt Nam (1944) và sau đó là lực lượng vũ trang ba thứ quân (bộ
đội chủ lực – địa phương – dân quân du kích) đã hình thành học thuyết quân sự độc lập,
mang tính Việt Nam. Lý luận này khẳng định: Lực lượng vũ trang phải gắn với nhân dân,
phục vụ mục tiêu chính trị của Đảng, không xa rời sự lãnh đạo trung ương. Sự nghiệp giáo
dục – đào tạo cán bộ trong giai đoạn này cũng thúc đẩy lý luận phát triển về chiến lược “trí
thức hóa cách mạng”. Sau 1945, Đảng nhận thấy cần xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ
lý luận, hiểu thực tiễn để bảo đảm sự lãnh đạo xuyên suốt. Trường Đảng, Học viện Chính
trị Quốc gia, và hệ thống bồi dưỡng cán bộ là thực tiễn làm nảy sinh lý luận: “Cán bộ là cái
gốc của công việc” (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 5, NXB Chính trị quốc gia Sự thật,
2011, tr. 270), và “muốn có cán bộ tốt, phải học lý luận và đi sâu vào thực tiễn”. Thực tiễn
đã khẳng định tính đúng đắn của lý luận cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiêu biểu là
Chiến thắng Điện Biên Phủ (1954) và chiến dịch Hồ Chí Minh (1975) là đỉnh cao. Những
thắng lợi này là kết quả của đường lối độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Đảng kiên
định, thể hiện sự phát triển lý luận không giáo điều, mà dựa trên tổng kết thực tiễn. Từ đó,
lý luận về cách mạng dân tộc kết hợp với cách mạng xã hội chủ nghĩa được xác lập rõ nét
trong đường lối đổi mới sau này. Như vậy, từ 1945 đến 1975, tư tưởng Hồ Chí Minh từng
bước được hệ thống hóa thành lý luận lãnh đạo cách mạng. Tư tưởng Hồ Chí Minh được
thể hiện sinh động trong các chỉ đạo chiến lược, các tác phẩm và phong cách lãnh đạo. Sau
này, Đảng đã phát triển thành hệ thống lý luận – tư tưởng Hồ Chí Minh, coi đó là nền tảng
tư tưởng và kim chỉ nam của cách mạng Việt Nam. Đây là sự phát triển lý luận từ một thực
tiễn lãnh đạo sống động và liên tục.
Từ sau năm 1975 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã không ngừng tổng kết thực tiễn
cách mạng, từng bước đổi mới tư duy lý luận và phát triển hệ thống lý luận phù hợp với yêu
cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới. Sau 1975, tình hình thực tiễn thống nhất
đất nước đặt ra những vấn đề mới cho lý luận về phát triển và quản lý xã hội. Lần đầu tiên
trong lịch sử hiện đại, Việt Nam hoàn toàn độc lập và thống nhất. Tuy nhiên, khó khăn kinh
tế – xã hội, hậu quả chiến tranh, cấm vận quốc tế và sai lầm trong chính sách quản lý kinh
tế bao cấp cho thấy cần đổi mới cả tư duy thực tiễn lẫn lý luận. Trong thời kỳ này, lý luận
phát triển chủ yếu từ sự phản ánh các mâu thuẫn gay gắt của thực tiễn hậu chiến (ĐCSVN,
Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ V, 1982, NXB CTQG Sự thật, tr. 57–58). Đại hội
VI (1986) là bước ngoặt trong phát triển lý luận, xuất phát từ tổng kết thực tiễn khủng hoảng
kinh tế – xã hội. Đảng nhận ra rằng mô hình phát triển cũ không phù hợp với thực tiễn mới,
từ đó hình thành tư duy đổi mới: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa”. Lý luận này chưa từng có trong kho tàng chủ nghĩa Mác –
Lênin, mà là kết quả sáng tạo của Việt Nam. Đại hội VI đánh dấu lần đầu tiên Đảng đưa ra
nguyên lý “từ bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự lOMoAR cPSD| 61431571
quản lý của Nhà nước” – một bước phát triển lý luận xuất phát từ chính những thất bại thực
tế. Việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là minh chứng rõ rệt
cho quá trình lý luận đi lên từ thực tiễn. Đường lối này vừa kế thừa tư tưởng Mác – Lênin
về vai trò của nhà nước trong kinh tế, vừa chấp nhận thực tiễn cần có thị trường, cạnh tranh
và sở hữu đa dạng. Quan điểm phát triển kinh tế thị trường có định hướng xã hội là sự điều
chỉnh sáng tạo giữa lý luận kinh điển và điều kiện cụ thể của Việt Nam. Đây cũng là một ví
dụ tiêu biểu cho sự tương tác hai chiều giữa lý luận – thực tiễn trong thời kỳ đổi mới. Bên
cạnh đó, không thể không nhắc đến tư duy lý luận về hội nhập quốc tế được hình thành từ
thực tiễn đổi mới đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa. Trước đổi mới, lý luận ngoại giao
Việt Nam dựa trên đấu tranh giai cấp và liên minh xã hội chủ nghĩa. Nhưng đến cuối thập
niên 1980 – đầu 1990, từ thực tiễn cấm vận và cô lập quốc tế, Đảng buộc phải phát triển lý
luận mới về hội nhập, bắt đầu từ chủ trương “thêm bạn, bớt thù”, rồi tiến đến “chủ động và
tích cực hội nhập toàn diện”. Đây là một sự phát triển quan trọng về lý luận chính trị – đối
ngoại trên nền thực tiễn sống còn của đất nước. Lý luận về dân chủ, nhà nước pháp quyền,
xã hội dân sự đã được hình thành và hoàn thiện từ quá trình cải cách thể chế chính trị sau
đổi mới. Trước đây, các khái niệm như “nhà nước pháp quyền”, “xã hội dân sự”, “dân chủ
trực tiếp – đại diện” chưa được phát triển trong lý luận của Đảng. Tuy nhiên, từ thực tiễn
yêu cầu minh bạch, phòng chống tham nhũng, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước, những
nội dung này dần được bổ sung thành lý luận chỉ đạo đổi mới chính trị. Đảng xác định: Xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là mục tiêu lâu dài, từ đó hình thành nên lý
luận chính trị – pháp lý mới, phản ánh yêu cầu thực tiễn đang phát triển (ĐCSVN, Văn
kiện Đại hội XI, 2011, tr. 75–77). Sự phát triển lý luận về con người, văn hóa và giáo dục
ngày càng sâu sắc hơn nhờ quá trình tổng kết thực tiễn hiện đại hóa đất nước. Trong giai
đoạn phát triển kinh tế nhanh chóng sau 2000, thực tiễn đã đặt ra các vấn đề xã hội như bất
bình đẳng, xuống cấp đạo đức, chất lượng giáo dục thấp, tách biệt văn hóa. Từ đó, lý luận
về phát triển con người trở thành trung tâm của chiến lược phát triển, với các quan điểm
mới: “Phát triển con người là trung tâm, mục tiêu và động lực của sự phát triển” (Văn kiện
Đại hội XIII, 2021, NXB CTQG, tr. 140). Điều này cho thấy sự dịch chuyển rõ rệt từ lý
luận kinh tế – kỹ trị sang lý luận nhân văn – xã hội học. Công cuộc xây dựng Đảng trong
sạch vững mạnh là một hệ thống lý luận chính trị – tổ chức được phát triển từ thực tiễn
phòng chống suy thoái, “tự diễn biến”. Từ thực tiễn những tiêu cực trong hệ thống chính
trị, Đảng đã phát triển lý luận về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phân tích các nguy cơ nội tại
(suy thoái tư tưởng, đạo đức, tham nhũng). Đặc biệt, việc đề cao đạo đức cách mạng, xây
dựng văn hóa trong Đảng, kiểm soát quyền lực... là các nội dung lý luận mới nhằm đáp ứng
yêu cầu của thực tiễn. Tư duy lý luận hiện nay tiếp tục phát triển từ các thực tiễn mới như
chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo, biến đổi khí hậu, an ninh phi truyền thống. Những vấn đề
này chưa từng được đặt ra trong lịch sử cách mạng trước đây. Chính vì thế, Đảng đang dần lOMoAR cPSD| 61431571
phát triển lý luận mới về quản trị nhà nước trong điều kiện công nghệ, kinh tế số, dân số
già, biến động toàn cầu. Chẳng hạn như “Phát triển nền kinh tế số là một trong những động
lực chính của tăng trưởng” (Văn kiện Đại hội XIII, 2021, NXB CTQG, tr. 220) – là một
sự chuyển dịch quan trọng trong lý luận phát triển kinh tế và quản trị xã hội. Tóm lại, toàn
bộ tiến trình phát triển lý luận sau 1975 là kết quả của việc tổng kết thực tiễn một cách
khách quan, khoa học và kiên định định hướng xã hội chủ nghĩa. Đường lối lý luận của
Đảng không chỉ dựa vào học thuyết, mà còn dựa trên việc “điều chỉnh để phù hợp với điều
kiện cụ thể”. Cách phát triển lý luận kiểu này khác với mô hình giáo điều, và chứng minh
rằng lý luận Mác – Lênin có thể phát triển trong hoàn cảnh mới nếu gắn bó chặt chẽ với thực tiễn.
