Bài tập Môi trường và phát triển bền vững chủ đề Dịch bệnh | Đại học Nội Vụ Hà Nội

1. Dịch bệnh: là sự lây lan nhanh chóng của một bệnh truyền nhiễm với số lượnglớn những người bị nhiễm trong một cộng đồng hoặc một khu vực trong vòng mộtthời gian ngắn, thường là hai tuần hoặc ít hơn.Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem.

Trường:

Đại Học Nội Vụ Hà Nội 1.1 K tài liệu

Thông tin:
13 trang 2 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Bài tập Môi trường và phát triển bền vững chủ đề Dịch bệnh | Đại học Nội Vụ Hà Nội

1. Dịch bệnh: là sự lây lan nhanh chóng của một bệnh truyền nhiễm với số lượnglớn những người bị nhiễm trong một cộng đồng hoặc một khu vực trong vòng mộtthời gian ngắn, thường là hai tuần hoặc ít hơn.Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem.

91 46 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD| 45470709
Chủ đề: Dịch bệnh
Nhóm: 5
Học phần: Môi trường và phát triển bền vững
Giảng viên: Lê Thị Hường
I. Khái niệm dịch bệnh, đại dịch. Nêu sự khác biệt giữa dịch bệnh và đại dịch
1. Dịch bệnh: là sự lây lan nhanh chóng của một bệnh truyền nhiễm với số
lượng lớn những người bị nhiễm trong một cộng đồng hoặc một khu vực trong
vòng một thời gian ngắn, thường là hai tuần hoặc ít hơn.
2. Đại dịch là bệnh dịch tễ do nhiễm khuẩn , lây lan nhanh, xảy ra đồng thời ở
một vùng dân cư rộng lớn.
Tổ chức Y tế Thế giới - WHO định nghĩa về đại dịch như sau: “Một đại dịch
sự lây lan trên toàn thế giới của một căn bệnh mới”. Một căn bệnh đặc hữu phổ biến
và ổn định về số lượng người mắc bệnh thì đó không phải là một đại dịch. Như vậy,
để một căn bệnh được gọi đại dịch thì phải đảm bảo hai yếu tố đó phải
một căn bệnh mới và nó phải lây lan rộng trên toàn thế giới.
3. sự khác biệt giữa dịch bệnh và đại dịch
*Khu vực bị ảnh hưởng
Dịch bệnh:
Một vụ dịch có thể được coi là một đợt bùng phát cục bộ. Đây là một sự kiện cụ th
của một địa điểm cụ thể, sự lan truyền của thường giới hạn trong một thành
phố hoặc khu vực và thường không mở rộng ra ngoài biên giới của quốc gia.
Đại dịch
Mặt khác, một đại dịch thể được coi một đợt bùng phát toàn cầu. Ít thường
xuyên hơn nhiều so với dịch bệnh , đại dịch là sự kiện dịch bệnh vượt qua biên giới
mặc nó không có nghĩa là ảnh hưởng trên toàn thế giới, một số quốc gia bị ảnh
hưởng bởi nó.
Đại dịch đáp ứng tốt nhất định nghĩa này là đại dịch xuất hiện vào những năm 1980
và tiếp tục lan rộng khắp thế giới ngày nay.
*Nguyên nhân gây bệnh
lOMoARcPSD| 45470709
Mặc dù, giống như tất cả các bệnh truyền nhiễm, tác nhân gây bệnh vi sinh vật,
nhưng sự khác biệt quan trọng về các mầm bệnh gây ra mỗi skiện này: Dịch
bệnh:
Nói rộng ra, một vụ dịch là do các mầm bệnh mà chúng ta đã "quen" gây ra. Chúng
thường được gây ra bởi các vi sinh vật gây bệnh đã lưu hành trong các hệ sinh thái
trong một thời gian dài.
Tiếp xúc với con người nhiều lần, hệ thống miễn dịch của chúng ta đã nhận ra chúng.
Chúng được gây ra bởi vi khuẩn hoặc vi rút không mới đối với cơ thể chúng ta.
Mặt khác, các đại dịch thường được gây ra bởi các mầm bệnh chúng ta không
"quen". Các mầm bệnh gây ra chúng chưa bao giờ tiếp xúc với con người, vì vậy hệ
thống miễn dịch của chúng ta không được chuẩn bị để chống lại chúng và sự lây lan
của chúng rõ ràng hơn nhiều.
