














Preview text:
lOMoAR cPSD| 61431571
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------***-------
BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN: TRIẾT HỌC – LÊNIN
ĐỀ TÀI: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC. VÀ
SỰ VẪN DỤNG CỦA ĐẢNG TA HIỆN NAY
Họ và tên SV: Nguyễn Tuấn Anh
Lớp học phần: LLNL1105(124)_52 Mã SV: 11247382
GVHD: THS.NCS NGUYỄN VĂN THUÂN HÀ NỘI, NĂM 2024 lOMoAR cPSD| 61431571 MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 2
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 2
2. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................... 3
3. Nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................................... 3
4. Đối tượng nghiên cứu .......................................................................................... 3
5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 4
B. PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................... 5
1. Lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức ........ 5
1.1. Phạm trù vật chất ........................................................................................... 5
1.2. Phạm trù ý thức ............................................................................................. 6
1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức ............................................. 8
2. Sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường ở Việt
Nam hiện nay.......................................................................................................10
2.1. Những đặc trưng mang tính quy luật, bản chất của kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.....................................................................................10
2.2. Thành tựu đạt được trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường ở Việt Nam
hiện nay............................................................................................................12
2.3. Hạn chế còn tồn tại....................................................................................13
2.4. Giải pháp để hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế và phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.................................................................14
C. PHẦN KẾT LUẬN...........................................................................................15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................16
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thời gian qua, những thành tựu trong công cuộc đổi mới đã và đang tạo ra một lợi
thế để đất nước ta bước vào một thời kỳ phát triển mới. Mối quan hệ hợp tác song
phương giữa nước ta và các quốc gia khác trên thế giới đang ngày càng được mở
rộng, nhiều tiền đề cần thiết về công nghiệp hóa và hiện đại hóa đã được tạo ra để lOMoAR cPSD| 61431571
phục vụ cho nhu cầu phát triển nền kinh tế đất nước. Cách mạng khoa học và công
nghệ tiếp tục với những bước tiến lớn với trình độ ngày càng cao, thúc đẩy chuyển
dịch kinh tế và đời sống xã hội.
Các nước đều có cơ hội để phát triển, tuy nhiên do ưu thế công nghệ và thị trường
thuộc về các nước đang phát triển khiến cho các nước chậm phát triển đang phải đối
mặt với những thách thức hết sức to lớn. Là một đất nước có xuất phát điểm thấp,
phải đi lên từ môi trường cạnh tranh khốc liệt, chính vì vậy nguy cơ tụt hậu của đất nước ta là vô cùng cao.
Trước tình hình đó, cùng với xu thế phát triển của thời đại, Đảng và nhà nước ta cần
tiếp tục tiến hành quá trình xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Việc đó có mối quan hệ chặt chẽ giữa vật chất và ý thức sẽ cho phép ta vận dụng mối
quan hệ giữa kinh tế và chính trị, giúp cho công cuộc đổi mới ngày càng diễn ra mạnh
mẽ, đưa đất nước phát triển ngày càng giàu mạnh, khẳng định được vị thế của mình
trên khắp các châu lục.
Với ý nghĩa trên, em đã lựa chọn đề tài “Lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin về mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức. Sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình xây dựng
kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” Do kiến thức bản thân còn hạn chế cho nên
bài viết sẽ không thể tránh khỏi nhiều thiếu sót. Vậy kính mong sự góp ý của thầy
giáo cùng toàn thể bạn đọc.
2. Mục đích nghiên cứu
Qua nghiên cứu đề tài, tác giả muốn mọi người hiểu rõ định nghĩa vật chất và ý
thức, thấu hiểu được mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giúp mọi người có cái nhìn
tổng quan và toàn diện hơn về quá trình xây dựng kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ khái niệm, bản chất, nguồn gốc của ý thức và vật chất.
- Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
- Khảo sát, trình bày thực trạng vận dụng của Đảng trong quá trình xây dựngkinh tế
thị trường ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng nghiên cứu
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình xây
dựng kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. lOMoAR cPSD| 61431571
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: tiến hành thu thập và nghiên cứu, phân tích thông
tin từ sách khoa học, giáo trình, website chính thống. Phương pháp này giúp tác giả
tìm hiểu về cơ sở lý luận, chỉ ra các khái niệm và mối quan hệ giữa vật chất và ý thức,
đồng thời cập nhật được thông tin mới nhất về quá trình xây dựng kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. lOMoAR cPSD| 61431571
B. PHẦN NỘI DUNG
1. Lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
1.1. Phạm trù vật chất Khái niệm vật chất
Xuất hiện cùng với sự xuất hiện của triết học trong lịch sử, vật chất là 1 phạm trù
triết học có lịch sử khoảng 2500 năm. Ngay từ khi mới ra đời, xung quanh phạm trù
vật chất đã diễn ra nhiều cuộc đấu tranh gay gắt giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm. Thực thể thế giới là vật chất tồn tại vĩnh cửu, tạo nên mọi sự vật hiện tượng
và các thuộc tính của chúng, theo chủ nghĩa duy vật. Chủ nghĩa duy tâm lại cho rằng
cơ sở tồn tại của thế giới là do ý Chúa, do ý niệm tuyệt đối tạo nên. Vì vậy, họ cho
rằng vật chất chỉ là một phạm trù trống rỗng, phi hiện thực, một ý niệm tưởng tượng
của các nhà duy vật. Phạm trù vật chất có quá trình phát sinh phát triển gắn liền với
hoạt động thực tiễn của con người và sự hiểu biết của con người về thế giới tự nhiên.
Việc tìm hiểu, khám phá về bản chất, cấu trúc của thế giới xung quanh con người
luôn luôn là một vấn đề được quan tâm trong các trường phái triết học duy vật. Vào
thời kỳ trước khi của triết học Mác ra đời, người ta quan niệm, tìm mọi cách để tìm
hiểu, để giải thích nguyên thể cơ bản đầu tiên cấu tạo nên thế giới. Vì vậy, phạm trù
vật chất xuất hiện từ khá sớm và được đặc biệt quan tâm. Chủ nghĩa duy vật khẳng
định thực thể tạo nên thế giới khách quan và các vật thể nói riêng đó là vật chất và nó
tồn tại vĩnh cửu. Tuy nhiên, việc lập luận và lý giải về vật chất của các nhà triết học
ở thời kỳ trước Mác là không đồng nhất với nhau. Trên cơ sở ra đời của các phát
hiện khoa học cuối thế kỉ XIX như tia phóng xạ, điện tử, hạt Quắc… Lênin khẳng
định: “ Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác chụp lại, phản ảnh và tồn tại không
lệ thuộc vào cảm giác." [CITATION Nhà1\ 1 1033 ]. Đây là định nghĩa khoa học nhất,
hoàn chỉnh nhất của Lênin. Lênin chỉ rõ rằng, để định nghĩa vật chất, không thể làm
theo cách thông thường là quy một khái niệm cần định nghĩa sang một khái niệm
khác rộng hơn vì khái niệm vật chất là một khái niệm rộng nhất. Để định nghĩa vật
chất, Lênin đã đối lập vật chất với ý thức, hiểu vật chất là thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, vật chất tồn tại độc lập đối với cảm giác, với
ý thức, còn cảm giác, ý thức phụ thuộc vào vật chất, phản ánh vật chất. Lênin nhấn
mạnh rằng, phạm trù triết học này dùng để chỉ cái “Đặc tính duy nhất của vật chất mà lOMoAR cPSD| 61431571
chủ nghĩa duy vật triết học gắn liền với việc thừa nhận đặc tính này - là cái đặc tính
tồn tại với tư cách là hiện thực khách quan, tồn tại ở ngoài ý thức chúng ta" [CITATION Nhà1\ 1 1033 ].
