-
Thông tin
-
Quiz
Bài tập lớn - Tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Tư tưởng Hồ Chí Minh (LLTT1101) 326 tài liệu
Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Bài tập lớn - Tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (LLTT1101) 326 tài liệu
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:










Tài liệu khác của Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Preview text:
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là nội dung cốt lõi xuyên suốt
toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh; thể hiện sự nhất quán trong tư duy lý luận
và hoạt động thực tiễn của Người. Từ khi trở thành người cộng sản cho đến
khi trở thành lãnh tụ, nguyên thủ quốc gia, mối quan tâm hàng đầu của Hồ
Chí Minh là gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội phù hợp với từng thời
kỳ của cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện ở ba nội dung lớn, đó là:
Thứ nhất, về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với tiến lên chủ nghĩa xã hội
Theo Hồ Chí Minh độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết, là cơ sở tiền
đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo Người, con đường cách mạng Việt Nam có
hai giai đoạn: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Cách mạng dân tộc dân chủ có hai nhiệm vụ chiến lược cơ bản, trong đó
giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm vụ dân chủ được thực hiện tiến
trình từng bước và phục tùng nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Vì thế, ở giai đoạn
cách mạng dân tộc dân chủ thì độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước mắt, cấp bách.
Độc lập dân tộc là khát vọng mang tính phổ biến với toàn nhân loại. Với dân tộc
Việt Nam, đó còn là một giá trị thiêng liêng, được bảo vệ và giữ gìn bởi máu
xương, sức lực của biết bao thế hệ người Việt Nam. Với Hồ Chí Minh, độc lập
dân tộc bao hàm trong đó cả nội dung dân tộc và dân chủ. Đó là nền độc lập thật
sự, độc lập hoàn toàn, chứ không phải là thứ độc lập giả hiệu, độc lập nửa vời,
độc lập hình thức. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn liền
với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, độc lập dân tộc
bao giờ cũng gắn với tự do, dân chủ, ấm no hạnh phúc của nhân dân lao động.
Khi nhấn mạnh mục tiêu độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh không bao giờ coi đó là
mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
giành độc lập để đi tới xã hội cộng sản; độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là mục tiêu cốt yếu, trực tiếp của cách mạng dân
tộc dân chủ, là mục tiêu trước hết của quá trình cách mạng Việt Nam do Đảng
Cộng sản lãnh đạo, đồng thời là điều kiện hàng đầu, quyết định để cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang giai đoạn kế tiếp - cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Do vậy, cách mạng dân tộc dân chủ càng triệt để thì những điều kiện tiến
lên chủ nghĩa xã hội càng được tạo ra đầy đủ. Độc lập dân tộc tạo tiền đề, điều
kiện để nhân dân lao động tự quyết định con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là con đường củng cố vững chắc độc lập dân
tộc, giải phóng dân tộc một cách hoàn toàn triệt để. Độc lập dân tộc bao giờ
cũng gắn liền với đời sống ấm no, hạnh phúc của quần chúng nhân dân, những
người đã trực tiếp làm nên thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ. Để đảm
bảo vững chắc độc lập dân tộc, để không rơi vào lệ thuộc, đói nghèo lạc hậu,
chặng đường tiếp theo chỉ có thể là đi lên chủ nghĩa xã hội. Người khẳng định
"Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng triệt để các dân tộc
bị áp bức khỏi ách nô lệ; chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm cho
một nền độc lập thật sự, chân chính" [1].
Thứ hai, những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội trong quá trình cách mạng Việt Nam
Hồ Chí Minh khẳng định, xác lập, tăng cường vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng Cộng sản là điều kiện cơ bản để độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội. Không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì cách mạng Việt Nam
không thể vận động theo cách mạng vô sản và chắc chắn sự nghiệp độc lập dân
tộc sẽ đi theo vết xe đổ của các phong trào cứu nước trước đó.
Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
mang tính khách quan. Để hoàn thành sứ mệnh của mình, Đảng phải trong sạch,
vững mạnh và thường xuyên chỉnh đốn để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu, đủ trí tuệ, đủ bản lĩnh vượt qua những thử thách gay gắt nhất, phải
thực hiện xây dựng Đảng về các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, trong đó
công tác cán bộ bao giờ cũng là vấn đề cốt tử. Đảng phải xây dựng, củng cố và
tăng cường khối liên minh giai cấp công nhân, nông dân và trí thức làm nền tảng
khối đại đoàn kết dân tộc. Người xác định công - nông là gốc, là chủ lực của
cách mạng, các giai tầng, cá nhân yêu nước là bầu bạn của cách mạng. Khi đất
nước bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người đòi hỏi công - nông - trí thức
đoàn kết lại. Tất cả được tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận
được xây dựng theo tư tưởng Hồ Chí Minh có hạt nhân cốt lõi là liên minh công
- nông và trí thức để đoàn kết toàn dân thành một khối. Hạt nhân và toàn dân là
mối quan hệ biện chứng được Hồ Chí Minh quan tâm đúng mức cả hai, không
coi nhẹ hoặc thiên lệch bên nào. Mặt trận đó được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hồ Chí Minh chỉ rõ cách mạng Việt Nam là một bộ phận và có liên hệ chặt chẽ
với cách mạng thế giới. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người có
nhiều chủ trương, đường lối và biện pháp phù hợp để tranh thủ sự ủng hộ, giúp
đỡ của các lực lượng cách mạng, hoà bình dân chủ trên thế giới.
Như vậy, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách
quan. Tính tất yếu đó chỉ được hiện thực hoá khi gắn liền với những điều kiện
bảo đảm, trong đó yếu tố quan trọng nhất là xác lập và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ ba, sự thể hiện trên thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ra đời
và phát triển ở thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi thế giới. Tư tưởng đó hình thành ở Hồ Chí Minh từ đầu những năm 20
và đến mùa xuân năm 1930 với sự kiện Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt
Nam thì con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã
thành ngọn cờ dẫn dắt giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam liên tục
giành những thắng lợi lịch sử suốt hơn 90 năm qua. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được thể hiện trên thực tiễn cách
mạng Việt Nam qua ba thời kỳ:
Thời kỳ 1930-1945: Hồ Chí Minh xác định tính chất cách mạng Việt Nam là con
đường cách mạng vô sản, gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, nhân
dân lao động, với toàn thể dân tộc bị nô lệ dưới ách đế quốc Pháp và tay sai của
chúng; xác định nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng Việt Nam “làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” [2]; xác định
đối tượng đấu tranh của cách mạng là đế quốc xâm lược, phong kiến tay sai,
tầng lớp tư sản và địa chủ chống lại độc lập dân tộc; xác định rõ lực lượng cách
mạng Việt Nam là toàn thể nhân dân, bao gồm công nhân, nông dân, tầng lớp
tiểu tư sản, tư sản dân tộc, trung, tiểu địa chủ, các cá nhân yêu nước, trong đó
nòng cốt là liên minh công - nông, tập hợp dưới ngọn cờ giải phóng dân tộc do
đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo; xác định đúng đắn cách mạng giải phóng
dân tộc ở Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, có mối quan
hệ khăng khít với cách mạng vô sản "chính quốc", cách mạng giải phóng dân tộc
có tính chủ động, có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản "chính quốc",
tác động tích cực tới cách mạng "chính quốc".
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Hồ Chí Minh, Cách mạng Tháng Tám 1945 đã
giành thắng lợi. Đó là thắng lợi lịch sử đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí Minh về
con đường cách mạng giải phóng dân tộc thuộc phạm trù cách mạng vô sản.
Thắng lợi này đã mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ 1945-1954: Thời kỳ bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng những cơ sở
đầu tiên của chủ nghĩa xã hội, thực hiện "kháng chiến và kiến quốc". Thời kỳ
này Hồ Chí Minh tiếp tục bổ sung, phát triển những quan điểm lý luận về con
đường cách mạng Việt Nam. Để thực hiện mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh
kiên trì quan điểm phát huy cao độ ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đi đôi
với ra sức tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ quốc tế. Nét độc đáo, đặc sắc trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam ở thời kỳ này là Người
đã đề ra và thực thi nhất quán đường lối :"vừa kháng chiến, vừa kiến quốc".
