Bài tập lớn quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan hệ giữavật chất và ý thức. Và sự vận dụng của Đảng ta hiện nay - Triết học Mác Lenin| Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Môn: Triết học Mác - Lenin( LLNL 1105)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN BÀI TẬP LỚN
Học phần: Triết học Mác – Lênin
Đề tài: “Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức. Và sự vận dụng của Đảng ta hiện nay” Lớp học phần: 26
Hà Nội, tháng 6 năm 2023
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN BÀI TẬP LỚN
Học phần: Triết học Mác – Lênin
Đề tài: “Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức. Và sự vận dụng của Đảng ta hiện nay”
Họ tên sinh viên: Nguyễn Phúc Thùy Dương Mã sinh viên: 11221585 Lớp học phần: 26
Hà Nội, tháng 6 năm 2023 MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU...........................................................................................................4
NỘI DUNG...............................................................................................................5
I.Vấn đề lí luận về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong quan điểm của
chủ nghĩa Mác-Lênin.........................................................................................5
1.Khái niệm vật chất......................................................................................5
1.1 Quan niệm về phạm trù vật chất..........................................................5
1.2 Ý nghĩa rút ra trong định nghĩa vật chất của Lenin:............................7
2.Quan niệm về vật chất................................................................................7
2.1 Khái niệm ý thức.................................................................................7
2.2 Nguồn gốc ý thức................................................................................8
2.3 Bản chất của ý thức.............................................................................9
2.4 Kết cấu của ý thức...............................................................................9
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong quan điểm của chủ nghĩa Mác-
Lênin............................................................................................................10
3.1 Vai trò của vật chất đối với ý thức.....................................................10
3.2 Ý thức cT tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất............11
II.Vận dụng của Đảng ta hiện nay: Quá trình vận dụng trong xây dựng và phát
triển kinh tế-xã hội ở Việt Nam.......................................................................12
1.Những thành tựu đã đạt được của Đảng và Nhà nước ta..........................13
2.Những hạn chế của Đảng và Nhà nước ta................................................14
3. Giải pháp khắc phục................................................................................15
III, Kết luận.....................................................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................16 LỜI NÓI ĐẦU
Triết học là một lĩnh vực nghiên cứu về các vấn đề cơ bản của cuộc sống, như
tồn tại, ý nghĩa và giá trị. Với vai trò của mình, triết học đã đTng gTp rất nhiều vào
việc phát triển và mở rộng kiến thức của loài người. Triết học cho phép chúng ta
đặt câu hỏi và tìm kiếm các câu trả lời về các vấn đề như tình yêu, đạo đức, tôn
giáo, chính trị và nhiều vấn đề khác. Nhờ đT, triết học đã cung cấp cho chúng ta
những kiến thức cơ bản về con người và thế giới, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về vị
trí của mình trong thế giới này.
Quan hệ giữa vật chất và ý thức là một trong những vấn đề quan trọng nhất của
triết học, và tầm quan trọng của nT không chỉ nằm ở việc hiểu bản chất của thế giới
và con người, mà còn ở việc cT được những hiểu biết sâu sắc về bản thân và thế
giới xung quanh. . Ta thấy rằng vật chất và ý thức tồn tại trong mối quan hệ biện
chứng với nhau, tác động lẫn nhau thông qua hoạt động thực tiễn, trong mối quan
hệ đT thì vật chất giữ vai trò quyết định đối với ý thức. Theo quan điểm của duy
vật biện chứng thì vật chất cT trước, ý thức cT sau, vật chất quyết định ý thức và ý
thức là sự phản ánh sáng tạo, chủ động, tích cực thế giới vật chất nhưng nT cT tính
độc lập tương đối và tác động trở lại thế giới vật chất. Đảng ta đã khẳng định trong
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác–Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Cụ thể
hơn, Đảng và Nhà nước đã vận dụng mối liên hệ giữa vật chất và ý thức vào mối
liên hệ giữa kinh tế và chính trị, vào đường lối phát triển kinh tế xã hội giúp đất
nước phát triển bền vững. Với mong muốn tìm hiểu thêm về vấn đề này, em đã
chọn chủ đề “Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan hệ giữa vật chất
và ý thức. Và sự vận dụng của Đảng ta hiện nay” NỘI DUNG
I.Vấn đề lí luận về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin 1.Khái niệm vật chất
1.1 Quan niệm về phạm trù vật chất
Vật chất với tư cách là phạm trù triết học đã cT lịch sử phát triển trên 2500 năm.
Từ thời cổ đại, xung quanh phạm trù vật chất đã diễn ra cuộc đấu trang không
khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
+ Chủ nghĩa duy tâm quan niệm: bản chất của thế giới, cơ sở đầu tiên của mọi
tồn tại là một bản nguyên tinh thần và vật chất là sản phẩm của bản nguyên tinh thần ấy.
