Bài tập lớn - Tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

Trường:

Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu

Thông tin:
17 trang 1 năm trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Bài tập lớn - Tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

73 37 lượt tải Tải xuống
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN NGÂN HÀNG – TÀI CHÍNH
BÀI TẬP LỚN
MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI: Anh, chị hãy phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc?
Giá trị của quan điểm nêu trên đối với việc giữ vững độc lập chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ nước ta hiện nay?
Họ và tên sinh viên: Nguyễn Thị Huyền Ly
MSV: 11202418
Lớp tín chỉ: 23
Giảng viên: Nguyễn Chí Thiện
HÀ NỘI – 2021
MỤC LỤC
Lời nói đầu
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người anh hùng vĩ đại, người cha già của dân tộc Việt
Nam. Suốt đời, người quên đi bản thân mình luôn phấn đấu cho dân tộc được độc
lập, đồng bào cả nước được ấm no hạnh phúc. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng của mình, Người luôn tâm niệm: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn
tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự
do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Bác luôn luôn
phấn đấu, không ngừng học hỏi từ những bậc tiền bối đi trước để giúp dân tộc.
Tiếp thu những cái mới, cái đúng cải tiến, bác bỏ những điều chưa đúng vì vậy
Người đã đưa ra những quan điểm tư tưởng rất đúng đắn, sáng tạo về độc lập dân
tộc và cách mạng giải phóng dân tộc.
A. PHẦN NỘI DUNG
1. Vấn đề độc lập
a. Độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc
Theo Hồ Chí Minh độc lập tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa và theo
nguyên tắc: Nước Việt Nam là của người Việt Nam, do dân tộc Việt Nam quyết định,
nhân dân Việt Nam không chấp nhận bất cứ sự can thiệp nào từ bên ngoài. Độc lập tự do
là quyền tự nhiên của dân tộc, thiêng liêng và vô cùng quý giá. Hồ Chí Minh đã tiếp xúc
với Tuyên ngôn độc lập của Mỹ 1776 và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp
1791, Người đã khái quát chân lý: “Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều có quyền
bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Trong
hành trình tìm đường cứu nước cho dân tộc khi còn ở Pháp Nguyễn Ái Quốc đấu tranh để
đòi các quyền cho nhân dân An Nam: Một là, đòi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho
người bản xứ Đông Dương như đối với châu Âu, xoá bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh, thay
thế bằng chế độ đạo luật. Hai là, đòi quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân, tự do
ngôn luận, tự do báo chí, hội họp, tự do cư trú … Ngày 18/6/1919, Bác thay mặt những
người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi đến hội nghị Véc-xây bản yêu sách của nhân dân
An-nam đòi quyền bình đẳng cho dân tộc Việt Nam. Bản yêu sách không được chấp
nhận, Người rút ra bài học: Muốn bình đẳng thực sự phải đấu tranh giành độc lập dân
tộc- làm cách mạng, muốn giải phóng dân tộc chỉ có thể trông cậy vào chính mình, vào
lực lượng của bản thân mình. Điều này thể hiện ở mục tiêu của cách mạng Việt Nam là:
Đánh đổ Đế quốc Pháp và phong kiến, làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập. Sau Cách
mạng Tháng 8 thành công, Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập và khẳng định:
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do,
độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và
của cải để giữ quyền tự do độc lập ấy”.
b. Độc lập phải gắn liền tự do, cơm no, áo ấm và hạnh phúc của nhân dân
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn với tự do của nhân dân. Người đánh giá cao
học thuyết “Tam dân” của Tôn Trung Sơn về độc lập tự do: dân tộc độc lập, dân quyền tự
do và dân sinh hạnh phúc. Với Người, nền độc lập dân tộc phải gắn với tự do, hạnh phúc
cho mọi người dân. Đây chính là tiêu chí căn cốt, thước đo giá trị của độc lập dân tộc, tác
động trở lại việc củng cố, bảo vệ độc lập dân tộc. Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng,
Người cũng đã xác định rõ ràng mục tiêu của đấu tranh là “Làm cho nước Nam được
hoàn toàn độc lập…dân chúng được tự do…thủ tiêu hết các thứ quốc trái…thâu hết ruộng
đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo. Bỏ sưu thuế cho dân cày
nghèo…thi hành luật ngày làm 8 giờ” . Chính vì vậy, ngay sau thắng lợi của Cách mạng
tháng Tám 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo kiến tạo chính thể dân chủ cộng hòa,
xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân ở Việt Nam, để mưu cầu tự do và hạnh
phúc cho nhân dân. Người nêu rõ: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết
đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của
độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Chúng ta
phải…Làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có
học hành”. Có thể thấy rằng, trong suốt cuộc đời hoạt động Cách mạng của Người, Người
luôn coi độc lập gắn liền với tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Người từng bộc bạch đầy
tâm huyết: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai
cũng được học hành”.
Trong suốt 25 năm làm Chủ tịch, Bác luôn quan tâm đến đời sống nhân dân. Theo Bác
chăm lo cho đời sống nhân dân chính là làm cho nhân dân được thực hiện nghĩa vụ và
hưởng thụ quyền lợi trong một xã hội tiến bộ và công bằng và ngày càng được thụ hưởng
đầy đủ về vật chất và tinh thần. Ngay từ khi Đảng vừa ra đời, trong Chương trình tóm tắt
của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định không bao giờ Đảng lại hy sinh quyền
lợi của giai cấp công nhân và nông dân cho một giai cấp nào khác. Khi đất nước vừa
giành được độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, Người cùng Chính phủ xác định rõ những nhiệm vụ cấp bách cần tập
trung giải quyết, trong đó việc chống nạn đói, nạn dốt và xóa các tệ nạn xã hội; bỏ thuế
thân, thuế chợ, thuế đò; thực hiện quyền tự do, dân chủ,... là những nội dung, biện pháp
và bước đi quan trọng để từng bước chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Người đề nghị Chính phủ lâm thời phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất, thực hành
tiết kiệm để cứu đói. Trong thư Gửi nông gia Việt Nam, Người khẩn thiết kêu gọi: “Tăng
gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa... Đó là cách thiết thực của
chúng ta để giữ vững quyền tự do, độc lập”. Để cứu đói dân nghèo trước khi thu hoạch vụ
mùa, Người kêu gọi sẻ cơm nhường áo trên tinh thần “lá lành đùm lá rách” và gương mẫu
thực hiện trước, “cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa, mỗi bữa nhịn một
bơ”. Và đem gạo đó để cứu dân nghèo. Sau một thời gian ngắn phát động, nhân dân cả
nước đã quyên góp được một lượng lớn lương thực và nạn đói sớm được khắc phục.