Đường lối đó phù hợp với quy luật phát triển lịch sử dân tộc, dựng nước đi đôi
với giữ nước, bảo vệ độc lập của Tổ quốc và xây dựng từng bước chế độ mới; là
nguyên nhân quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Thời kỳ 1954-1975: Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn thiện, bổ sung, phát triển tư
tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới. Ở
thời kỳ này sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh thể hiện tập trung trong việc xây
dựng và chỉ đạo đường lối tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở
miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong mối
quan hệ giữa cách mạng hai miền, Người xác định rất rõ vị trí, vai trò nhiệm vụ
cách mạng từng miền và tác động, hỗ trợ lẫn nhau của cách mạng hai miền; đây
là sự cụ thể hoá nội dung con đường cách mạng vô sản, sự gắn bó chặt chẽ giữa
nhiệm vụ dân tộc, dân chủ với chủ nghĩa xã hội - con đường mà Hồ Chí Minh đã
đề xuất và kiên trì bảo vệ.
Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn chỉnh và phát triển lý luận về cách mạng giải phóng
dân tộc, xác định rõ kẻ thù số một mà dân tộc ta cần tập trung mọi lực lượng để
đánh đổ là đế quốc Mỹ. Về tập hợp lực lượng, Hồ Chí Minh có những quan
niệm và cách làm sáng tạo, trên cơ sở đánh giá đúng vị trí, vai trò của chiến lược
đại đoàn kết trong chiến tranh cách mạng; từ đó đã xây dựng cho cách mạng
Việt Nam cái nền sức mạnh của "ba tầng Mặt trận": Mặt trận dân tộc thống nhất
Việt Nam chống Mỹ, cứu nước; Mặt trận ba nước Đông Dương cùng chống Mỹ;
Mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ. Sức mạnh của
"ba tầng Mặt trận" đã tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn làm nên thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại.
Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn thiện lý luận cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã xây dựng một quan niệm tương đối
hoàn chỉnh, thống nhất về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. Quan niệm của Hồ Chí Minh chủ nghĩa xã hội mang tính hệ thống, có
nhiều nội dung phát triển sáng tạo, nhưng vẫn kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin.
Hồ Chí Minh đã làm rõ đặc điểm lớn nhất của Việt Nam khi bước vào thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù của
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi một nước. Người đã có
những chỉ dẫn khoa học về những cách thức, phương thức, biện pháp, bước đi
thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Sau năm 1975, Đảng ta tiếp tục vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về độc
lập dân tộc gắn liền với chỉ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của
Việt Nam. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV - Đại hội thống nhất Tổ quốc, cả
nước đi lên chủ nghĩa xã hội đã khẳng định: "Trong quá trình lãnh đạo cách
mạng, khi cả nước làm một nhiệm vụ chiến lược hoặc làm hai nhiệm vụ chiến
lược, Đảng ta từ khi ra đời đến nay vẫn luôn luôn giương cao ngọn cờ độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đó là đường lối, là sức mạnh, là nguồn gốc mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam" [3]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII thông qua đã khẳng định
trong thời kỳ đổi mới: "Toàn Đảng, toàn dân tiếp tục nắm vững ngọn cờ độc lập,
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
trao lại cho thế hệ hôm nay và thế hệ mai sau” [4]
Trong 91 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhờ xác định rõ nô zi dung và cụ thể hóa mục tiêu về đô z c lâ z p dân tô z
c và chủ nghĩa xã hô zi theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng đã lãnh đạo đất nước vượt qua những khó khăn, thử thách và đạt
được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Thực tiễn đó chỉ ra rằng, độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là ngọn cờ, là sự lựa chọn nhất quán và
đúng đắn của Ðảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta
trong 91 năm qua. Hiện tại, dù còn nhiều khó khăn, nhưng Ðảng ta vẫn kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì đó là con đường đúng đắn,
là quy luật và xu thế phát triển tất yếu của thời đại; là điều kiện bảo đảm để dân
tộc thực sự độc lập, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh trở thành hiện thực.