Đặc tính của vật chất
Vận động là phương thức tồn tại, là thuộc tính cố hữu của vật chất. Ph.Ăngghen
viết: "Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là phương thức tồn tại
của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi
và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy"
[CITATION PHĂ25\ 1 1033 ]. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất nghĩa là
vật chất tự tồn tại thông qua vận động và nhờ vật chất vận động mà con người nhận
biết được thế giới. Mỗi một sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động khác
nhau trong sự tồn tại của nó. Tuy nhiên bản thân sự tồn tại của sự vật ấy đặc trưng
bằng một hình thức vận động cơ bản. Đứng im có tính tương đối và tạm thời (còn vận
động là tuyệt đối) bởi vì đứng im chỉ diễn ra trong một hình thức vận động nhất định,
trong một quan hệ nhất định và trong một thời gian nhất định. Như vậy, đứng im
chính là một trạng thái đặc biệt của vận động của vật chất. Do đó, vận động bao hàm
sự đứng im. Ph.Ăngghen kết luận: "Mọi sự cân bằng chỉ là tương đối và tạm thời" [
CITATION PhA25\ 1 1033 ]. Vật chất luôn vận động và phát triển, sự vận động không
đâu khác ngoài “không gian và thời gian". Không gian, thời gian là thuộc tỉnh của vật
chất tồn tại gắn liền với nhau và gắn liền với vật chất. Vật chất tồn tại khách quan, do
đó không gian và thời gian cũng tồn tại khách quan. Theo Ph.Ăngghen, vật chất vĩnh
cửu và vô tận trong không gian và trong thời gian. Trong không gian tồn tại tỉnh ba
chiều, lần lượt là chiều dài, chiều rộng và chiều cao. Tính một chiều của thời gian là
chiều từ quá khứ đến tương lai. Như vậy, không gian, thời gian và vận động là những
hình thức, phương thức tồn tại tất yếu, vốn có của vật chất. Con người nhận thức vật
chất thông qua các hình thức và phương thức tồn tại của nó.
1.2. Phạm trù ý thức Khái niệm ý thức
Vật chất và ý thức là hai hiện tượng chung nhất của thế giới hiện thực, mặc dù khác
nhau về bản chất, nhưng giữa chúng luôn có mối liên hệ không tách rời. Do vậy, muốn
hiểu đúng bản chất của ý thức cần xem xét nó trong mối quan hệ qua lại với vật chất,
mà chủ yếu là đời sống hiện thực có tính thực tiễn của con người. Bản chất ý thức là lOMoAR cPSD| 61431571
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo
hiện thực khách quan của óc người.
Như vậy, khi xem xét ý thức từ mặt bản thể luận, thì ý thức chỉ là "hình ảnh" về
hiện thực khách quan trong óc người. Đối với con người, cả ý thức và vật chất đều là
hiện thực, nghĩa là đều tồn tại thực. Nhưng cần phân biệt giữa chúng có sự khác nhau,
đối lập nhau về bản chất: vật chất là hiện thực khách quan; còn ý thức là hiện thực
chủ quan. Ý thức là cái phản ảnh thế giới khách quan, ý thức không phải là sự vật,
mà chỉ là "hình ảnh" của sự vật ở trong óc người. Ý thức tồn tại phi cảm tính, đối lập
với các đối tượng vật chất mà nó phản ánh luôn tồn tại cảm tính. Thế giới khách quan
là nguyên bản, là tính thử nhất. Còn ý thức chỉ là bản sao, là "hình ảnh" về thế giới đó, là tỉnh thứ hai...
Ý thức là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan. Nội dung mà ý thức phản ánh
là khách quan, còn hình thức mà nó phản ánh là chủ quan. Ý thức là cái vật chất ở
bên ngoài "di chuyển" vào trong đầu óc của con người và được cải biến đi ở trong đó.