II. Một số đại dịch trên thế giới 1. HIV
HIV: Là tên của loại virus gây suy giảm hệ miễn dịch ở người, gây nên bệnh AIDS.
AIDS: Là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người do virus HIV gây nên.
1. Circa 1900: Từ Khỉ đến Người
Từ năm 1884 đến năm 1924, tại một nơi nào đó Tây Trung Phi, thợ săn đã giết một
con tinh tinh. Một phần máu của con vật xâm nhập vào cơ thể người thợ săn, có th
qua vết thương hở. Máu mang một loại vi rút hại đối với tinh tinh nhưng gây chết
người, đó là HIV.
2. 1981: Các trường hợp đầu tiên được công nhận
Vào tháng 6, CDC Hoa Kỳ (Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ
hay Trung tâm phòng chống dịch bệnh Hoa Kỳ (tiếng Anh: Centers for Disease
Control and Prevention, viết tắt CDC)) công bố một báo cáo từ Los Angeles về
năm người đàn ông đồng tính trẻ tuổi bị viêm phổi do PCP gây tử vong hoặc đe dọa
tính mạng.
3. 1982: Bệnh AIDS được đặt tên
CDC Hoa Kỳ gọi căn bệnh mới là hội chứng suy giảm miễn dịch hoặc AIDS.
lOMoARcPSD| 45470709
4. 1983: Các nhà khoa học phát hiện ra HIV
Các nhà nghiên cứu người Pháp đã phân lập một loại virus từ tuyến bạch huyết sưng
lên của một người bị AIDS. Họ gọi nó là virus liên quan đến bệnh hạch hoặc LAV..
Mãi đến năm 1986, mọi người mới đồng ý gọi vi rút HIV vi rút suy giảm miễn
dịch ở người.
5. 1985: Bắt đầu thử nghiệm
Vào tháng 3, FDA chấp thuận ELISA - phương pháp xét nghiệm máu thương mại
đầu tiên cho HIV
6. 1988: Ngày thế giới phòng chống AIDS
Tổ chức Y tế Thế giới công nhận Ngày Thế giới phòng chống AIDS đầu tiên vào
ngày 1 tháng 12.
7. 1996: Đột phá?
Liệu pháp kháng vi-rút tích cực cao hoặc HAART, thể cắt giảm tải lượng vi-rút
HIV xuống mức không thể phát hiện được. Hy vọng dâng trào khi nhà nghiên cứu
AIDS là David Ho gợi ý rằng tồn tại phương pháp điều trị thể loại bỏ HIV khỏi
cơ thể, nhưng anh ấy đã sai.
8. 1998-2000: Rất nhiều thuốc được nghiên cứu
Nhận thức rõ ràng rằng HAART có các tác dụng phụ nghiêm trọng. Những thất bại
trong điều trcho thấy scần thiết của các loại thuốc mới mạnh hơn. Trong những
năm sau đó, FDA phê duyệt các nhóm thuốc mới giúp điều trị HIV an toàn hơn, dễ
dàng hơn và hiệu quả hơn. Nhưng thuốc vẫn không chữa khỏi bệnh AIDS.
9. 2001-2002: Vấn đề toàn cầu phát triển
HIV AIDS trở thành nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên toàn thế giới đối với
những người từ 15 đến 59 tuổi.
10. 2006-2007: Những công trình nghiên cứu về điều trị bệnh HIV
Các nhà nghiên cứu cho biết việc điều trị HIV có thể kéo dài tuổi thọ thêm 24 năm -
với chi phí là 618,900 đô la. Trong khi đó, vắc-xin HIV của Merck không thành công
trong các thử nghiệm lâm sàng. Đây lỗi mới nhất trong một hàng dài các lỗi.
Nhưng các loại vắc xin mới vẫn tiếp tục nghiên cứu và phát triển.
lOMoARcPSD| 45470709
11. 2012: PrEP đến
FDA chấp thuận phương pháp điều trị dự phòng trước phơi nhiễm HIV - PrEP. Đây
loại thuốc uống hàng ngày những người nguy nhiễm HIV cao thể
dùng để giảm tỷ lệ nhiễm vi rút của họ.
12. 2013: Chữa khỏi bệnh HIV?