+ Chủ nghĩa duy vật quan niệm: bản chất của thế giới, thực thể của thế giới là
vật chất–cái tồn tại vĩnh viễn, tạo nên mọi sự vật, hiện tượng cùng với những thuộc tính của chúng.
Các quan điểm về vật chất trước Mác:
+ Phái ngũ hành ở Trung Quốc quan niệm: vật chất là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
+ Ở Hy Lạp, phái Milet quan niệm là nước hay không khí.
+ Hecralit quan niệm là lửa.
+ Đêmôcrít khẳng định là nguyên tử.
+ Ở Ấn Độ, phái Sàmkhya cho rằng là Pràkriti – vật chất ở dạng tinh tế, tiềm
ẩn, chứa đựng năng lực vận động hay Pradhana.
Nhìn chung, các nhà triết học duy vật quan niệm vật chất là một hay một số chất
tự cT, đầu tiên, là những chất “giới hạn tột cùng” đTng vai trò cơ sở sản sinh ra toàn bộ thế thới
Ưu điểm của những quan niệm các nhà triết học trước Mác: xuất phát từ tự
nhiên để giải thích về tự nhiên, việc giải thích không hề hướng đến một thế lực
siêu nhiên hay tối cao nào như thượng đế hay thần linh.
Song, những quan điểm này còn bộc lộ nhiều hạn chế:
+ Đồng nhất vật chất với vật thể, không hiểu rõ bản chất của ý thức cũng như
mối quan hệ của ý thức và vật thể.
+ Không cT cơ sở để xác định biểu hiện của vật chất trong đời sống xã hội nên
cũng không cT cơ sở đứng trên quan niệm duy vật để giải quyết các vấn đề xã hội.
Như vậy, khi đối diện với những hiện tượng đời sống phức tạp, họ không cT cơ
sở khoa học để giải thích. Và theo Lenin, đT là hậu quả tất yếu dẫn đến quan điểm
duy vật không triệt để.
Cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX, những phát minh “thế kỉ” ra đời:
+ 1895, Rơnghen phát hiện ra tia X
+ 1896, Béccơren phát hiện ra hiện tượng phTng xạ.
+ 1897, Tômxơn phát hiện ra điện tử.
Những phát minh này ra đời đồng thời cũng đã bác bỏ quan điểm vật chất là “giới
hạn tột cùng”, các nhà vật lí cũ với lập trường duy vật tự phát và siêu hình không
thể giải thích được những phát hiện mới của vật lí học hiện đại, thậm chí cho rằng
vật chất đã “biến mất”, đã “tiêu tan”. Do đT chủ nghĩa duy vật và khoa học tự
nhiên rơi vào tình trạng khủng hoảng.
Những người theo chủ nghĩa duy tâm đã lợi dụng cơ hội này để khẳng định bản
chất của thế giới là tinh thần, và lực lượng siêu nhiên là lực lượng sáng tạo ra thế giới.
Để bảo vệ và phát triển chủ nghĩa duy vật, đồng thời chống lại những thế lực
xuyên tạc, công kích, Lênin đã tổng hợp những thành tựu của khoa học tự nhiên,
nhất là lĩnh vực vật lí học, kế thừa những tư tưởng của C.Mác và Ph. Ăngghen,
Lenin đưa ra định nghĩa về vật chất:“Vật chất là một phạm trù triết học dung để chỉ
thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác
của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác.”
Định nghĩa của V.I.Lenin cho thấy:
+ Cần phân biệt khái niệm vật chất với tư cách là phạm trù triết học (tức là vật
chất nTi chung, không ai sinh ra và tiêu diệt được nT, vô cùng, vô tận) và khái niệm
vật chất sử dụng trong các khoa học chuyên ngành (như hTa học, vật lí,… cT giới
hạn, được sinh ra và mất đi).
+ Thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi dạng vật chất là thuộc tính tồn tại khách quan.
+ Vật chất, cái cT thể gây nên cảm giác ở con người khi nT trực tiếp hay gián
tiếp tác động đến các giác quan của con người; ý thức là sự phản ánh đối với vật
chất; vật chất là cái được ý thức phản ánh.
1.2 Ý nghĩa rút ra trong định nghĩa vật chất của Lenin:
Định nghĩa vật chất của Lenin là một trong những định nghĩa quan trọng trong
triết học và chính trị học. Theo Lenin, vật chất là thực tại khách quan, cT tính cụ
thể, độc lập và tồn tại độc lập với ý thức.
Ý nghĩa rút ra từ định nghĩa này là khẳng định tính khách quan của thế giới vật
chất. Tức là thế giới vật chất tồn tại độc lập với nhận thức của con người. Vật chất
không phụ thuộc vào ý thức hay quan điểm của bất kỳ cá nhân hay nhTm nào, mà
tồn tại độc lập với chúng.
