TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
***
BÀI TẬP LỚN MÔN CHỦ NGHĨA HỘI
KHOA HỌC
ĐỀ TÀI:
SINH VIÊN VIỆT NAM CẦN PHẢI LÀM ĐỂ PHÁT HUY DÂN
CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Họ tên SV: Đoàn Minh Phương
Lớp tín chỉ: LLNL1107
SV: 11225187
GVHD: TS TH HỒNG HNH
.
NỘI, NĂM 2023
Dân chủ hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự phát triển đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Nước ta là nước dân chủ.
Bao nhiêu lợi ích đều dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân”, “dân đem lại bao nhiêu
quyền, toàn dân bấy nhiêu quyền”. Cho thấy rằng ràng dân chủ hội chủ nghĩa
khác hoàn toàn về bản chất so với dân chủ của chủ nghĩa bản, skhác biệt đó không
chỉ nằm việc xoá bỏ chế độ hữu về liệu sản xuất, về phân hoá giai cấp còn
về chính trị. V.I.Lênin cũng đã từng khẳng định “Đónền dân chủ gấp triệu lần dân ch
sản”, thể hiện quyền lực thực sự thuộc về nhân dân. hội loài người với hàng trăm
triệu năm lịch sử phát triển dân chủ cũng đã chứng minh mỗi một quốc gia đều quyền
lựa chọn chế độ dân chủ phù hợp, không nhất thiết phải phỏng chế độ dân chủ của
những quốc gia khác. Chế độ dân chủ cần phù hợp với đặc điểm lịch sử, văn hoá, thể chế
chính trị, kinh tế… của từng đất nước, đồng thời cần không ngừng hoàn thiện phát
triển. Một nền dân chưu việt đích thực chỉ khi do chính nhân dân lựa chọn
quyền làm chủ của nhân dân, các quyền con người, quyền công dân được tôn trọngbảo
vệ.
Khi nhu cầu về sự dân chủ ngày một tăng cao thì việc xây dựng một hội công
bằng, dân chủ, văn minh là điều khó tránh khỏi. Và để xây dựng được mộthội như vậy
thì nhà nước – một tổ chức chung mang quyền lực chính trị, đóng vai trò chủ đạo vô cùng
cần thiết. Bởi vậy, Nhà ớc pháp quyền ra đời với những mục tiêu, đặc trưng riêng. Kế
thừa, vận dụng phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào thực tiễn Việt Nam, Chủ
tịch Hồ Chí Minh Đảng ta luôn coi trọng, xác định ràng việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền hội ch nghĩa của dân, do dân và vì dân là bản chất, mục tiêu chiến lược
và là động lực phát triển của chế độ xã hội chủ nghĩa, của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Nhận thấy sự cần thiết trách nhiệm của toàn thể nhân dân, đặc biệt thế hệ
sinh viên Việt Nam trong việc huy dân chủ hội chủ nghĩa việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, trong bài tập lớn này, em một sinh
viên, sẽ làm bản thân mình cũng như những sinh viên ngoài kia cần làm và làm như
thế nào để góp phần vào công cuộc kiến thiết, bảo vệ tổ quốc, phát huy tính dân chủ
xây dựng nhà nước pháp quyền mang đặc trưng xã hội chủ nghĩa.
2
A. NỘI DUNG
I. DÂN CHỦ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Quá trình ra đời của nền dân chủhội chủ nghĩa
Nền dân chủ hội chủ nghĩa một hệ thống chính trị kinh tế trong đó
quyền lực chính trị tài sản được phân phối công bằng. thể hiểu hơn, dân chủ
hội chủ nghĩa nền dân chủ cao hơn về chất so với những nền dân chủ trong lịch sử
nhân loại, là nền dân chủ đó, mọi quyền lực thuộc về nhân dân, dân chủ dân
làm chủ. Khi đó dân chủ pháp luật nằm trong mối quan hthống nhất, biện chứng
được thực hiện bằng nớc pháp quyền hội chủ nghĩa, đặt ới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản.
hình dân chủ hội chủ nghĩa thể khác nhau trong từng quốc gia nhưng ý
tưởng bản đều tạo ra một hội trong đó quyền lực chính trị thuộc về nhân dân
thông qua các cơ chế dân chủ tài sản được quản lý và phân phố. Đúng như theo khẳng
định của V.I.Lê-nin: “...bất cứ nền dân chủ nào, xét đến cùng, cũng đều phục vụ sản xuất
và xét đến cùng, đều do các quan hệ sản xuất trong một xã hội nhất định quyết định”.
Nền dân chủ hội chủ nghĩa được cho nguồn gốc từ những ý ởng của các
nhà triết học hội chnghĩa thế kỷ 19 như C.Mác Ph.Ăngghen. Trong "Bản Tuyên
Ngôn Của Đảng Cộng sản" năm 1848, C.Mác Ph.Ăngghen đã đề xuất một tầm nhìn
cho một xã hội mới, trong đó tài sản được chia sẻ công bằng quyền lực chính trị thuộc
về nhân dân. Họ cho rằng, trong hệ thống bản, mâu thuẫn giữa các giai cấphộisự
bất công trong phân phối tài sản sẽ dẫn đến sự suy thoái của hội bản xuất hiện
một xã hội mới. Cùng với những ý tưởng của Mác và Ăngghen, dân chủ xã hội chủ nghĩa
đã được phôi thai từ thực tiễn đấu tranh giai cấp Pháp và công xã Paris những năm 1871
nhưng chỉ thực sự đến khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công với sự ra đời của nhà
nước hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới (1917), nền dân chủ hội chủ nghĩa mới
chính thức được xác lập, đánh dấu bước phát triển mới về chất của dân chủ.
Quá trình phát triển của nền dân chủ hội chủ nghĩa từ thấp tới cao, từ chưa
hoàn thiện đến hoàn thiện; sự kế thừa một cách chọn lọc giá trị của nền n chủ trước
đó. Càng hoàn thiện bao nhiêu, nền dân chủ hội chủ nghĩa lại càng tự tiêu vong bấy
nhiêu. Theo V.I.Lênin, thực chất của sự tiêu vong này là tính chính trị của dân chủ sẽ mất
đi dựa trên cơ sở không ngừng mở rộng dân chủ đối với nhân dân, xác lập địa vị chủ thể
3
quyền của nhân dân, tạo điều kiện để họ tham gia ngày càng đông đảo ngày càng ý
nghĩa quyết định vào sự quản nhà nước, quản hội (xã hội tự quản). Chủ nghĩa
Mác - Lênin cũng lưu ý đây qtrình lâu dài, khi hội đã đạt trình độ phát triển cao,
hội không còn sự phân chia giai cấp, đó là hội cộng sản chủ nghĩa đạt tới mức độ
hoàn thiện, khi đó dân chủ xã hội chủ nghĩa với tư cách là một chế độ nhà nước cũng tiêu
vong, không còn nữa.
2. Bản chất của nền dân chủhội chủ nghĩa
Bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là tạo ra một xã hội công bằng và bình đẳng,
trong đó quyền lực chính trị và tài sản được phân phối công bằng trong cộng đồng. Nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa xuất hiện nhằm mục tiêu loại bỏ sự bất công và bất đẳng xã hội
nguồn gốc từ sự chênh lệch giàu nghèo, bản quyền lực tập trung. Nhưng thực
chất, như mọi loại hình dân chủ khác dân chủ vô sản hay dân chủ xã hội chủ nghĩa, theo
V.I.Lênin, không phải là chế độ dân chủ cho tất cả mọi người; dân chủ vô sản chỉ là chế
dộ dân chủ vì lợi ích của đa số, ở đây đại diện chính là quần chúng lao động và bị bóc lột.
Dân chủ trong chủ nghĩa hội bao quát tất cả các mặt của đời sống hội, trong
đó, dân chủ trên lĩnh vực kinh t là cơ sở. n chủ hội chủ nghĩa nhấn mạnh quyền sở
hữu công cộng và phân phối công bằng tài sản. Hệ thống kinh tế trong nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa thường sự can thiệp của nhà nước hoặc các tổ chức hội để đảm bảo rằng
tất cả tài sản nguồn lực đều được sử dụng để phục vụ lợi ích chung của toàn thể cộng
đồng, đồng thời đảm bảo rằng không ai bị lợi dụng hoặc bị áp bức bởi tầng lớp giàu có.