Người căn dặn phải chăm lo cho các đối tượng “cán bộ, binh sĩ, dân quân du kích, thanh
niên xung phong” để họ có nơi ăn, chốn ở yên ổn đồng thời phải mở những lớp dạy nghề
thích hợp với mọi người; quan tâm đến “cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà
thiếu sức lao động và túng thiếu”, thì chính quyền địa phương phải giúp đỡ họ có công
việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét; có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng,
cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc, kể cả công việc
lãnh đạo. Những điều Người dặn, những quyết sách mà Người cùng Đảng và Chính phủ
nỗ lực thực hiện đã góp phần chăm lo đời sống nhân dân, thể hiện chiều sâu tư tưởng
nhân văn của chế độ xã hội chủ nghĩa.
c. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để
trên tất cả các lĩnh vực. Dân tộc độc lập trên tất cả các mặt: kinh tế, chính trị, quân sự,
ngoại giao. Mọi vấn đề thuộc chủ quyền quốc gia do dân tộc đó tự quyết định. Người
khẳng định: “Nước Việt Nam là của người Việt Nam, do dân tộc Việt Nam quyết định,
nhân dân Việt Nam không chấp nhận bất cứ sự can thiệp nào từ bên ngoài”. Đối với nền
độc lập hoàn toàn tức là phải có chủ quyền, chủ quyền quốc gia là quyền làm chủ đối với
quốc gia, là thuộc tính chính trị – pháp lý không thể tách rời khỏi quốc gia. Chủ quyền
quốc gia bao gồm nhiều nội dung, trong đó có các quyền cơ bản là quyền bất khả xâm
phạm lãnh thổ, quyền tự quyết định những công việc của quốc gia, quyền độc lập trong
quan hệ đối ngoại. Chủ quyền có quyền độc lập đối với một khu vực địa lý bao gồm vùng
đất , vùng trời, vùng biển, hải đảo, thềm lục địa,…Bác đã nhấn mạnh: “Độc lập mà người
dân không có quyền tự quyết về ngoại giao, không có quân đội riêng, không có nền tài
chính riêng…thì độc lập đó chẳng có ý nghĩa gì”. Đối với Người độc lập triệt để tức là có
quyền tự quyết, bình đẳng, quyền tự quyết chính trị là xây dựng Nhà nước xã hội chủ
nghĩa do dân vì dân, quyền tự quyết kinh tế chính là xây dựng nền kinh tế hướng đến xã
hội chủ nghĩa. Trên tinh thần đó và trong hoàn cảnh đất nước sau Cách mạng Tháng Tám,
Người đã thay mặt Chính phủ ký với đại diện Chính phủ Pháp Hiệp định Sơ bộ ngày
6/3/1946, theo đó: “Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một
quốc gia tự do có Chính phủ của mình, Nghị viện của mình, quân đội của mình, tài chính
của mình”.
d. Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Trong suốt sự nghiệp đấu tranh cách mạng, Hồ Chí Minh luôn thể hiện quan điểm đấu
tranh giành độc lập dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta với tầm nhìn chiến lược đã
có nhiều quyết sách quan trọng nhằm giữ vững chủ quyền, lãnh thổ đất nước và giữ hòa
hiếu với các nước láng giềng. Năm 1941, chủ trì Hội nghị Trung ương 8 của Đảng, Người
khẳng định rõ: “Trong lúc này, quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”. Thể hiện
mãnh liệt ý chí, quyết tâm đối với cuộc vệ quốc vĩ đại trước sự xâm lăng tàn bạo của kẻ
thù, Hồ Chí Minh nói: “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành
cho được độc lập”. Khi tiếng súng kháng chiến của nhân dân Nam Bộ vang lên, trái tim
của vị lãnh tụ, người cha đẻ của cách mạng Việt Nam đầy âu lo, trăn trở. Để động viên
nhân dân miền Nam và tỏ rõ quan điểm của Chính phủ cách mạng, Người tuyên bố với
toàn thể dân tộc: “Miền Nam là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam”. Tính
thống nhất lâu đời và bền vững của dân tộc Việt Nam đã ăn sâu trong máu thịt của Hồ
Chí Minh, được thể hiện rõ ràng, nhất quán trong các tuyên bố của Người trước thế giới.
Người đã từng nói rõ: “Trung, Nam, Bắc đều là đất nước Việt Nam. Chúng ta đều chung
một tổ tiên, dòng họ, đều là ruột thịt, anh em… Cũng như nước Pháp có Noóc-măng-đi,
Prô-văng-xơ, Bô-xơ. Không ai có thể chia rẽ con một nhà, không ai có thể chia rẽ nước
Pháp thì không ai có thể chia rẽ nước Việt Nam”. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: Biên
giới quốc gia là địa bàn chiến lược quan trọng của cách mạng Việt Nam, gắn liền với sự
nghiệp đấu tranh, giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, biên giới luôn là nơi mà kẻ thù thường xuyên để mắt nhòm ngó. Vì vậy, Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn coi việc chỉ đạo bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới là nhiệm vụ
thường xuyên, quan trọng của công cuộc xây dựng đất nước. Nhiều lần Người căn dặn,
nhắc nhở các địa phương, các lực lượng quân đội, công an phải luôn coi trọng và làm tốt
công tác bảo vệ biên giới, chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Có thể khẳng định tằng tư tưởng
độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ quốc, toàn vẹn lãnh thổ là tư tưởng xuyên suốt
trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
2. Về Cách mạng giải phóng dân tộc
a. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường của
cách mạng vô sản
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết các cuộc Cách mạng điển hình trên thế giới như cách
mạng tư sản, cách mạng Tháng Mười Nga Người cho rằng: “Trong thế giưới bây giờ chỉ
có cách mệnh Nga là đã thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được
hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế
quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam…Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã
Khắc Tư và Leenin”. Theo Bác giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, trong đó
giải phóng dân tộc là trước hết, trên hết. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: chủ nghĩa đế quốc là một
con đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh bại
chủ nghĩa đế quốc phải đồng thời cắt cả hai cái vòi của nó đi, tức là phải kết hợp cách
mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa; phải xem cách
mạng ở thuộc địa như là “một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”, phát triển
nhịp nhàng với cách mạng vô sản.
b. Cách mạng muốn thành công, phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Hồ Chí Minh đã sớm khẳng định: muốn sự nghiệp giải phóng dân tộc thành công “Trước
hết phải có đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới thành công”. “Đảng muốn
vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt... Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng
chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Hồ C
Minh đã khẳng định nguyên tắc xây dựng Đảng: Đảng của giai cấp công nhân phải được
xây dựng theo các nguyên tắc Đảng kiểu mới của Lênin. Đảng hoạch định đường lối,
chiến lược, sách lược, Đảng tuyên truyền, giác ngộ, tập hợp nhân dân. Đảng chính là
nhân tố liên kết chặt chẽ phong trào cách mạng trong nước và trên thế giới.
c. Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đại đoàn kết toàn dân,
lấy liên minh công- nông làm nền tảng
Hồ Chí Minh viết: cách mạng “là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc việc của
một hai người”, vì vậy phải đoàn kết toàn dân, “sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống
lại cường quyền”. Trong sự tập hợp rộng rãi đó, Người khẳng định cái cốt của nó là công
– nông, “công nông là người chủ cách mệnh... công nông là gốc cách mệnh”. Trong cách
mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh chủ trương cần vận động, tập hợp rộng rãi các
tầng lớp nhân dân Việt Nam đang mất nước, đang bị làm nô lệ trong một Mặt trận dân tộc
thống nhất rộng rãi nhằm huy động sức mạnh của toàn dân tộc, đấu tranh giành độc lập,
tự do. Đảng cần có các chủ trương, chính sách tranh thủ vận động các tầng lớp nhân dân
vì mục tiêu chung. Trong sách lược vắn tắt, Người viết: “Đảng phải hết sức liên lạc với
tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt... để kéo họ đi vào phe vô sản giai
cấp. Còn đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản
cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng tập trung... Trong khi chủ trương
đoàn kết, tập hợp rộng rãi các lực lượng dân tộc chống đế quốc, Hồ Chí Minh vẫn nhắc
nhở phải quán triệt quan điểm giai cấp: “công nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà
buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; 3
hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi”. Và trong khi liên lạc với các giai
cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào
đường thỏa hiệp”
d. Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng giành
thắng lợi trước cách mạng chính quốc
Đầu thế kỷ XX, trong phong trào Cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm xem thắng
lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở
chính quốc. Quan điểm này vô hình trung đã làm giảm tính chủ động, sáng tạo của các
phong trào cách mạng ở thuộc địa. Phát biểu tại Đại hội V Quốc tế cộng sản (tháng 6-
1924), Hồ Chí Minh đã phân tích: “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là
vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh
của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa”; “nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ
nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa”, nếu khinh thường cách mạng ở thuộc địa tức là
“muốn đánh chết rắn đằn đuôi”. Vận dụng công thức của Mác: “Sự giải phóng của giai
cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”, Hồ Chí Minh đã đi tới
luận điểm: “Công cuộc giải phóng anh em (tức nhân dân thuộc địa) chỉ có thể thực hiện
được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”. Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu
trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc và do đánh giá đúng đắn sức mạnh của chủ nghĩa
yêu nước và tinh thần dân tộc, năm 1924, Hồ Chí Minh cho rằng: Cách mạng thuộc địa
không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng
lợi trước. Khẳng định vị trí và vai trò của cách mạng giải phóng thuộc địa trong mối quan
hệ với cách mạng chính quốc, Hồ Chí Minh cho rằng: “trong khi thủ tiêu một trong
những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ
những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”. Những
luận điểm trên đây là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trong thời đại đế quốc
chủ nghĩa của Hồ Chí Minh. Nó có giá trị lý luận và thực tiễn rất to lớn và đã được thắng
lợi của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam cũng như trên thế giới chứng minh là
hoàn toàn đúng đắn.
e. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng phương pháp bạo
lực cách mạng
Dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng, Hồ Chí Minh đã thấy rõ
sự cần thiết phải sử dụng bạo lực cách mạng: “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ
thù của giai cấp và dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách
mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”. Tất yếu là vậy, vì ngay như hành
động mang quân đi xâm lược của thực dân đế quốc đối với các nước thuộc địa và phụ
thuộc, thì Người vạch rõ: “Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành động bạo lực
của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi”. Về hình thức bạo lực cách mạng, theo Hồ Chí Minh,
bạo lực cách mạng ở đây là bạo lực của quần chúng được với hai lực lượng chính trị
quân sự, hai hình thức đấu tranh: đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang kết hợp đấu
tranh kinh tế, đấu tranh ngoại giao
Phải tự lực cánh sinh, kháng chiến toàn dân.
B. PHẦN VẬN DỤNG
Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ là quyền thiêng liêng, bất khả xâm
phạm của mọi quốc gia dân tộc, những thành tố hữu cơ không thể tách rời, tạo nên quyền
dân tộc cơ bản của mọi quốc gia. Ngày nay, trong một thế giới đang diễn ra mạnh mẽ quá
trình toàn cầu hóa, đan xen nhiều mối quan hệ phức tạp, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh, đấu
tranh gay gắt giữa các nước, giữa các nền chính trị, kinh tế và văn hóa khác nhau, sự
hưng thịnh hay tồn vong của mỗi quốc gia, dân tộc không còn chỉ là chuyện riêng của
từng quốc gia hay dân tộc. Ðiều đó đã tạo ra cả thời cơ và thách thức với mọi quốc gia,
nhất là với các nước nhỏ trong việc bảo vệ lợi ích, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Trong bối cảnh đó, đặc biệt là trước diễn biến phức tạp
của tình hình khu vực và trên thế giới trong những năm gần đây, hơn bao giờ hết, đòi hỏi
đất nước ta phải phát triển nhanh, bền vững, nâng cao sức mạnh tổng hợp, nội lực của đất
nước về mọi mặt; đồng thời phải luôn nêu cao cảnh giác, kiên quyết bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong bất cứ hoàn cảnh
nào. Ðây là nghĩa vụ thiêng liêng và cao cả của chúng ta hôm nay trước tổ tiên và các thế
hệ cha anh đi trước, như lời Bác Hồ dạy: "Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác
cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước" và trước các thế hệ con cháu muôn đời sau. Đến
nay Đảng và Nhà nước ta vẫn luôn học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh,
chúng ta vẫn kế thừa và phát huy những tư tưởng tốt đẹp đúng đắn của Bác về việc giữ
vững độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ. Tư tưởng của Bác là ngọn đèn rọi sáng dân
tộc, đưa đất nước thoát khỏi xiềng xích, là tiếp thu tiếp nối truyền thống bảo vệ sự toàn
vẹn bờ cõi, giang sơn của cha ông ta trong suốt chiều dài lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh
quan niệm: bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia là mục tiêu chiến lược, có ý nghĩa xuyên
suốt quá trình cách mạng, chi phối đến các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa
học, ngoại giao, quân sự, quốc phòng, an ninh… của quốc gia, dân tộc. Thực tiễn cách
mạng nước ta từ khi có Đảng, nhất là thực tiễn 35 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của
Đảng đã thể hiện một cách sinh động ý chí, khát vọng phát triển của dân tộc ta. Đại hội
XIII của Đảng đã xác định các quan điểm chỉ đạo công cuộc đổi mới hiện nay, tiếp tục
đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nâng
cao tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường dân tộc, khát vọng cống hiến, phát triển đất
nước phồn vinh, hạnh phúc của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và người dân,
góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và nhiệm vụ cách mạng
trong các giai đoạn lịch sử.
Học tập, vận dụng tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về hoạt động lập pháp
trong giai đoạn ngày nay có vai trò rất quan trọng trong bối cảnh toàn Đảng toàn dân
đang tích cực chủ động thực hiện thắng lợi các định hướng, nhiệm vụ trọng tâm và đột
phá chiến lược đã xác định tại Đại hội XIII của Đảng về hoàn thiện hệ thống pháp luật,
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong đó có xây dựng và thiện pháp
luật về chủ quyền, biên giới quốc gia: tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật để kiên
quyết bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo,
vùng trời; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước. Tiếp tục luật hóa
để làm cơ sở pháp lý thực hiện thành công các chiến lược như: Chiến lược bảo vệ Tổ
quốc, Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự, Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia,
Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia và Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian
mạng... Trong đó, chú ý đến việc xây dựng cơ sở pháp lý để bảo vệ Chủ quyền quốc gia
về vùng trời như khẳng định trang trọng ngay tại Điều 1 của Hiến pháp 2013(28). Nghiên
cứu để hoàn thiện cơ sở pháp lý khẳng định và bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không
gian mạng. Tiếp tục khẳng định vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của Nhân dân trong chiến
lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Một số quan điểm của Đảng và Nhà nước CHXHCN Việt Nam về bảo vệ biên giới quốc
gia đã được kế thừa và phát huy từ quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
a. Biên giới quốc gia nước CHXHCN Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm
Đảng và nhà nước ta luôn coi trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, biên giới
quốc gia đồng thời xác định bảo vệ biên giới quốc gia gắn liền với bảo vệ lãnh thổ bảo vệ
tổ quốc. Đó là nhiệm vụ thiêng liêng bất khả xâm phạm của toàn đảng toàn quân toàn dân
nhằm bảo vệ không gian sinh tồn của dân tộc
b. Xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia là nhiệm vụ của Nhà nước và là
trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
Bảo vệ biên giới quốc gia là trách nhiệm của đảng nhà nước toàn dân toàn quân trước hết
là chính quyền nhân dân khu vực biên giới và các lực lượng vũ trang mà trong đó bộ đội
biên phòng làm nòng cốt, chuyên trách trong quản lý bảo vệ biên giới quốc gia.