Định nghĩa vật chất của Lenin cũng khẳng định tính cụ thể của vật chất. Điều
này cT nghĩa là vật chất tồn tại theo một dạng cụ thể, nhất định. Vật chất không
phải là khái niệm trừu tượng, mà là những thực thể vật lý, hTa học, sinh học và địa chất cT tính cụ thể.
Ngoài ra, định nghĩa vật chất của Lenin cũng khẳng định tính độc lập của vật
chất. Vật chất tồn tại độc lập với ý thức, tức là nT tồn tại và hoạt động theo các quy
luật tự nhiên, độc lập với ý chí hay ý thức của con người. Điều này cT ý nghĩa quan
trọng trong việc khẳng định tính khách quan của thực tại và đối tượng khoa học.
2.Quan niệm về vật chất
2.1 Khái niệm ý thức
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thì ý thức là sự phản ánh một cách
năng động,sáng tạo thế giới khách quan vào trong bộ Tc con người, là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan.
Tuy nhiên, không phải cứ thế giới khách quan tác động vào bộ não con người thì
tự nhiên trở thành ý thức. Mặt khác, ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế
giới, do nhu cầu cải tạo giới tính tự nhiên của con người quyết định và được thực
hiện thông qua hoạt động lao động. Do đT, ý thức là cái vật chất được đem chuyển
vào trong đầu Tc con người và được cải biến đi ở trong đT”.
Tính sáng tạo của ý thức được biểu hiện rất phong phú. Trên cơ sở những gì đã
cT, ý thức cT thể tạo ra những hiểu biết mới về sự vật, cT thể hình dung ra những gì
không cT trong thực tế. Ý thức cT thể dự đoán, đoán trước được tương lai, cT thể
tạo ra những ảo tưởng, hoang đường, những lý thuyết khoa học và lý thuyết rất
trừu tượng và cT tính khái quát cao.
Tuy nhiên, tính sáng tạo ra ý thức là sự sáng tạo ra sự phản ánh, vì ý thức bao
giờ cũng chỉ là sự phản ánh tồn tại.
Ý thức là sản phẩm lịch sử của quá trình phát triển xã hội nên mang bản chất xã hội. 2.2 Nguồn gốc ý thức Nguồn gốc tự nhiên
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức cT hai yếu tố không thể tách rời nhau là bộ Tc
con người và thế giới bên ngoài tác động lên Tc người.
+Bộ Tc người: Bộ Tc người là một dạng vật chất sống đặc biệt, cT tổ chức cao,
trải qua quá trình tiến hTa lâu dài về mặt sinh vật – xã hội. Ý thức là thuộc tính
của riêng dạng vật chất này. Ý thức phụ thuộc vào hoạt động của bộ Tc người, nên
khi Tc bị tổn thương thì hoạt động ý thức không diễn ra bình thường hoặc rối loạn.
+Sự tác động của thế giới bên ngoài lên bộ Tc người
Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ thống
vật chất khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng. NTi một cách dễ hiểu,
phản ánh chính là sự chép lại, chụp lại, kể lại một cái gì đT. Chép lại lời nTi ra giấy
là sự phản ánh. Chụp một bức ảnh cũng là sự phản ánh.
Thuộc tính phản ánh của Tc người được gọi riêng bằng phạm trù “ý thức”. ĐT là
sự phản ánh, sự tác động của thế giới bên ngoài vào bộ Tc con người. Nguồn gốc xã hội
Điều kiện quyết định, trực tiếp và quan trọng nhất cho sự ra đời của ý thức là
những tiền đề, nguồn gốc xã hội. ĐT là lao động, tức là Ý thức xã hội và ngôn ngữ.
+Lao động: Thông qua lao động, hay còn gọi là hoạt động Ý thức, nhằm cải tạo
thế giới khách quan mà con người mới cT thể phản ánh được, biết được nhiều bí
mật về thế giới đT, mới cT ý thức về thế giới này.
Nhưng không phải tự nhiên mà thế giới khách quan tác động vào bộ Tc con
người để con người cT ý thức. Ý thức cT được chủ yếu là do con người chủ động
tác động vào thế giới khách quan để cải tạo, biến đổi nT nhằm tạo ra những sản phẩm mới.
Nhờ chủ động tác động vào thế giới khách quan, con người bắt những đối tượng
trong hiện thực (núi, rừng, sông, mỏ than, sắt, đồng…) phải bộc lộ những thuộc
tính, kết cấu, quy luật của mình. Những bộc lộ này tác động vào bộ Tc người để
hình thành ý thức của con người.
+Ngôn ngữ:Theo C. Mác, ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực
trực tiếp của tư tưởng, không cT ngôn ngữ, con người không thể cT ý thức.