Như vậy, khác với nền dân chủ sản, bản chất kinh tế của nền dân chủ hội chủ nghĩa
thực hiện chế độ công hữu về liệu sản xuất chủ yếu thực hiện chế độ phân phối lợi
ích theo thành quả lao động là chủ yếu.
Một trong những điểm quan trọng của dân chủ hội chủ nghĩa thhiện bản chất
chính trị chính sự cống hiến cho lợi ích chung của cộng đồng. Trong hệ thống này,
quyền lực chính trị không tập trung một nhân hoặc một nhóm nhỏ, được phân
phối rộng rãi thể hiện qua các chế dân chủ. Các quyết định chính trị quan trọng
được đưa ra dựa trên sự tham gia của toàn bộ cộng đồng nhận được sự thỏa thuận
hội thay do một số ít nhân hoặc tầng lớp quyền lực quyết định hay chỉ để thực hiện
lợi ích riêng của một giai cấp nào đó. Nguyên tắc bản quyền tự quyết quyền
quyết định thuộc về nhân dân, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
4
Bản chất tưởng văn hoá hội của dân chủ hội chủ nghĩa phản ánh
thuyết và mục tiêu bản chất của hệ thống này. Đó là hướng tới việc loại bỏ sự bất công và
bất đẳng xã hội, xây dựng một cộng đồng tự do và công bằng, nơi mọi người có quyền tự
quyết tham gia vào việc ra quyết định về cách hội được tổ chức hoạt động.
tưởng của dân chủ hội chủ nghĩa được xây dựng trên sở triết hội chủ nghĩa.
nhấn mạnh sự phản kháng với chủ nghĩa tư bản chủ trương phân biệt giai cấp, bảo
vệ quyền lợi đòi hỏi công bằng hội. tưởng này cũng khuyến khích lòng tự hào
dân tộc, ý thức tập thể nhận thức hội, hướng tới một tương lai bình đẳng tự
do. Trong khi đó đặc trưng văn hoá của nền dân chủ hội chủ nghĩa lại thể hiện các giá
trị đồng nhất, công bằng và hợp tác. Nó khuyến khích lòng yêu nước, tinh thần cộng đồng
nhận thức về sự đoàn kết tương tác hội. Văn hoá dân chủ hội chủ nghĩa
thường khuyến khích sự sáng tạo phát triển nhân, đồng thời coi trọng tầm quan
trọng của giáo dục văn hóa thông qua việc đảm bảo mọi người có quyền truy cập vào
kiến thứcnền văn hóa. Còn yếu tốhội trong nền dân chhội chủ nghĩa hướng tới
một hệ thống hội công bằng cùng cân. quan tâm đến sự phân chia công việc
tài nguyên một cách công bằng, đảm bảo mọi người được đáp ứng cơ bản về nhu cầu n
lương thực, chỗ ở, y tế, giáo dục và lao động công bằng. hội này khuyến khích sự hợp
tác ơng tác hội, tạo điều kiện cho mọi người thể hiện quyền tự do nhân
trong một i trường bình đẳng.Các yếu tố này cùng nhau hình thành định hình quan
điểm, giá trị và cách hành xử trong xã hội dân chủ xã hội chủ nghĩa.
3. Thực trạng dân chủ hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
Việt Nam, 35 năm đổi mới trở lại đây nh trình Việt Nam đẩy mạnh việc xây
dựng phát huy tính dân chủ hội chủ nghĩa. Mục tiêu của thực hành dân chủ hội
chủ nghĩa ở Việt Nam là củng cố và tăng cường sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận
trong nhân dân, xây dựng hệ thống chính trị hội chủ nghĩa vững mạnh; giữ ổn định
chính trị, phát triển kinh tế nhanh bền vững, tạo tiền đề đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tăng cường mối quan hệ gắn mật thiết giữa Đảng,
Nhà ớc nhân dân, thể hiện bản chất ưu việt của chế độ. Nội dung bản của thực
hành dân chủ Đảng lãnh đạo toàn bộ hội phát triển theo định ớng hội chủ
nghĩa; Nhà nước tổ chức quyền lực của nhân dân, thể chế hóa quan điểm, đường lối của
Đảng thành chính sách, pháp luật, tổ chức quản lý, điều hành hội để thực hiện đường
5
lối của Đảng bảo đảm lợi ích của nhân dân; các tổ chức chính trị - hội hoạt động
theo đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nướcbảo đảm quyền làm chủ của các tầng
lớp nhân dân. Nhân dân có quyền và trách nhiệm trực tiếp tham gia xây dựng, hoạch định
thi hành các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nhìn chung,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã, đang sẽ vẫn mãi xác định lấy chủ nghĩa Mác - nin
cùng tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, cũng như sử dụng nguyên tắc tập
trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức bản. Đảng cũng luôn khẳng định: ”Mọi đường lối,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều lợi ích của nhân dân, sự tham
gia ý kiến của nhân dân”.
a. Những thành tựu đã đạt được:
Thứ nhất, những thành tựu ý nghĩa lịch sử khác trong bao nhiêu năm qua cũng
chính kết quả của việc thực hiện đúng đắn các đường lối, chủ của Đảng. Các chủ
trương, đường lối đúng đắn đó có được là do dân chủ thảo luận Đảng biết lắng nghe
ý kiến đóng góp của hàng triệu cán bộ, đảng viên, của các nhà khoa học và của nhân dân.
Đảng ta cũng thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng để thể thuyết phục vận
động quần chúng. Tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, luôn nhìn thẳng vào sự thật, nói
sự thật, đánh giá đúng sự thật, công khai thừa nhận những sai lầm khuyết điểm, nghiêm
túc chỉnh đốn để sửa chữa.
Thứ hai, về phát triển kinh tế, Việt Nam đã chuyển từ một nền kinh tế bao cấp lạc
hậu nghèo nàn sang hình kinh tế thị trường mang định dướng dân chủ hội chủ
nghĩa. Qua các chính sách đổi mới, đầu vào các ngành kinh tế trọng điểm khuyến
khích đầu nước ngoài, Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng kinh tế ấn tượng
giảm đáng kể độ nghèo. Quốc gia cũng luôn chú trọng vào việc xây dựng hạ tầng phát
triển hội. Chính phủ đã sự đầu lớn vào xây dựng sở hạ tầng phát triển các
lĩnh vực quan trọng như giáo dục, y tế, văn hóa công nghệ nhằm cung cấp các điều
kiện cơ bản cho cuộc sống của người dân và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Cuối cùng, về văn hoá hội, Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản hệ
thống bộ máy nhà nước luôn đảm bảo quyền tự do và dân chủ cho toàn thể nhân dân. Nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng luôn tôn vinh và bảo vệ quyền con người, như
quyền sống, quyền tự do cá nhân, quyền công bằng và quyền công lý, khuyến khích sự đa
6
dạng, cởi mở trong các khía cạnh văn hoá, chính trị, hội. Việt Nam luôn n trọng
những giá trị khác biệt.
b. Những hạn ch còn tồn đọng:
Vấn đề dân chủ ở Việt Nam vẫn chưa được giải quyết đầy đủmột cách hiệu quả,
cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn. Có nhiều vấn đề đặt ra vẫn chưa hề có lời giải thích rõ
ràng, gây khó khăn trong việc thực hiện dân chủ. Một trong số đó là cơ chế Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ cũng chưa được làm sáng tỏ. Mặc dù Đảng
đã đề ra cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ, nhưng vẫn chưa
có sự phân rõ chức năng lãnh đạo và chức năng quản lý, dẫn đến sự chồng chéo và mâu
thuẫn giữa hai chức năng này. Ngoài ra, cách thức nhân dân thực hiện quyền làm chủ vẫn
chưa được xác định rõ ràng và chưa có cơ chế cụ thể. Việc nhân dân tham gia vào quyết
định và quản lý cần sự hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi và định rõ quyền và trách nhiệm
của họ.
Việc thực hành dân chủ trong Đảng trong Nhà nước của chúng ta chưa tốt nên
ảnh hưởng đến thực hành dân chủ trong hội, Đảng chưa nêu được tấm gương về thực
hành dân chủ. Nhà ớc pháp quyền đang trong giai đoạn hình thành khiến cho việc thể
chế hóa các chủ trương của Đảng về dân chủ chưa kịp thời.
II. NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Những đặc trưng bản của nhà nước pháp quyềnhội chủ nghĩa
Việt Nam
Nhà ớc pháp quyền một giá trị nhân văn, cao quý của nhân loại, được hiểu
một kiểu nhà nước đó, tất cả mọi công dân đều được giáo dục pháp luật và phải hiểu
biết pháp luật, tuân thủ pháp luật, pháp luật phải đảm bảo tính nghiêm minh; trong hoạt
động của các quan nhà ớc, phải sự phân công, phối hợp, kiểm soát lẫn nhau, tất
cả mục tiêu phục vụ nhân dân. Cùng với tiến trình của công cuộc đổi mới đất ớc,
nhận thức của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền ngày càng sáng tỏ. Với chủ trương: “Xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do n, dân”, Đảng ta xác định: Nhà
nước quản hội bằng pháp luật, mọi quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công
dân nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Nhận thức đó là tiền đề để Đại hội XII
7
của Đảng làm hơn về Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam: “Quyền lực
nhà nước thống nhất, sự phân công, phối hợp kiểm soát giữa các quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hạnh pháp, pháp”. Nhà nước pháp quyền
hội chủ nghĩa Việt Nam luôn hướng tới mục tiêu dân giàu, ớc mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc; hướng tới các giá trtiến bộ, nhân văn “dựa trên
nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác
hẳn về chất so với các hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các nhân
phe nhóm, do đó cần điều kiện để xây dựng sự đồng thuận hội thay đối lập,
đối kháng xã hội”
Từ những thực tiễn nhận thức và xây dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, thể nhận thất Nhà ớc pháp quyền hội chủ
nghĩa Việt Nam có một số đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, xây dựng một nhà nước do nhân dân lao động làm chủ, nhà nước thực
sự của nhân dân, cho dân dân. Nhà ớc bảo đảm toàn bộ các quyền lực thuộc về
nhân dân.
Thứ hai, Nhà nước được tổ chức và hoạt động dựa trên cơ sở của Hiến pháp và pháp
luật. Trong tất cả các hoạt động của hội, pháp luật phải được đặt vị trí tối thượng đ
điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Thứ ba, Nhà nước được tổ chức, hoạt động theo nguyên tác quyền lực nhà nước
thống nhất nhưng có s phân công và phối hợp giữa các cơ quan trong quá trình thực hiện
quyền lực nhà nước về luật pháp, hành pháp và tư pháp.
Thứ , Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo, phù hợp với Điều 4 Hiến pháp năm 2013, ới sự giám sát của toàn
dân với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Thứ năm, Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam luôn tăng ờng sự
nghiêm minh của pháp luật, tôn trọng quyền con người, coi con người chủ thể, trung
tâm của sự phát triển: Nhân dân quyền bầu cử, bãi nhiệm những đại biểu không xứng
đáng”.
Thứ sáu, tổ chức hoạt động của bộ máy nhà ớc theo nguyên tắc tập trung dân
chủ, sự phân công, phân cấp, phối hợp kiểm soát lẫn nhau, nhưng bảo đảm quyền
lực là thống nhất và sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương.
8
2. Các yêu cầu để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam
Xây dựng một Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân, nhân dân bảo
đảm thực hiện ngày càng đầy đủ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu quan trọng.
cấu tổ chức chế hoạt động của Nhà ớc phải đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân
bảo đảm quyền làm chủ quyền con người của nhân dân, với mục tiêu chung đem
lại hạnh phúc cho nhân dân.
Xây dựng một Nhà nước đủ năng lực quản kinh tế quản hội hiệu
quả, nhằm phát huy tối đa tiềm năng của dân tộc. Đồng thời, Nhà nước cần tiếp thuáp
dụng hợp các thành tựu khoa học, kỹ thuật, công nghệ mới của thế giới các phẩm
chất văn hoá cao quý của nhân loại.
Xây dựng Nhà nước với bộ máy gọn nhẹ, tổ chức chính quy quy chế làm việc
khoa học, bảo đảm kiểm tra, giám sát điều hành hoạt động của xã hội, cũng như hoạt
động của chính phủ.
Xây dựng Nhà nước hoạt động trên sở pháp luật, thực hiện quản hội theo
pháp luật, giữ vững kỷ cương nhà nước và trật tự xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng
bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng.
Xây dựng một Nhà nước đội ngũ cán bộ và công chức trong sạch, tận tâm, phục
vụ nhân dân trách nhiệm với dân. Họ cần phẩm chất chính trị, năng lực quản
đủ sức để loại trừ bệnh quan liêu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi vi phạm quyền
làm chủ của nhân dân.
Bảo đảm giữ vữngtăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Xây dựng nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
nhân dân phải trở thành định hướngyêu cầu bao trùm toàn bộ tổ chứchoạt động của
Nhà nước, đồng thời là trách nhiệm của Đảng, Mặt trận Tổ quốc các tổ chức thành
viên của Mặt trận, cũng như mọi công dân.
3. Tình hình xây dựng Nhà nước pháp quyềnhội chủ nghĩa Việt Nam
hiện nay
Sau hơn 35 năm đổi mới, tích cực xây dựng hoàn thiện nhà nước pháp quyền
hội chủ nghĩa Việt nam, đất nước ta cũng đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử; nhưng cũng đối mặt với không ít khó khăn, thách thức đan xen. Đại hội XIII của
9
Đảng đã chỉ rõ: “Xây dựng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa trong
sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, nhân dân phục vụ sự
phát triển của đất nước”. Như vậy tất cả những cố gắng, nỗ lực, mọi chính sách, pháp luật
và hoạt động của Đảng và Nhà nước “đềulợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân
dân làm mục tiêu phấn đấu”.
a. Thành tựu:
Hệ thống pháp luật Việt Nam đã được hoàn thiện từng bước bản, đảm bảo yêu
cầu quản lý, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quốc hội
luôn thực hiện quyền lập hiến, lập pháp và quyết định những vấn đề quan trọng của đất
nước. Quyền giám sát tối cao cũng nhiều đổi mới, chất lượng hiệu quả được nâng
cao. Vai trò quyền làm chủ của nhân dân được củng cố, phát huy, bảo đảm lan tỏa
tinh thần tất cả quyền lực nhà ớc thuộc về nhân dân. chế dân chủ trực tiếp dân
chủ đại diện, đặc biệt dân chủ ở sở, được đặt dựa trên phương châm: "Dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng".
Bộ máy nhà nước đã được sắp xếp theo hướng tinh gọn, hiện đại, hoạt động hiệu lực
hiệu quả. chế phân công, phối hợp kiểm soát quyền lực giữa các quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp pháp đã có chuyển biến
tích cực. Vai trò và trách nhiệm của đại biểu dân cử được thể hiện hơnhiệu quả hơn.
Cải cách hành chính pháp đã bước đột phá. Chất lượng hoạt động bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức và nhân cũng đã
được nâng cao. Tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người và quyền công dân là một
yếu tố quan trọng trong hệ thống pháp luật của Việt Nam.
b. Hạn ch
Hệ thống pháp luật với những thể chế hiện hành vẫn chưa được hoàn thiện, thống
nhất, thiếu tính thực tiễn kẽ hở, chồng chéo. Cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn
thiện vai trò giám sát của nhân dân còn gặp hạn chế. Tổ chức hoạt động của chính
quyền địa phương tại một số nơi chưa sự đổi mới mạnh mẽ, chức năng, nhiệm vụ, phân
cấp và phân quyền chưa rõ ràng, và hiệu lực, hiệu quả chưa cao.
Ý thức chấp hành pháp luật của người dân chưa nghiêm túc, kỷ cương phép nước
vẫn còn bị xem nhẹ tại một số nơi. Xử lý vi phạm pháp luật chưa được thực hiện kịp thời,
10
chế tài xử chưa đủ mạnh để răn đe. Cải cách hành chính cải cách pháp chưa
đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển của đất ớc. Đội ngũ cán bộ viên chức chưa được
tinh gọn, một số trong số họ còn hạn chế về phẩm chất, năng lực uy tín, thiếu tính
chuyên nghiệp và chưa đáp ứng đủ yêu cầu và nhiệm vụ trong tình hình mới.
Vấn đề đổi mới đồng bộ và phù hợp giữa kinh tế với chính trị, văna và xã hội còn
đang gặp khó khăn. Sự kết hợp giữa đổi mới kinh tế và đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ
máy nhà nước vẫn còn đôi khi lúng túng.