Ph. Ăngghen đã từng chỉ rõ: " Trên thực tế, bất kỳ phản ánh nào của hệ thống thế giới
vào trong tư tưởng cũng đều bị hạn chế về mặt khách quan bởi những điều kiện lịch
sử, và về mặt chủ quan bởi đặc điểm về thể chất và tinh thần của tác giả. " [CITATION CMá94\ 1 1033] Nguồn gốc ý thức
Theo triết học duy vật biện chứng, ý thức của con người là sản phẩm của quá trình
phát triển của cả tự nhiên và xã hội. Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên của ý
thức là bộ óc con người và hoạt động của nó cùng mối quan hệ giữa con người với
thế giới khách quan. Như vậy, ý thức chính là sự phản ánh của con người về thế giới
khách quan. Bộ óc con người là cơ quan vật chất của ý thức. Ý thức không thể tách
rời khỏi hoạt động của bộ óc. Nguồn gốc tự nhiên là yếu tố cần để cho ra đời ý thức.
Song, như vậy vẫn là chưa đủ. Nhân tố cơ bản nhất và trực tiếp nhất tạo thành nguồn
gốc xã hội của ý thức chính là lao động và ngôn ngữ.
Bản chất của ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan
vào bộ não người thông qua hoạt động thực tiễn, nên bản chất của ý thức là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh sáng tạo thế giới vật chất. Ý thức
ra đời trong quá trình con người lao động để cải tạo thế giới nên sự phản ánh của ý
thức không phải thụ động như sao chép, chụp ảnh mà có tính năng động, sáng tạo.
Theo CácMac và Ăngghen, ý thức “ chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào lOMoAR cPSD| 61431571
trong óc con người và được cải biển đi trong đó ”. Nếu xét theo bình diện cắt ngang,
ý thức bao gồm tri thức, tình cảm, niềm tin, ước muốn... Trong đó, trì thức là hạt nhân
của ý thức. Còn nếu xét theo chiều sâu của ý thức, ý thức bao gồm tiềm thức, vô thức
và tự ý thức. Trên cơ sở những cái đã có, ý thức có thể tạo ra tri thức mới về sự vật,
có thể tưởng tượng ra cái không có trong thực tế. Nó có thể dự báo, tiên đoán tương
lai một cách tương đối chính xác, hoặc có thể tạo ra những ảo tưởng. Thậm chí, một
số người còn có khả năng tiên tri, ngoại cảm, thấu thị.
1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
Vai trò của vật chất đối với ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng xuất phát từ con người hiện thực, con người thực tiễn
để xem xét mối quan hệ này. Từ đó khẳng định, vật chất có trước, ý thức có sau, vật
chất quyết định ý thức và ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động của con người.
Vật chất quyết định ý thức: Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất quyết định
nguồn gốc, bản chất, nội dung, sự biến đổi của ý thức. 1
- Vật chất quyết định nguồn gốc ý thức: não người là dạng vật chất cao có
tínhchất của vật chất là cơ quan phản ánh để hoàn thành ý thức. Phải có sự vận động
của vật chất trong tự nhiên (bộ óc người và thế giới khách quan) và vật chất trong xã
hội (lao động và ngôn ngữ) thì mới có sự ra đời ý thức. 2
- Vật chất quyết định bản chất ý thức: Bản chất của ý thức là phản ánh tíchcực,
sáng tạo hiện thực khách quan, tức là thế giới vật chất được “dịch chuyển” vào bộ óc
con người và được cải biên trong đó. Vậy nên vật chất là cơ sở để hình thành bản chất của ý thức. 3
- Vật chất quyết định nội dung ý thức: Dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều
làphản ánh hiện thực khách quan. Nội dung của ý thức là kết quả của sự phản ánh
hiện thực khách quan trong đầu óc con người. Sự phát triển của hoạt động thực tiễn
là động lực mạnh mẽ quyết định tính phong phú và độ sâu sắc của nội dung của ý
thức con người qua các thế hệ. 4
- Vật chất quyết định sự biến đổi ý thức: Mọi sự tồn tại, phát triển của ý
thứcđều gắn liền với sự biến đổi của vật chất. Vật chất thay đổi thì ý thức cũng thay đổi theo.