+Ngôn ngữ vừa là phương tiện giao tiếp, đồng thời là công cụ của tư duy. Nhờ
cT ngôn ngữ, con người mới cT thể khái quát hTa, trừu tượng hTa, tức là diễn đạt
những khái niệm, phạm trù, để suy nghĩ, tách mình khỏi sự vật cảm tính.
+Cũng nhờ ngôn ngữ, kinh nghiệm, hiểu biết của con người được truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác.
2.3 Bản chất của ý thức
Bản chất ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là quá trình phản
ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của Tc người. Ý thức là cái phản ánh
thế giới khách quan, nT không phản ánh sự vật, mà chỉ là “hình ảnh” của sự vật
bên trong bộ Tc người. Ý thức tồn tại phi cảm tính, đối lập với các đối tượng vật
chất mà nT phản ánh luôn tồn tại cảm tính. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế
giới khách quan, nội dung mà ý thức phản ánh là khách quan, còn hình thức phản
ánh là chủ quan. Ý thức là cái vật chất ở bên ngoài “di chuyển” vào trong não bộ
của con người và biến hoá ở trong đT. Ý thức không phải là kết quả của sự phản
ánh ngẫu nhiên, đơn lˆ, thụ động thế giới khách quan mà trái lại, đT là kết quả của
quá trình phản ánh cT hướng đích, cT mục tiêu rõ rệt. Hơn hết , nT còn là hiện
tượng xã hội, ý thức hình thành, phát triển gắn liền với hoạt động thực tiễn của xã hội.
2.4 Kết cấu của ý thức
Kết cấu của ý thức theo các yếu tố hợp thành cơ bản nhất bao gồm: tri thức, tình
cảm và ý chí; trong đT tri thức là nhân tố căn bản, cốt lõi nhất. Tri thức là tất cả
những gì con người nắm vững và hiểu rõ; tri thức cT nhiều lĩnh vực khác nhau như:
tri thức về tự nhiên, xã hội, con người; và cT nhiều cấp độ khác nhau như: tri thức
cảm tính và tri thức lý tính; tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận; tri thức tiền
khoa học và tri thức khoa học v.v…Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản
ánh tồn tại, nT phản ánh quan hệ giữa người với người và quan hệ giữa người với
thế giới khách quan. Sự đan xen của tri thức với tình cảm và kinh nghiệm thực tiễn
đã tạo nên độ vững chắc của niềm tin thôi thúc con người hành động và cố gắng
vươn lên trong mọi hoàn cảnh. Ý chí chính là những cố gắng, nô lực, khả năng huy
động mọi tiềm lực trong môi con người vào hoạt động để giúp con người vượt qua
mọi khT khăn, đạt đích đến đề ra. Qua đT cT thể thấy được kết cấu của ý thức là rất
phức tạp, đòi hỏi môi cá nhân phải luôn tự ý thức trong việc nâng cao kiến thức,
bồi dưỡng tình cảm và xây dựng ý chí quyết tâm.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin
3.1 Vai trò của vật chất đối với ý thức
-Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được thể hiện trên các khía cạnh sau:
+Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức. Vật chất “sinh” ra ý thức,
bởi lẽ ý thức gắn liền với sự xuất hiện của con người cách đây từ 3 đến 7 triệu
năm, mà con người là kết quả thông qua một quá trình phát triển, tiến hTa lâu dài,
phức tạp của giới tự nhiên, của thế giới vật chất vậy nên ý thức một thuộc tính của
bộ phận con người cũng do giới tự nhiên, vật chất sinh ra. Chủ nghĩa duy vật biện
chứng cũng khẳng định vật chất cT trước, ý thức cT sau,vật chất là tính thứ nhất,
còn ý thức là tính thứ hai. Hơn hết, vật chất là nguồn gốc ra đời của ý thức và hình
thành nên ý thức vì vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức
+Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức. Ý thức là sự phản ánh thế
giới vật chất, là hình ảnh chủ quan của thế giới vật chất nên nội dung của ý thức
được quyết định bởi vật chất. Thế giới khách quan, mà trước hết và chủ yếu là hoạt
động thực tiễn cT tính xã hội - lịch sử của loài người là yếu tố quyết định nội dung mà ý thức phản ảnh.
+Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức. Phản ánh và sáng tạo là hai
thuộc tính không tách rời trong bản chất của ý thức. Nhưng sự phản ánh của con
người không phải là “soi gương”, “chụp ảnh” hoặc là “phản ánh tâm lý” như con
vật mà là phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo thông qua thực tiễn. Chính thực tiễn
là hoạt động vật chất cT tính thay đổi thế giới của con người - là cơ sở để hình
thành, phát triển nên ý thức, trong đT ý thức của con người vừa phản ánh, vừa sáng
tạo, phản ánh để sáng tạo và sáng tạo trong phản ánh.