Trong bối cảnh thế giới và khu vực còn diễn biến phức tạp, khó lường, nhất là
các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường hoạt động chống phá, hòng xóa bỏ vai
trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hô z
i chủ nghĩa ở nước ta, đòi hỏi ngay trong
nội bộ Đảng và cán bộ, đảng viên phải luôn vững vàng lâ z
p trường, bản lĩnh, kiên
định con đường đô zc lâ z p dân tô z
c gắn liền với chủ nghĩa xã hô zi. Mỗi cấp, ngành
và địa phương; mọi lực lượng và toàn dân cần tin tưởng tuyệt đối vào mục tiêu đô z c lâ z p dân tô z c và chủ nghĩa xã hô z
i; nêu cao cảnh giác, chủ động ứng phó có
hiệu quả với mọi tình huống, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hô zi chủ nghĩa.
Biển, đảo Việt Nam có vị trí chiến lược, trọng yếu về địa chính trị, kinh tế,
quốc phòng, an ninh và đối ngoại của đất nước. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn coi biển, đảo là phần máu thịt không thể tách rời của lãnh thổ
Việt Nam và động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân quyết tâm bảo vệ
chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Tư tưởng của Người có giá trị to lớn và là
kim chỉ nam để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục thực hiện nhiệm
vụ bảo vệ vững chắc, toàn vẹn chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc hiện nay.
Việt Nam là quốc gia ven biển, với bờ biển dài trên 3.260km trải dài từ Bắc
xuống Nam. Theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 thì nước
ta có diện tích biển hơn 1 triệu km2, gấp ba lần diện tích đất liền. Vùng biển, đảo
nước ta có hơn 3.000 hòn đảo lớn, nhỏ được phân bố theo chiều dài bờ biển và 2
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, có vị trí đặc biệt quan trọng, như một tuyến
phòng thủ tiền tiêu để bảo vệ sườn phía đông đất nước; một số đảo ven bờ có vị
trí quan trọng được sử dụng làm các điểm cơ sở ven bờ lục địa Việt Nam, từ đó
xác định vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế
và thềm lục địa…, làm cơ sở pháp lý để xác định chủ quyền, quyền chủ quyền
và quyền tài phán quốc gia trên biển.
Biển, đảo Việt Nam có vị trí địa lý kinh tế quan trọng, nằm án ngữ tuyến đường
hảng hải và hàng không huyết mạch của thế giới và các nước trong khu vực.
Biển Đông là một trong những tuyến đường hàng hải lớn của thế giới. Sự hình
thành mạng lưới cảng biển cùng các tuyến đường bộ, đường sắt dọc ven biển và
nối với các vùng sâu trong nội địa cho phép vùng biển và ven biển nước ta có
khả năng chuyên chở hàng hóa xuất, nhập khẩu một cách nhanh chóng, thuận
lợi. Bên cạnh đó, biển, đảo Việt Nam có tiềm năng tài nguyên phong phú, đặc
biệt là dầu mỏ, khí đốt và các nguồn tài nguyên khác. Dọc ven theo bờ biển
nước ta có nhiều bãi triều, eo vịnh, đầm phá rất thuận lợi cho du lịch biển, đảo
và nuôi, trồng hải sản có giá trị; thuận lợi cho xây dựng cảng biển, trong đó một
số nơi có khả năng xây dựng cảng nước sâu quy mô lớn.