Vào tháng 3, trường hợp trẻ nhiễm HIV đầu tiên được ghi nhận vnhư được chữa
khỏi bệnh HIV đã được công khai. Đứa trẻ được gọi là "Em Mississippi", bắt đầu
điều trị bằng thuốc kháng vi-rút khi mới sinh không có mức độ hoặc dấu hiệu nào
của vi rút. Một năm sau, sau khi đứa bé không dấu hiệu nhiễm HIV trong hơn 2
năm, vi rút quay trở lại. Điều này thúc đẩy nhiều nghiên cứu hơn về cách vi rút hoạt
động khác nhau ở trẻ sơ sinh và người lớn.
13. Cho đến nay, HIV/AIDS không có thuốc chủng ngừa. Tuy nhiên điều trị
bằngthuốc kháng virus có thể làm chậm tiến trình và kéo dài tuổi thọ cho bệnh
nhân.
2. DỊCH TỄ HỌC
Toàn Cầu
Trong năm 2004, 4,9 triệu người đã bị nhiễm và 3,1 triệu chết AIDS.
Năm 2005 năm toàn cầu số người tử vong do AIDS nhiều nhất với 2,3 triệu
người
Năm 2006, AIDS đã giết chết hơn 25 triệu người. Theo số liệu năm 2006, khoảng
0,6% dân số thế giới bị nhiễm HIV.
Năm 2009, toàn thế giới có 1,8 triệu người mắc bệnh AIDS
Đến cuối năm 2012, trên toàn cầu 35,3 triệu người nhiễm HIV hiện đang còn
sống. Số người tử vong do AIDS giảm từ 1,7 triệu người năm 2011, xuống còn 1,6
triệu người năm 2012
Từ năm 1981, AIDS đã giết 23,1 triệu người trong tổng cộng 79,9 triệu trường hợp.
Ở Việt Nam, kể từ trường hợp nhiễm HIV đầu tiên tại thành phố Hồ Chí Minh vào
năm 1990, tính đến tháng 6 năm 2015 số người nhiễm HIV còn sống được báo cáo
lOMoARcPSD| 45470709
227.144 người, trong đó 71.115 người đã chuyển sang giai đoạn AIDS, đã
có 74.442 người tử vong do HIV/AIDS .
Tính đến tháng 10/2022, theo báo cáo của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
thì cả nước 220.580 người nhiễm HIV hiện đang còn sống 112.368 người
nhiễm HIV đã tử vong.
Dịch tập trung chủ yếu khu vực Đông Nam Bộ Đồng bằng sông Cửu Long
chiếm gần 80% số người nhiễm mới phát hiện trên toàn quốc (thành phố Hồ Chí
Minh chiếm hơn 1/4 số người nhiễm mới phát hiện trên toàn quốc) và chủ yếu ở đối
tượng nam giới (trên 80%).
Đại dịch HIV đã có mặt ở 100% số tỉnh hơn 80% số xã, phường, thị trấn. Theo ước
tính của các chuyên gia, hiện tới khoảng 260 ngàn người nhiễm HIV đang sống
trong cộng đồng.
ẢNH HƯỞNG
- Ảnh hưởng về kinh tế: Số người nhiễm HIV chủ yếu lứa tuổi lao động.
Khinhiều người bị nhiễm HIV bị chết vì AIDS sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển
kinh tế của từng gia đình, cộng đồng của đất nước. Chi phí cho công tác phòng
chống AIDS sẽ rất tốn kém.
- Ảnh hưởng về tâm xã hội: Mọi người sợ hãi dễ dẫn đến tình trạng phân biệt
đốixử. Cuộc sống của gia đình người bị nhiễm HIV hoặc bệnh AIDS sẽ trở nên
căng thẳng, xuất hiện nhiều mâu thuẫn dần tiến tới sự mất ổn định trong cuộc
sống.
- Ảnh hưởng nặng nề cho hệ thống y tế: Phần nhiều hệ thống y tế bị quá tải,
phátsinh các nguy cơ lây nhiễm HIV trong môi trường y tế. Thuốc đặc trị không có
nhưng vẫn phải tiến hành việc điều trị cho các bệnh nhân bị nhiễm HIV/AIDS dẫn
đến chi phí cho điều trị lớn nhưng không đạt hiệu quả, bệnh nhân vẫn tử vong.
- HIV làm giảm tuổi thọ trung bình. Tăng tỷ lệ chết sinh, tỷ lệ chết mẹ.....
làmnảy sinh các vấn đề về trẻ m côi, bảo tồn nòi giống.