Vật chất luôn vận động và biến đổi nên con người cũng ngày càng phát triển cả về
thể chất lẫn tinh thần, từ đó ý thức cũng phát triển cả về nội dung và hình thức phản lOMoAR cPSD| 61431571
ánh. Vật chất là tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của ý thức nên khi vật chất thay
đổi thì ý thức cũng phải thay đổi theo.
Ví dụ: Ở Việt Nam, nhận thức của các học sinh cấp 1, 2, 3 về công nghệ thông tin
là rất yếu kém sở dĩ như vậy là do về máy móc cũng như đội ngũ giáo viên giảng dạy
còn thiếu. Nhưng nếu vấn đề về cơ sở vật chất được đáp ứng thì trình độ công nghệ
thông tin của các em sẽ tốt hơn nhiều. Vai trò của ý thức đối với vật chất
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua
hoạt động thực tiễn của con người.
Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực. Muốn thay
đổi hiện thực, con người phải tiến hành những hoạt động vật chất. Song, mọi hoạt
động của con người đều do ý thức chỉ đạo, nên vai trò của ý thức không phải trực tiếp
tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà là trang bị cho con người trì thức về thực tại
khách quan, trên cơ sở ấy con người xác định mục tiêu, đề ra phương hướng, kế
hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp, công cụ, phương tiện, v.v. để thực hiện mục
tiêu của mình. Ở đây, ý thức đã thể hiện sự tác động của mình đối với vật chất thông
qua hoạt động thực tiễn của con người.
Các yếu tố tình thần trên đều tác động trở lại vật chất một cách mạnh mẽ. Ví dụ,
nếu tâm trạng của người công nhân mà không tốt thì làm giảm năng suất của một dây
chuyền sản xuất trong nhà máy; nếu không có đường lối cách mạng đúng đắn của
đảng ta thì dân tộc ta cũng không thể giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và Mĩ. Cũng như Lê-nin đã nói “Không có lý luận cách mạng thì cũng
không thể có phong trào cách mạng" [CITATION VIL02 \1 1033].
Ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan sẽ thúc đẩy hoạt động thực tiễn của
con người trong quá trình cải tạo vật chất. Khi phản ánh đúng hiện thực khách quan
thì chúng ta hiểu bản chất quy luật vận động của các sự vật hiện tượng trong thế giới quan. lOMoAR cPSD| 61431571
Ví dụ: Hiểu tính chất vật lý của thép là nóng chảy ở hơn 10,000 độ C, con người
tạo ra các nhà máy gang thép để sản xuất cách loại thép với đủ các kích cỡ chủng
loại, chứ không phải bằng phương pháp thủ công xa xưa.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực hoặc
tiêu cực. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có nghị lực, có ý chí
thì hành động của con người phù hợp với các quy luật khách quan, con người có năng
lực vượt qua những thách thức trong quá trình thực hiện mục đích của mình - đó là
sự tác động tích cực. Còn nếu ý thức của con người phản ánh không đúng hiện thực
khách quan, bản chất, quy luật khách quan thì hướng hành động của con người đã đi
ngược lại các quy luật khách quan ngay từ đầu, hành động ấy sẽ có tác dụng tiêu cực
đối với hiện thực khách quan.
Ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động của con người. Nó có thể thúc
đẩy hoặc kìm hãm ở một mức độ nhất định, các điều kiện vật chất góp phần cải tạo
hình thức khách quan. Nếu phản ánh đúng hiện thực khách quan – nó thúc đẩy, ngược
lại, nó cản trở. Xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là
khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp trong thời hiện đại.
Ví dụ: Chủ trương đổi mới cơ chế quan liêu bao cấp, cản trở phát triển con người,
gây khủng hoảng kinh tế xã hội
Nói ngắn gọn, quan hệ vật chất và ý thức là quan hệ hai chiều tác động biện chứng,
trong đó vật chất quyết định ý thức còn ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt
động thực tiễn của con người. 2.
Sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường ở
Việt Nam hiện nay
2.1. Những đặc trưng mang tính quy luật, bản chất của kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường là hình thức kinh tế phổ biến chi phối mọi nền sản xuất xã hội.
Các quy luật của kinh tế thị trường, như quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật
cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ... biểu hiện qua sự biến động của quan hệ hàng
- tiền, quan hệ giá cả, các quan hệ cung - cầu, quan hệ cạnh tranh... Nền kinh tế thị
trường tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình doanh
nghiệp... Theo sự phân công lao động xã hội ngày càng phát triển; quan hệ giữa người lOMoAR cPSD| 61431571
sản xuất hàng hóa và người tiêu dùng tồn tại khách quan, do quy luật khách quan chi phối.
Nhìn biểu hiện bề ngoài, kinh tế thị trường là cạnh tranh, là hình thành giá một cách
tự phát theo tương quan lực lượng giữa cung và cầu thông qua cơ chế thỏa thuận, tự
nguyện, là quyền tự do kinh doanh (tự do sản xuất, tự do mua và bán). Nhưng, bản
chất của kinh tế thị trường là quan hệ hàng - tiền - hàng, hình thức được con người
lựa chọn để kết nối các hoạt động mang tính tự do sản xuất, kinh doanh, tự do sáng
tạo nhằm duy trì sự tồn tại xã hội về mặt kinh tế.
Như vậy, kinh tế thị trường là hình thái kinh tế, trong đó lực lượng sản xuất được
tự do phát triển, áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất ngày càng nhanh hơn nhờ con
người được tự do phát triển những năng lực tiềm tàng của mình. Phát triển nền kinh
tế thị trường đòi hỏi dân chủ hóa nền kinh tế, tự do hóa kinh tế để giải phóng và phát
triển sản xuất xã hội, mở đường cho lực lượng sản xuất xã hội phát triển ngày càng
hiện đại. Lợi ích kinh tế là động lực phát triển quan trọng nhất của nền kinh tế thị
trường, mà trước hết là lợi ích của các nhà đầu tư, người sản xuất, người lao động,
người tiêu dùng, của tập thể, nhà nước và toàn xã hội. Sự vận động của nền kinh tế
thị trường hướng đến sự cân bằng động về cơ cấu các ngành, các lĩnh vực sản xuất...
theo hướng ngày càng hợp lý hơn.
Kinh tế thị trường vừa là điều kiện, vừa là biểu hiện trình độ xã hội hóa của nền sản
xuất xã hội. Kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản
và cũng không mâu thuẫn với chủ nghĩa xã hội, ngược lại, phát triển kinh tế thị trường
là con đường, là phương thức, là điều kiện nền tảng để đi tới chủ nghĩa xã hội đích
thực trong tương lai. Kinh tế thị trường là môi trường thuận lợi nhất hợp quy luật
khách quan để lực lượng sản xuất phát triển, lực lượng sản xuất càng phát triển, càng
hiện đại, càng đòi hỏi phải có quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với nó, mà quan hệ
sản xuất tiến bộ, phù hợp chính là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Do vậy, quá
trình phát triển kinh tế thị trường cũng là quá trình phát triển theo tự nhiên để xã hội
loài người đi lên chủ nghĩa xã hội theo đúng nghĩa của nó. "Nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động
lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, lOMoAR cPSD| 61431571
hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động
và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng
sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng
và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và
lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định
hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường;