c. Bảo vệ biên giới quốc gia phải dựa vào dân, trực tiếp là đồng bào các dân tộc ở
biên giới
Nước ta có đường biên giới dài, đi qua địa hình phức tạp hiểm trở có vùng biển rộng. Lực
lượng chuyên trách không thể bố trí khép kín trên các tuyến biên giới vì vậy việc quản lý
bảo vệ phải dựa vào dân mà trực tiếp là các dân tộc ở vùng biên giới, đậy là lực lượng tại
chỗ rất quan trọng.
d. Xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị, giải quyết các vấn đề về giới quốc gia
bằng biện pháp hoà bình
Đó vừa là mong muốn vừa là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Mọi bất
đồng trong quan hệ biên giới Đảng và Nhà nước ta chủ động đàm phán thương lượng
giữa các nước hữu quan trên cơ sở bình đẳng tôn trọng độc lập chủ quyền và lợi ích chính
đáng của nhau.
e. Xây dựng lực lượng vũ trang chuyên trách, nòng cốt quản lý, bảo vệ biên giới quốc
gia.
Đảng và nhà nước ta xác định bộ đội biên phòng là lực lượng vũ trang của Đảng và nhà
nước làm nòng cốt chuyênn trách bảo vệ chủ quền toàn vẹn lãnh thổ và an ninh trật tự
biên giới quốc gia. Nhà nước xây dựng bộ đội biên phòng theo hướng cách mạng chính
quy tinh nhuệ từng bước hiện đại có chất lượng cao, quân số và tổ chức hợp lý.
Cụ thể hơn, Nhà nước đã và đang đẩy mạnh xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh
nhân dân vững mạnh toàn diện, nâng cao hiệu quả hoạt động, đấu tranh quốc phòng.
Củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh của đất nước. Coi trọng xây dựng
tiềm lực chính trị tinh thần, chú trọng mở rộng và nâng cao chất lượng giáo dục, bồi
dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.
Đặc biệt chăm lo xây dựng thế trận lòng dân tạo sự tin tưởng, nhất trí với quyết tâm cao
trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Củng cố, hoàn thiện thế trận quốc phòng toàn
dân, an ninh nhân dân, xây dựng các tỉnh, thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc.
Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế, đối
ngoại, nâng cao hiệu quả các khu kinh tế - quốc phòng. Đẩy nhanh xây dựng lực lượng
vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, nâng cao chất lượng toàn diện và sức
mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang. Hoàn thiện các phương án bảo vệ độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, không để bị động bất ngờ. Triển khai đồng bộ,
toàn diện hoạt động đối ngoại, tích cực chủ động hợp tác quốc tế, tạo môi trường quốc tế
thuận lợi cho sự phát triển đất nước và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm môi trường
hòa bình, ổn định phục vụ sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và phát triển đất nước trên cơ sở
củng cố quan hệ với các nước láng giềng, thúc đẩy quan hệ với các nước và trung tâm
lớn. Mở rộng quan hệ với các nước độc lập dân tộc, các nước đang phát triển, phong trào
không liên kết, các đảng cộng sản, công nhân, cánh tả, các phong trào độc lập dân tộc,
cách mạng và tiến bộ trên thế giới; tiếp tục mở rộng và tăng cường quan hệ với các đảng
cầm quyền và tham chính; tiếp tục mở rộng và tăng cường quan hệ với các đoàn thể và tổ
chức nhân dân quan trọng ở các nước láng giềng; gắn kết chặt chẽ hoạt động đối ngoại
của Đảng với hoạt động ngoại giao của Nhà nước và nhân dân; thực hiện đầy đủ nghĩa vụ
của thành viên các tổ chức quốc tế, nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế. Kết hợp chặt chẽ các hình thức, biện pháp chính trị, ngoại giao, pháp lý, kinh tế,
quốc phòng, an ninh trong bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc.
Nước Việt Nam ta độc lập! Non sông gấm vóc Việt Nam ta thống nhất, toàn vẹn từ cao
nguyên Ðồng Văn đến mũi Cà Mau, từ dãy núi rừng Trường Sơn hùng vĩ đến các quần
đảo Hoàng Sa, Trường Sa hiên ngang trong sóng gió Biển Ðông! Ðất nước Việt Nam, do
ông cha để lại, dọc ba miền Bắc-Trung-Nam liền một dải, đẹp đẽ vô cùng và thiêng liêng
vô giá. Ðồng bào Việt Nam ta dù ở miền xuôi hay miền ngược, đang ở trong nước hay ở
nước ngoài đều là đồng bào con Lạc, cháu Hồng, cùng chung tay xây dựng một nước Việt
Nam hòa bình, thịnh vượng và giữ gìn vững chắc non sông gấm vóc của Tổ quốc.
Kết luận
Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng lỗi lạc, có nhiều cống hiến kiệt xuất vào kho tàng tư
tưởng – lý luận của dân tộc và nhân loại. Qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, thế giới
đều thừa nhận có tư tưởng Hồ Chí Minh và bản thân Người thực sự là một nhà tư tưởng,
nhà lý luận vĩ đại của thời đại chúng ta.Với mỗi người dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh không chỉ là biểu tượng sáng ngời về đạo đức cách mạng, tấm gương hi sinh, hiến
dâng trọn đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc; Người còn để lại cho các
thế hệ mai sau một di sản tinh thần vô cùng quý báu, đó là tư tưởng Hồ Chí Minh.
tưởng về độc lập dân tộc, giải phóng đất nước. Người cho rằng độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các thuộc địa không hoàn toàn
phụ thuộc vào cách mạng ở chính quốc, nhân dân thuộc địa có thể đứng lên tự giải phóng
chính mình, cuộc cách mạng có thể thắng lợi trước ở một nước thuộc địa. Cách mạng giải
phóng dân tộc muốn thắng lợi thì phải đi theo con đường cách mạng vô sản, cách mạng
giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng phương pháp bạo lực cách mạng, phải dựa
trên lực lượng đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh công nông làm nền tảng. Ngoài ra Bác
còn đanh thép khẳng định độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm, Bác
luôn lo cho đời sống nhân dân Bác nói độc lập mà dân không đủ no, áo không đủ mặc thì
độc lập không có ý nghĩa gì. Độc lập phải toàn diện, triệt để trên mọi lĩnh vực, phải độc
lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (2016), Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
| 1/17

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN NGÂN HÀNG – TÀI CHÍNH BÀI TẬP LỚN
MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI: Anh, chị hãy phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc?