4. Đại dịch hạch là một loạt các đại dịch gây ra bởi vi rút Yersinia pestis. Dưới
đây là một số đại dịch hạch nổi tiếng và năm xảy ra chúng:
Đại dịch Hạch Đen (1347-1351): Đây là đại dịch hạch lớn nhất trong lịch sử loài
người, gây ra hàng triệu người chết ở châu Âu, Á và châu Phi.
lOMoARcPSD| 45470709
Đại dịch Hạch Lớn thứ hai (1665-1666): Đây là một đại dịch hạch lớn tại London,
làm chết khoảng 100.000 người, chiếm khoảng 20% dân số lúc đó.
Đại dịch Hạch Bombay (1896-1906): Xuất hiện tại Ấn Độ, đại dịch này làm chết
hàng triệu người.
Đại dịch Hạch Manchurian (1910-1911): Xuất hiện ở Bắc Trung Quốc và lan rộng
ra Siberia và các nước Châu Á lân cận, gây chết hàng trăm nghìn người.
SARS-CoV-1
-Virus corona gây hội chứng suy hô hấp cấp tính nặng 1, viết tắt SARS-CoV-1
hoặc SARS-CoV[2] (tiếng Anh: Severe acute respiratory syndrome coronavirus), là
chủng virus gây ra bệnh hội chứng hô hấp cấp tính nặng (SARS)
-Vào ngày 16 tháng 11 năm 2002, dịch SARS bắt đầu tại tỉnh Quảng Đông, Trung
Quốc
-Trung Quốc thông báo cho Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) về dịch bệnh vào ngày
10 tháng 2 năm 2003, bao gồm 305 ca nhiễm, trong đó có 105 nhân viên y tế và 5
ca tử vong
-Tháng 1 năm 2003: Ca siêu lây nhiễm đầu tiên, Zhou Zuofen, một tiểu thương bán
cá, được đưa vào Bệnh viện Tưởng niệm Tôn Trung Sơn tại Quảng Châu vào ngày
31 tháng 1 và lây nhiễm cho 30 y tá và bác sĩ. Virus nhanh chóng lây lan sang các
bệnh viện gần đó
- Sau đó lây lan sang các nước khác: Hồng Kông, Canada, Đài Loan,
Singapore, Thái lan,...
- Việt Nam:
Trường hợp nhiễm virus đầu tiên tại Hà Nội, Việt Nam là Johnny
Chen, một người đàn ông Mỹ gốc Hoa sống tại Thượng Hải, từng lưu trú gần với
ông Lưu tại Khách sạn Metropole. Ông được chuyển tới Bệnh viện Việt Pháp vào
ngày 26 tháng 2, và lây cho ít nhất 38 y bác sĩ. Mặc dù sau đó được đưa sang Hồng
Kông, ông tử vong vào ngày 13 tháng 3.[11]
Bác sĩ Carlo Urbani, chuyên gia bệnh truyền nhiễm của WHO, nằm trong số y bác
sĩ khám và chữa trị cho Chen. Urbani nhận thấy các y bác sĩ khác tại bệnh viện
lOMoARcPSD| 45470709
cũng đổ bệnh và biết mình đang phải đối mặt với một căn bệnh mới và nguy hiểm.
Ông cũng bị nhiễm bệnh và qua đời ngày 29 tháng 3
- Tháng 6 năm 2003: WHO thông báo thế giới sẽ có thể xóa sổ SARS trong
vòng 2 tới 3 tuần tiếp theo, nhưng đồng thời cảnh báo dịch có thể trở lại tại Trung
Quốc vào mùa đông tiếp theo
-Tháng 4 năm 2004: Dịch SARS một lần nữa bùng phát tại Bắc Kinh và tỉnh An
Huy.
-Ngày 18 tháng 5 năm 2004, WHO tuyên bố Trung Quốc hết dịch SARS sau khi
không có ca nhiễm nào khác trong vòng 3 tuần.
-Tháng 5 năm 2005. Đây là mùa đông đầu tiên không phát hiện ca nhiễm nào kể từ
đợt dịch đầu tiên vào cuối năm 2002.
Tổng số ca nhiễm 8096 , số ca tử vong 774
SARS-CoV-2
Virus corona gây hội chứng hô hấp cấp tính nặng 2, viết tắt SARS-CoV-2 (tiếng
Anh: Severe acute respiratory syndrome corona virus 2),[4][a] trước đây có tên là
virus corona mới 2019 (2019-nCoV) và cũng được gọi là virus corona ở người
2019 (HCoV-19 hoặc hCoV-19), là một chủng coronavirus gây ra bệnh viêm
đường hô hấp cấp do virus corona 2019 (COVID-19).
1. Nguồn gốc:
khởi phát tại thành phố Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc, miền Trung Trung
Quốc. Bệnh nhân đầu tiên được phát hiện vào ngày 08/12/2019
2 Diễn biến
-Đến ngày 31/12/2019, Trung Quốc chính thức thông báo với Tổ chức Y tế thế giới
(WHO) về bùng phát dịch.
-Đến 06/02/2020, số người chết do bệnh viêm phổi cấp lên tới 565 người
-31/01/2020, WHO tuyên bố tình trạng khẩn cấp toàn cầu đối với dịch viêm phổi
cấp do vi-rút Cô--na chủng mới gây ra. Ngày
-11/3/2020, tổ chức Y tế thế giới (WHO) chính thức công bố dịch Covid-19 do
virút Cô--na chủng mới (SARS-CoV-2) là đại dịch toàn cầu.
lOMoARcPSD| 45470709
- Tính đến thời điểm 17h ngày 30/3/2020, ở gần 200 quốc gia và vùng lãnhthổ đã
có hơn 735.000 ca nhiễm, hơn 34.000 người tử vong. Mỹ hiện trở thành vùng
dịch lớn nhất thế giới với tổng số hơn 140.000 trường hợp mắc Covid-19 và hơn
2.000 trường hợp tử vong
- 21/3/2024: Tng số ca nhiễm 649.799.405 , ca tử vong 6.646.043
Việt Nam,
-ngày 23/01/2020 ghi nhận trường hợp mắc Covid-19 đầu tiên,sau đó tiếp tục ghi
nhận thêm 15 trường hợp. Tất cả 16 trường hợp này đều được chữa khỏi hoàn toàn.
-Sau 22 ngày không ghi nhận trường hợp mắc mới, ngày 06/3/2020 Việt Nam phát
hiện ca nhiễm bệnh từ châu Âu
-Ngày 21 tháng 3 năm 2020, Việt Nam tạm ngừng nhập cảnh khách nước ngoài.
-Tính đến ngày 01/4/2020, Việt Nam đã ghi nhận có tổng số 212 ca nhiễm mắc mới
-Từ ngày 31 tháng 7 năm 2020, Việt Nam ghi nhận những ca tử vong.
- Ngày 8 tháng 3 /2021, chính thức tiến hành việc tiêm vaccine COVID-19 ở
Việt Nam.
-Ngày 27 tháng 5/2021, Thành phố Hồ Chí Minh ghi nhận 36 ca nhiễm COVID-19
liên quan đến Hội thánh Truyền giáo Phục Hưng
10/10/2021, Bô Y tế đánh giá dịch đã cơ bản được kiểm soát trên phạm vi toàn 
quốc với 835.036 ca mắc tại cộng đồng ở 62 tỉnh, thành phố, trong đó có 20.520 ca
tử vong
-Ngày 11 tháng 11/2021, Việt Nam vượt 1 triệu ca mắc COVID-19
-Ngày 22 tháng 10/2023, lần đầu tiên sau nhiều tháng, không có ca COVID-19 mới
-21/3/2024: tổng số ca nhiễm 11.619.990 , ca tử vong 43.206
Tác động tới chuỗi cung ứng thương mại Việt Nam
- Gián đoạn chuỗi cung ứng khu vực dẫn đến sản xuất, kinh doanh ở Việt
Nam bịtrì trệ
lOMoARcPSD| 45470709
- Đứt gãy chuỗi cung ứng thương mại dẫn đến hoạt động của ngành chế biến,
chếtạo giảm
- Đứt gãy nguồn ‘cung – cầu’ lao động việc làm, tỉ lệ thất nghiệp gia tăng
Dịch Covid-19 đã và đang tác động đến nhiều mặt của đời sống kinh tế, xã hội,
trong đó đã tác động mạnh mẽ đến các hoạt động của ngành Văn hóa, Thể thao và
Du lịch (VH-TT&DL) từ những tháng đầu năm 2020 đến nay. Các địa phương
trong tỉnh đều dừng hoặc giảm các hoạt động lễ hội, đặc biệt là các lễ hội có số
lượng lớn người dân và du khách tham gia; dừng tổ chức các hoạt động văn hóa,
văn nghệ, lễ kỷ niệm, ngày truyền thống, các chương trình vui chơi, giải trí tập
trung đông người để tập trung cho công tác phòng, chống dịch.