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát
huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội” [CITATION Văn16 \l 1033 ]
2.2. Thành tựu đạt được trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay 1
- Từ khi đổi mới, nền kinh tế liên tục tăng trưởng, theo số liệu năm 2021
củaNgân hàng Thế giới, trong giai đoạn từ năm 1986 - 2020, tốc độ tăng trưởng GDP
của Việt Nam đạt bình quân 6,44%, cao hơn mức trung bình của thế giới (2,92%) và
của khu vực kinh tế năng động là Đông Á và Thái Bình Dương (4,82%); quy mô nền
kinh tế được mở rộng, năm 2020 đạt khoảng 271,1 tỷ USD, tăng gấp 10 lần so với
năm 1986; chất lượng tăng trưởng được cải thiện với năng suất lao động tăng gấp 5
lần so với năm 2006. Từ nền kinh tế với tỷ trọng chủ yếu là nông nghiệp vào những
năm 1990, nền kinh tế hiện nay đã dựa nhiều hơn vào công nghiệp, xây dựng và dịch
vụ với tỷ trọng của các khu vực này trong GDP chiếm trên 75%. 2
- Thể chế kinh tế thị trường từng bước được hoàn thiện. Môi trường đầu tư
vàkinh doanh ngày càng được cải thiện. Theo số liệu thống kê năm 2021 của Ngân
hàng Thế giới, năm 2020, Việt Nam xếp hạng 70/190 quốc gia trên thế giới, xếp thứ
7/47 nước có thu nhập trung bình thấp và xếp thứ 8/25 nước Đông Á và Thái Bình
Dương; năng lực cạnh tranh quốc gia từng bước được nâng lên; chỉ số sáng tạo liên
tục tăng đã giúp cho nền kinh tế vươn lên nhóm nửa trên bảng xếp hạng toàn cầu.
Xếp hạng về phát triển bền vững cũng tăng từ thứ 88 năm 2016 lên thứ 49 năm 2020,
cao hơn nhiều so với các nước có cùng trình độ phát triển kinh tế 3
- Từ một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới, năm 2008, Việt Nam đã
trởthành nước có thu nhập trung bình với GDP bình quân đầu người đạt trên 1.000
USD. Đến năm 2020 đạt khoảng 3.000 USD. Chỉ trong hai thập kỷ, đã có khoảng 30 lOMoAR cPSD| 61431571
triệu người Việt Nam thoát nghèo; tỷ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng
1,5%. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm được giữ ở mức thấp và có xu hướng giảm
dần. Tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi năm 2020.
Tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông và chỉ số phát triển con người có nhiều cải thiện. 4
- Hệ thống các thị trường được hình thành và từng bước phát triển theo
hướngđồng bộ hơn và gắn kết hơn với thị trường quốc tế. Hầu hết các loại giá hàng
hóa, dịch vụ được xác lập theo nguyên tắc thị trường; giá một số loại hàng hóa, dịch
vụ thiết yếu (điện, nước sạch, xăng, dầu…) từng bước được điều chỉnh phù hợp hơn
theo cơ chế thị trường. 5
- Việt Nam ngày càng hội nhập sâu và rộng vào nền kinh tế khu vực và toàncầu;
đã ký kết 15 hiệp định thương mại tự do (tính đến tháng 12-2021), kết nối nền kinh
tế với phần lớn các thị trường trọng điểm trên thế giới, trong đó có những hiệp định
thương mại tự do thế hệ mới với tiêu chuẩn chất lượng rất cao.
2.3. Hạn chế còn tồn tại
Thứ nhất, quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa diễn ra chậm, nên đã tạo ra sự thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán và những bất cập
trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường; do vậy, chưa huy động được tối
đa tiềm lực để phát triển kinh tế. Mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội
chưa được xử lý phù hợp, rõ ràng, minh bạch.
Thứ hai, tăng trưởng kinh tế còn chậm, chưa bền vững, vẫn ở dưới mức tiềm năng,
lực lượng sản xuất chưa được giải phóng triệt để, năng suất lao động thấp, khả năng
cạnh tranh quốc tế chưa cao.