Giá trị của quan điểm nêu trên đối với việc giữ vững độc lập chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ nước ta hiện nay?
Họ và tên sinh viên: Nguyễn Thị Huyền Ly MSV: 11202418 Lớp tín chỉ: 23
Giảng viên: Nguyễn Chí Thiện
HÀ NỘI – 2021 MỤC LỤC Lời nói đầu
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người anh hùng vĩ đại, người cha già của dân tộc Việt
Nam. Suốt đời, người quên đi bản thân mình luôn phấn đấu cho dân tộc được độc
lập, đồng bào cả nước được ấm no hạnh phúc. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng của mình, Người luôn tâm niệm: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn
tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự
do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Bác luôn luôn
phấn đấu, không ngừng học hỏi từ những bậc tiền bối đi trước để giúp dân tộc.
Tiếp thu những cái mới, cái đúng cải tiến, bác bỏ những điều chưa đúng vì vậy
Người đã đưa ra những quan điểm tư tưởng rất đúng đắn, sáng tạo về độc lập dân
tộc và cách mạng giải phóng dân tộc. A. PHẦN NỘI DUNG
1. Vấn đề độc lập
a. Độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc
Theo Hồ Chí Minh độc lập tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa và theo
nguyên tắc: Nước Việt Nam là của người Việt Nam, do dân tộc Việt Nam quyết định,
nhân dân Việt Nam không chấp nhận bất cứ sự can thiệp nào từ bên ngoài. Độc lập tự do
là quyền tự nhiên của dân tộc, thiêng liêng và vô cùng quý giá. Hồ Chí Minh đã tiếp xúc
với Tuyên ngôn độc lập của Mỹ 1776 và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp
1791, Người đã khái quát chân lý: “Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều có quyền
bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Trong
hành trình tìm đường cứu nước cho dân tộc khi còn ở Pháp Nguyễn Ái Quốc đấu tranh để
đòi các quyền cho nhân dân An Nam: Một là, đòi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho
người bản xứ Đông Dương như đối với châu Âu, xoá bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh, thay
thế bằng chế độ đạo luật. Hai là, đòi quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân, tự do
ngôn luận, tự do báo chí, hội họp, tự do cư trú … Ngày 18/6/1919, Bác thay mặt những
người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi đến hội nghị Véc-xây bản yêu sách của nhân dân
An-nam đòi quyền bình đẳng cho dân tộc Việt Nam. Bản yêu sách không được chấp
nhận, Người rút ra bài học: Muốn bình đẳng thực sự phải đấu tranh giành độc lập dân
tộc- làm cách mạng, muốn giải phóng dân tộc chỉ có thể trông cậy vào chính mình, vào
lực lượng của bản thân mình. Điều này thể hiện ở mục tiêu của cách mạng Việt Nam là:
Đánh đổ Đế quốc Pháp và phong kiến, làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập. Sau Cách
mạng Tháng 8 thành công, Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập và khẳng định:
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do,
độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và
của cải để giữ quyền tự do độc lập ấy”.
b. Độc lập phải gắn liền tự do, cơm no, áo ấm và hạnh phúc của nhân dân
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn với tự do của nhân dân. Người đánh giá cao
học thuyết “Tam dân” của Tôn Trung Sơn về độc lập tự do: dân tộc độc lập, dân quyền tự
do và dân sinh hạnh phúc. Với Người, nền độc lập dân tộc phải gắn với tự do, hạnh phúc
cho mọi người dân. Đây chính là tiêu chí căn cốt, thước đo giá trị của độc lập dân tộc, tác
động trở lại việc củng cố, bảo vệ độc lập dân tộc. Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng,
Người cũng đã xác định rõ ràng mục tiêu của đấu tranh là “Làm cho nước Nam được
hoàn toàn độc lập…dân chúng được tự do…thủ tiêu hết các thứ quốc trái…thâu hết ruộng
đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo. Bỏ sưu thuế cho dân cày
nghèo…thi hành luật ngày làm 8 giờ” . Chính vì vậy, ngay sau thắng lợi của Cách mạng
tháng Tám 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo kiến tạo chính thể dân chủ cộng hòa,
xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân ở Việt Nam, để mưu cầu tự do và hạnh
phúc cho nhân dân. Người nêu rõ: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết
đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của
độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Chúng ta
phải…Làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có
học hành”. Có thể thấy rằng, trong suốt cuộc đời hoạt động Cách mạng của Người, Người
luôn coi độc lập gắn liền với tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Người từng bộc bạch đầy
tâm huyết: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Trong suốt 25 năm làm Chủ tịch, Bác luôn quan tâm đến đời sống nhân dân. Theo Bác
chăm lo cho đời sống nhân dân chính là làm cho nhân dân được thực hiện nghĩa vụ và
hưởng thụ quyền lợi trong một xã hội tiến bộ và công bằng và ngày càng được thụ hưởng
đầy đủ về vật chất và tinh thần. Ngay từ khi Đảng vừa ra đời, trong Chương trình tóm tắt
của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định không bao giờ Đảng lại hy sinh quyền
lợi của giai cấp công nhân và nông dân cho một giai cấp nào khác. Khi đất nước vừa
giành được độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, Người cùng Chính phủ xác định rõ những nhiệm vụ cấp bách cần tập
trung giải quyết, trong đó việc chống nạn đói, nạn dốt và xóa các tệ nạn xã hội; bỏ thuế
thân, thuế chợ, thuế đò; thực hiện quyền tự do, dân chủ,... là những nội dung, biện pháp
và bước đi quan trọng để từng bước chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Người đề nghị Chính phủ lâm thời phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất, thực hành
tiết kiệm để cứu đói. Trong thư Gửi nông gia Việt Nam, Người khẩn thiết kêu gọi: “Tăng
gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa... Đó là cách thiết thực của
chúng ta để giữ vững quyền tự do, độc lập”. Để cứu đói dân nghèo trước khi thu hoạch vụ
mùa, Người kêu gọi sẻ cơm nhường áo trên tinh thần “lá lành đùm lá rách” và gương mẫu
thực hiện trước, “cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa, mỗi bữa nhịn một
bơ”. Và đem gạo đó để cứu dân nghèo. Sau một thời gian ngắn phát động, nhân dân cả
nước đã quyên góp được một lượng lớn lương thực và nạn đói sớm được khắc phục.