Bên cạnh vị trí quan trọng về địa kinh tế, biển, đảo Việt Nam có vị trí, vai trò
trọng yếu về quốc phòng - an ninh. Biển, đảo nước ta được ví như mặt tiền, sân
trước, cửa ngõ quốc gia; các vùng biển và hải đảo cùng với đất liền hình thành
phên giậu, pháo đài, chiến lũy nhiều tầng, lớp, bố trí thành tuyến phòng thủ liên
hoàn vững chắc bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, biển, đảo Việt Nam có vai trò đặc biệt quan trọng, làm tăng chiều sâu
phòng thủ của đất nước ở hướng đông. Do đó, xây dựng tiềm lực, thế trận phòng
thủ biển, đảo, tạo thành thế trận liên hoàn bờ - biển - đảo có ý nghĩa cực kỳ quan
trọng đối với nhiệm vụ củng cố quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Biển, đảo
không chỉ là bộ phận cấu thành chủ quyền, quyền chủ quyền thiêng liêng của Tổ
quốc, mà còn là không gian sinh tồn và phát triển của các thế hệ người Việt
Nam, đồng thời là nơi lưu giữ và phát triển các giá trị văn hóa biển Việt Nam…
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ chủ quyền biển, đảo
Bác Hồ thăm đảo Cô Tô, ngày 9-5-1961_Ảnh: Tư liệu
Với tầm nhìn chiến lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định vị trí, tầm quan
trọng của biển, đảo trong sự nghiệp bảo vệ và kiến thiết đất nước. Người khẳng
định:“Nước ta ở về xứ nóng, khí hậu tốt. Rừng vàng, biển bạc, đất phì nhiêu”(1).
Theo Người, “biển bạc” chính là của cải vật chất, là sự giàu có nếu khai thác tốt
tiềm năng, đi liền với bảo vệ biển; biển, đảo chứa đựng tài nguyên có giá trị về
kinh tế, nối liền không gian kinh tế đất nước với khu vực và thế giới. Khẳng
định về vị trí, vai trò của biển, đảo, Người đã đưa ra hình ảnh gần gũi mà dễ hiểu
với toàn dân: “Đồng bằng là nhà, mà biển là cửa. Giữ nhà mà không giữ cửa có
được không?... Nếu mình không lo bảo vệ miền biển, thì đánh cá, làm muối
cũng không yên. Cho nên một nhiệm vụ quan trọng của đồng bào miền biển là
phải bảo vệ bờ biển. Đồng bào miền biển là người canh cửa cho Tổ quốc”(2).
Theo Người, muốn khai thác tài nguyên biển phục vụ cho công cuộc kiến thiết
nước nhà, trước hết cần phải giữ yên “cửa nhà”, nghĩa là giữ vững biển, đảo của
Tổ quốc. Ngày 15-3-1961, nhân dịp đến thăm Bộ đội Hải quân lần thứ hai,
Người chỉ rõ: "Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày nay ta có ngày, có trời,
có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó”. Đồng thời, Người
căn dặn các chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam: "Bờ biển ta có vị trí rất quan
trọng. Vì vậy, nhiệm vụ của Hải quân trước mắt cũng như lâu dài rất nặng nề
nhưng rất vẻ vang. Phải biết tìm ra cách đánh phù hợp với điều kiện con người,
địa hình bờ biển nước ta và vũ khí trang bị mình có. Hải quân ta phải học tập
kinh nghiệm chiến đấu hiện đại nhưng không được quên truyền thống đánh giặc
xa xưa kia của tổ tiên"(3).
Trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh về kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao và
văn hóa của đất nước. Theo Người, sức mạnh bảo vệ biển, đảo là sức mạnh đoàn
kết toàn dân. Ngày 10-4-1956, khi nói chuyện tại Hội nghị cán bộ phát động
miền biển, Người đã căn dặn: “Lực lượng nhân dân tổ chức nhau lại là chính.
Không nên ỷ lại, mà phải tự lực cánh sinh”(4). Đây là nguyên tắc chiến lược, bởi
vì khi có nguy biến thì lực lượng và phương tiện tại chỗ của đồng bào sẽ ứng
phó kịp thời, cản trở hữu hiệu mọi sự đe dọa, xâm lấn chủ quyền biển, đảo trước
khi có sự phối hợp của các lực lượng khác. Trong sức mạnh đoàn kết toàn dân
bảo vệ chủ quyền biển, đảo, Người luôn nhấn mạnh đến lực lượng trực tiếp và
nòng cốt là Hải quân nhân dân Việt Nam. Ngày 7-5-1955, Người chỉ đạo thành
lập Cục Phòng thủ bờ biển (nay là Quân chủng Hải quân). Ngày 11-8-1965,
nhân dịp hải quân ta vừa tròn 10 tuổi, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho cán
bộ và chiến sĩ hải quân, vừa khen ngợi thành tích, vừa vạch rõ sự cần thiết xây
dựng hải quân vững mạnh trong việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo. "Tuy còn non
trẻ, nhưng nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự tin yêu, giúp đỡ của nhân
dân, sự cố gắng không ngừng của mình, hải quân ta đã anh dũng chiến đấu, tích
cực diệt địch, bắn rơi máy bay và đánh đuổi tàu chiến Mỹ, đoàn kết lập công,
bảo vệ nhân dân, bảo vệ vùng trời và vùng biển của Tổ quốc. Các chú đã nêu
cao truyền thống anh hùng của dân tộc ta”(5).
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, bảo vệ chủ quyền biển, đảo là nhiệm vụ lâu dài,
khó khăn, phức tạp, bởi phạm vi chủ quyền biển, đảo của nước ta rộng lớn, trong
khi thực lực của chúng ta còn hạn chế; nước ngoài có thể sử dụng nhiều thủ
đoạn, kể cả vũ lực để xâm chiếm biển, đảo. Vì vậy, chúng ta phải tìm cách đánh
phù hợp với điều kiện, con người, địa hình bờ biển nước ta, cùng trang bị vũ khí
hiện có, học tập cách đánh hiện đại kết hợp với truyền thống đánh giặc xa xưa
của tổ tiên. Bên cạnh việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tập hợp lực lượng,
phương thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thì việc mở rộng hợp tác quốc tế trong
bảo vệ chủ quyền biển, đảo được Người đặc biệt quan tâm.
Theo Người, “nước ta là một bộ phận của thế giới. Tình hình của nước ta có ảnh
hưởng đến thế giới, mà tình hình thế giới cũng có quan hệ đến nước ta”(6), nên
những hoạt động đấu tranh bảo vệ Tổ quốc của nước ta có mối quan hệ với cuộc
đấu tranh chung của thế giới tiến bộ; nhưng phải “dĩ bất biến”, “ứng vạn biến”
để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới. Vì vậy, phải
có chính sách đối ngoại rộng mở, hội nhập quốc tế và hợp tác, hòa bình tốt;
tránh đối đầu và không gây thù oán với ai. Trong quan hệ với các nước, các tổ
chức quốc tế, cần tìm ra những điểm tương đồng, khai thác mọi khả năng có thể,
nhằm tập hợp lực lượng đoàn kết ủng hộ Việt Nam. Theo Người, để tập hợp các
lực lượng quốc tế đoàn kết ủng hộ Việt Nam, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải
làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ về Việt Nam, về cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo hiện nay
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thị sát bên trong tàu ngầm HQ-184 Hải Phòng,
trong chuyến thăm và làm việc với Vùng 4 Hải quân tại Căn cứ quân sự Cam
Ranh, tỉnh Khánh Hòa_Ảnh: TTXVN
Hiện nay, tình hình an ninh, chính trị thế giới, khu vực diễn biến nhanh chóng,
phức tạp, khó dự báo. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn
ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt. Hòa bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn
hàng hải, hàng không trên Biển Đông đứng trước thách thức to lớn, tiềm ẩn
nguy cơ xung đột. Các nước trong khu vực tiếp tục gia tăng các hoạt động, yêu
sách chủ quyền, nhất là ở những vùng biển giáp ranh, nhạy cảm, chưa phân
định. Vì vậy, vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo càng trở nên quan trọng, đòi hỏi
chúng ta phải thấm nhuần sâu sắc và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh
về bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo.