4) Phân tích và bình luận ý kiến
4.1) Những mặt đúng
Thứ nhất, nhận định đã khẳng định vai trò định hướng nền tảng của lý luận cách mạng
trong thời kỳ đầu thành lập Đảng. Ngay từ năm 1930, trong “Chính cương vắn tắt” và “Sách
lược vắn tắt”, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ mục tiêu là “làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” (Văn kiện Đảng, tập 1, Nxb
CTQG, tr.3). Điều này chứng tỏ đường lối lý luận ban đầu đã mang tính chiến lược, tổng
quát, có giá trị định hướng lâu dài. Tính chất nền tảng của những văn kiện này không chỉ
thể hiện ở việc định ra con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà còn ở chỗ nó khơi dậy ý thức
chính trị, nâng cao tầm nhìn chiến lược cho các lực lượng cách mạng lúc bấy giờ. Sự kiện
thành lập Đảng và ban hành những văn kiện đầu tiên chính là bước ngoặt làm thay đổi cục
diện phong trào cách mạng, từ một phong trào tự phát sang tự giác, có lý luận dẫn đường.
Thứ hai, lý luận cách mạng của Đảng trong văn kiện năm 1930 được xây dựng trên cơ
sở tiếp thu sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và kinh nghiệm phong trào công nhân quốc tế.
Như Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Chủ nghĩa Mác-Lênin là kim chỉ nam cho hành
động, chứ không phải là giáo điều” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, tr.275).
Điều đó cho thấy, ngay từ đầu, lý luận của Đảng không phải là một hệ thống khép kín mà
là một hệ thống mở, có thể vận dụng, phát triển linh hoạt, tùy theo điều kiện cụ thể của Việt
Nam. Việc xác lập cơ sở lý luận vững chắc đã giúp Đảng tránh được tình trạng chủ nghĩa
dân tộc cực đoan hay lệch lạc về mục tiêu cách mạng.
Thứ ba, lý luận chính trị được nêu trong Chính cương đã tạo cơ sở ban đầu để thống
nhất tổ chức, tư tưởng và hành động trong phong trào cách mạng. Trong điều kiện xã hội
thuộc địa nửa phong kiến, có sự phân tán về tư tưởng, lực lượng, thì việc Đảng xác lập được
một hệ tư tưởng và đường lối chính trị rõ ràng là điều kiện tiên quyết để quy tụ và lãnh đạo
quần chúng. Các phong trào yêu nước trước đó dù có lòng yêu nước mãnh liệt nhưng thiếu lOMoAR cPSD| 61431571
sự chỉ đạo thống nhất, thiếu lý luận khoa học nên thường bị đàn áp, tan rã. Sự ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ban hành Chính cương, Sách lược vắn tắt đã đưa cách
mạng Việt Nam bước sang một thời kỳ mới: thời kỳ có tổ chức, có đường lối đúng đắn và
có cơ sở lý luận để hành động cách mạng một cách hiệu quả và có định hướng lâu dài. Đây
là thành quả lớn về mặt tư duy chính trị và tổ chức cách mạng, góp phần tạo nên sức mạnh đoàn kết dân tộc.
4.2) Những hạn chế
Thứ nhất, ý kiến mang tính tuyệt đối hóa lý luận ban đầu, chưa thấy được yêu cầu phải
bổ sung, phát triển lý luận theo thực tiễn. “Chính cương” và “Sách lược vắn tắt” năm 1930
được xây dựng trong hoàn cảnh lịch sử rất khác, khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở thế giới
còn sơ khai, Việt Nam còn là thuộc địa. Việc “cứ theo đó mà thực thi” cho mọi thời đại là
phiến diện. Triết học Mác – Lênin đã chỉ rõ: “Lý luận trở nên sức mạnh vật chất khi nó
thâm nhập vào quần chúng” – nhưng chỉ khi lý luận đó phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ
thể. Mỗi giai đoạn lịch sử đều đặt ra những yêu cầu mới mẻ, đòi hỏi lý luận không thể dừng
lại ở những tổng kết ban đầu mà phải luôn được làm mới và phát triển trên nền tảng tiếp tục
kế thừa cái đúng. Nếu cứng nhắc, giáo điều trong vận dụng lý luận ban đầu mà không có sự
điều chỉnh theo thực tiễn biến động, sẽ dẫn tới khủng hoảng trong nhận thức và hành động cách mạng.
Thứ hai, giả định đã không nhận thức đầy đủ về mối quan hệ biện chứng giữa lý luận
và thực tiễn. Trong triết học Mác – Lênin, lý luận và thực tiễn luôn vận động, tác động qua
lại. Lý luận không phải là hệ thống bất biến, mà cần được kiểm nghiệm, bổ sung và phát
triển qua thực tiễn. Như Engels từng viết: “Chúng tôi không cho chủ nghĩa xã hội là một
học thuyết bất biến, mà là một lý luận phải phát triển cùng với sự phát triển của thực tiễn
xã hội” (Engels, Chống Đuyrinh, Nxb Sự Thật, tr.21). Điều đó khẳng định rằng, lý luận
phải bám sát thực tiễn, phản ánh đúng yêu cầu khách quan của đời sống xã hội và lịch sử.
Thực tiễn là nơi lý luận được kiểm chứng, là động lực thôi thúc lý luận phát triển và cũng
là tiêu chuẩn đánh giá tính đúng đắn của lý luận. Một lý luận không gắn với thực tiễn không
chỉ vô dụng mà còn có thể gây hại nếu được áp dụng máy móc. Quan điểm "cứ theo đó mà
thực thi" đã bỏ qua bản chất năng động, sáng tạo của quá trình phát triển lý luận cách mạng.
Thứ ba, việc phủ định vai trò điều chỉnh và sáng tạo tiếp theo của Đảng là trái với thực
tiễn cách mạng Việt Nam sau 1930. Sau Chính cương, Đảng không chỉ “thực thi” lý luận
một cách cứng nhắc mà còn liên tục điều chỉnh và phát triển đường lối cách mạng. Từ Hội
nghị Trung ương 8 (1941) với luận điểm “giải phóng dân tộc là nhiệm vụ bức thiết nhất”
đến Cương lĩnh năm 1991 hay Văn kiện Đại hội XIII, Đảng luôn đổi mới tư duy lý luận để
đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. lOMoAR cPSD| 61431571
Thứ tư, quan điểm “cứ theo đó mà thực thi” có thể dẫn đến giáo điều, máy móc trong
lãnh đạo cách mạng. Nếu phủ nhận vai trò năng động sáng tạo trong tư duy lý luận, sẽ dẫn
đến tình trạng trì trệ, không kịp thích ứng với hoàn cảnh mới. Hồ Chí Minh đã từng cảnh
báo: “Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông” (Hồ Chí Minh toàn tập,
tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, 2000, tr.34). Nếu một Đảng cách mạng lấy lý luận làm cơ
sở để hành động nhưng lại không làm mới lý luận đó thì không thể lãnh đạo được nhân dân
trong những bối cảnh lịch sử thay đổi.
Thứ năm, nhận định đã gây nên mâu thuẫn với chính quan điểm phát triển của Đảng về
đổi mới tư duy lý luận. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhấn mạnh rằng đổi mới tư duy
không chỉ là đổi mới nội dung mà còn là đổi mới phương pháp tiếp cận thực tiễn. Đảng xác
định: “Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, tư duy phát triển là một yêu cầu khách quan của sự
nghiệp cách mạng hiện nay.” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I.
Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 104). Điều này phản ánh sự bác bỏ tư
tưởng bảo thủ, cứng nhắc trong lý luận.
5) Bài học kinh nghiệm về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
Bài học thứ nhất, muốn xây dựng và phát triển lý luận thì phải xuất phát từ thực tiễn
đất nước. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng, những đường lối lý luận
đúng đắn nhất là những lý luận bắt nguồn từ đời sống xã hội cụ thể của đất nước, từ nhu
cầu của nhân dân và đặc điểm lịch sử – dân tộc cụ thể. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng
vô sản” (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 2, Nxb CTQG, tr.280). Đây là kết quả của quá trình
đi tìm lý luận phù hợp với thực tiễn Việt Nam chứ không phải sự sao chép cơ học mô hình
nước ngoài. Bài học ở đây là cần đặt lý luận trên nền tảng của phân tích thực tiễn một cách
khách quan, toàn diện, tránh giáo điều và chủ quan.
Bài học thứ hai, lý luận phải luôn được kiểm nghiệm, bổ sung và phát triển qua thực
tiễn. Lý luận chỉ thực sự có giá trị khi được soi rọi và vận hành trong thực tiễn. Triết học
Mác – Lênin khẳng định: “Tiêu chuẩn của chân lý là thực tiễn” (V.I. Lênin, Toàn tập, Tập
18, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1980, tr. 298). Trong quá trình cách mạng, Đảng Cộng sản
Việt Nam không ngừng vận dụng và bổ sung lý luận, điều chỉnh đường lối phù hợp với tình
hình. Để mô tả cho điều này, trong thời kỳ đổi mới từ năm 1986, Đảng đã xác định rõ cần
“đổi mới tư duy lý luận” để phản ánh đúng yêu cầu phát triển đất nước trong điều kiện kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bài học là lý luận không bất biến mà luôn cần
được cập nhật, làm mới, tránh sự lạc hậu.