10. Dịch tả
- Bệnh tả, hoặc thổ tả, dịch tả ( Tiếng Anh gọi cholera ) một bệnh nhiễm
trùng đường ruột do vi trùng Vibrio cholerae gây ra, độc tố của vi trùng này gây
tiêu chảy nặng kèm theo mất nước thể dẫn đến tử vong trong một số trường
hợp. Robert Koch là người nhận dạng được vi trùng gây bệnh tả vào năm 1883 .
- Bệnh tả có lẽ nguồn gốc từ tiểu lục địa Ấn Độ ; vùng châu thổ sông Hằng vào
thời cổ đại. Bệnh tả xuất hiện ở châu Á vào khoảng 600 năm trước Công nguyên,
ghi nhận lần đầu tiên trong y học vào năm 1563 tại Ấn Độ .
- Căn bệnh này xuất hiện trong các tài liệu châu Âu từ năm 1642, từ mô tả của
bácsĩ người Hà Lan.
- Bệnh lần đầu tiên lây lan theo đường thương mại (đường bộ đường biển)
đến Nga vào năm 1817, sau đó đến phần còn lại của châu Âu, từ châu Âu đến
Bắc Mỹ phần còn lại của thế giới, (do đó tên "bệnh dịch tả châu Á"). Bảy
lần đại dịch tả đã xảy ra trong 200 năm qua, với đại dịch thứ bảy bắt nguồn t
Indonesia vào năm 1961.
+ Đại dịch tả đầu tiên xảy ra vùng Bengal của Ấn Độ , gần Calcutta bắt đầu từ
năm 1817 đến năm 1824. Bệnh lây lan từ Ấn Độ sang Đông Nam Á, Trung Đông,
Châu Âu và Đông Phi.
+ Trận đại dịch thứ hai kéo dài từ năm 1826 đến năm 1837 đặc biệt ảnh hưởng
đến Bắc Mỹ và Châu Âu do kết quả của những tiến bộ trong giao thông vận tải
thương mại toàn cầu, sự gia tăng di của con người, bao gồm cả binh lính. +
Trận đại dịch thứ ba bùng phát vào năm 1846, kéo dài cho đến năm 1860, lan đến
Bắc Phi và Nam Mỹ, lần đầu tiên ảnh hưởng đặc biệt đến Brazil.
lOMoARcPSD| 45470709
+ Trận đại dịch thứ kéo dài từ năm 1863 đến năm 1875, lan từ Ấn Độ đến Naples
và Tây Ban Nha.
+ Đại dịch thứ năm là từ năm 1881–1896 và bắt đầu ở Ấn Độ rồi lan sang châu Âu,
châu Á và Nam Mỹ .
+ Trận đại dịch thứ sáu bắt đầu từ 1899–1923, ít gây tử vong hơn do sự hiểu biết
nhiều hơn về vi khuẩn tả. Ai Cập, bán đảo Rập, Ba Tư, Ấn Độ Philippines bị
ảnh hưởng nặng nề nhất trong đợt dịch bệnh này, trong khi các khu vực khác bị nhẹ
hơn.
+ Đại dịch thứ bảy bắt nguồn từ năm 1961 tại Indonesia và được đánh dấu bằng sự
xuất hiện của một chủng mới, biệt danh là El Tor , vẫn tồn tại (tính đến năm
2018) ở các nước đang phát triển.
- Ảnh hưởng : Bệnh tả trở nên phổ biến vào thế kỷ 19.Kể từ đó nó đã giết chết
hàng chục triệu người.
Loại vắc xin hiệu quả đầu tiên dành cho người được phát triển vào năm 1885, và
loại kháng sinh hiệu quả đầu tiên được phát triển vào năm 1948.
12. Dịch cúm
- Bệnh cúm một bệnh truyền nhiễm virus cúm tấn ng hệ hấp của người bệnh
- mũi, cổ họng và phổi. Đối với hầu hết mi người, cúm sẽ tự khỏi. Nhưng đôi khi,
cúm và các biến chứng của thể gây tử vong những đối tượng nguy
cao bị biến chứng cúm.
- Đại dịch cúm lần đầu tiên được ghi nhận năm 1580 và kể từ đó các đại dịch cúm
diễn ra cứ mỗi 10 đến 30 năm.
- Đại dịch cúm 1889–1890, hay còn gọi Cúm Nga, được báo cáo đầu tiên vào
tháng 5 năm 1889 Bukhara , Uzbekistan . Khoảng 1 triệu người chết do đại dịch
này.