Một là, nâng cao nhận thức về chủ quyền biển, đảo và trách nhiệm bảo vệ chủ
quyền biển, đảo cho cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu, nhằm tạo sự thống nhất nhận thức và
hành động trong hệ thống chính chính trị và toàn xã hội đối với trách nhiệm bảo
vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Bởi vì, chỉ trên cơ sở nhận thức
đúng thì mới tạo được sự đồng thuận xã hội, khơi dậy tinh thần đoàn kết, lòng
yêu nước trong mỗi người dân Việt Nam đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền
biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc, như Bác Hồ đã căn dặn: “Dân ta có một lòng
nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi
khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng
vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn
chìm tất cả bè lũ bán nước và bè lũ cướp nước”(7). Cần đẩy mạnh và nâng cao
hiệu quả giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận trong
mọi tầng lớp nhân dân đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Nội dung
tuyên truyền cần tập trung vào vị trí, vai trò, tầm quan trọng của biển, đảo trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; truyền thống, ý thức bảo vệ chủ quyền
biển, đảo của dân tộc ta; đường lối, quan điểm, chính sách, pháp luật, phương
châm, tư tưởng chỉ đạo, đối sách giải quyết các vấn đề biển, đảo của Đảng và
Nhà nước ta; các tập quán, điều ước quốc tế về biển và Việt Nam là thành viên;
bản chất âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề biển, đảo để
chống phá nước ta; tính chất khó khăn, phức tạp, nhạy cảm của nhiệm vụ bảo vệ
chủ quyền biển, đảo hiện nay...
Hai là, vận dụng đúng đắn, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng
“dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Quán triệt và vận dụng phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Người,
cần thấm nhuần quan điểm có tính nguyên tắc: Chủ quyền biển, đảo là chủ
quyền quốc gia trên biển, là lợi ích quốc gia thiêng liêng, bất khả xâm phạm, là
cái “bất biến”. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng thay mặt đất nước và nhân dân Việt
Nam, tuyên bố với thế giới rằng, nhân dân chúng tôi thành thực mong muốn hòa
bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ
những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc và độc lập cho đất
nước; toàn thể nhân dân Việt Nam “quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính
mệnh và của cải”(8) để giữ vững chủ quyền quốc gia. Cái “vạn biến” là cách ứng
xử của ta phải linh hoạt, khôn khéo trong đấu tranh bảo vệ toàn vẹn chủ quyền
lãnh thổ theo đúng tinh thần: “Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách
lược của ta thì linh hoạt”(9). Vận dụng tư tưởng này của Người trong đấu tranh
bảo vệ chủ quyền biển, đảo đòi hỏi phải tuân thủ các nguyên tắc để đạt mục đích
tối thượng là bảo vệ toàn vẹn từng tấc đất, sải biển, song phương pháp, cách
thức đấu tranh phải linh hoạt, mềm dẻo bằng mọi hình thức, biện pháp, trong đó
lấy đối thoại, đàm phán hòa bình để giải quyết bất đồng; kiên quyết, kiên trì
không mắc âm mưu khiêu khích, tạo cớ. Kiên định đấu tranh bảo vệ chủ quyền
biển, đảo bằng giải pháp “hòa bình”, bằng sức mạnh tổng hợp: đấu tranh chính
trị, ngoại giao, chứng cứ pháp lý, lịch sử. Chúng ta kiên trì, tránh xung đột
nhưng khi chủ quyền bị xâm phạm, chúng ta sẵn sàng đáp trả bằng quyền tự vệ
chính đáng. Xử lý thật tốt mối quan hệ toàn vẹn độc lập, chủ quyền và duy trì
hòa bình, ổn định. Đồng thời, cần cảnh giác trước những mưu toan hạ thấp giá
trị chủ quyền biển, đảo hoặc làm suy giảm lòng tự tôn dân tộc, tinh thần yêu nước…
Ba là, xây dựng “thế trận lòng dân” trên biển, xây dựng lực lượng vũ trang nhân
dân vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới.
Xây dựng “thế trận lòng dân” trên biển là quá trình xây dựng nhân tố chính trị
tinh thần, ý chí, tâm lý và niềm tin của nhân dân trên vùng biển, đảo của Tổ
quốc, mà cốt lõi là lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí chiến đấu của nhân
dân. Xây dựng “thế trận lòng dân” trên biển phải song hành với việc giữ gìn giá
trị, phát huy truyền thống lịch sử, bản sắc văn hoá biển; bảo đảm quyền tham
gia, hưởng lợi và trách nhiệm của người dân đối với phát triển bền vững kinh tế
biển trên cơ sở công bằng, bình đẳng, tuân thủ pháp luật. Xây dựng “thế trận
lòng dân” trên biển vững mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trong
đó lực lượng vũ trang nhân dân là nòng cốt.