+Thứ tư, vật chất quyết định quá trình vận động, phát triển của ý thức. Mọi sự
tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn với quá trình biến đổi của vật chất; vật chất
thay đổi thì ý thức cũng phải biến đổi theo. Với bối cảnh con người ngày càng phát
triển cũng đồng nghĩa với việc ý thức sẽ ngày càng hoàn thiện cả về nội dung và
hình thức bởi lẽ ý thức là một hình thức phản ánh bộ Tc của con người. TTm gọn
lại, vật chất và ý thức là hai hiện tượng đối lập nhau về bản chất, nhưng về mặt
nhận thức luận, cần quán triệt sâu sắc tư tưởng biện chứng của V.I.Lênin, rằng “sự
đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ cT ý nghĩa tuyệt đối trong những phạm vi hết
sức hạn chế: trong trường hợp này chỉ giới hạn trong vấn đề nhận thức luận cơ bản
là thừa nhận cái gì cT trước và cái gì là cái cT sau? Ngoài giới hạn đT, thì không
còn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập đT là tương đối”. Ở đây, tính tương đối của sự
đối lập giữa vật chất và ý thức được thể thông qua mối quan hệ giữa thực thể vật
chất đặc biệt là bộ Tc người và thuộc tính của chính nT.
3.2 Ý thức cT tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất.
Ý thức cT thể tác động trở lại vật chất thông qua các hoạt động thực tiễn của con
người trong mối quan hệ với vật chất. Điều này được thể hiện qua bốn khía cạnh:
+Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chô, ý thức là sự phản
ánh thế giới vật chất vào trong đầu Tc con người, do vật chất sinh ra, nhưng khi đã
ra đời thì ý thức cT “đời sống” riêng, cT nguyên tắc vận động, phát triển riêng,
không lệ thuộc vào vật chất. Ý thức khi ra đời cT tính độc lập tương đối, tác động
trở lại thế giới vật chất. Ý thức cT thể thay đổi nhanh, chậm, đi song hành so với
hiện thực, nhưng xét chung nT thường biến đổi chậm so với sự thay đổi của thế giới vật chất.
+Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hành động
thực tiễn của con người. Dựa vào hành động thực tiễn, ý thức cT thể làm thay đổi
những đỉều kiện, hoàn cảnh vật chất, thậm chí còn tạo ra “thiên nhiên thứ hai” đáp
ứng nhu cầu cho đời sống con người, còn tự bản thân ý thức thì không thể biến đổi được hiện thực.
+Thứ ba, vai trò của ý thức còn thể hiện ở chô nT chỉ huy hoạt động, hành động
của con người; nT cT thể xác định hành động của con người là đúng hay sai, thành
công hay thất bại. Khi phản ánh chân thực hiện thực, ý thức cT thể dự báo, tiên
đoán một cách chính xác cho hiện thực, cT thể hình thành nên những lý luận định
hướng đúng đắn và những lý luận này khi được đưa vào quần chúng sẽ gTp phần
động viên, cổ vũ, khai thác mọi sáng tạo tiềm ẩn, từ đT sức mạnh vật chất được
tăng lên gấp nhiều lần. Ngược lại, ý thức cT thể tác động tiêu cực khi nT phản ánh
sai lệch, xuyên tạc hiện thực.
+Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng lớn lao, nhất là
trong thời điểm xã hội hiện đại ngày nay, thời đại công nghệ thông tin, tri thức kinh
tế, thời đại của các cuộc cách mạng khoa học và công nghệ 4.0, khi mà tri thức
khoa học đã trở thành lực lượng, yếu tố sản xuất trực tiếp. Trong bối cảnh toàn cầu
hTa, vai trò của tri thức khoa học, của tư tưởng chính trị, tư tưởng nhân văn là hết
sức quan trọng và cấp thiết.
3.3 Ý nghĩa phương pháp luận chung
Trên cơ sở quan điểm về bản chất vật chất của thế giới, bản chất năng động sáng
tạo của ý thức kết hợp với mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức trong
triết học Mác - Lênin, ta cT thể rút ra nguyên tắc phương pháp luận là trong boạt
động nhận thức và thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách
quan, đồng thời phát huy tính năng động chủ quan. Dựa trên phương pháp luận
này, trong mọi nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người, chúng ta đều phải
nhìn nhận một cách khách quan, phải giữ vững sự tôn trọng và hành động theo quy
luật của đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần. Theo đT, việc này đòi hỏi con
người phải lấy xuất phát điểm của nhận thức và hành động từ thực tế khách quan,
nhận thức sự vật hiện tượng một cách chân thực, không giả dối, tránh chủ nghĩa
chủ quan, bệnh chủ quan duy ý chí; chủ nghĩa duy vật tầm thường, chủ nghĩa thực
dụng, chủ nghĩa khách quan.
Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của con
người trong vấn đề vật chất hoá tính năng động sáng tạo ấy và để làm được điều
này con người phải tôn trọng tri thức, vai trò của ý thức; tích cực học tập và rèn
luyện bản thân, coi trọng công tác tư tưởng và giáo dục tư tưởng, coi trọng giáo
dục lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, củng cố và truyền bá
tình cảm cách mạng cho quần chúng nhân dân nhằm bảo đảm sự thống nhất giữa
nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học. Bên cạnh đT, để thực hiện nguyên tắc
tôn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính năng động chủ quan, môi cá nhân
cũng cần chống lại tư tưởng, thái độ thụ động, • lại, ngồi chờ, bảo thủ, tri trệ, thiếu
tính sáng tạo đồng thời phòng chống và khắc phục triệt để bệnh chủ quan duy ý
chí, chủ nghĩa kinh nghiệm xem thường tri thức khoa học, v.v. Điều cần thiết phải
làm đT chính là nhận thức và giải quyết hợp lý các quan hệ lợi ích, biết kết hợp
giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội; phải cT động cơ trong sáng, thái
độ khách quan, khoa học, không vụ lợi trong nhận thức và hành động của mình.
II.Vận dụng của Đảng ta hiện nay: Quá trình vận dụng trong xây dựng và
phát triển kinh tế-xã hội ở Việt Nam
Phép duy vật biên chứng là đỉnh cao tư duy khoa học của ba nhà triết gia:
C.Mác, Ph.Ăng-ghen và Lênin đã nghiên cứu, bổ sung và phát triển, đã đem lại cho
nhân loại sự nhận thức về thế giới khách quan một cách hoàn chỉnh nhất Vì vật
chất quyết định ý thức, sinh ra ý thức cho nên mọi chủ trương chính sách hoạt
động nhận thức, hoạt động con người đều phải xuất phát từ hiện thực khách quan
và hoạt động tuân theo quy luật khách quan, nghĩa là chúng ta phải cT quan điểm
khách quan trong nhận thức hoạt động thực tiễn. Xuất phát từ hiện thực khách
quan, không phải từ những cái lˆ tˆ của hiện thực khách quan, phải xuất phát từ cái
chung là quy luật khách quan.
1.Những thành tựu đã đạt được của Đảng và Nhà nước ta
Đảng ta đã vận dụng đúng đắn mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào công
cuộc đổi mới đất nước cả về kinh tế lẫn chính trị. Đại hội VIII đã chỉ ra các mục
tiêu cần đạt được, cụ thể là phương châm chỉ đạo trong 5 năm 1991-1995, trong đT
nổi cộm nhất là phương châm kết hợp động lực kinh tế và động lực chính trị,
phương châm tiếp tục đổi mới đã vào chiều sâu với bước đi vững chắc, lấy đổi mới
làm nền để thúc đẩy các lĩnh vực khác phát triển. Trong báo cáo của Đảng về công
cuộc đổi mới đã nhận xét:”Nét nổi bật là trong Đảng đã cT sự đổi mới tư duy về
kinh tế với tinh thần độc lập sáng tạo. Đảng ta cụ thể hoá và phát triển nghị quyết
đại hội VII, bước đầu hình thành hệ thống các quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo sự
nghiệp đổi mới ở nước ta “.
NTi về Đảng trong công cuộc đổi mới, báo cáo chính trị trước Đại hội đã nhận
xét: ” Nét nổi bật là trong Đảng đT cú sự đổi mới tư duy về kinh tế với tinh thần
độc lập sáng tạo, Đảng đã cụ thể hoá và phát triển nghị quyết Đại hội VII, bước
đầu hình thành hệ thống các quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo sự nghiệp đổi mới ở nước ta”.
Sau Đại hội lần thứ VII, Ban chấp hành TW Đảng (khoá VII) đã đề ra các nghị
quyết hội nghị Trung ương 2, 3, 4, và 5 để cụ thể hoá và phát triển đường lối Đại
hội VII, giải quyết một loạt vấn đề cụ thể trên nhiều lĩnh vực đối nội và đối ngoại.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ đT đánh giá thành tựu to lớn cT ý nghĩa
hàng đầu là đã khắc phục được một bước rất quan trọng tình trạng khủng hoảng
kinh tế xã hội…khắc phục được nhiều mặt đình đốn, suy thái, tốc độ tăng trưởng
khá và liên tục trong 3 năm qua. Lạm phát được đẩy lùi từ 67% năm 1991 xuống
còn 17,5% năm 1992 và còn 5,2% năm 1993. Tổng sản phẩm trong nước GDP tăng
bình quân 8,2% (mức đề ra cho năm 1991- 1995 là 5,5- 6,5%). Sản xuất nông
nghiệp phát triển tương đối toàn diện, sản lượng lương thực 5 năm qua tăng 26%
so với 5 năm trước đT, tạo điều kiện cơ bản để ổn định đời sống nhân dân, phát
triển ngành nghề, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn, vấn đề
lương thực được giản quyết tốt. Sản xuất công nghiệp đạt nhịp độ tăng trưởng bình
quân hàng năm 13,3 % (mức kế hoạch là 7,5% – 8,5%).