- Cúm y Ban Nha (1918–1919). Được xác định đầu tiên vào tháng 3 năm 1918
trong một trại huấn luyện lính của Hoa Kỳ cuối cùng lây nhiễm 1/3 dân số thế giới
vào thời điểm đó (khoảng 500 triệu người)
- Cúm châu Á (1957–1958). Virus H2N2 đã làm khoảng 70.000 người chết Hoa
Kỳ.
- Cúm Hồng Kông (1968–69). Virus H3N2 làm chết khoảng 34.000 người Hoa
Kỳ. Loại virus này được phát hiện đầu tiên Hồng Kông vào đầu năm 1968,
lây lan sang Hoa Kỳ vào một năm sau đó. Hiện tại, các virus m A (H3N2) vẫn
còn tồn tại.
lOMoARcPSD| 45470709
- Cúm H1N1 (2009) . Người ta ước tính rằng 11–21% dân số toàn cầu lúc bấy giờ
(khoảng 6,8 tỷ), tương đương 700–1400 triệu người mắc bệnh - nhiều hơn về mặt
tuyệt đối so với đại dịch cúm Tây Ban Nha.
- Dịch bệnh Ebola tại châu Phi năm 2014 làm chết hơn 10 ngàn người.
- Cúm do virus Covid-19: đang diễn ra, đã có hơn 5,2 triệu người chết
III. Các loại dịch liên quan đến vấn đề môi trường
1. Đại dịch đã có những ảnh hưởng nhất định mang tính chất tích cực và tiêu cực
đến môi trường.
-Dịch bệnh càng làm rõ nét tác động tích cực đến môi trường một cách chân thật
nhất. Khi đại dịch mới xảy ra, chất lượng môi trường dần được cải thiện như không
khí sạch hơn, nghe thấy tiếng chim hót thay vì âm thanh ầm ĩ của xe cộ khi các
thành phố áp đặt lệnh phong tỏa hay giãn cách xã hội…
- Tại Việt Nam, Tổng cục Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho
biết, so sánh kết quả chất lượng không khí tại các đô thị miền Bắc từ tháng 1-
4/2020. So với cùng thời gian của những năm trước, chất lượng không khí cũng có
xu hướng được cải thiện hơn
- Kể từ khi con người giảm bớt di chuyển không cần thiết do dịch Covid-19
đã gópphần vào sự sụt giảm đáng kể khí carbon dioxide, methane, và lượng khí
thải carbon monoxide.
- Các biện pháp giãn cách xã hội được áp dụng ở hầu hết các nước nên hoạt
động du lịch bị ngưng lại, bãi biển trở nên vắng người, sạch hơn, rác thải ở các
điểm du lịch cũng giảm mạnh.
-Tiếng ồn ở đô thị và các điểm công cộng cũng giảm do người dân không được tập
trung, hoạt động buôn bán bị dừng lại, xe cộ bị hạn chế lưu thông.
- Tuy nhiên, dịch bệnh tác động một cách tích cực cho môi trường nhưng
chúng tacũng không thể phủ nhận rằng môi trường vẫn đang phải chịu những tác
động tiêu cực cũng chính từ đại dịch này.
+Thực trạng là chất thải ra môi trường gia tăng làm ô nhiễm môi trường đất, nước,
không khí,…
Do việc sử dụng khẩu trang dùng một lần cao chưa từng có, một số lượng đáng kể
khẩu trang đã bị vứt bỏ vào môi trường tự nhiên, làm tăng thêm gánh nặng rác thải
lOMoARcPSD| 45470709
nhựa trên toàn thế giới. Trong đại dịch COVID-19, nhu cầu sử dụng nhựa trong y
tế đã tăng lên đáng kể ở một số quốc gia. Bên cạnh thiết bị bảo vệ cá nhân n
khẩu trang, găng tay, nước sát khuẩn, việc sử dụng nhựa tăng lên đáng kể liên quan
đến yêu cầu đóng gói và các mặt hàng sử dụng một lần.
Chỉ tính riêng Hải Dương, khối lượng chất thải có nguy cơ chứa SARS-CoV-2 đã
thu gom từ khi xảy ra đợt dịch COVID-19 lần thứ 3 ngày 27/1-20/2/2021
304,856 tấn.
+Cơ quan y tế cũng sử dụng một lượng lớn các hóa chất khử trùng, chủ yếu là
Chloramin B, cũng rất độc hại cho môi trường.
+Để bảo đảm an toàn, nhiều khu cách ly, bệnh viện, khu xử lý chất thải đô thị đã sử
dụng biện pháp đốt chất thải y tế, dẫn đến ô nhiễm không khí.