III. SINH VIÊN VIỆT NAM PHÁT HUY DÂN CHỦ HỘI CHỦ
NGHĨA XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN HỘI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Trong bất cứ giai đoạn nào của lịch sử thì thanh thiếu niên, sinh viên cũng luôn
lực lượng hội quan trọng trong công cuộc kiến thiết tương lai, xây dựng bảo vệ tổ
quốc. Kế thừa những giá trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong
hành trình tìm đường cứu nước, lãnh đạo nhân dân, cũng luôn coi trọng vai trò, dành một
niềm tin mạnh mẽ vào thế hệ trẻ, thanh niên, đặc biệt sinh viên trong sự nghiệp cách
mạng của Đảng n tộc. Người đã khẳng định rằng thanh niên trong đó sinh viên
chính lực lượng cách mạng hùng hậu, bộ phận quan trọng của dân tộc, lớp người kế
tục sự nghiệp cách mạng của cha anh.
Hành trình đi lên Chủ nghĩa hội, phát huy dân chủ hội chủ nghĩa, xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay ng đã đặt thanh niên, trong
đó sinh viên vào vị trí quan trọng hàng đầu. Điều này đã được Đảng ta nhấn mạnh:
“Thanh niên ờng cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất ớc, lực lượng
xung kích trong xây dựng bảo vệ tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự
thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế xây
dựng chủ nghĩa hội”. Thanh niên phải được đặt vị trí trung tâm trong chiến lược bồi
dưỡng, phát huy nhân tố nguồn lực con người. Chăm lo phát triển thanh niên vừa
mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước.
Đồng thời, sinh viên, là thế hệ trẻ chủ nhân tương lai của đất nước, cần phải
nhận thức vai trò của mình xác định những nhiệm vụ thể thực hiện để đóng góp
vào công cuộc kiến thiết, bảo vệ Tổ quốc, đưa đất nước tiến lên Chủ nghĩa hội, đặc
11
biệt trong thời kỳ hiện nay khi Việt Nam bước vào thời kỳ cách mạng Công nghiệp 4.0,
các quốc gia đua nhau trong lĩnh vực công nghệ kỹ thuật. Để vươn lên đồng hành
với sự phát triển này, sinh viên cần:
Trước hết, thế hệ trẻ cần phải chăm chỉ, sáng tạo học tập nghiên cứu, cần có mục
tiêu động lực học tập ràng, đúng đắn. Sinh viên cần nhận thức được rằng học tập
một phần không thể thiếu trong quá trình xây dựng đất nước, và hiểu rõ rằng việc học tập
tốt đồng nghĩa với việc yêu quý đất nước. Tuổi trẻ, đặc biệt sinh viên Việt Nam, đóng
vai trò cùng quan trọng trong việc tạo ra nguồn nhân lực chất ợng cao, cần trang bị
cho mình một nền tảng vững chắc, giàu kiến thức và kỹ năng, để có thể tiếp nối công việc
của các thế hệ tiền nhiệm, thích ứng kịp thời với sự phát triển nhanh chóng của khoa học
công nghệ. Với mục tiêu trở thành một lực ợng nòng cốt, đóng góp vào quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế tri thức sinh viên phải đặt mục
tiêu cao, nỗ lực học tập, khám phá và ứng dụng những kiến thức mới, cũng như đồng thời
rèn luyện kỹ năng mềm và khả năng sáng tạo.
Sinh viên cũng cần tích cực rèn luyện đạo đức, tác phong, hướng tới lối sống trong
sáng, lành mạnh, tránh xa các tệ nạn hội cũng như cần đấu tranh chống lại lối sống lai
căng, thực dụng, tuyệt đối không xa rời các giá trị văn hoá - đạo đức truyền thống của dân
tộc. Sáng tạo tích cực tham gia các hoạt động văn hoá, giáo dục tuyên truyền cũng
sẽ giúp nâng cao nhận thức của cả nhân lẫn cộng đồng về những giá trị thiết yếu, phát
huy giá trị truyền thống của dân tộc, mang lại sự phồn thịnh cho đất nước. Sinh viên Việt
Nam, cùng với tuổi trẻ toàn quốc, động lực to lớn trong công cuộc gìn giữ bản sắc dân
tộc, phát triển đất nước.
Sinh viên nên tham gia vào các hoạt động chính trị nhằm không ngừng nâng cao
nhận thức chính trị, học tập, làm theo ởng tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh, tránh xa những lối sống nhạt nhẽo, khô khan xa rời chính trị. Hiện nay, sự phát
triển của các thiết bị công nghệ hiện đại và mạng hội đã tạo ra nhiều ảnh hưởng đến
sinh viên, bao gồm cả tác động tích cực và tiêu cực. Một trong số đó là nguy cơ sinh viên
sống tách biệt ra khỏi hội, hình thành lối sống tâm, cảm thờ ơ đối với chính
trị. Ngoài ra, nhiều bạn trẻ ngày nay chủ yếu tiếp cận thông tin dựa vào những tin tức
được chia sẻ trên mạng hội chưa được kiểm chứng cụ thể, thay từ các nguồn tin
chính thống. Nếu không nhận thức chính trị đầy đủ, người đọc có thể hình thành suy
nghĩ sai lệch, gây ra hệ lụy khôn lường cho an ninh xã hội. Vì vậy, bản thân sinh viên cần
phải nhiệm vụ tự mình nâng cao nhận thức chính trị, truyền đạt thông tin đúng đắn,
12
chính xác đến người thân, bạn bè để tạo ra môi trường tiếp nhận thông tin đúng và chính
c.
Cuối cùng, sinh viên cần phát triển kỹ ng hội nhập, tiếp thu công nghệ phát
triển bản thân phù hợp với hoàn cảnh. Trong quá trình xây dựng hội chủ nghĩa Việt
Nam, chúng ta không nên mù quáng từ chối tất cả các thành tựu của chủ nghĩa tư bản, mà
phải chọn lọc những thành tựu phù hợp với phát triển đất nước. Sinh viên, với tính cách
năng động, sáng tạo, nhiệt huyếtsự nhạy bén, những người tưởng để tiếp thu công
nghệ mớitham gia giao lưu quốc tế. Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập, thế hệ trẻ cần
giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc và hòa hợp cuộc sống hiện đại với giá trị truyền thống.
B. KẾT LUN
Sau hơn 35 năm thực hiện quá trình phát huy dân chủ hội chủ nghĩa và xây dựng
nhà nước hội chủ nghĩa, song song với những thành tựu đổi mới tích cực đã đạt
được thì Việt Nam còn đối mặt với không ít những khó khăn, thách thức, đòi hỏi Đảng,
nhà nước toàn dân ta phải đoàn kết đồng lòng. thể thấy phát huy dân chủ hội
chủ nghĩa xây dựng nhà nước hội chủ nghĩa nhiệm vụ cấp bách nhưng cũng lâu
dài của Việt Nam đặc biệt trong thế giới với nhiều biến động và đổi mới hiện nay.
Trong bối cảnh ấy, thế hệ trẻ với đại diện sinh viên những chủ nhân tương lai
của đất ớc cần không ngừng học tập, nghiên cứu, trách nhiệm, thái độ đúng đắn
trong lối sống, tác phong tưởng. Tự nâng cao duy, kiến thức học thuật hội,
rèn luyện, học làm theo lời dạy của Bác, ch cực lan toả những giá trị tốt đẹp của dân
chủ nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc
nhằm đóng góp cho công cuộc kiến thiết đất nước, xây dựng một hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
13
C. ÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Chủ nghĩa hội khoa học NXB. Chính trị quốc gia.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn
phòng Trung ương Đảng, H, 2016, tr.169.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.
Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, tr.173. tr 27-28.