Quan hệ kinh tế đối ngoại được mở rộng theo hướng đa dạng hoá và đa phương
hoá, thị trường xuất nhập khẩu được củng cố và mở rộng, nguồn vốn đầu tư nước
ngoài tăng mạnh…tăng kim ngạch xuất khẩu trong 5 năm 1991 – 1995 đạt trên 17
t• USD (kế hoạch là 12 – 15 t• USD), đảm bảo nhập các loại vật tư, thiết bị và
hàng hoá đáp ứng nhu cầu của sản xuất và đời sống, gTp phần cải thiện cán cân
thanh toán thương mại… Khoa học công nghệ cT bước phát triển, đã tập trung
nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp đổi mới và phát triển
của nước ta, phục vụ cho việc xây dựng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước. Lĩnh vực văn hoá – xã hội cT nhiều chuyển biến tích cực, đời sống nhân dân
được cải thiện một bước. Quốc phòng, an ninh được giữ vững.
Hội nghị Đại biểu toàn quốc cũng nêu lên thành tựu về tiếp tục giữ vững và
củng cố sự ổn định chính trị, về mở rộng quan hệ đối ngoại, tạo môi trường thuận
lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
2.Những hạn chế của Đảng và Nhà nước ta
Trong gần 30 năm đổi mới, bên cạnh những thành tựu to lớn đạt được, Việt nam
cũng còn nhiều hạn chế, yếu kém. Nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam còn một số vấn đề chưa rõ, chưa sâu
sắc hoặc chưa cụ thể. Trong những năm đổi mới, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá,
song kinh tế phát triển vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu, chưa thật sự
bền vững, đặc biệt trong 10 năm gần đây. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động
và năng lực cạnh tranh quốc gia của nền kinh tế còn thấp. Thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa chậm được hoàn thiện, hệ thống thị trường
hình thành và phát triển chưa đồng bộ; chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn
chế, kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ và hiện đại đang cản trở sự phát triển; việc tạo
nền tảng để trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại còn chậm và gặp nhiều khT khăn.
Trên lĩnh vực phát triển văn hTa, giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi
trường, còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững. Nhiều vấn đề
bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý phát triển xã hội chưa được
nhận thức và giải quyết cT hiệu quả. Đạo đức xã hội cT một số mặt xuống cấp; văn
hTa phẩm độc hại, lai căng tác động tiêu cực đến đời sống tinh thần của xã hội; tài
nguyên bị khai thác bừa bãi, môi trường sinh thái bị ô nhiễm, biến đổi khí hậu toàn
cầu ngày càng tác động đến Việt Nam gây hậu quả nặng nề; trên một số mặt, một
số lĩnh vực, người dân chưa được thực hưởng đầy đủ, công bằng thành quả đổi mới.
Trên lĩnh vực chính trị và hệ thống chính trị, đổi mới chính trị còn chậm, chưa
đồng bộ với đổi mới kinh tế, nhất là đổi mới về tổ chức, thể chế, cơ chế, chính
sách. Hệ thống chính trị còn cồng kềnh, hiệu lực, hiệu quả hoạt động còn thấp,
chưa ngang tầm với nhiệm vụ. Biên chế của hệ thống chính trị ngày càng tăng lên,
nhưng chất lượng công vụ thấp.
Việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tuy cT nhiều
tiến bộ song cũng còn nhiều hạn chế. Nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước
còn nhiều bất cập. Số văn bản luật ngày càng tăng nhưng hiệu lực pháp luật chưa
cao, việc phát huy dân chủ chưa đi liền với bảo đảm k• cương, k• luật, pháp luật.
Hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước còn nhiều hạn chế, cải cách hành chính
còn chậm trễ, cải cách tư pháp còn lúng túng.
Mặc dù Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã ra nhiều nghị quyết, chỉ thị
về tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng, song công tác xây dựng Đảng chưa cT nhiều chuyển
biến cơ bản trong tình hình mới. Chưa cT những giải pháp hiệu quả để ngăn chăn,
đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ
phận cán bộ, đảng viên; tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liệu, tiêu cực xã hội
còn diễn ra nghiêm trọng. Công tác tư tưởng- lý luận, công tác tổ chức- cán bộ,
công tác kiểm tra, giám sát, công tác dân vận còn nhiều bất cập. Phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân chậm
đổi mới. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của nhiều tổ chức đảng còn thấp,
quản lý đảng viên chưa chặt chẽ; chế độ trách nhiệm không rõ ràng, nhất là của người đứng đầu.