Người căn dặn phải chăm lo cho các đối tượng “cán bộ, binh sĩ, dân quân du kích, thanh
niên xung phong” để họ có nơi ăn, chốn ở yên ổn đồng thời phải mở những lớp dạy nghề
thích hợp với mọi người; quan tâm đến “cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà
thiếu sức lao động và túng thiếu”, thì chính quyền địa phương phải giúp đỡ họ có công
việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét; có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng,
cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc, kể cả công việc
lãnh đạo. Những điều Người dặn, những quyết sách mà Người cùng Đảng và Chính phủ
nỗ lực thực hiện đã góp phần chăm lo đời sống nhân dân, thể hiện chiều sâu tư tưởng
nhân văn của chế độ xã hội chủ nghĩa.
c. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để
trên tất cả các lĩnh vực. Dân tộc độc lập trên tất cả các mặt: kinh tế, chính trị, quân sự,
ngoại giao. Mọi vấn đề thuộc chủ quyền quốc gia do dân tộc đó tự quyết định. Người
khẳng định: “Nước Việt Nam là của người Việt Nam, do dân tộc Việt Nam quyết định,
nhân dân Việt Nam không chấp nhận bất cứ sự can thiệp nào từ bên ngoài”. Đối với nền
độc lập hoàn toàn tức là phải có chủ quyền, chủ quyền quốc gia là quyền làm chủ đối với
quốc gia, là thuộc tính chính trị – pháp lý không thể tách rời khỏi quốc gia. Chủ quyền
quốc gia bao gồm nhiều nội dung, trong đó có các quyền cơ bản là quyền bất khả xâm
phạm lãnh thổ, quyền tự quyết định những công việc của quốc gia, quyền độc lập trong
quan hệ đối ngoại. Chủ quyền có quyền độc lập đối với một khu vực địa lý bao gồm vùng
đất , vùng trời, vùng biển, hải đảo, thềm lục địa,…Bác đã nhấn mạnh: “Độc lập mà người
dân không có quyền tự quyết về ngoại giao, không có quân đội riêng, không có nền tài
chính riêng…thì độc lập đó chẳng có ý nghĩa gì”. Đối với Người độc lập triệt để tức là có
quyền tự quyết, bình đẳng, quyền tự quyết chính trị là xây dựng Nhà nước xã hội chủ
nghĩa do dân vì dân, quyền tự quyết kinh tế chính là xây dựng nền kinh tế hướng đến xã
hội chủ nghĩa. Trên tinh thần đó và trong hoàn cảnh đất nước sau Cách mạng Tháng Tám,
Người đã thay mặt Chính phủ ký với đại diện Chính phủ Pháp Hiệp định Sơ bộ ngày
6/3/1946, theo đó: “Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một
quốc gia tự do có Chính phủ của mình, Nghị viện của mình, quân đội của mình, tài chính của mình”.
d. Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Trong suốt sự nghiệp đấu tranh cách mạng, Hồ Chí Minh luôn thể hiện quan điểm đấu
tranh giành độc lập dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta với tầm nhìn chiến lược đã
có nhiều quyết sách quan trọng nhằm giữ vững chủ quyền, lãnh thổ đất nước và giữ hòa
hiếu với các nước láng giềng. Năm 1941, chủ trì Hội nghị Trung ương 8 của Đảng, Người
khẳng định rõ: “Trong lúc này, quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”. Thể hiện
mãnh liệt ý chí, quyết tâm đối với cuộc vệ quốc vĩ đại trước sự xâm lăng tàn bạo của kẻ
thù, Hồ Chí Minh nói: “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành
cho được độc lập”. Khi tiếng súng kháng chiến của nhân dân Nam Bộ vang lên, trái tim
của vị lãnh tụ, người cha đẻ của cách mạng Việt Nam đầy âu lo, trăn trở. Để động viên
nhân dân miền Nam và tỏ rõ quan điểm của Chính phủ cách mạng, Người tuyên bố với
toàn thể dân tộc: “Miền Nam là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam”. Tính
thống nhất lâu đời và bền vững của dân tộc Việt Nam đã ăn sâu trong máu thịt của Hồ
Chí Minh, được thể hiện rõ ràng, nhất quán trong các tuyên bố của Người trước thế giới.
Người đã từng nói rõ: “Trung, Nam, Bắc đều là đất nước Việt Nam. Chúng ta đều chung
một tổ tiên, dòng họ, đều là ruột thịt, anh em… Cũng như nước Pháp có Noóc-măng-đi,
Prô-văng-xơ, Bô-xơ. Không ai có thể chia rẽ con một nhà, không ai có thể chia rẽ nước
Pháp thì không ai có thể chia rẽ nước Việt Nam”. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: Biên
giới quốc gia là địa bàn chiến lược quan trọng của cách mạng Việt Nam, gắn liền với sự
nghiệp đấu tranh, giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, biên giới luôn là nơi mà kẻ thù thường xuyên để mắt nhòm ngó. Vì vậy, Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn coi việc chỉ đạo bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới là nhiệm vụ
thường xuyên, quan trọng của công cuộc xây dựng đất nước. Nhiều lần Người căn dặn,
nhắc nhở các địa phương, các lực lượng quân đội, công an phải luôn coi trọng và làm tốt
công tác bảo vệ biên giới, chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Có thể khẳng định tằng tư tưởng
độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ quốc, toàn vẹn lãnh thổ là tư tưởng xuyên suốt
trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
2. Về Cách mạng giải phóng dân tộc
a. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường của cách mạng vô sản
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết các cuộc Cách mạng điển hình trên thế giới như cách
mạng tư sản, cách mạng Tháng Mười Nga Người cho rằng: “Trong thế giưới bây giờ chỉ
có cách mệnh Nga là đã thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được
hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế
quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam…Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã
Khắc Tư và Leenin”. Theo Bác giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, trong đó
giải phóng dân tộc là trước hết, trên hết. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: chủ nghĩa đế quốc là một
con đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh bại
chủ nghĩa đế quốc phải đồng thời cắt cả hai cái vòi của nó đi, tức là phải kết hợp cách
mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa; phải xem cách
mạng ở thuộc địa như là “một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”, phát triển
nhịp nhàng với cách mạng vô sản.
b. Cách mạng muốn thành công, phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Hồ Chí Minh đã sớm khẳng định: muốn sự nghiệp giải phóng dân tộc thành công “Trước
hết phải có đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới thành công”. “Đảng muốn
vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt... Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng
chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Hồ Chí
Minh đã khẳng định nguyên tắc xây dựng Đảng: Đảng của giai cấp công nhân phải được
xây dựng theo các nguyên tắc Đảng kiểu mới của Lênin. Đảng hoạch định đường lối,
chiến lược, sách lược, Đảng tuyên truyền, giác ngộ, tập hợp nhân dân. Đảng chính là
nhân tố liên kết chặt chẽ phong trào cách mạng trong nước và trên thế giới.
c. Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đại đoàn kết toàn dân,
lấy liên minh công- nông làm nền tảng
Hồ Chí Minh viết: cách mạng “là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc việc của
một hai người”, vì vậy phải đoàn kết toàn dân, “sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống
lại cường quyền”. Trong sự tập hợp rộng rãi đó, Người khẳng định cái cốt của nó là công
– nông, “công nông là người chủ cách mệnh... công nông là gốc cách mệnh”. Trong cách
mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh chủ trương cần vận động, tập hợp rộng rãi các
tầng lớp nhân dân Việt Nam đang mất nước, đang bị làm nô lệ trong một Mặt trận dân tộc
thống nhất rộng rãi nhằm huy động sức mạnh của toàn dân tộc, đấu tranh giành độc lập,
tự do. Đảng cần có các chủ trương, chính sách tranh thủ vận động các tầng lớp nhân dân
vì mục tiêu chung. Trong sách lược vắn tắt, Người viết: “Đảng phải hết sức liên lạc với
tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt... để kéo họ đi vào phe vô sản giai
cấp. Còn đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản
cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng tập trung... Trong khi chủ trương
đoàn kết, tập hợp rộng rãi các lực lượng dân tộc chống đế quốc, Hồ Chí Minh vẫn nhắc
nhở phải quán triệt quan điểm giai cấp: “công nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà
buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; 3
hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi”. Và trong khi liên lạc với các giai
cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thỏa hiệp”
d. Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng giành
thắng lợi trước cách mạng chính quốc
Đầu thế kỷ XX, trong phong trào Cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm xem thắng
lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở
chính quốc. Quan điểm này vô hình trung đã làm giảm tính chủ động, sáng tạo của các
phong trào cách mạng ở thuộc địa. Phát biểu tại Đại hội V Quốc tế cộng sản (tháng 6-
1924), Hồ Chí Minh đã phân tích: “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là
vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh
của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa”; “nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ
nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa”, nếu khinh thường cách mạng ở thuộc địa tức là
“muốn đánh chết rắn đằn đuôi”. Vận dụng công thức của Mác: “Sự giải phóng của giai
cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”, Hồ Chí Minh đã đi tới
luận điểm: “Công cuộc giải phóng anh em (tức nhân dân thuộc địa) chỉ có thể thực hiện
được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”. Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu
trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc và do đánh giá đúng đắn sức mạnh của chủ nghĩa
yêu nước và tinh thần dân tộc, năm 1924, Hồ Chí Minh cho rằng: Cách mạng thuộc địa
không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng
lợi trước. Khẳng định vị trí và vai trò của cách mạng giải phóng thuộc địa trong mối quan
hệ với cách mạng chính quốc, Hồ Chí Minh cho rằng: “trong khi thủ tiêu một trong
những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ
những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”. Những
luận điểm trên đây là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trong thời đại đế quốc
chủ nghĩa của Hồ Chí Minh. Nó có giá trị lý luận và thực tiễn rất to lớn và đã được thắng
lợi của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam cũng như trên thế giới chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
e. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng phương pháp bạo lực cách mạng
Dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng, Hồ Chí Minh đã thấy rõ
sự cần thiết phải sử dụng bạo lực cách mạng: “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ
thù của giai cấp và dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách
mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”. Tất yếu là vậy, vì ngay như hành
động mang quân đi xâm lược của thực dân đế quốc đối với các nước thuộc địa và phụ
thuộc, thì Người vạch rõ: “Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành động bạo lực
của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi”. Về hình thức bạo lực cách mạng, theo Hồ Chí Minh,
bạo lực cách mạng ở đây là bạo lực của quần chúng được với hai lực lượng chính trị và
quân sự, hai hình thức đấu tranh: đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang kết hợp đấu
tranh kinh tế, đấu tranh ngoại giao
Phải tự lực cánh sinh, kháng chiến toàn dân. B. PHẦN VẬN DỤNG
Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ là quyền thiêng liêng, bất khả xâm
phạm của mọi quốc gia dân tộc, những thành tố hữu cơ không thể tách rời, tạo nên quyền
dân tộc cơ bản của mọi quốc gia. Ngày nay, trong một thế giới đang diễn ra mạnh mẽ quá
trình toàn cầu hóa, đan xen nhiều mối quan hệ phức tạp, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh, đấu
tranh gay gắt giữa các nước, giữa các nền chính trị, kinh tế và văn hóa khác nhau, sự
hưng thịnh hay tồn vong của mỗi quốc gia, dân tộc không còn chỉ là chuyện riêng của
từng quốc gia hay dân tộc. Ðiều đó đã tạo ra cả thời cơ và thách thức với mọi quốc gia,
nhất là với các nước nhỏ trong việc bảo vệ lợi ích, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Trong bối cảnh đó, đặc biệt là trước diễn biến phức tạp
của tình hình khu vực và trên thế giới trong những năm gần đây, hơn bao giờ hết, đòi hỏi
đất nước ta phải phát triển nhanh, bền vững, nâng cao sức mạnh tổng hợp, nội lực của đất
nước về mọi mặt; đồng thời phải luôn nêu cao cảnh giác, kiên quyết bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong bất cứ hoàn cảnh
nào. Ðây là nghĩa vụ thiêng liêng và cao cả của chúng ta hôm nay trước tổ tiên và các thế
hệ cha anh đi trước, như lời Bác Hồ dạy: "Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác
cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước" và trước các thế hệ con cháu muôn đời sau. Đến
nay Đảng và Nhà nước ta vẫn luôn học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh,
chúng ta vẫn kế thừa và phát huy những tư tưởng tốt đẹp đúng đắn của Bác về việc giữ
vững độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ. Tư tưởng của Bác là ngọn đèn rọi sáng dân
tộc, đưa đất nước thoát khỏi xiềng xích, là tiếp thu tiếp nối truyền thống bảo vệ sự toàn
vẹn bờ cõi, giang sơn của cha ông ta trong suốt chiều dài lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh
quan niệm: bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia là mục tiêu chiến lược, có ý nghĩa xuyên
suốt quá trình cách mạng, chi phối đến các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa
học, ngoại giao, quân sự, quốc phòng, an ninh… của quốc gia, dân tộc. Thực tiễn cách
mạng nước ta từ khi có Đảng, nhất là thực tiễn 35 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của
Đảng đã thể hiện một cách sinh động ý chí, khát vọng phát triển của dân tộc ta. Đại hội
XIII của Đảng đã xác định các quan điểm chỉ đạo công cuộc đổi mới hiện nay, tiếp tục
đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nâng
cao tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường dân tộc, khát vọng cống hiến, phát triển đất
nước phồn vinh, hạnh phúc của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và người dân,
góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và nhiệm vụ cách mạng
trong các giai đoạn lịch sử.
Học tập, vận dụng tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về hoạt động lập pháp
trong giai đoạn ngày nay có vai trò rất quan trọng trong bối cảnh toàn Đảng toàn dân
đang tích cực chủ động thực hiện thắng lợi các định hướng, nhiệm vụ trọng tâm và đột
phá chiến lược đã xác định tại Đại hội XIII của Đảng về hoàn thiện hệ thống pháp luật,
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong đó có xây dựng và thiện pháp
luật về chủ quyền, biên giới quốc gia: tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật để kiên
quyết bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo,
vùng trời; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước. Tiếp tục luật hóa
để làm cơ sở pháp lý thực hiện thành công các chiến lược như: Chiến lược bảo vệ Tổ
quốc, Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự, Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia,
Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia và Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian
mạng... Trong đó, chú ý đến việc xây dựng cơ sở pháp lý để bảo vệ Chủ quyền quốc gia
về vùng trời như khẳng định trang trọng ngay tại Điều 1 của Hiến pháp 2013(28). Nghiên
cứu để hoàn thiện cơ sở pháp lý khẳng định và bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không
gian mạng. Tiếp tục khẳng định vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của Nhân dân trong chiến
lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Một số quan điểm của Đảng và Nhà nước CHXHCN Việt Nam về bảo vệ biên giới quốc
gia đã được kế thừa và phát huy từ quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
a. Biên giới quốc gia nước CHXHCN Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm
Đảng và nhà nước ta luôn coi trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, biên giới
quốc gia đồng thời xác định bảo vệ biên giới quốc gia gắn liền với bảo vệ lãnh thổ bảo vệ
tổ quốc. Đó là nhiệm vụ thiêng liêng bất khả xâm phạm của toàn đảng toàn quân toàn dân
nhằm bảo vệ không gian sinh tồn của dân tộc
b. Xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia là nhiệm vụ của Nhà nước và là
trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
Bảo vệ biên giới quốc gia là trách nhiệm của đảng nhà nước toàn dân toàn quân trước hết
là chính quyền nhân dân khu vực biên giới và các lực lượng vũ trang mà trong đó bộ đội
biên phòng làm nòng cốt, chuyên trách trong quản lý bảo vệ biên giới quốc gia.