4. Tạp chí Cộng sản - GS.TS Tô Lâm - Một số vấn đề về xây dựng, hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, https://tapchicongsan.org.vn/media-
story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/mot-so-van-de-ve-xay-dung-hoan-
thien-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-viet-nam
5. Tạp chí điện tử lý luận chính trị - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
GS.TS Dương Xuân Ngọc, ThS Dương Ngọc Anh Giá trị đặc sắc, bền vững
trong tư tưởng của V.I.Lênin về dân chủ,
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/1627-gia-tri-dac-
sac-ben-vung-trong-tu-tuong-cua-vi-lenin-ve-dan-chu.html
6. TS. Nguyễn Thị Hiền Vai trò của sinh viên trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa
Xã hội ở Việt Nam hiện nay, http://gdcttc.saodo.edu.vn/nghien-cuu-trao-doi/vai-
tro-cua-sinh-vien-trong-su-nghiep-xay-dung-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam-hien-
nay-478.html
14
7. Trang thông tin của Bộ Thông tin và Truyền thông Vụ Pháp chế - Nguyễn Th
Đàm Liên Khái niệmđặc trưng của nhà nước pháp quyềnhội chủ nghĩa
Việt Nam, https://cspl.mic.gov.vn/Pages/TinTuc/tinchitiet.aspx?tintucid=138566
8. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam – PGS.TS Đỗ Thị Thạch – Dân chủ là bản
chất của chế độ XHCN, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng
CNXH, https://dangcongsan.vn/xay-dung-dang/dan-chu-la-ban-chat-cua-che-do-
xhcn-vua-la-muc-tieu-vua-la-dong-luc-cua-cong-cuoc-xay-dung-cnxh-580982.html
15

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ***
BÀI TẬP LỚN MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC ĐỀ TÀI:
SINH VIÊN VIỆT NAM CẦN PHẢI LÀM GÌ ĐỂ PHÁT HUY DÂN
CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Họ và tên SV: Đoàn Minh Phương Lớp tín chỉ: LLNL1107 Mã SV: 11225187
GVHD: TS VÕ THỊ HỒNG HẠNH . HÀ NỘI, NĂM 2023
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự phát triển đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Nước ta là nước dân chủ.
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân”, “dân đem lại bao nhiêu
quyền, toàn dân có bấy nhiêu quyền”. Cho thấy rằng rõ ràng dân chủ xã hội chủ nghĩa
khác hoàn toàn về bản chất so với dân chủ của chủ nghĩa tư bản, sự khác biệt đó không
chỉ nằm ở việc xoá bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, về phân hoá giai cấp mà còn là
về chính trị. V.I.Lênin cũng đã từng khẳng định “Đó là nền dân chủ gấp triệu lần dân chủ
tư sản”, thể hiện quyền lực thực sự thuộc về nhân dân. Và xã hội loài người với hàng trăm
triệu năm lịch sử phát triển dân chủ cũng đã chứng minh mỗi một quốc gia đều có quyền
lựa chọn chế độ dân chủ phù hợp, không nhất thiết phải mô phỏng chế độ dân chủ của
những quốc gia khác. Chế độ dân chủ cần phù hợp với đặc điểm lịch sử, văn hoá, thể chế
chính trị, kinh tế… của từng đất nước, đồng thời cần không ngừng hoàn thiện và phát
triển. Một nền dân chủ ưu việt và đích thực chỉ khi nó do chính nhân dân lựa chọn và
quyền làm chủ của nhân dân, các quyền con người, quyền công dân được tôn trọng và bảo vệ.
Khi nhu cầu về sự dân chủ ngày một tăng cao thì việc xây dựng một xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh là điều khó tránh khỏi. Và để xây dựng được một xã hội như vậy
thì nhà nước – một tổ chức chung mang quyền lực chính trị, đóng vai trò chủ đạo vô cùng
cần thiết. Bởi vậy, Nhà nước pháp quyền ra đời với những mục tiêu, đặc trưng riêng. Kế
thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn Việt Nam, Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn coi trọng, xác định rõ ràng việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân là bản chất, là mục tiêu chiến lược
và là động lực phát triển của chế độ xã hội chủ nghĩa, của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Nhận thấy rõ sự cần thiết và trách nhiệm của toàn thể nhân dân, đặc biệt là thế hệ
sinh viên Việt Nam trong việc huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, trong bài tập lớn này, em – một sinh
viên, sẽ làm rõ bản thân mình cũng như những sinh viên ngoài kia cần làm gì và làm như
thế nào để góp phần vào công cuộc kiến thiết, bảo vệ tổ quốc, phát huy tính dân chủ và
xây dựng nhà nước pháp quyền mang đặc trưng xã hội chủ nghĩa. 2 A. NỘI DUNG
I. DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Quá trình ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một hệ thống chính trị và kinh tế mà trong đó
quyền lực chính trị và tài sản được phân phối công bằng. Có thể hiểu rõ hơn, dân chủ xã
hội chủ nghĩa là nền dân chủ cao hơn về chất so với những nền dân chủ có trong lịch sử
nhân loại, là nền dân chủ mà ở đó, mọi quyền lực thuộc về nhân dân, dân là chủ và dân
làm chủ. Khi đó dân chủ và pháp luật nằm trong mối quan hệ thống nhất, biện chứng
được thực hiện bằng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Mô hình dân chủ xã hội chủ nghĩa có thể khác nhau trong từng quốc gia nhưng ý
tưởng cơ bản đều là tạo ra một xã hội trong đó quyền lực chính trị thuộc về nhân dân
thông qua các cơ chế dân chủ và tài sản được quản lý và phân phố. Đúng như theo khẳng
định của V.I.Lê-nin: “...bất cứ nền dân chủ nào, xét đến cùng, cũng đều phục vụ sản xuất
và xét đến cùng, đều do các quan hệ sản xuất trong một xã hội nhất định quyết định”.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được cho là có nguồn gốc từ những ý tưởng của các
nhà triết học xã hội chủ nghĩa thế kỷ 19 như C.Mác và Ph.Ăngghen. Trong "Bản Tuyên
Ngôn Của Đảng Cộng sản" năm 1848, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đề xuất một tầm nhìn
cho một xã hội mới, trong đó tài sản được chia sẻ công bằng và quyền lực chính trị thuộc
về nhân dân. Họ cho rằng, trong hệ thống tư bản, mâu thuẫn giữa các giai cấp xã hội và sự
bất công trong phân phối tài sản sẽ dẫn đến sự suy thoái của xã hội tư bản và xuất hiện
một xã hội mới. Cùng với những ý tưởng của Mác và Ăngghen, dân chủ xã hội chủ nghĩa
đã được phôi thai từ thực tiễn đấu tranh giai cấp ở Pháp và công xã Paris những năm 1871
nhưng chỉ thực sự đến khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công với sự ra đời của nhà
nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới (1917), nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mới
chính thức được xác lập, đánh dấu bước phát triển mới về chất của dân chủ.
Quá trình phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là từ thấp tới cao, từ chưa
hoàn thiện đến hoàn thiện; có sự kế thừa một cách chọn lọc giá trị của nền dân chủ trước
đó. Càng hoàn thiện bao nhiêu, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lại càng tự tiêu vong bấy
nhiêu. Theo V.I.Lênin, thực chất của sự tiêu vong này là tính chính trị của dân chủ sẽ mất
đi dựa trên cơ sở không ngừng mở rộng dân chủ đối với nhân dân, xác lập địa vị chủ thể 3
quyền của nhân dân, tạo điều kiện để họ tham gia ngày càng đông đảo và ngày càng có ý
nghĩa quyết định vào sự quản lý nhà nước, quản lý xã hội (xã hội tự quản). Chủ nghĩa
Mác - Lênin cũng lưu ý đây là quá trình lâu dài, khi xã hội đã đạt trình độ phát triển cao,
xã hội không còn sự phân chia giai cấp, đó là xã hội cộng sản chủ nghĩa đạt tới mức độ
hoàn thiện, khi đó dân chủ xã hội chủ nghĩa với tư cách là một chế độ nhà nước cũng tiêu vong, không còn nữa.
2. Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là tạo ra một xã hội công bằng và bình đẳng,
trong đó quyền lực chính trị và tài sản được phân phối công bằng trong cộng đồng. Nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa xuất hiện nhằm mục tiêu loại bỏ sự bất công và bất đẳng xã hội
có nguồn gốc từ sự chênh lệch giàu nghèo, tư bản và quyền lực tập trung. Nhưng thực
chất, như mọi loại hình dân chủ khác dân chủ vô sản hay dân chủ xã hội chủ nghĩa, theo
V.I.Lênin, không phải là chế độ dân chủ cho tất cả mọi người; dân chủ vô sản chỉ là chế
dộ dân chủ vì lợi ích của đa số, ở đây đại diện chính là quần chúng lao động và bị bóc lột.
Dân chủ trong chủ nghĩa xã hội bao quát tất cả các mặt của đời sống xã hội, trong
đó, dân chủ trên lĩnh vực kinh tế là cơ sở. Dân chủ xã hội chủ nghĩa nhấn mạnh quyền sở
hữu công cộng và phân phối công bằng tài sản. Hệ thống kinh tế trong nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa thường có sự can thiệp của nhà nước hoặc các tổ chức xã hội để đảm bảo rằng
tất cả tài sản và nguồn lực đều được sử dụng để phục vụ lợi ích chung của toàn thể cộng
đồng, đồng thời đảm bảo rằng không ai bị lợi dụng hoặc bị áp bức bởi tầng lớp giàu có.
Như vậy, khác với nền dân chủ tư sản, bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
là thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu và thực hiện chế độ phân phối lợi
ích theo thành quả lao động là chủ yếu.
Một trong những điểm quan trọng của dân chủ xã hội chủ nghĩa thể hiện bản chất
chính trị chính là sự cống hiến cho lợi ích chung của cộng đồng. Trong hệ thống này,
quyền lực chính trị không tập trung ở một cá nhân hoặc một nhóm nhỏ, mà được phân
phối rộng rãi và thể hiện qua các cơ chế dân chủ. Các quyết định chính trị quan trọng
được đưa ra dựa trên sự tham gia của toàn bộ cộng đồng và nhận được sự thỏa thuận xã
hội thay vì do một số ít cá nhân hoặc tầng lớp quyền lực quyết định hay chỉ để thực hiện
vì lợi ích riêng của một giai cấp nào đó. Nguyên tắc cơ bản là quyền tự quyết và quyền
quyết định thuộc về nhân dân, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. 4
Bản chất tư tưởng – văn hoá – xã hội của dân chủ xã hội chủ nghĩa phản ánh lý
thuyết và mục tiêu bản chất của hệ thống này. Đó là hướng tới việc loại bỏ sự bất công và
bất đẳng xã hội, xây dựng một cộng đồng tự do và công bằng, nơi mọi người có quyền tự
quyết và tham gia vào việc ra quyết định về cách xã hội được tổ chức và hoạt động. Tư
tưởng của dân chủ xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên cơ sở triết lý xã hội chủ nghĩa.
Nó nhấn mạnh sự phản kháng với chủ nghĩa tư bản và chủ trương phân biệt giai cấp, bảo
vệ quyền lợi và đòi hỏi công bằng xã hội. Tư tưởng này cũng khuyến khích lòng tự hào
dân tộc, ý thức tập thể và nhận thức xã hội, và hướng tới một tương lai bình đẳng và tự
do. Trong khi đó đặc trưng văn hoá của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lại thể hiện các giá
trị đồng nhất, công bằng và hợp tác. Nó khuyến khích lòng yêu nước, tinh thần cộng đồng
và nhận thức về sự đoàn kết và tương tác xã hội. Văn hoá dân chủ xã hội chủ nghĩa
thường khuyến khích sự sáng tạo và phát triển cá nhân, đồng thời coi trọng tầm quan
trọng của giáo dục và văn hóa thông qua việc đảm bảo mọi người có quyền truy cập vào
kiến thức và nền văn hóa. Còn yếu tố xã hội trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa hướng tới
một hệ thống xã hội công bằng và cùng cân. Nó quan tâm đến sự phân chia công việc và
tài nguyên một cách công bằng, đảm bảo mọi người được đáp ứng cơ bản về nhu cầu như
lương thực, chỗ ở, y tế, giáo dục và lao động công bằng. Xã hội này khuyến khích sự hợp
tác và tương tác xã hội, và tạo điều kiện cho mọi người thể hiện quyền tự do cá nhân
trong một môi trường bình đẳng.Các yếu tố này cùng nhau hình thành và định hình quan
điểm, giá trị và cách hành xử trong xã hội dân chủ xã hội chủ nghĩa.
3. Thực trạng dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Ở Việt Nam, 35 năm đổi mới trở lại đây là hành trình Việt Nam đẩy mạnh việc xây
dựng và phát huy tính dân chủ xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu của thực hành dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam là củng cố và tăng cường sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận
trong nhân dân, xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa vững mạnh; giữ ổn định
chính trị, phát triển kinh tế nhanh và bền vững, tạo tiền đề đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng,
Nhà nước và nhân dân, thể hiện bản chất ưu việt của chế độ. Nội dung cơ bản của thực
hành dân chủ là Đảng lãnh đạo toàn bộ xã hội phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa; Nhà nước là tổ chức quyền lực của nhân dân, thể chế hóa quan điểm, đường lối của
Đảng thành chính sách, pháp luật, tổ chức quản lý, điều hành xã hội để thực hiện đường 5
lối của Đảng và bảo đảm lợi ích của nhân dân; các tổ chức chính trị - xã hội hoạt động
theo đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước và bảo đảm quyền làm chủ của các tầng
lớp nhân dân. Nhân dân có quyền và trách nhiệm trực tiếp tham gia xây dựng, hoạch định
và thi hành các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nhìn chung,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã, đang và sẽ vẫn mãi xác định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin
cùng tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, cũng như sử dụng nguyên tắc tập
trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản. Đảng cũng luôn khẳng định: ”Mọi đường lối,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham
gia ý kiến của nhân dân”.
a. Những thành tựu đã đạt được:
Thứ nhất, những thành tựu có ý nghĩa lịch sử khác trong bao nhiêu năm qua cũng
chính là kết quả của việc thực hiện đúng đắn các đường lối, chủ của Đảng. Các chủ
trương, đường lối đúng đắn đó có được là do có dân chủ thảo luận và Đảng biết lắng nghe
ý kiến đóng góp của hàng triệu cán bộ, đảng viên, của các nhà khoa học và của nhân dân.
Đảng ta cũng thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng để có thể thuyết phục và vận
động quần chúng. Tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, luôn nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ
sự thật, đánh giá đúng sự thật, công khai thừa nhận những sai lầm khuyết điểm, nghiêm
túc chỉnh đốn để sửa chữa.
Thứ hai, về phát triển kinh tế, Việt Nam đã chuyển từ một nền kinh tế bao cấp lạc
hậu nghèo nàn sang mô hình kinh tế thị trường mang định dướng dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Qua các chính sách đổi mới, đầu tư vào các ngành kinh tế trọng điểm và khuyến
khích đầu tư nước ngoài, Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng kinh tế ấn tượng và
giảm đáng kể độ nghèo. Quốc gia cũng luôn chú trọng vào việc xây dựng hạ tầng và phát
triển xã hội. Chính phủ đã có sự đầu tư lớn vào xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển các
lĩnh vực quan trọng như giáo dục, y tế, văn hóa và công nghệ nhằm cung cấp các điều
kiện cơ bản cho cuộc sống của người dân và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Cuối cùng, về văn hoá xã hội, Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và hệ
thống bộ máy nhà nước luôn đảm bảo quyền tự do và dân chủ cho toàn thể nhân dân. Nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng luôn tôn vinh và bảo vệ quyền con người, như
quyền sống, quyền tự do cá nhân, quyền công bằng và quyền công lý, khuyến khích sự đa 6
dạng, cởi mở trong các khía cạnh văn hoá, chính trị, xã hội. Việt Nam luôn tôn trọng
những giá trị khác biệt.
b. Những hạn chế còn tồn đọng:
Vấn đề dân chủ ở Việt Nam vẫn chưa được giải quyết đầy đủ và một cách hiệu quả,
cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn. Có nhiều vấn đề đặt ra vẫn chưa hề có lời giải thích rõ
ràng, gây khó khăn trong việc thực hiện dân chủ. Một trong số đó là cơ chế Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ cũng chưa được làm sáng tỏ. Mặc dù Đảng
đã đề ra cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ, nhưng vẫn chưa
có sự phân rõ chức năng lãnh đạo và chức năng quản lý, dẫn đến sự chồng chéo và mâu
thuẫn giữa hai chức năng này. Ngoài ra, cách thức nhân dân thực hiện quyền làm chủ vẫn
chưa được xác định rõ ràng và chưa có cơ chế cụ thể. Việc nhân dân tham gia vào quyết
định và quản lý cần có sự hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi và định rõ quyền và trách nhiệm của họ.
Việc thực hành dân chủ trong Đảng và trong Nhà nước của chúng ta chưa tốt nên
ảnh hưởng đến thực hành dân chủ trong xã hội, Đảng chưa nêu được tấm gương về thực
hành dân chủ. Nhà nước pháp quyền đang trong giai đoạn hình thành khiến cho việc thể
chế hóa các chủ trương của Đảng về dân chủ chưa kịp thời. II.
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Nhà nước pháp quyền là một giá trị nhân văn, cao quý của nhân loại, được hiểu là
một kiểu nhà nước mà ở đó, tất cả mọi công dân đều được giáo dục pháp luật và phải hiểu
biết pháp luật, tuân thủ pháp luật, pháp luật phải đảm bảo tính nghiêm minh; trong hoạt
động của các cơ quan nhà nước, phải có sự phân công, phối hợp, kiểm soát lẫn nhau, tất
cả vì mục tiêu phục vụ nhân dân. Cùng với tiến trình của công cuộc đổi mới đất nước,
nhận thức của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền ngày càng sáng tỏ. Với chủ trương: “Xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân”, Đảng ta xác định: Nhà
nước quản lý xã hội bằng pháp luật, mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công
dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Nhận thức đó là tiền đề để Đại hội XII 7
của Đảng làm rõ hơn về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hạnh pháp, tư pháp”. Và Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc; hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn “dựa trên
nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác
hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và
phe nhóm, do đó cần và có điều kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội”
Từ những thực tiễn nhận thức và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, có thể nhận thất rõ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam có một số đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, xây dựng một nhà nước do nhân dân lao động làm chủ, là nhà nước thực
sự của nhân dân, cho dân và vì dân. Nhà nước bảo đảm toàn bộ các quyền lực thuộc về nhân dân.
Thứ hai, Nhà nước được tổ chức và hoạt động dựa trên cơ sở của Hiến pháp và pháp
luật. Trong tất cả các hoạt động của xã hội, pháp luật phải được đặt ở vị trí tối thượng để
điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Thứ ba, Nhà nước được tổ chức, hoạt động theo nguyên tác quyền lực nhà nước là
thống nhất nhưng có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan trong quá trình thực hiện
quyền lực nhà nước về luật pháp, hành pháp và tư pháp.
Thứ tư, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo, phù hợp với Điều 4 Hiến pháp năm 2013, dưới sự giám sát của toàn
dân với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Thứ năm, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam luôn tăng cường sự
nghiêm minh của pháp luật, tôn trọng quyền con người, coi con người là chủ thể, trung
tâm của sự phát triển: “ Nhân dân có quyền bầu cử, bãi nhiệm những đại biểu không xứng đáng”.
Thứ sáu, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân
chủ, có sự phân công, phân cấp, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau, nhưng bảo đảm quyền
lực là thống nhất và sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương. 8
2. Các yêu cầu để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Xây dựng một Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và bảo
đảm thực hiện ngày càng đầy đủ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu quan trọng. Cơ
cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của Nhà nước phải đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân
và bảo đảm quyền làm chủ và quyền con người của nhân dân, với mục tiêu chung là đem
lại hạnh phúc cho nhân dân.
Xây dựng một Nhà nước có đủ năng lực quản lý kinh tế và quản lý xã hội có hiệu
quả, nhằm phát huy tối đa tiềm năng của dân tộc. Đồng thời, Nhà nước cần tiếp thu và áp
dụng hợp lý các thành tựu khoa học, kỹ thuật, công nghệ mới của thế giới và các phẩm
chất văn hoá cao quý của nhân loại.
Xây dựng Nhà nước với bộ máy gọn nhẹ, tổ chức chính quy và quy chế làm việc
khoa học, bảo đảm kiểm tra, giám sát và điều hành hoạt động của xã hội, cũng như hoạt động của chính phủ.
Xây dựng Nhà nước hoạt động trên cơ sở pháp luật, thực hiện quản lý xã hội theo
pháp luật, giữ vững kỷ cương nhà nước và trật tự xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng và
bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng.
Xây dựng một Nhà nước có đội ngũ cán bộ và công chức trong sạch, tận tâm, phục
vụ nhân dân và có trách nhiệm với dân. Họ cần có phẩm chất chính trị, năng lực quản lý
và đủ sức để loại trừ bệnh quan liêu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi và vi phạm quyền làm chủ của nhân dân.
Bảo đảm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân phải trở thành định hướng và yêu cầu bao trùm toàn bộ tổ chức và hoạt động của
Nhà nước, đồng thời là trách nhiệm của Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành
viên của Mặt trận, cũng như mọi công dân.
3. Tình hình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Sau hơn 35 năm đổi mới, tích cực xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt nam, đất nước ta cũng đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử; nhưng cũng đối mặt với không ít khó khăn, thách thức đan xen. Đại hội XIII của 9
Đảng đã chỉ rõ: “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong
sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự
phát triển của đất nước”. Như vậy tất cả những cố gắng, nỗ lực, mọi chính sách, pháp luật
và hoạt động của Đảng và Nhà nước “đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân
dân làm mục tiêu phấn đấu”. a. Thành tựu:
Hệ thống pháp luật ở Việt Nam đã được hoàn thiện từng bước cơ bản, đảm bảo yêu
cầu quản lý, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quốc hội
luôn thực hiện quyền lập hiến, lập pháp và quyết định những vấn đề quan trọng của đất
nước. Quyền giám sát tối cao cũng có nhiều đổi mới, chất lượng và hiệu quả được nâng
cao. Vai trò và quyền làm chủ của nhân dân được củng cố, phát huy, bảo đảm và lan tỏa
tinh thần tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Cơ chế dân chủ trực tiếp và dân
chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở, được đặt dựa trên phương châm: "Dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng".
Bộ máy nhà nước đã được sắp xếp theo hướng tinh gọn, hiện đại, hoạt động hiệu lực
và hiệu quả. Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đã có chuyển biến
tích cực. Vai trò và trách nhiệm của đại biểu dân cử được thể hiện rõ hơn và hiệu quả hơn.
Cải cách hành chính và tư pháp đã có bước đột phá. Chất lượng hoạt động và bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức và cá nhân cũng đã
được nâng cao. Tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người và quyền công dân là một
yếu tố quan trọng trong hệ thống pháp luật của Việt Nam. b. Hạn chế
Hệ thống pháp luật với những thể chế hiện hành vẫn chưa được hoàn thiện, thống
nhất, thiếu tính thực tiễn và có kẽ hở, chồng chéo. Cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn
thiện và vai trò giám sát của nhân dân còn gặp hạn chế. Tổ chức và hoạt động của chính
quyền địa phương tại một số nơi chưa có sự đổi mới mạnh mẽ, chức năng, nhiệm vụ, phân
cấp và phân quyền chưa rõ ràng, và hiệu lực, hiệu quả chưa cao.
Ý thức chấp hành pháp luật của người dân chưa nghiêm túc, kỷ cương phép nước
vẫn còn bị xem nhẹ tại một số nơi. Xử lý vi phạm pháp luật chưa được thực hiện kịp thời, 10
và chế tài xử lý chưa đủ mạnh để răn đe. Cải cách hành chính và cải cách tư pháp chưa
đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển của đất nước. Đội ngũ cán bộ và viên chức chưa được
tinh gọn, và một số trong số họ còn hạn chế về phẩm chất, năng lực và uy tín, thiếu tính
chuyên nghiệp và chưa đáp ứng đủ yêu cầu và nhiệm vụ trong tình hình mới.
Vấn đề đổi mới đồng bộ và phù hợp giữa kinh tế với chính trị, văn hóa và xã hội còn
đang gặp khó khăn. Sự kết hợp giữa đổi mới kinh tế và đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ
máy nhà nước vẫn còn đôi khi lúng túng. III.
SINH VIÊN VIỆT NAM PHÁT HUY DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VÀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Trong bất cứ giai đoạn nào của lịch sử thì thanh thiếu niên, sinh viên cũng luôn là
lực lượng xã hội quan trọng trong công cuộc kiến thiết tương lai, xây dựng và bảo vệ tổ
quốc. Kế thừa những giá trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong
hành trình tìm đường cứu nước, lãnh đạo nhân dân, cũng luôn coi trọng vai trò, dành một
niềm tin mạnh mẽ vào thế hệ trẻ, thanh niên, đặc biệt là sinh viên trong sự nghiệp cách
mạng của Đảng và dân tộc. Người đã khẳng định rằng thanh niên trong đó có sinh viên
chính là lực lượng cách mạng hùng hậu, bộ phận quan trọng của dân tộc, là lớp người kế
tục sự nghiệp cách mạng của cha anh.