3. Giải pháp khắc phục
-Người cán bộ kinh tế phải quán triệt sâu sắc và tận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết là phương pháp luận toàn diện và
phép biện chứng duy vật vào việc nghiên cứu, đề xuất và áp dụng các chủ trương
chính sách về kinh tế, các phương pháp, cơ chế quản lý kinh tế tài chính theo tinh
thần đổi mới để thúc đẩy nền kinh tế nước ta vượt qua tình trạng nước nghèo và
kém phát triển, tránh khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước
trong khu vực và nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện xoá bỏ
cơ chế quan liêu bao cấp cũng cT nghĩa là đòi hỏi người làm công tác quản lý kinh
tế chân chính phai năng động sáng tạo, nhạy bén, nắm bắt được thực tế và quy luật
vận động và phát triển của nT.
-Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự nghiệp rất khT và phức tạp, cT thể
coi nT như một công cuộc kháng chiến trường kỳ của Đảng, Nhà nước và nhân dân
ta. Những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, những biến động nhiều của đất
nước ta trong quá trình đổi mới toàn diện xã hội càng đòi hỏi Đảng và nhà nước ta
phải kiên trì, kiên định, giữ vững lòng tin, quyết tâm khắc phục khT khăn đồng thời
phải tỉnh táo, thông minh nhạy bén để thích ứng kịp thời với tình hình thực tế biến
đổi từng ngày, từng giờ.
-Quán triệt phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, vận dụng thành thạo phép duy vật duy vật biện chứng vào việc nghiên cứu
và quản lý kinh tế, phát huy mạnh mẽ hơn nữa quan hệ biện chứng giữa kinh tế và
chính trị trong công cuộc đổi mới nhằm tăng trưởng nền kinh tế quốc dân, nhất
định chúng ta sẽ trở thành những cán bộ quản lý kinh tế giỏi gTp phần xứng đáng
vào công cuộc đổi mới kinh tế đất nước, tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam
cất cánh, để từ đT nâng cao hơn nữa vị trí Việt Nam trên chiến trường quốc tế, gTp
phần củng cố hơn nữa sự ổn định về chính trị của đất nước. ĐT là đường lối là
trách nhiệm của những nhà quản lí kinh tế, chính trị của chúng ta. III, Kết luận
-Theo quan niệm duy vật biện chứng, vật chất và ý thức là hai mặt của một sự
vật, song song tồn tại và tác động lẫn nhau. Tuy nhiên, vật chất là yếu tố quyết định
và tồn tại khách quan trước, trong khi ý thức chỉ là sự phản ánh chủ quan của thế
giới khách quan. Vì vậy, để hiểu và đối phT với thế giới, ta cần phải tiếp cận với nT
bằng cách phản ánh đúng, khách quan và đầy đủ nhất cT thể.
-Trong hoạt động học tập, điều quan trọng là phải chủ động tiếp cận với kiến
thức và trải nghiệm thực tiễn, từ đT phát triển khả năng phản ánh và sáng tạo của
mình. Việc áp dụng kiến thức vào thực tế cuộc sống và công việc đòi hỏi phải cT
sự kết hợp hài hòa giữa nhân tố vật chất và tinh thần. Vì vậy, để đạt được hiệu quả
cao trong học tập, ta cần phải cT ý thức về sự quan trọng của nhân tố vật chất, bao
gồm thời gian, nơi chốn, tài nguyên và công cụ, đồng thời phải sử dụng tốt các
nhân tố tinh thần như sự tập trung, sáng tạo, kiên trì và kiến thức.
-TTm lại, để phát triển bản thân và đTng gTp cho sự nghiệp công nghiệp hTa,
hiện đại hTa đất nước, ta cần phải cT tư duy duy vật biện chứng và áp dụng phương
pháp luận đT vào thực tiễn. Điều quan trọng là phải hiểu rõ sự quan trọng của nhân
tố vật chất và tinh thần, từ đT tận dụng tối đa các tài nguyên và khả năng của mình
để phát triển một cách bền vững và hiệu quả. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2019). Giáo trình Triết học Mác Lênin. NXB chính trị quốc gia sự thật.
2. Phi, N. V. (2021). Định nghĩa vật chất của Lênin? Luật Hoàng Phi.
https://luathoangphi.vn/dinh-nghia-vat-chat-cua-lenin/
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2017). Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác Lênin. NXB chính trị quốc gia sự thật.