c. Bảo vệ biên giới quốc gia phải dựa vào dân, trực tiếp là đồng bào các dân tộc ở biên giới
Nước ta có đường biên giới dài, đi qua địa hình phức tạp hiểm trở có vùng biển rộng. Lực
lượng chuyên trách không thể bố trí khép kín trên các tuyến biên giới vì vậy việc quản lý
bảo vệ phải dựa vào dân mà trực tiếp là các dân tộc ở vùng biên giới, đậy là lực lượng tại chỗ rất quan trọng.
d. Xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị, giải quyết các vấn đề về giới quốc gia bằng biện pháp hoà bình
Đó vừa là mong muốn vừa là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Mọi bất
đồng trong quan hệ biên giới Đảng và Nhà nước ta chủ động đàm phán thương lượng
giữa các nước hữu quan trên cơ sở bình đẳng tôn trọng độc lập chủ quyền và lợi ích chính đáng của nhau.
e. Xây dựng lực lượng vũ trang chuyên trách, nòng cốt quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia.
Đảng và nhà nước ta xác định bộ đội biên phòng là lực lượng vũ trang của Đảng và nhà
nước làm nòng cốt chuyênn trách bảo vệ chủ quền toàn vẹn lãnh thổ và an ninh trật tự
biên giới quốc gia. Nhà nước xây dựng bộ đội biên phòng theo hướng cách mạng chính
quy tinh nhuệ từng bước hiện đại có chất lượng cao, quân số và tổ chức hợp lý.
Cụ thể hơn, Nhà nước đã và đang đẩy mạnh xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh
nhân dân vững mạnh toàn diện, nâng cao hiệu quả hoạt động, đấu tranh quốc phòng.
Củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh của đất nước. Coi trọng xây dựng
tiềm lực chính trị tinh thần, chú trọng mở rộng và nâng cao chất lượng giáo dục, bồi
dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.
Đặc biệt chăm lo xây dựng thế trận lòng dân tạo sự tin tưởng, nhất trí với quyết tâm cao
trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Củng cố, hoàn thiện thế trận quốc phòng toàn
dân, an ninh nhân dân, xây dựng các tỉnh, thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc.
Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế, đối
ngoại, nâng cao hiệu quả các khu kinh tế - quốc phòng. Đẩy nhanh xây dựng lực lượng
vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, nâng cao chất lượng toàn diện và sức
mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang. Hoàn thiện các phương án bảo vệ độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, không để bị động bất ngờ. Triển khai đồng bộ,
toàn diện hoạt động đối ngoại, tích cực chủ động hợp tác quốc tế, tạo môi trường quốc tế
thuận lợi cho sự phát triển đất nước và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm môi trường
hòa bình, ổn định phục vụ sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và phát triển đất nước trên cơ sở
củng cố quan hệ với các nước láng giềng, thúc đẩy quan hệ với các nước và trung tâm
lớn. Mở rộng quan hệ với các nước độc lập dân tộc, các nước đang phát triển, phong trào
không liên kết, các đảng cộng sản, công nhân, cánh tả, các phong trào độc lập dân tộc,
cách mạng và tiến bộ trên thế giới; tiếp tục mở rộng và tăng cường quan hệ với các đảng
cầm quyền và tham chính; tiếp tục mở rộng và tăng cường quan hệ với các đoàn thể và tổ
chức nhân dân quan trọng ở các nước láng giềng; gắn kết chặt chẽ hoạt động đối ngoại
của Đảng với hoạt động ngoại giao của Nhà nước và nhân dân; thực hiện đầy đủ nghĩa vụ
của thành viên các tổ chức quốc tế, nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế. Kết hợp chặt chẽ các hình thức, biện pháp chính trị, ngoại giao, pháp lý, kinh tế,
quốc phòng, an ninh trong bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Nước Việt Nam ta độc lập! Non sông gấm vóc Việt Nam ta thống nhất, toàn vẹn từ cao
nguyên Ðồng Văn đến mũi Cà Mau, từ dãy núi rừng Trường Sơn hùng vĩ đến các quần
đảo Hoàng Sa, Trường Sa hiên ngang trong sóng gió Biển Ðông! Ðất nước Việt Nam, do
ông cha để lại, dọc ba miền Bắc-Trung-Nam liền một dải, đẹp đẽ vô cùng và thiêng liêng
vô giá. Ðồng bào Việt Nam ta dù ở miền xuôi hay miền ngược, đang ở trong nước hay ở
nước ngoài đều là đồng bào con Lạc, cháu Hồng, cùng chung tay xây dựng một nước Việt
Nam hòa bình, thịnh vượng và giữ gìn vững chắc non sông gấm vóc của Tổ quốc. Kết luận
Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng lỗi lạc, có nhiều cống hiến kiệt xuất vào kho tàng tư
tưởng – lý luận của dân tộc và nhân loại. Qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, thế giới
đều thừa nhận có tư tưởng Hồ Chí Minh và bản thân Người thực sự là một nhà tư tưởng,
nhà lý luận vĩ đại của thời đại chúng ta.Với mỗi người dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh không chỉ là biểu tượng sáng ngời về đạo đức cách mạng, tấm gương hi sinh, hiến
dâng trọn đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc; Người còn để lại cho các
thế hệ mai sau một di sản tinh thần vô cùng quý báu, đó là tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư
tưởng về độc lập dân tộc, giải phóng đất nước. Người cho rằng độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các thuộc địa không hoàn toàn
phụ thuộc vào cách mạng ở chính quốc, nhân dân thuộc địa có thể đứng lên tự giải phóng
chính mình, cuộc cách mạng có thể thắng lợi trước ở một nước thuộc địa. Cách mạng giải
phóng dân tộc muốn thắng lợi thì phải đi theo con đường cách mạng vô sản, cách mạng
giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng phương pháp bạo lực cách mạng, phải dựa
trên lực lượng đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh công nông làm nền tảng. Ngoài ra Bác
còn đanh thép khẳng định độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm, Bác
luôn lo cho đời sống nhân dân Bác nói độc lập mà dân không đủ no, áo không đủ mặc thì
độc lập không có ý nghĩa gì. Độc lập phải toàn diện, triệt để trên mọi lĩnh vực, phải độc
lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (2016), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.