Hành trình đi lên Chủ nghĩa Xã hội, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay cũng đã đặt thanh niên, trong
đó có sinh viên vào vị trí quan trọng hàng đầu. Điều này đã được Đảng ta nhấn mạnh:
“Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng
xung kích trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự
thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và xây
dựng chủ nghĩa xã hội”. Thanh niên phải được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi
dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con người. Chăm lo phát triển thanh niên vừa là
mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước.
Đồng thời, sinh viên, là thế hệ trẻ và là chủ nhân tương lai của đất nước, cần phải
nhận thức rõ vai trò của mình và xác định những nhiệm vụ có thể thực hiện để đóng góp
vào công cuộc kiến thiết, bảo vệ Tổ quốc, đưa đất nước tiến lên Chủ nghĩa Xã hội, đặc 11
biệt là trong thời kỳ hiện nay khi Việt Nam bước vào thời kỳ cách mạng Công nghiệp 4.0,
các quốc gia đua nhau trong lĩnh vực công nghệ và kỹ thuật. Để vươn lên và đồng hành
với sự phát triển này, sinh viên cần:
Trước hết, thế hệ trẻ cần phải chăm chỉ, sáng tạo học tập và nghiên cứu, cần có mục
tiêu và động lực học tập rõ ràng, đúng đắn. Sinh viên cần nhận thức được rằng học tập là
một phần không thể thiếu trong quá trình xây dựng đất nước, và hiểu rõ rằng việc học tập
tốt đồng nghĩa với việc yêu quý đất nước. Tuổi trẻ, đặc biệt là sinh viên Việt Nam, đóng
vai trò vô cùng quan trọng trong việc tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, cần trang bị
cho mình một nền tảng vững chắc, giàu kiến thức và kỹ năng, để có thể tiếp nối công việc
của các thế hệ tiền nhiệm, thích ứng kịp thời với sự phát triển nhanh chóng của khoa học
và công nghệ. Với mục tiêu trở thành một lực lượng nòng cốt, đóng góp vào quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế tri thức sinh viên phải đặt mục
tiêu cao, nỗ lực học tập, khám phá và ứng dụng những kiến thức mới, cũng như đồng thời
rèn luyện kỹ năng mềm và khả năng sáng tạo.
Sinh viên cũng cần tích cực rèn luyện đạo đức, tác phong, hướng tới lối sống trong
sáng, lành mạnh, tránh xa các tệ nạn xã hội cũng như cần đấu tranh chống lại lối sống lai
căng, thực dụng, tuyệt đối không xa rời các giá trị văn hoá - đạo đức truyền thống của dân
tộc. Sáng tạo và tích cực tham gia các hoạt động văn hoá, giáo dục và tuyên truyền cũng
sẽ giúp nâng cao nhận thức của cả cá nhân lẫn cộng đồng về những giá trị thiết yếu, phát
huy giá trị truyền thống của dân tộc, mang lại sự phồn thịnh cho đất nước. Sinh viên Việt
Nam, cùng với tuổi trẻ toàn quốc, là động lực to lớn trong công cuộc gìn giữ bản sắc dân
tộc, phát triển đất nước.
Sinh viên nên tham gia vào các hoạt động chính trị nhằm không ngừng nâng cao
nhận thức chính trị, học tập, làm theo tư tưởng tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh, tránh xa những lối sống nhạt nhẽo, khô khan và xa rời chính trị. Hiện nay, sự phát
triển của các thiết bị công nghệ hiện đại và mạng xã hội đã tạo ra nhiều ảnh hưởng đến
sinh viên, bao gồm cả tác động tích cực và tiêu cực. Một trong số đó là nguy cơ sinh viên
sống tách biệt ra khỏi xã hội, hình thành lối sống vô tâm, vô cảm và thờ ơ đối với chính
trị. Ngoài ra, nhiều bạn trẻ ngày nay chủ yếu tiếp cận thông tin dựa vào những tin tức
được chia sẻ trên mạng xã hội mà chưa được kiểm chứng cụ thể, thay vì từ các nguồn tin
chính thống. Nếu không có nhận thức chính trị đầy đủ, người đọc có thể hình thành suy
nghĩ sai lệch, gây ra hệ lụy khôn lường cho an ninh xã hội. Vì vậy, bản thân sinh viên cần
phải có nhiệm vụ tự mình nâng cao nhận thức chính trị, truyền đạt thông tin đúng đắn, 12
chính xác đến người thân, bạn bè để tạo ra môi trường tiếp nhận thông tin đúng và chính xác.
Cuối cùng, sinh viên cần phát triển kỹ năng hội nhập, tiếp thu công nghệ và phát
triển bản thân phù hợp với hoàn cảnh. Trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam, chúng ta không nên mù quáng từ chối tất cả các thành tựu của chủ nghĩa tư bản, mà
phải chọn lọc những thành tựu phù hợp với phát triển đất nước. Sinh viên, với tính cách
năng động, sáng tạo, nhiệt huyết và sự nhạy bén, là những người lý tưởng để tiếp thu công
nghệ mới và tham gia giao lưu quốc tế. Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập, thế hệ trẻ cần
giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc và hòa hợp cuộc sống hiện đại với giá trị truyền thống. B. KẾT LUẬN
Sau hơn 35 năm thực hiện quá trình phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng
nhà nước xã hội chủ nghĩa, song song với những thành tựu và đổi mới tích cực đã đạt
được thì Việt Nam còn đối mặt với không ít những khó khăn, thách thức, đòi hỏi Đảng,
nhà nước và toàn dân ta phải đoàn kết đồng lòng. Có thể thấy rõ phát huy dân chủ xã hội
chủ nghĩa và xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ cấp bách nhưng cũng lâu
dài của Việt Nam đặc biệt trong thế giới với nhiều biến động và đổi mới hiện nay.
Trong bối cảnh ấy, thế hệ trẻ với đại diện là sinh viên – những chủ nhân tương lai
của đất nước cần không ngừng học tập, nghiên cứu, có trách nhiệm, thái độ đúng đắn
trong lối sống, tác phong và tư tưởng. Tự nâng cao tư duy, kiến thức học thuật và xã hội,
rèn luyện, học và làm theo lời dạy của Bác, tích cực lan toả những giá trị tốt đẹp của dân
chủ và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc
nhằm đóng góp cho công cuộc kiến thiết đất nước, xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 13
C. ÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Chủ nghĩa Xã hội khoa học – NXB. Chính trị quốc gia.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn
phòng Trung ương Đảng, H, 2016, tr.169.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.
Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, tr.173. tr 27-28.
4. Tạp chí Cộng sản - GS.TS Tô Lâm - Một số vấn đề về xây dựng, hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, https://tapchicongsan.org.vn/media-
story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/mot-so-van-de-ve-xay-dung-hoan-
thien-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-viet-nam
5. Tạp chí điện tử lý luận chính trị - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh –
GS.TS Dương Xuân Ngọc, ThS Dương Ngọc Anh – Giá trị đặc sắc, bền vững
trong tư tưởng của V.I.Lênin về dân chủ,
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/1627-gia-tri-dac-
sac-ben-vung-trong-tu-tuong-cua-vi-lenin-ve-dan-chu.html
6. TS. Nguyễn Thị Hiền – Vai trò của sinh viên trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa
Xã hội ở Việt Nam hiện nay, http://gdcttc.saodo.edu.vn/nghien-cuu-trao-doi/vai-
tro-cua-sinh-vien-trong-su-nghiep-xay-dung-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam-hien- nay-478.html 14
7. Trang thông tin của Bộ Thông tin và Truyền thông – Vụ Pháp chế - Nguyễn Thị
Đàm Liên – Khái niệm và đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam, https://cspl.mic.gov.vn/Pages/TinTuc/tinchitiet.aspx?tintucid=138566
8. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam – PGS.TS Đỗ Thị Thạch – Dân chủ là bản
chất của chế độ XHCN, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng
CNXH, https://dangcongsan.vn/xay-dung-dang/dan-chu-la-ban-chat-cua-che-do-
xhcn-vua-la-muc-tieu-vua-la-dong-luc-cua-cong-cuoc-xay-dung-cnxh-580982.html 15