Tập trung xây dựng và phát huy sức mạnh tổng hợp của lực lượng hải quân,
cảnh sát biển, biên phòng biển, kiểm ngư và dân quân tự vệ biển, có số lượng
hợp lý, chất lượng tổng hợp cao; chú trọng xây dựng trình độ kỹ thuật, chiến
thuật, trình độ hợp đồng tác chiến quân binh chủng đi liền với trang thiết bị kỹ
thuật ngày càng hiện đại; kết hợp tốt phát triển kinh tế gắn với quốc phòng, an
ninh trên biển của các lực lượng chuyên trách. Đồng thời, cần phát huy tốt vai
trò tham mưu của lực lượng vũ trang làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo
cho cấp ủy, chính quyền địa phương về công tác quốc phòng, quân sự địa
phương; về xây dựng khu vực phòng thủ biển, đảo vững chắc; tuyên truyền, bồi
dưỡng nâng cao kiến thức quốc phòng, an ninh cho ngư dân; bảo đảm hậu cần -
kỹ thuật nghề cá; chú trọng công tác tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn và bảo vệ môi trường biển.
Hải quân nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại_Ảnh: dantri.com.vn
Bốn là, phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Xác lập và thực thi chiến lược phát triển đất nước thành một quốc gia mạnh về
biển, làm giàu từ biển; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo
đảm quốc phòng - an ninh; phát huy các nguồn lực bên trong, thu hút mạnh các
nguồn lực bên ngoài để phát triển các khu vực ven biển. Phát triển kinh tế biển
là cơ sở quan trọng để củng cố quốc phòng - an ninh trên biển, đồng thời củng
cố quốc phòng - an ninh trên biển là điều kiện, tiền đề để phát triển kinh tế biển
một cách bền vững. Bảo đảm mỗi bước phát triển kinh tế biển phải tạo cơ sở cho
việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo và ngược lại. Sự gắn kết và mối quan hệ biện
chứng này phải được xác định rõ từ quan điểm, chủ trương, chính sách, kế hoạch
về phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng, an ninh trên biển; gắn chặt và thống
nhất chung trong chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đảng ta khẳng định: “Đến năm 2030 đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển
mạnh; đạt cơ bản các tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển; hình thành văn
hoá sinh thái biển; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng;
ngăn chặn xu thế ô nhiễm, suy thoái môi trường biển, tình trạng sạt lở bờ biển và
biển xâm thực; phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái biển quan trọng”(10). Để hiện
thực hóa mục tiêu trở thành quốc gia biển mạnh, cần khuyến khích các thành
phần kinh tế đầu tư phát triển các ngành khai thác, chế biến dầu khí; cảng biển,
đóng và sửa chữa tàu biển, vận tải biển; tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích
người dân định cư lâu dài trên các đảo. Tăng cường công tác cứu hộ, cứu nạn và
bảo đảm an ninh, an toàn trên biển, đảo. Tập trung xây dựng và nhân rộng các
mô hình khu kinh tế, khu công nghiệp sinh thái ven biển gắn với hình thành và
phát triển các trung tâm kinh tế biển mạnh. Đổi mới tư duy trong xây dựng và
thực hiện các quy hoạch, kế hoạch phát triển hệ thống đô thị ven biển có kết cấu
hạ tầng kỹ thuật, xã hội đồng bộ, hiện đại, theo mô hình, tiêu chí tăng trưởng
xanh, đô thị thông minh. Đẩy nhanh xây dựng hoàn thiện kết cấu hạ tầng các
khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển theo hướng tiếp cận mô hình khu kinh tế,
khu công nghiệp sinh thái, công nghệ cao, có sức hấp dẫn các nhà đầu tư, thu
hút và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao;
giải quyết tốt vấn đề môi trường, xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân./.