Thứ ba, việc phân bổ các nguồn lực cho phát triển còn dàn trải, lãng phí, chưa công
bằng, chưa đem lại hiệu quả cao; vấn đề phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội,
tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng; đời sống vật chất và tinh thần của một bộ phân
dân cư, nhất là nông dân ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa chậm được cải thiện, ít được
hưởng lợi từ thành quả tăng trưởng chung của nền kinh tế. Yếu tố vật chất được đề
cao, yếu tố tinh thần, đạo đức có lúc, có nơi bị xem nhẹ. Do vậy, đã xuất hiện những
biểu hiện của chủ nghĩa vị kỷ, cá nhân, coi trọng đồng tiền, xem thường truyền thống
đạo lý, tác động xấu tới đời sống xã hội.
2.4. Giải pháp để hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế và phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa lOMoAR cPSD| 61431571
Thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, xác định “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình
kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” [ CITATION
Văn21 \l 1033 ]. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy
đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng
xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Kinh tế nhà nước là công cụ, lực
lượng vật chất quan trọng đế Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết,
dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị
trường. Các nguồn lực kinh tế của Nhà nước được sử dụng phù hợp với chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phát triển đất nước và được phân bổ theo cơ chế thị trường.
Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn. Xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận
lợi thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh
tế số; hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mô hình
kinh doanh mới. Tập trung sửa đổi những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, cản trở phát triển kinh tế. C. PHẦN KẾT LUẬN
Tầm nhìn tổng thể về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là vấn đề hết sức cần thiết đối với nước ta. Những khó khăn, thách thức mà sẽ phải
đối mặt cũng rất lớn buộc chúng ta phải không ngừng phấn đấu và nỗ lực hơn nữa để
vượt qua. Hơn thế nữa chủ nghĩa xã hội lại là một hiện tượng mới mẻ, đang vận động
hình thành trong lịch sử loài người. Bởi vậy, bám sát thực tiễn nghiên cứu và tổng kết
thực tiễn để phát triển lý luận - đó là yêu cầu to lớn mà thực tiễn đặt ra cho hoạt động
lý luận của Đảng hiện nay. Văn kiện Đại hội lần thứ XIII, Đảng nhiều lần nhấn mạnh:
“Kinh tế thị trường định hướng xã hôi chủ nghĩa là mô hình phát triển tổng quát của
nền kinh tế Việt Nam”. Đây là đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng, thành
quả lý luận quan trọng qua hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực
tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới; là kiểu kinh tế thị
trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường. Đây cũng là cống hiến to lOMoAR cPSD| 61431571
lớn vào kho tàng lý luân của chủ nghĩa Mác Lênin; một phát hiện đầy tính sáng tạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thực tiễn chứng minh, xác nhận.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ăngghen, P. (1925). Biện chứng của tự nhiên.
C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, tập 20. (1994). NXB Chính trị quốc gia.
Lênin, V. I. (1902). Làm gì?
Định, Đ. Q. (2021, 7 18). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Retrieved from Tạp chí Cộng sản:
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/823673/mot-so-van-
dely-luan-va-thuc-tien-ve-nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-o- vietnam.aspx
Sơn, N. H. (2022, 3 4). Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa - Sự đột phá về lý luận và xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Retrieved from Tạp chí Cộng sản:
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/media-story/-/asset_publisher/
V8hhp4dK31Gf/content/xay-dung-nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-
chunghia-su-dot-pha-ve-ly-luan-va-xay-dung-chu-nghia-xa-hoi-cua-dang-cong- sanviet-nam
Phúc, V. V. (2017, 4 8). Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là phù hợp quy luật khách quan trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Retrieved from Cổng thông tin điện tử Viện Chiến lược và chính sách tài
chính: https://mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/pages_r/l/chi-tiet-tin? dDocName=MOFUCM107947
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2022). Giáo trình Triết học Mác - Lênin (Dành cho
bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị). Hà Nội: NXB Chính trị và sự thật.
V. I. Lê-nin toàn tập, tập 18. (1981). NXB Chính trị quốc gia.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. (2016). (pp. 102-103). Hà Nội:
Văn phòng Trung ương Đảng.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. (2021). (pp. 53-54). Hà Nội:
Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật