Bài tập lớn - Triết học Mác Lenin| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
==== ====[]
BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài: Quan điểm của triết học Mác - Lênin về tri thức, vai
trò của tri thức và sự vận dụng quan điểm đó trong nghiên
cứu, học tập của sinh viên.
Họ và tên: Phạm Nguyên Thành
Mã số sinh viên: (49)12210070
Lớp TC: Triết học Mác - Lênin(121)_V1_01
GV hướng dẫn: TS. Lê Thị Hồng
Hà Nội, tháng 12 năm 2021.
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
==== ====[]
BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài: Quan điểm của triết học Mác - Lênin về tri thức, vai
trò của tri thức và sự vận dụng quan điểm đó trong nghiên
cứu, học tập của sinh viên.
Hà Nội, tháng 12 năm 2021.
MỤC LỤC
***
PHẦN I: MỞ ĐẦU................................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG...........................................................................................2
1. QUAN ĐIỂM CỦA MÁC- LÊNIN VỀ TRI THỨC VÀ VAI TRÒ CỦA TRI THỨC.......2
1.1. Khái niệm tri thức, sự gắn bó sâu sắc giữa triết học và tri thức:..................................2
1.1.1. Khái niêm tri thức..................................................................................................2
1.1.2. Sự gắn bó sâu sắc giữa triết học và tri thức...........................................................2
1.2. Lý luận Mác - Lênin về tri thức....................................................................................2
1.2.1. Khái niệm tri thức theo quan điểm Mác - Lênin....................................................2
1.2.2. Phân tích quan điểm Mác - Lênin về tri thức........................................................3
1.3. Vai trò của tri thức theo quan điểm Mác-Lênin............................................................4
1.3.1. Vai trò của tri thức trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội chủ nghĩa...............4
1.3.2. Vai trò của lao động tri thức...................................................................................6
2. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ TRI THỨC TRONG
QUÁ TRÌNH HỌC TẬP VÀ NGHIÊN CỨU CỦA SINH VIÊN...........................................8
2.1. Những điểm mạnh và hạn chế trong tiếp nhận tri thức của sinh viên hiện nay............8
2.1.1. Những điểm mạnh trong tiếp nhận tri thức của sinh viên hiện nay.......................8
2.1.2. Những điểm hạn chế trong tiếp nhận tri thức của sinh viên hiện nay...................9
2.2. Áp dụng quan điểm về tri thức của triết học Mác-Lênin vào thực tiễn đối với sinh
viên....................................................................................................................................10
PHẦN III: KẾT LUẬN........................................................................................12
PHẦN I: MỞ ĐẦU
***
Loài người chúng ta thể phát triển đạt được những thành tựu, thành
công to lớn như ngày hôm nay bởi mỗi nhân luôn đi tìm kiếm, chắt lọc
phát triển những tri thức mới, độc đáo và có ích cho nhân loại. Từ đó, chia sẻ
lưu giữ những giá trị tri thức tốt đẹp ấy cho các thế hệ sau này.
Đặc biệt, trong những năm gần đây các thành tựu to lớn về công nghệ sinh
học như: điều chế Vắc-xin, thuốc đặc trị nhằm khống chế các đại dịch, bệnh tật
trên quy toàn cầu; hay như công nghệ gen giúp giải hoàn chỉnh bộ gen
loài người. Nhờ đó thể ngăn chặn các mầm mống bệnh tất từ khi chúng còn
chưa xuất hiện. Cùng với những thành tựu về công nghệ thông tin như: công
nghệ WEB, internet, thực tế ảo thương mại điện tử. Ngay trong đại dịch
COVID-19 đang diễn ra đây thôi nhờ các tri thức công nghệ ấy đã giúp mọi
người trên thế giới có thể làm việc trong trạng thái ”bình thường mới”.
Rất nhiều các quốc gia phát triển trên thế giới đã xây dựng những bộ tiêu
chuẩn nhằm đánh giá sự phát triển của tri thức và nhận thấy sự phát triển tri thức
tăng rệt qua từng năm. Việt Nam chúng ta một nước đang phát triển nên
phát triển tri thức là chiến lược cấp bách. Bên cạnh đó Chính phủ Việt Nam đang
tiến hành “công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” nên chúng ta phải đặt mình
vào trong sự phát triển đi lên của tri thức nước nhà, nhằm đưa dân tộc thể
sánh vai với các”Cường quốc năm châu” trên thế giới.
Để đóng góp vào sự phát triển, đi lên của Việt Nam trên con đường “công
nghiệp hóa, hiện đại hóa” thì mỗi nhân cần phải nghiên cứu các tri thức,
hướng đi đúng đắnphù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước trong tổng thể
các mối liên hệ và sự đi lên không ngừng của tri thức thế giới. Là một sinh viên -
thế hệ kế thừa sự nghiệp của cha ông để lại phát triển tương lai đất nước.
vậy, em quyết định chọn đề tài:”Quan điểm của triết học Mác - Lênin về tri
thức, vai trò của tri thức sự vận dụng quan điểm đó trong nghiên cứu,
học tập của sinh viên” làm đề tài nghiên cứu của mình.
1
PHẦN II: NỘI DUNG
***
1. QUAN ĐIỂM CỦA MÁC- LÊNIN VỀ TRI THỨC VÀ VAI
TRÒ CỦA TRI THỨC
1.1. Khái niệm tri thức, sự gắn bó sâu sắc giữa triết học và tri thức:
1.1.1. Khái niêm tri thức
Tri thức là kết quả của các quá trình nhận thức của con người về đối tượng
được nhận thức, làm tái hiện trong tưởng con người những thuộc tính, những
mối liên hệ, những quy luật vận động, phát triển của đối tượng được diễn đạt
bằng ngôn ngữ hay hệ thống ký hiệu khác.
Nói cách khác tri thức là sự hiểu biết, sáng tạo và những kỹ năng khả năng
để ứng dụng vào việc tạo ra cái mới nhằm mục đích phát triển Kinh tế -
hội.
1.1.2. Sự gắn bó sâu sắc giữa triết học và tri thức
Khái quát lại, có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất
của con người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy. Triết
học ra đời do hoạt động nhận thức của con người phục vụ nhu cầu sống; song
với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất.
Bên cạnh đó, ngay từ khi mới ra đời, triết học được xem hình thái cao
nhất của tri thức bao hàm trong tri thức về tất cả các lĩnh vực không đối,
tượng riêng. Đây nguyên nhân sâu xa làm nảy sinh quan niệm cho rằng, triết
học là khoa học của mọi khoa học, ở triết học tự nhiên của Hy Lạp cổđặc biệt là
đại. Thời kỳ này, triết học đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ mà ảnh hưởng của
nó còn in đậm đối với sự phát triển của tư tưởng triết học ở Tây Âu.
2
1.2. Lý luận Mác - Lênin về tri thức
1.2.1. Khái niệm tri thức theo quan điểm Mác - Lênin
Trong lý luận mác xít về tri thức, việc xác định vai trò đặc biệt to lớn của
tầng lớp này đối với đời sống chính trị chiếm một vị trí quan trọng và thu hút sự
quan tâm của các nhà kinh điển.
Hiểu tầm quan trọng của trí tuệ nói chung đối với tiến trình phát triển
và nhất là đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Lênin cho rằng, “tri thức
bao hàm không những chỉ các nhà trước tác mà thôi, mà còn bao hàm tất cả mọi
người học thức, các đại biểu của những người tự do nói chung, các đại biểu
của lao động trí óc” Quan niệm của V.I.Lênin về người trí thức cũng rất rõ ràng:
“Người tri thức đấu tranh, tuyệt nhiên không phải bằng cách dùng thực lực
theo lối này hay lối khác, bằng cách dùng những lẽ”. khí của họ
chính là sự hiểu biết của cá nhân họ, những năng lực của cá nhân họ, lòng tin của
cá nhân họ. Họ chỉ nhờ vào những phẩm chất cá nhân của họ, cho nên mới có thể
đóng được một vai trò nào đó. vậy, đối với họ quyền được hoàn toàn tự do
biểu hiện bản chất nhân của mình điều kiện đầu tiên để công tác được kết
quả.
1.2.2. Phân tích quan điểm Mác - Lênin về tri thức
Sau thắng lợi đại của cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, V.I.Lênin
bắt tay ngay vào việc xây dựng đất nước bảo vệ nhà nước Viết non trẻ,
thực hiện cương lĩnh quá độ đi lên xây dựng chủ nghĩa hội từ một nước Nga
còn nghèo nàn lạc hậu, khi chủ nghĩa bản mới chỉ phát triển không cao khu
vực thành thị nền sản xuất tiểu nông gia trưởng vẫn còn tràn ngập khắp các
vùng nông thôn còn nghèo nàn lạc hậu. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ nhà nước
XHCN đòi hỏi nhân dân phải tiến hành hàng loạt lao động sáng tạo lịch sử.
Trong sự nghiệp đại đó không thể không sự tham gia của tầng lớp tri thức
xã hội chủ nghĩa; vì theo V.I.Lênin nếu “Không có sự chỉ đạo của các chuyên gia
am hiểu các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật kinh nghiệm thì không thể nào
chuyển lên chủ nghĩa hội được”. Chủ nghĩa hội đòi hỏi một bước tiến cao
3
về ý thức tính quần chúng, để tạo ra một năng suất lao động cao hơn hẳn
năng suất lao động của phương thức sản xuất xã hội tư bản chủ nghĩa.
Trong tưởng của V.I.Lênin đã nhiều lần chỉ ra rằng trong cách mạng
hội chủ nghĩa nếu giai cấp công nhân chính đảng của nó, lôi kéo lãnh
đạo được tri thức, phát huy tài năng trí tuệ của họ vào mọi công việc cách
mạng thì cách mạng mới thể phát triển nhanh chóng, đỡ những tổn thất do
thiếu tri thức hiệu quả của mọi công việc mới được nâng cao không ngừng;
để đạt được những thắng lợi cuối cùng xây dựng chủ nghĩa hội bảo vệ
vững chắc tổ quốc hội chủ nghĩa. những nước bản phát triển giai cấp
công nhân chính đảng của chỉ thể giành được thắng lợi từng bước
nếu biết không ngừng nâng cao nhận thức của mình tương xứng với yêu cầu
của xã hội hiện đại, đồng thời lôi kéo được tầng lớp tri thức theo mình. Cũng từ
thực tiễn lịch sử V.I.Lênin đã rút ra một kết luận khoa học tính định
hướng cho tương lai “Trước sự liên minh của các đại biểu khoa học, giai cấp
vô sản và giới kỹ thuật, không một thế lực đen tối nào đứng vững được”. Thực tế
cũng cho thấy những kiến thức khoa học, nếu bị những kẻ đặc quyền, những
lực lượng thống trị phản động kiềm chế và sử dụng, thì sẽ trở thành vũ khí để nô
dịch quần chúng nhân dân, hủy hoại nhân loại, cho nên cách mạng sản phải
nhiệm vụ giành lại khí tri thức, sự nghiệp giải phóng bảo vệ con
người.
1.3. Vai trò của tri thức theo quan điểm Mác-Lênin
1.3.1. Vai trò của tri thức trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội chủ nghĩa
Theo V.I.Lênin cần thiết phải xây dựng phát triển tri thức mới, tri
thức hội chủ nghĩa, bao gồm đào tạo tri thức mới từ giai cấp công nhân,
nông dân cải tạo tầng lớp tri thức theo hướng hội chủ nghĩa. Đây
một yêu cầu khách quan trong tiến trình cách mạng sản, ngay từ năm 1902
khi cách mạng sản chưa giành thắng lợi; V.I.Lênin đã chủ trương giai cấp
sản phải tạo ra tầng lớp tri thức riêng của mình không chỉ thế còn
thu nạp cả những người ủng hộ mình mọi người học thức; trong thời kỳ
4
quá độ từ chủ nghĩa bản đi lên chủ nghĩa hội, việc tạo ra một tầng lớp tri
thức mới một nhiệm vụ hết sức cấp thiết đáp ứng sự nghiệp đổi mới xây
dựng, quản đất nước nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc hội chủ nghĩa, đòi hỏi
phải nhiều người trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật, năng lực quản
cao, cho nên khi bàn về nhiệm vụ đoàn sinh viên V.I.Lênin đã chỉ ra “ Việc điện
khí hóa không thể do những người chữ thực hiện được, chỉ biết chữ
không thôi thì cũng không đủ. Họ phải hiểu rằng chỉ thể thực hiện được trên
sở một nền học vấn hiện đại, nếu không nền học vấn đó, thì chủ nghĩa
cộng sản vẫn chỉ là một nguyện vọng mà thôi”. Theo Người, nhiệm vụ của đoàn
sinh viên nói chung các tổ chức khác nói riêng, thể tóm gọn bằng một từ
đó là “học tập”.
Vận dụng quan điểm của V.I.Lênin, ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ
20, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cử những sinh viên ưu trong nước sang Trung
Quốc, Liên để học tập, chuẩn bị cho việc thành lập Đảng, sau cách mạng
tháng Tám năm 1945, người phát động phong trào bình dân học vụ “diệt giặc
rốt” ngay trong những năm đầu kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp
sau này trong kháng chiến chống Mỹ. Đảng Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc
biệt quan tâm đến sự nghiệp đào tạo đội ngũ tri thức cho sự nghiệp xây dựng, cải
tạo hội nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như nhiệm vụ bảo vệ
tổ quốc xã hội chủ nghĩa, sau khi kháng chiến kết thúc thành công.
Trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa bản đi lên chủ nghĩa hội, Lênin
còn đặc biệt quan tâm chú trọng đến việc sử dụng các chuyên gia sản tài giỏi,
nhằm áp dụng những phát minh mới hiện đại nhất trên lĩnh vực khoa học kỹ
thuật quản để phát triển kinh tế - hội của đất nước cũng như nhiệm vụ
bảo vệ tổ quốc. V.I.Lênin yêu cầu trong quá trình sử dụng chuyên gia phải giữ
vững nguyên tắc: có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, có định hướng, phải tạo ra
xung quanh họ “một bầu không khí hợp tác thân ái, phải đặt họ vào hoàn cảnh
như thế nào, để họ không rời bỏ chúng ta, không sợ tốn, trả học phí thỏa đáng,
nhưng phải theo dõi và kiểm soát”. Đó cũng là những vấn đề đang được Đảng và
Nhà nước ta vận dụng linh hoạt sáng tạo, trong việc sử dụng thuê các chuyên gia,
liên doanh, liên kết, đầu hợp tác trên nhiều mặt với nước ngoài; nhằm phát
5
huy nội lực tranh thủ nguồn lực vốn, khoa học công nghệ từ bên ngoài đáp
ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cũng như nhiệm vụ bảo
vệ tổ quốc Việt Nam.
Lênin cũng lưu ý tri thức không phải giai cấp một tầng lớp đặc
biệt trong hội; từ vị trí của mình trong phân công lao động hội, tri thức
không quan hệ riêng trực tiếp với sở hữu liệu sản xuất các dấu hiệu
quan trọng nhất để xác định giai cấp; không khả năng đại biểu cho phương
thức sản xuất nào, cũng không hệ tưởng độc lập, tri thức luôn gắn với
những giai cấp nhất định, với cách một tầng lớp trong một thể chế
chính trị cụ thể. Tri thức nói chung là của giai cấp thống trị do hệ thống giáo dục
và đường lối đào tạo của Nhà nước của giai cấp thống trị ấy tạo ra. Tầng lớp này
tự giác hoặc không tự giác phục vụ cho chế độ giai cấp thống trị. Quá trình
đấu tranh giai cấp tác động nhiều mặt về lợi ích đã làm cho tri thức phân hóa
thành những bộ phận khác nhau; những bộ phận khác nhau đó sẽ ngả theo lực
lượng này hay lực lượng khác, giai cấp này hay giai cấp khác. Lênin phê phán
những ai coi tri thức siêu giai cấp hoặc đứng trên giai cấp, Người nói: “nếu
không nhập cục với một giai cấp thì giới tri thức chỉ một con số không
thôi”.
1.3.2. Vai trò của lao động tri thức
Khi bàn về đặc điểm lao động tri thức, V.I.Lênin chỉ ra rằng phương thức
lao động của tri thức là lao động trí tuệ cá nhân, sản phẩm lao động trực tiếp của
họ là những tri thức khoa học sáng tạo, những giá trị tinh thần, đó là những công
trình khoa học và công nghệ, được tạo ra trong quá trình nghiên cứu, phát minh,
giảng dạy, quản trên tất cả các lĩnh vực khoa học hội, khoa học tự nhiên,
khoa học kỹ thuật, văn học nghệ thuật lĩnh vực quốc phòng an ninh trên các
lĩnh vực đó V.I.Lênin yêu cầu phải bảo đảm phạm vi hết sức rộng rãi cho sáng
kiến nhân, cho tưởng sức tưởng tượng, có hình thứcnội dung, tất cả
những điều đó là hiển nhiên; và cũng chỉ cho chúng ta thấy lao động sáng tạo của
tri thức khác biệt nhiều so với lao động chân tay, hoặc lao động trí óc đơn giản;
mặt khác không phải tất cả những người lao động trí óc đều tri thức, nếu như
người đó chỉ bằng cấp không sáng tạo, thế đòi hỏi người tri thức
6
phải có một tinh thần cách mạng, đó là sáng tạo, người tri thức phải sáng tạo tìm
tòi, tổng kết thực tiễn, để tiếp cận chân lý.
Nói đến tri thức nói đến lao động sáng tạo khoa học không ngừng, biết
làm giàu tri thức của mình bằng tất cả những tri thức nhân loại, nhất khi trở
thành cán bộ lãnh đạo, quản lý, chỉ huy; thì càng phải tầm trí tuệ cao. Lênin
đòi hỏi:“Người lãnh đạo quan nhà nước cần phải mức độ cao, lôi cuốn mọi
người và có đủ trình độ kiến thức khoa học kỹ thuật, vững vàng để kiểm tra công
tác của họ. Đó điều cơ bản không thể thiếu, không như thế thì công tác không
thể đúng đắn được”. Đúng là những người lãnh đạo càng ở những cương vị cao,
càng đòi hỏi phải có tri thức, có tầm nhìn sâu rộng. Cũng theo V.I.Lênin: “Muốn
đổi mới bộ máy nhà nước của chúng ta, phải cố hết sức tự đặt cho mình nhiệm
vụ sau đây: một là học tập, hai là học tập, ba là học tập mãi, và sau nữa, phải làm
sao cho học thức nước ta không nằm trên giấy hoặc một lời nói theo mốt
nữa, phải làm sao cho học thức thực sự ăn sâu vào trí não, hoàn toàn thực tế
trở thành một bộ phận khắng khít của cuộc sống của chúng ta”. Nhưng điều quan
trọng hơn, theo Người phải đưa tri thức, luận đó vào cuộc sống, phát huy
tác dụng trong cuộc sống chứ không phải là những tri thức vô hồn “trên giấy”.
Quan điểm của Lênin về tri thức luôn một trong những trọng tâm
các phần tử phản động thường xuyên bôi nhọ, xuyên tạc, hòng làm lu mờ sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Họ thường dựa vào những điều kiện khách
quan mới, vào thời đại mới, văn minh công nghệ, để từ đó cường điệu vai trò của
tầng lớp tri thức, phủ nhận sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Chúng vay mượn
hoặc xào xáo lại những lẽ của chủ nghĩa bản, vội kết luận sự phát triển
của xã hội trên thế giới ngày nay không phải do cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa tư
bản chủ nghĩa hội quyết định, do mở rộng cuộc cách mạng khoa học-
công nghệ quyết định, từ đó họ đi đến một nhận thức sai lầm khác coi sự
tiến bộ hội chỉ gắn với sự phát triển của lực lượng sản xuất, xem thường vai
trò của cách mạng quan hệ sản xuất, của đấu tranh giai cấp, phủ nhận tính tất yếu
của cách mạng hội chủ nghĩa. Họ cho rằng số lượng vai trò của giới tri
thức ngày một tăng lên trong cuộc cách mạng khoa học-công nghệ, đã làm cho
tầng lớp tri thức vị trí chủ đạo trong phát triển hội trở thành lực lượng
7
quyết định cải tạo thế giới. Theo họ trong thời đại tri thức hóa hiện nay, tri thức
đã thực sự trở thành giai cấp thực chất của các luận điểm này và muốn phủ nhận
vị trí vai trò lịch sử của giai cấp công nhân. Lênin khẳng định rằng không khi
nào trong bất cứ hội nào tri thức một giai cấp, ranh giới của tri thức
với giai cấp công nhân được xác địnhràng từ những đặc điểm chức năng, đặc
biệt là vị trí trong phân công lao động xã hội. Người ta cho rằng tầng lớp tri thức
vẫn còn cho đến khi đạt đến trình độ giai đoạn phát triển cao của chủ nghĩa cộng
sản. Từ trong di sản của Lênin về tri thức, giúp chúng ta rút ra được nhiều bài
học kinh nghiệm, thiết thực bổ ích góp phần xây dựng đội ngũ tri thức ngày
càng lớn mạnh phục vụ công cuộc đổi mớiphát triển đất nước đi cùng nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.
8
2. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ
TRI THỨC TRONG QUÁ TRÌNH HỌC TẬP VÀ NGHIÊN CỨU
CỦA SINH VIÊN
2.1. Những điểm mạnh và hạn chế trong tiếp nhận tri thức của sinh viên
hiện nay
2.1.1. Những điểm mạnh trong tiếp nhận tri thức của sinh viên hiện nay
Sở hữu tư duy đột phá
Nhắc đến sinh viên Việt Nam hiện nay chúng ta sẽ nhớ ngay đến hình ảnh
những tình nguyện viên năng động, sáng tạo hay những bạn trẻ sở hữu những
thành tích xuất sắc làm rạng danh Tổ quốc. Đó nhờ sự “Tư duy đột phá”, với
hữu khả năng sáng tạo cùng những ý tưởng đột phá các bạn trở nên nổi bật. Tất
nhiên ngoài khả năng thiên bẩm, quá trình học tập, rèn luyện cũng góp phần tạo
nên những tài năng với những sản phẩm sáng tạo độc đáo, mới mẻ.
Tự tin hội nhập
Khác với hình ảnh về sinh viên Việt Nam trước đây, hiện nay sinh viên
Việt Nam tự tin thể hiện khả năng hội nhập về ngôn ngữ, văn hóa cùng bạn
năm châu. Tham gia nhiều chương trình giao lưu, trao đổi sinh viên quy
toàn cầu như: học bổng Global Undergraduate Exchange Program của Bộ Ngoại
giao Hoa Kỳ, hoạt động trao đổi sinh viên hằng năm của tổ chức AIESEC.
Chuyên môn dẫn đầu
Với kiến thức vững vàng, dẫn đầu chuyên môn sinh viên ngày nay có nền
tảng vững vàng để khám phá, chinh phục kho tàng tri thức tận của thế giới.
Đây cũng lợi thế lớn để cạnh tranh trong nền kinh tế mở với nhiều hội
thách thức. Những cử nhân, kỹ sư bước ra từ NEU luôn được các nhà tuyển dụng
đánh giá cao. Con số 80% tân Cử nhân đã có được việc làm ngay khi tốt nghiệp,
trong đó 30% được các doanh nghiệp giữ lại làm việc trong quá trình thực tập
kết quả của quá trình trang bị toàn diện kiến thức chuyên môn, kỹ năng làm việc,
khả năng thích ứng thực tế ngay trên ghế Nhà trường.
9
Trách nhiệm cộng đồng
Không chỉ học tập tốt, các bạn sinh viên Việt Nam còn luôn tích cực tham
gia hoạt động tình nguyện cộng đồng môi trường, các hoạt động hỗ trợ
cứu trợ của các câu lạc bộ đội nhóm. Qua đó thể thấy các bạn sinh viên
luôn chủ động mở rộng các mối quan hệ hội cũng như hình thành hoàn
thiện kỹ năng, phong cách sống của bản thân. Đây chính là một đặc tính phổ biến
của một “sinh viên toàn cầu”.
2.1.2. Những điểm hạn chế trong tiếp nhận tri thức của sinh viên hiện nay
Tư duy:”Chỉ thích làm thầy, không thích làm thợ”
Bên cạnh sự năng động, sáng tạo, tinh thần cống hiến hết mình, sinh viên
Việt Nam vẫn còn những hạn chế trong nhận thức. Điển hình duy:”Chỉ
thích làm thầy, không thích làm thợ”. Có bạn sinh viên từng nói:”Mình học quản
sau này nhất định sẽ làm quản lý, không làm nhân viên đâu.”– đây một lối
tư duy tốt nếu bạn thật sự có năng lực, nhưng nếu không nó sẽ gây hại cho tương
lai của chính những sinh viên chưa gỡ bỏ được suy nghĩ này. Bởi hầu hết sinh
viên ra trường đều chưa có kinh nghiệm nhiều nên cần thời gian để doanh nghiệp
đào tạo chính họ cũng cần phải trải qua các vị trí của từng cấp sở mới
thể hiểu, nắm vững chuyên môn sau đó mới trở thành một nhà quả lý giỏi.
Sự thụ động
Biểu hiện rõ nhất trong việc tìm hiểu về trường, ngành học và cơ hội thăng
tiến trong tương lai. Các bạn còn từ chối tìm hiểu cả chính sở thích cá nhân cũng
như không chủ động nắm bắt các xu hương giáo dục mới của thời đại. Điều này
lâu dần khiến các bạn lại, không muốn tìm hiểu, nghiên cứu bậc đại học.
Cũng bởi lối suy nghĩ đọc chép, “không cần xem trước đã giáo trình soạn
sẵn”.
Kỹ năng giao tiếp hạn chế, thiếu kỹ năng mềm
rất nhiều sinh viên mới ra trường rất giỏi, năng lực nhưng họ lại
không thể tiếp cận được với các chương trình đào tạo của các doanh nghiệp hoặc
nâng cao chuyên môn không giao tiếp tốt thiếu kỹ năng mềm về ứng xử
10
hay làm việc nhóm. Dẫn đến không tiếp thu được nhiều tri thức mới cản trở con
đường thăng tiến trong tương lai.
2.2. Áp dụng quan điểm về tri thức của triết học Mác-Lênin vào thực tiễn
đối với sinh viên
một sinh viên đại học Kinh tế Quốc dân được học tập dưới mái
trường hội chủ nghĩa kế thừa những thành tựu tri thức quý báu của thế hệ
đi trước. Đồng thời đang sống trong khí thế của một dân tộc Việt Nam phát triển
nhanh chóng, cũng như được tiếp nhận dễ dàng hơn những tri thức tinh túy của
nhân loại. Em tự nhận thấy nhân tố hạt nhân, vai trò quan trọng của bản thân nói
riêng của sinh viên Việt Nam nói chung trong việc phát huy những giá trị tri
thức quý báu tiếp thu được, đóng góp vào thành công chung của sự nghiệp
“Công nghiệp hóa, hiện đại hóa” đất nước. Muốn vậy mỗi sinh viên Việt Nam
cần tích cực rèn luyện tốt đạo đức, lối sống và nâng cao tri thức bản thân.
Đầu tiên, sinh viên chính nòng cốt quyết định thành công của các cuộc
Cách mạng trong quá khứ. Nhưng chính họ cũng là thành phần dễ bị các phần tử
xấu dễ dàng lôi kéo, dụ dỗ. Do vậy, sinh viên phải tích cực tham gia học tập nâng
cao trình độ luận chính trị, bồi đắp tưởng cách mạng trong sáng. Mỗi
nhân phải rèn luyện để lập trường tưởng vững vàng, lòng yêu nước,
niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa hội,
đạo đức trong sáng lối sống lành mạnh; tích cực tham gia vào các cuộc đấu
tranh bảo vệ đất nước bảo vệ đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước; đấu tranh chống lại âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch.
Thứ hai, mỗi sinh viên cần tích cực học tập và thực hành để nâng cao trình
độ nhận thức, chuyên môn. Trong thời kỳ phát triển kinh tế xã hội trong nước
hội nhập quốc tế, sinh viên nước ta cần nâng cao trình độ học vấn, khả năng
thực tế, kỹ năng lao động để thích ứng với thị trường lao động trong nướcthị
trường lao động quốc tế. Sinh viên phải tích cực tham gia xây dựng hội học
tập với phương châm:”Học, học nữa, học mãi” từng sinh viên phải xác định tham
gia học tập thường xuyên, suốt đời là quyền và nghĩa vụ của bản thân.
11
Thứ ba, sinh viên phải luôn đi đầu trong sự nghiệp phát triển kinh tế -
hội, bảo đảm quốc phòng an ninh. Tích cực tham gia các chương trình, dự án của
địa phương; tự nguyện, tự giác tham gia thực hiện nghĩa vụ quân sự, tham gia
các hoạt động bảo vệ Tổ quốc và giữ gìn an ninh trật tự an toàn xã hội.
Cuối cùng, sinh viên cần chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc
tế: tham gia các diễn đàn sinh viên toàn cầu; tham gia vào công tác ngoại giao
nhân dân để nâng tầm ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế; chủ động
tham gia hiệu quả vào giải quyết các vấn đề toàn cầu như: giữ gìn hòa bình,
đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chống khủng bố, bảo vệ môi trườngứng phó với
biến đổi khí hậu, hạn chế bùng nổ dân số, phòng ngừa và đẩy lùi các dịch bệnh.
12
PHẦN III: KẾT LUẬN
***
Thông qua việc tìm hiểu phân tích:” Quan điểm của triết học Mác -
Lênin về tri thức, vai trò của tri thức sự vận dụng quan điểm đó trong
nghiên cứu, học tập của sinh viên” chúng ta có thể nhận thấy những quan điểm,
tưởng của V.I.Lênin về trí thức vẫn còn nguyên giá trị luận thực tiễn
trong thời đại ngày nay. Đối với chúng ta, đó những bài học kinh nghiệm
giá trong việc đào tạo hình thành một đội ngũ trí thức lớn mạnh, đủ sức đáp ứng
yêu cầu sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Muốn xây dựng phát huy“Tri thức ” trong mỗi sinh viên, phải làm cho
việc học trở thành nhu cầu, hứng thú, giá trị của mỗi công dân, tạo nên động
học tập đúng đắn của người học. Tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho mọi
người dân về ý nghĩa của việc học tập thường xuyên, suốt đời đối với bản thân,
gia đình, cộng đồng hội. Tuy nhiên, nếu mỗi người chỉ dừng lại việc
nhận thức không thôi thì chưa đủ, còn phải biến nhận thức thành hành động học
tập cụ thể.
Mỗi sinh viên nói riêng mỗi người dân Việt Nam nói chung cần nhận
thức tầm quan trọng của ”Tri thức”. Người học cần nắm được phương pháp, kỹ
năng tự học. Trong một hội bùng nổ thông tin, tri thức tăng lên theo cấp số
nhân, mỗi cá nhân phải biết cách tự tìm kiếm, lựa chọn, tiếp thu những kiến thức
cần thiết cho mình. Năng lực tự học, tự nghiên cứu kỹ năng sống nói chung,
phải được tích lũy trong quá trình học tập, chứ không được hình thành tách biệt.
Điều muốn nhấn mạnh ở đây là, mỗi người đặc biệt là thế hệ sinh viên trẻ
ngày này cần có nhận thức sâu sắc việc sở hữu cho mình những “tri thức tiến bộ”
từ đó đóng góp xây dựng một hội văn minh, đất nước cường thịnh. như
vậy Việt Nam mới thực hiện thành công mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.
13
14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
***
1. GS, TS. Nguyễn Ngọc Long - GS, TS. Nguyễn Hữu Vui (chủ biên);
Giáotrình Triết học Mác - Lênin (Dùng trong các trường đại học, cao đẳng;
nhà xuất bản: Bộ giáo dục và đào tạo; Tái bản lần thứ 3.
2. Ban Tuyên giáo Trung ương; Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 6; nhà xuất bản: Chính trị quốc gia; Hà Nội.
3. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, tập 22; nhà xuất bản: Chính trị quốc gia; Hà
Nội; năm 1944.
4. Nguyễn Duy Quý (chủ biên); Những vấn đề luận về chủ nghĩa hội
con đường đi lên chủ nghĩa hội Việt Nam; nhà xuất bản: Chính trị quốc
gia; Hà Nội; năm 2018.
5. A.P.Septulin; ; nhà xuất bản: Sách giáoPhương pháp nhận thức biện chứng
khoa Mác–Lênin; Hà Nội; năm 2017.
6. Nguyễn Văn Tài (chủ biên); Giáo trình Triết học Mác -Lênin - luận
vận dụng; nhà xuất bản: Quân đội nhân dân; Hà Nội; năm 2018.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam; ;Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
nhà xuất bản: Sự thật; Hà Nội; năm 2016.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam; ;Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
nhà xuất bản: nhà xuất bản: Sự thật; Hà Nội; năm 2011.
| 1/18

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ====[]====
BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài: “Quan điểm của triết học Mác - Lênin về tri thức, vai
trò của tri thức và sự vận dụng quan điểm đó trong nghiên
cứu, học tập của sinh viên.

Họ và tên: Phạm Nguyên Thành
Mã số sinh viên: (49)12210070
Lớp TC: Triết học Mác - Lênin(121)_V1_01
GV hướng dẫn: TS. Lê Thị Hồng
Hà Nội, tháng 12 năm 2021.
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ====[]====
BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài: “Quan điểm của triết học Mác - Lênin về tri thức, vai
trò của tri thức và sự vận dụng quan điểm đó trong nghiên
cứu, học tập của sinh viên.

Hà Nội, tháng 12 năm 2021. MỤC LỤC ***
PHẦN I: MỞ ĐẦU................................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG...........................................................................................2
1. QUAN ĐIỂM CỦA MÁC- LÊNIN VỀ TRI THỨC VÀ VAI TRÒ CỦA TRI THỨC.......2
1.1. Khái niệm tri thức, sự gắn bó sâu sắc giữa triết học và tri thức:..................................2
1.1.1. Khái niêm tri thức..................................................................................................2
1.1.2. Sự gắn bó sâu sắc giữa triết học và tri thức...........................................................2
1.2. Lý luận Mác - Lênin về tri thức....................................................................................2
1.2.1. Khái niệm tri thức theo quan điểm Mác - Lênin....................................................2
1.2.2. Phân tích quan điểm Mác - Lênin về tri thức........................................................3
1.3. Vai trò của tri thức theo quan điểm Mác-Lênin............................................................4
1.3.1. Vai trò của tri thức trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội chủ nghĩa...............4
1.3.2. Vai trò của lao động tri thức...................................................................................6
2. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ TRI THỨC TRONG
QUÁ TRÌNH HỌC TẬP VÀ NGHIÊN CỨU CỦA SINH VIÊN...........................................8
2.1. Những điểm mạnh và hạn chế trong tiếp nhận tri thức của sinh viên hiện nay............8
2.1.1. Những điểm mạnh trong tiếp nhận tri thức của sinh viên hiện nay.......................8
2.1.2. Những điểm hạn chế trong tiếp nhận tri thức của sinh viên hiện nay...................9
2.2. Áp dụng quan điểm về tri thức của triết học Mác-Lênin vào thực tiễn đối với sinh
viên....................................................................................................................................10
PHẦN III: KẾT LUẬN........................................................................................12 PHẦN I: MỞ ĐẦU ***
Loài người chúng ta có thể phát triển và đạt được những thành tựu, thành
công to lớn như ngày hôm nay là bởi mỗi cá nhân luôn đi tìm kiếm, chắt lọc và
phát triển những tri thức mới, độc đáo và có ích cho nhân loại. Từ đó, chia sẻ và
lưu giữ những giá trị tri thức tốt đẹp ấy cho các thế hệ sau này.
Đặc biệt, trong những năm gần đây các thành tựu to lớn về công nghệ sinh
học như: điều chế Vắc-xin, thuốc đặc trị nhằm khống chế các đại dịch, bệnh tật
trên quy mô toàn cầu; hay như công nghệ gen giúp giải mã hoàn chỉnh bộ gen
loài người. Nhờ đó có thể ngăn chặn các mầm mống bệnh tất từ khi chúng còn
chưa xuất hiện. Cùng với những thành tựu về công nghệ thông tin như: công
nghệ WEB, internet, thực tế ảo và thương mại điện tử. Ngay trong đại dịch
COVID-19 đang diễn ra đây thôi nhờ các tri thức công nghệ ấy đã giúp mọi
người trên thế giới có thể làm việc trong trạng thái ”bình thường mới”.
Rất nhiều các quốc gia phát triển trên thế giới đã xây dựng những bộ tiêu
chuẩn nhằm đánh giá sự phát triển của tri thức và nhận thấy sự phát triển tri thức
tăng rõ rệt qua từng năm. Việt Nam chúng ta là một nước đang phát triển nên
phát triển tri thức là chiến lược cấp bách. Bên cạnh đó Chính phủ Việt Nam đang
tiến hành “công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” nên chúng ta phải đặt mình
vào trong sự phát triển đi lên của tri thức nước nhà, nhằm đưa dân tộc có thể
sánh vai với các”Cường quốc năm châu” trên thế giới.
Để đóng góp vào sự phát triển, đi lên của Việt Nam trên con đường “công
nghiệp hóa, hiện đại hóa” thì mỗi cá nhân cần phải nghiên cứu các tri thức,
hướng đi đúng đắn và phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước trong tổng thể
các mối liên hệ và sự đi lên không ngừng của tri thức thế giới. Là một sinh viên -
thế hệ kế thừa sự nghiệp của cha ông để lại và phát triển tương lai đất nước. Vì
vậy, em quyết định chọn đề tài:”Quan điểm của triết học Mác - Lênin về tri
thức, vai trò của tri thức và sự vận dụng quan điểm đó trong nghiên cứu,
học tập của sinh viên”
làm đề tài nghiên cứu của mình. 1 PHẦN II: NỘI DUNG ***
1. QUAN ĐIỂM CỦA MÁC- LÊNIN VỀ TRI THỨC VÀ VAI TRÒ CỦA TRI THỨC
1.1. Khái niệm tri thức, sự gắn bó sâu sắc giữa triết học và tri thức:
1.1.1. Khái niêm tri thức
Tri thức là kết quả của các quá trình nhận thức của con người về đối tượng
được nhận thức, làm tái hiện trong tư tưởng con người những thuộc tính, những
mối liên hệ, những quy luật vận động, phát triển của đối tượng và được diễn đạt
bằng ngôn ngữ hay hệ thống ký hiệu khác.
Nói cách khác tri thức là sự hiểu biết, sáng tạo và những kỹ năng khả năng
để ứng dụng nó vào việc tạo ra cái mới nhằm mục đích phát triển Kinh tế - Xã hội.
1.1.2. Sự gắn bó sâu sắc giữa triết học và tri thức
Khái quát lại, có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất
của con người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy. Triết
học ra đời do hoạt động nhận thức của con người phục vụ nhu cầu sống; song
với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất.
Bên cạnh đó, ngay từ khi mới ra đời, triết học được xem là hình thái cao
nhất của tri thức, bao
hàm trong nó tri thức về tất cả các lĩnh vực không có đối
tượng riêng. Đây là nguyên nhân sâu xa làm nảy sinh quan niệm cho rằng, triết
học là khoa học của mọi khoa học,
đặc biệt là ở triết học tự nhiên của Hy Lạp cổ
đại
. Thời kỳ này, triết học đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ mà ảnh hưởng của
nó còn in đậm đối với sự phát triển của tư tưởng triết học ở Tây Âu. 2
1.2. Lý luận Mác - Lênin về tri thức
1.2.1. Khái niệm tri thức theo quan điểm Mác - Lênin
Trong lý luận mác xít về tri thức, việc xác định vai trò đặc biệt to lớn của
tầng lớp này đối với đời sống chính trị chiếm một vị trí quan trọng và thu hút sự
quan tâm của các nhà kinh điển.
Hiểu rõ tầm quan trọng của trí tuệ nói chung đối với tiến trình phát triển
và nhất là đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Lênin cho rằng, “tri thức
bao hàm không những chỉ các nhà trước tác mà thôi, mà còn bao hàm tất cả mọi
người có học thức, các đại biểu của những người tự do nói chung, các đại biểu
của lao động trí óc” Quan niệm của V.I.Lênin về người trí thức cũng rất rõ ràng:
“Người tri thức đấu tranh, tuyệt nhiên không phải là bằng cách dùng thực lực
theo lối này hay lối khác, mà là bằng cách dùng những lý lẽ”. Vũ khí của họ
chính là sự hiểu biết của cá nhân họ, những năng lực của cá nhân họ, lòng tin của
cá nhân họ. Họ chỉ nhờ vào những phẩm chất cá nhân của họ, cho nên mới có thể
đóng được một vai trò nào đó. Vì vậy, đối với họ quyền được hoàn toàn tự do
biểu hiện bản chất cá nhân của mình là điều kiện đầu tiên để công tác được kết quả.
1.2.2. Phân tích quan điểm Mác - Lênin về tri thức
Sau thắng lợi vĩ đại của cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, V.I.Lênin
bắt tay ngay vào việc xây dựng đất nước và bảo vệ nhà nước Xô Viết non trẻ,
thực hiện cương lĩnh quá độ đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước Nga
còn nghèo nàn lạc hậu, khi chủ nghĩa tư bản mới chỉ phát triển không cao ở khu
vực thành thị và nền sản xuất tiểu nông gia trưởng vẫn còn tràn ngập khắp các
vùng nông thôn còn nghèo nàn lạc hậu. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ nhà nước
XHCN đòi hỏi nhân dân phải tiến hành hàng loạt lao động sáng tạo lịch sử.
Trong sự nghiệp vĩ đại đó không thể không có sự tham gia của tầng lớp tri thức
xã hội chủ nghĩa; vì theo V.I.Lênin nếu “Không có sự chỉ đạo của các chuyên gia
am hiểu các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và có kinh nghiệm thì không thể nào
chuyển lên chủ nghĩa xã hội được”. Chủ nghĩa xã hội đòi hỏi một bước tiến cao 3
về ý thức và có tính quần chúng, để tạo ra một năng suất lao động cao hơn hẳn
năng suất lao động của phương thức sản xuất xã hội tư bản chủ nghĩa.
Trong tư tưởng của V.I.Lênin đã nhiều lần chỉ ra rằng trong cách mạng
xã hội chủ nghĩa nếu giai cấp công nhân và chính đảng của nó, lôi kéo lãnh
đạo được tri thức, phát huy tài năng trí tuệ của họ vào mọi công việc cách
mạng thì cách mạng mới có thể phát triển nhanh chóng, đỡ những tổn thất do
thiếu tri thức và hiệu quả của mọi công việc mới được nâng cao không ngừng;
để đạt được những thắng lợi cuối cùng là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
vững chắc tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Ở những nước tư bản phát triển giai cấp
công nhân và chính đảng của nó chỉ có thể giành được thắng lợi từng bước
nếu biết không ngừng nâng cao nhận thức của mình tương xứng với yêu cầu
của xã hội hiện đại, đồng thời lôi kéo được tầng lớp tri thức theo mình. Cũng từ
thực tiễn lịch sử mà V.I.Lênin đã rút ra một kết luận khoa học có tính định
hướng cho tương lai “Trước sự liên minh của các đại biểu khoa học, giai cấp
vô sản và giới kỹ thuật, không một thế lực đen tối nào đứng vững được”. Thực tế
cũng cho thấy những kiến thức khoa học, nếu bị những kẻ có đặc quyền, những
lực lượng thống trị phản động kiềm chế và sử dụng, thì sẽ trở thành vũ khí để nô
dịch quần chúng nhân dân, hủy hoại nhân loại, cho nên cách mạng vô sản phải
có nhiệm vụ giành lại vũ khí tri thức, vì sự nghiệp giải phóng và bảo vệ con người.
1.3. Vai trò của tri thức theo quan điểm Mác-Lênin
1.3.1. Vai trò của tri thức trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội chủ nghĩa
Theo V.I.Lênin cần thiết phải xây dựng và phát triển tri thức mới, tri
thức xã hội chủ nghĩa, bao gồm đào tạo tri thức mới từ giai cấp công nhân,
nông dân và cải tạo tầng lớp tri thức cũ theo hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là
một yêu cầu khách quan trong tiến trình cách mạng vô sản, ngay từ năm 1902
khi cách mạng vô sản chưa giành thắng lợi; V.I.Lênin đã chủ trương giai cấp
vô sản phải tạo ra tầng lớp tri thức riêng của mình và không chỉ thế mà còn
thu nạp cả những người ủng hộ mình và mọi người có học thức; trong thời kỳ 4
quá độ từ chủ nghĩa tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội, việc tạo ra một tầng lớp tri
thức mới là một nhiệm vụ hết sức cấp thiết đáp ứng sự nghiệp đổi mới xây
dựng, quản lý đất nước và nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi
phải có nhiều người có trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật, năng lực quản lý
cao, cho nên khi bàn về nhiệm vụ đoàn sinh viên V.I.Lênin đã chỉ ra “ Việc điện
khí hóa không thể do những người mù chữ thực hiện được, mà chỉ biết chữ
không thôi thì cũng không đủ. Họ phải hiểu rằng chỉ có thể thực hiện được trên
cơ sở một nền học vấn hiện đại, và nếu không có nền học vấn đó, thì chủ nghĩa
cộng sản vẫn chỉ là một nguyện vọng mà thôi”. Theo Người, nhiệm vụ của đoàn
sinh viên nói chung và các tổ chức khác nói riêng, có thể tóm gọn bằng một từ đó là “học tập”.
Vận dụng quan điểm của V.I.Lênin, ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ
20, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cử những sinh viên ưu tú trong nước sang Trung
Quốc, Liên Xô để học tập, chuẩn bị cho việc thành lập Đảng, sau cách mạng
tháng Tám năm 1945, người phát động phong trào bình dân học vụ “diệt giặc
rốt” và ngay trong những năm đầu kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp
và sau này là trong kháng chiến chống Mỹ. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc
biệt quan tâm đến sự nghiệp đào tạo đội ngũ tri thức cho sự nghiệp xây dựng, cải
tạo xã hội và nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như nhiệm vụ bảo vệ
tổ quốc xã hội chủ nghĩa, sau khi kháng chiến kết thúc thành công.
Trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội, Lênin
còn đặc biệt quan tâm chú trọng đến việc sử dụng các chuyên gia tư sản tài giỏi,
nhằm áp dụng những phát minh mới và hiện đại nhất trên lĩnh vực khoa học kỹ
thuật và quản lý để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như nhiệm vụ
bảo vệ tổ quốc. V.I.Lênin yêu cầu trong quá trình sử dụng chuyên gia phải giữ
vững nguyên tắc: có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, có định hướng, phải tạo ra
xung quanh họ “một bầu không khí hợp tác thân ái, phải đặt họ vào hoàn cảnh
như thế nào, để họ không rời bỏ chúng ta, không sợ tốn, trả học phí thỏa đáng,
nhưng phải theo dõi và kiểm soát”. Đó cũng là những vấn đề đang được Đảng và
Nhà nước ta vận dụng linh hoạt sáng tạo, trong việc sử dụng thuê các chuyên gia,
liên doanh, liên kết, đầu tư hợp tác trên nhiều mặt với nước ngoài; nhằm phát 5
huy nội lực và tranh thủ nguồn lực vốn, khoa học công nghệ từ bên ngoài đáp
ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cũng như nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc Việt Nam.
Lênin cũng lưu ý tri thức không phải là giai cấp mà là một tầng lớp đặc
biệt trong xã hội; từ vị trí của mình trong phân công lao động xã hội, tri thức
không có quan hệ riêng và trực tiếp với sở hữu tư liệu sản xuất và các dấu hiệu
quan trọng nhất để xác định giai cấp; không có khả năng đại biểu cho phương
thức sản xuất nào, cũng không có hệ tư tưởng độc lập, tri thức luôn gắn với
những giai cấp nhất định, với tư cách là một tầng lớp và ở trong một thể chế
chính trị cụ thể. Tri thức nói chung là của giai cấp thống trị do hệ thống giáo dục
và đường lối đào tạo của Nhà nước của giai cấp thống trị ấy tạo ra. Tầng lớp này
tự giác hoặc không tự giác phục vụ cho chế độ và giai cấp thống trị. Quá trình
đấu tranh giai cấp và tác động nhiều mặt về lợi ích đã làm cho tri thức phân hóa
thành những bộ phận khác nhau; những bộ phận khác nhau đó sẽ ngả theo lực
lượng này hay lực lượng khác, giai cấp này hay giai cấp khác. Lênin phê phán
những ai coi tri thức là siêu giai cấp hoặc đứng trên giai cấp, Người nói: “nếu
không nhập cục với một giai cấp thì giới tri thức chỉ là một con số không mà thôi”.
1.3.2. Vai trò của lao động tri thức
Khi bàn về đặc điểm lao động tri thức, V.I.Lênin chỉ ra rằng phương thức
lao động của tri thức là lao động trí tuệ cá nhân, sản phẩm lao động trực tiếp của
họ là những tri thức khoa học sáng tạo, những giá trị tinh thần, đó là những công
trình khoa học và công nghệ, được tạo ra trong quá trình nghiên cứu, phát minh,
giảng dạy, quản lý trên tất cả các lĩnh vực khoa học xã hội, khoa học tự nhiên,
khoa học kỹ thuật, văn học nghệ thuật và lĩnh vực quốc phòng an ninh trên các
lĩnh vực đó V.I.Lênin yêu cầu phải bảo đảm phạm vi hết sức rộng rãi cho sáng
kiến cá nhân, cho tư tưởng và sức tưởng tượng, có hình thức và nội dung, tất cả
những điều đó là hiển nhiên; và cũng chỉ cho chúng ta thấy lao động sáng tạo của
tri thức khác biệt nhiều so với lao động chân tay, hoặc lao động trí óc đơn giản;
mặt khác không phải tất cả những người lao động trí óc đều là tri thức, nếu như
người đó chỉ có bằng cấp mà không có sáng tạo, vì thế đòi hỏi người tri thức 6
phải có một tinh thần cách mạng, đó là sáng tạo, người tri thức phải sáng tạo tìm
tòi, tổng kết thực tiễn, để tiếp cận chân lý.
Nói đến tri thức là nói đến lao động sáng tạo khoa học không ngừng, biết
làm giàu tri thức của mình bằng tất cả những tri thức nhân loại, nhất là khi trở
thành cán bộ lãnh đạo, quản lý, chỉ huy; thì càng phải có tầm trí tuệ cao. Lênin
đòi hỏi:“Người lãnh đạo cơ quan nhà nước cần phải ở mức độ cao, lôi cuốn mọi
người và có đủ trình độ kiến thức khoa học kỹ thuật, vững vàng để kiểm tra công
tác của họ. Đó là điều cơ bản không thể thiếu, không như thế thì công tác không
thể đúng đắn được”. Đúng là những người lãnh đạo càng ở những cương vị cao,
càng đòi hỏi phải có tri thức, có tầm nhìn sâu rộng. Cũng theo V.I.Lênin: “Muốn
đổi mới bộ máy nhà nước của chúng ta, phải cố hết sức tự đặt cho mình nhiệm
vụ sau đây: một là học tập, hai là học tập, ba là học tập mãi, và sau nữa, phải làm
sao cho học thức ở nước ta không nằm trên giấy hoặc là một lời nói theo mốt
nữa, phải làm sao cho học thức thực sự ăn sâu vào trí não, hoàn toàn và thực tế
trở thành một bộ phận khắng khít của cuộc sống của chúng ta”. Nhưng điều quan
trọng hơn, theo Người là phải đưa tri thức, lý luận đó vào cuộc sống, phát huy
tác dụng trong cuộc sống chứ không phải là những tri thức vô hồn “trên giấy”.
Quan điểm của Lênin về tri thức luôn là một trong những trọng tâm mà
các phần tử phản động thường xuyên bôi nhọ, xuyên tạc, hòng làm lu mờ sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Họ thường dựa vào những điều kiện khách
quan mới, vào thời đại mới, văn minh công nghệ, để từ đó cường điệu vai trò của
tầng lớp tri thức, phủ nhận sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Chúng vay mượn
hoặc xào xáo lại những lý lẽ của chủ nghĩa tư bản, vội vã kết luận sự phát triển
của xã hội trên thế giới ngày nay không phải do cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa tư
bản và chủ nghĩa xã hội quyết định, mà do mở rộng cuộc cách mạng khoa học-
công nghệ quyết định, từ đó mà họ đi đến một nhận thức sai lầm khác là coi sự
tiến bộ xã hội chỉ gắn với sự phát triển của lực lượng sản xuất, xem thường vai
trò của cách mạng quan hệ sản xuất, của đấu tranh giai cấp, phủ nhận tính tất yếu
của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Họ cho rằng số lượng và vai trò của giới tri
thức ngày một tăng lên trong cuộc cách mạng khoa học-công nghệ, đã làm cho
tầng lớp tri thức có vị trí chủ đạo trong phát triển xã hội và trở thành lực lượng 7
quyết định cải tạo thế giới. Theo họ trong thời đại tri thức hóa hiện nay, tri thức
đã thực sự trở thành giai cấp thực chất của các luận điểm này và muốn phủ nhận
vị trí vai trò lịch sử của giai cấp công nhân. Lênin khẳng định rằng không khi
nào và ở trong bất cứ xã hội nào tri thức là một giai cấp, ranh giới của tri thức
với giai cấp công nhân được xác định rõ ràng từ những đặc điểm chức năng, đặc
biệt là vị trí trong phân công lao động xã hội. Người ta cho rằng tầng lớp tri thức
vẫn còn cho đến khi đạt đến trình độ giai đoạn phát triển cao của chủ nghĩa cộng
sản. Từ trong di sản của Lênin về tri thức, giúp chúng ta rút ra được nhiều bài
học kinh nghiệm, thiết thực và bổ ích góp phần xây dựng đội ngũ tri thức ngày
càng lớn mạnh phục vụ công cuộc đổi mới và phát triển đất nước đi cùng nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới. 8
2. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ
TRI THỨC TRONG QUÁ TRÌNH HỌC TẬP VÀ NGHIÊN CỨU CỦA SINH VIÊN
2.1. Những điểm mạnh và hạn chế trong tiếp nhận tri thức của sinh viên hiện nay
2.1.1. Những điểm mạnh trong tiếp nhận tri thức của sinh viên hiện nay
Sở hữu tư duy đột phá
Nhắc đến sinh viên Việt Nam hiện nay chúng ta sẽ nhớ ngay đến hình ảnh
những tình nguyện viên năng động, sáng tạo hay những bạn trẻ sở hữu những
thành tích xuất sắc làm rạng danh Tổ quốc. Đó là nhờ sự “Tư duy đột phá”, với
hữu khả năng sáng tạo cùng những ý tưởng đột phá các bạn trở nên nổi bật. Tất
nhiên ngoài khả năng thiên bẩm, quá trình học tập, rèn luyện cũng góp phần tạo
nên những tài năng với những sản phẩm sáng tạo độc đáo, mới mẻ. Tự tin hội nhập
Khác với hình ảnh về sinh viên Việt Nam trước đây, hiện nay sinh viên
Việt Nam tự tin thể hiện khả năng hội nhập về ngôn ngữ, văn hóa cùng bạn bè
năm châu. Tham gia nhiều chương trình giao lưu, trao đổi sinh viên ở quy mô
toàn cầu như: học bổng Global Undergraduate Exchange Program của Bộ Ngoại
giao Hoa Kỳ, hoạt động trao đổi sinh viên hằng năm của tổ chức AIESEC.
Chuyên môn dẫn đầu
Với kiến thức vững vàng, dẫn đầu chuyên môn sinh viên ngày nay có nền
tảng vững vàng để khám phá, chinh phục kho tàng tri thức vô tận của thế giới.
Đây cũng là lợi thế lớn để cạnh tranh trong nền kinh tế mở với nhiều cơ hội và
thách thức. Những cử nhân, kỹ sư bước ra từ NEU luôn được các nhà tuyển dụng
đánh giá cao. Con số 80% tân Cử nhân đã có được việc làm ngay khi tốt nghiệp,
trong đó 30% được các doanh nghiệp giữ lại làm việc trong quá trình thực tập là
kết quả của quá trình trang bị toàn diện kiến thức chuyên môn, kỹ năng làm việc,
khả năng thích ứng thực tế ngay trên ghế Nhà trường. 9
Trách nhiệm cộng đồng
Không chỉ học tập tốt, các bạn sinh viên Việt Nam còn luôn tích cực tham
gia hoạt động tình nguyện vì cộng đồng và môi trường, các hoạt động hỗ trợ và
cứu trợ của các câu lạc bộ – đội – nhóm. Qua đó có thể thấy các bạn sinh viên
luôn chủ động mở rộng các mối quan hệ xã hội cũng như hình thành và hoàn
thiện kỹ năng, phong cách sống của bản thân. Đây chính là một đặc tính phổ biến
của một “sinh viên toàn cầu”.
2.1.2. Những điểm hạn chế trong tiếp nhận tri thức của sinh viên hiện nay
Tư duy:”Chỉ thích làm thầy, không thích làm thợ”
Bên cạnh sự năng động, sáng tạo, tinh thần cống hiến hết mình, sinh viên
Việt Nam vẫn còn có những hạn chế trong nhận thức. Điển hình là tư duy:”Chỉ
thích làm thầy, không thích làm thợ”. Có bạn sinh viên từng nói:”Mình học quản
lý sau này nhất định sẽ làm quản lý, không làm nhân viên đâu.”– đây là một lối
tư duy tốt nếu bạn thật sự có năng lực, nhưng nếu không nó sẽ gây hại cho tương
lai của chính những sinh viên chưa gỡ bỏ được suy nghĩ này. Bởi hầu hết sinh
viên ra trường đều chưa có kinh nghiệm nhiều nên cần thời gian để doanh nghiệp
đào tạo và chính họ cũng cần phải trải qua các vị trí của từng cấp cơ sở mới có
thể hiểu, nắm vững chuyên môn sau đó mới trở thành một nhà quả lý giỏi. Sự thụ động
Biểu hiện rõ nhất trong việc tìm hiểu về trường, ngành học và cơ hội thăng
tiến trong tương lai. Các bạn còn từ chối tìm hiểu cả chính sở thích cá nhân cũng
như không chủ động nắm bắt các xu hương giáo dục mới của thời đại. Điều này
lâu dần khiến các bạn ỷ lại, không muốn tìm hiểu, nghiên cứu ở bậc đại học.
Cũng bởi lối suy nghĩ đọc chép, “không cần xem trước đã có giáo trình soạn sẵn”.
Kỹ năng giao tiếp hạn chế, thiếu kỹ năng mềm
Có rất nhiều sinh viên mới ra trường rất giỏi, có năng lực nhưng họ lại
không thể tiếp cận được với các chương trình đào tạo của các doanh nghiệp hoặc
nâng cao chuyên môn vì không giao tiếp tốt và thiếu kỹ năng mềm về ứng xử 10
hay làm việc nhóm. Dẫn đến không tiếp thu được nhiều tri thức mới cản trở con
đường thăng tiến trong tương lai.
2.2. Áp dụng quan điểm về tri thức của triết học Mác-Lênin vào thực tiễn đối với sinh viên
Là một sinh viên đại học Kinh tế Quốc dân – được học tập dưới mái
trường xã hội chủ nghĩa và kế thừa những thành tựu tri thức quý báu của thế hệ
đi trước. Đồng thời đang sống trong khí thế của một dân tộc Việt Nam phát triển
nhanh chóng, cũng như được tiếp nhận dễ dàng hơn những tri thức tinh túy của
nhân loại. Em tự nhận thấy nhân tố hạt nhân, vai trò quan trọng của bản thân nói
riêng và của sinh viên Việt Nam nói chung trong việc phát huy những giá trị tri
thức quý báu tiếp thu được, đóng góp vào thành công chung của sự nghiệp
“Công nghiệp hóa, hiện đại hóa” đất nước. Muốn vậy mỗi sinh viên Việt Nam
cần tích cực rèn luyện tốt đạo đức, lối sống và nâng cao tri thức bản thân.
Đầu tiên, sinh viên chính là nòng cốt quyết định thành công của các cuộc
Cách mạng trong quá khứ. Nhưng chính họ cũng là thành phần dễ bị các phần tử
xấu dễ dàng lôi kéo, dụ dỗ. Do vậy, sinh viên phải tích cực tham gia học tập nâng
cao trình độ lý luận chính trị, bồi đắp lý tưởng cách mạng trong sáng. Mỗi cá
nhân phải rèn luyện để có lập trường tư tưởng vững vàng, có lòng yêu nước, có
niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, có
đạo đức trong sáng và lối sống lành mạnh; tích cực tham gia vào các cuộc đấu
tranh bảo vệ đất nước và bảo vệ đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước; đấu tranh chống lại âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch.
Thứ hai, mỗi sinh viên cần tích cực học tập và thực hành để nâng cao trình
độ nhận thức, chuyên môn. Trong thời kỳ phát triển kinh tế xã hội trong nước và
hội nhập quốc tế, sinh viên nước ta cần nâng cao trình độ học vấn, có khả năng
thực tế, kỹ năng lao động để thích ứng với thị trường lao động trong nước và thị
trường lao động quốc tế. Sinh viên phải tích cực tham gia xây dựng xã hội học
tập với phương châm:”Học, học nữa, học mãi” từng sinh viên phải xác định tham
gia học tập thường xuyên, suốt đời là quyền và nghĩa vụ của bản thân. 11
Thứ ba, sinh viên phải luôn đi đầu trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm quốc phòng an ninh. Tích cực tham gia các chương trình, dự án của
địa phương; tự nguyện, tự giác tham gia thực hiện nghĩa vụ quân sự, tham gia
các hoạt động bảo vệ Tổ quốc và giữ gìn an ninh trật tự an toàn xã hội.
Cuối cùng, sinh viên cần chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc
tế: tham gia các diễn đàn sinh viên toàn cầu; tham gia vào công tác ngoại giao
nhân dân để nâng tầm ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế; chủ động
tham gia có hiệu quả vào giải quyết các vấn đề toàn cầu như: giữ gìn hòa bình,
đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chống khủng bố, bảo vệ môi trường và ứng phó với
biến đổi khí hậu, hạn chế bùng nổ dân số, phòng ngừa và đẩy lùi các dịch bệnh. 12
PHẦN III: KẾT LUẬN ***
Thông qua việc tìm hiểu và phân tích:” Quan điểm của triết học Mác -
Lênin về tri thức, vai trò của tri thức và sự vận dụng quan điểm đó trong
nghiên cứu, học tập của sinh viên
” chúng ta có thể nhận thấy những quan điểm,
tư tưởng của V.I.Lênin về trí thức vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn
trong thời đại ngày nay. Đối với chúng ta, đó là những bài học kinh nghiệm vô
giá trong việc đào tạo hình thành một đội ngũ trí thức lớn mạnh, đủ sức đáp ứng
yêu cầu sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Muốn xây dựng và phát huy“Tri thức ” trong mỗi sinh viên, phải làm cho
việc học trở thành nhu cầu, hứng thú, giá trị của mỗi công dân, tạo nên động cơ
học tập đúng đắn của người học. Tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho mọi
người dân về ý nghĩa của việc học tập thường xuyên, suốt đời đối với bản thân,
gia đình, cộng đồng và xã hội. Tuy nhiên, nếu mỗi người chỉ dừng lại ở việc
nhận thức không thôi thì chưa đủ, còn phải biến nhận thức thành hành động học tập cụ thể.
Mỗi sinh viên nói riêng và mỗi người dân Việt Nam nói chung cần nhận
thức tầm quan trọng của ”Tri thức”. Người học cần nắm được phương pháp, kỹ
năng tự học. Trong một xã hội bùng nổ thông tin, tri thức tăng lên theo cấp số
nhân, mỗi cá nhân phải biết cách tự tìm kiếm, lựa chọn, tiếp thu những kiến thức
cần thiết cho mình. Năng lực tự học, tự nghiên cứu và kỹ năng sống nói chung,
phải được tích lũy trong quá trình học tập, chứ không được hình thành tách biệt.
Điều muốn nhấn mạnh ở đây là, mỗi người đặc biệt là thế hệ sinh viên trẻ
ngày này cần có nhận thức sâu sắc việc sở hữu cho mình những “tri thức tiến bộ”
từ đó đóng góp xây dựng một xã hội văn minh, đất nước cường thịnh. Có như
vậy Việt Nam mới thực hiện thành công mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”. 13 14 TÀI LIỆU THAM KHẢO ***
1. GS, TS. Nguyễn Ngọc Long - GS, TS. Nguyễn Hữu Vui (chủ biên);
Giáotrình Triết học Mác - Lênin (Dùng trong các trường đại học, cao đẳng;
nhà xuất bản: Bộ giáo dục và đào tạo; Tái bản lần thứ 3.
2. Ban Tuyên giáo Trung ương; Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 6; nhà xuất bản: Chính trị quốc gia; Hà Nội.
3. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, tập 22; nhà xuất bản: Chính trị quốc gia; Hà Nội; năm 1944.
4. Nguyễn Duy Quý (chủ biên); Những vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; nhà xuất bản: Chính trị quốc gia; Hà Nội; năm 2018.
5. A.P.Septulin; Phương pháp nhận thức biện chứng; nhà xuất bản: Sách giáo
khoa Mác–Lênin; Hà Nội; năm 2017.
6. Nguyễn Văn Tài (chủ biên); Giáo trình Triết học Mác -Lênin - Lý luận và
vận dụng; nhà xuất bản: Quân đội nhân dân; Hà Nội; năm 2018.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam; Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI;
nhà xuất bản: Sự thật; Hà Nội; năm 2016.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X;
nhà xuất bản: nhà xuất bản: Sự thật; Hà Nội; năm 2011.