+ Số lượng người mất tăng cao khiến không cóa chỗ trôn gây mất thẩm mĩ môi
trường , gây ô nhiễm nguồn nước , ô nhiễm không khí gây lây lan virut ra môi
trường vì đa số người mất là do mắc bệnh .
HIV/AIDS:
+ Xả kim tiêm ra môi trường gây ô nhiễm ảnh hưởng tới mọi người trong cộng đồng
+ Kim tiêm dùng 1 lần tăng lên gây ảnh hưởng đến rác thải nhựa được thải ra môi
trường .
- Dịch tả :
+ nguồn nước bị nhiễm vi trùng do nhiều yếu tố khiền người dùng bị mắc bệnh . +
Nước thải chất thải của người bệnh mang theo vi khuẩn vi trùng được xả ra môi
trường không được xử một cách hiệu quả gây ra ô nhiễm môi trường đất môi
trường nước - Dịch bệnh đậu mùa :
+ các bệnh nhân trong thời bệnh không bệnh pháp phòng bệnh đúng đắn chưa
phát hiện họ hấp trung trong bầu không khí khiến các virut lây lan khiến mọi
người bị lây nhiễm bệnh qua vòng họng , mũi ,...--> không khí bị nhiễm virut .
V. Khắc phục và phát triển bền vững
1. Tăng cường nhận thức và giáo dục: Tạo ra chiến dịch giáo dục để tăng
cường nhận thức về vấn đề môi trường và bền vững trong cộng đồng.
2. Thúc đẩy sử dụng năng lượng tái tạo: Đầu tư vào nguồn năng lượng tái tạo
như năng lượng mặt trời, gió và thủy điện để giảm thiểu phát thải carbon.
3. Tăng cường quản lý tài nguyên: Xây dựng các chính sách và quy định để
bảo vệvà tối ưu hóa sử dụng tài nguyên như nước, đất đai và nguồn lợi thủy sản.
lOMoARcPSD| 45470709
4. Khuyến khích công nghệ sạch: Đầu tư vào nghiên cứu và phát triển công
nghệ sạch giúp giảm thiểu ô nhiễm và tác động tiêu cực đến môi trường.
5. Hỗ trợ phát triển kinh tế xanh: Khuyến khích sự phát triển của các ngành
công nghiệp và doanh nghiệp có trách nhiệm xã hội và môi trường.
6. Tăng cường hợp tác quốc tế: Hợp tác với các quốc gia khác để giải quyết các
vấn đề môi trường toàn cầu và đảm bảo phát triển bền vững.
Sau đại dịch COVID-19, để khắc phục và muốn phát triển bền vững, cần thực hiện
các biện pháp sau:
| 1/13

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45470709
Chủ đề: Dịch bệnh Nhóm: 5
Học phần: Môi trường và phát triển bền vững
Giảng viên: Lê Thị Hường
I. Khái niệm dịch bệnh, đại dịch. Nêu sự khác biệt giữa dịch bệnh và đại dịch
1. Dịch bệnh: là sự lây lan nhanh chóng của một bệnh truyền nhiễm với số
lượng lớn những người bị nhiễm trong một cộng đồng hoặc một khu vực trong
vòng một thời gian ngắn, thường là hai tuần hoặc ít hơn.
2. Đại dịch là bệnh dịch tễ do nhiễm khuẩn , lây lan nhanh, xảy ra đồng thời ở
một vùng dân cư rộng lớn.
Tổ chức Y tế Thế giới - WHO định nghĩa về đại dịch như sau: “Một đại dịch là
sự lây lan trên toàn thế giới của một căn bệnh mới”. Một căn bệnh đặc hữu phổ biến
và ổn định về số lượng người mắc bệnh thì đó không phải là một đại dịch. Như vậy,
để một căn bệnh được gọi là đại dịch thì nó phải đảm bảo hai yếu tố đó là phải là
một căn bệnh mới và nó phải lây lan rộng trên toàn thế giới.
3. sự khác biệt giữa dịch bệnh và đại dịch
*Khu vực bị ảnh hưởng Dịch bệnh:
Một vụ dịch có thể được coi là một đợt bùng phát cục bộ. Đây là một sự kiện cụ thể
của một địa điểm cụ thể, vì sự lan truyền của nó thường giới hạn trong một thành
phố hoặc khu vực và thường không mở rộng ra ngoài biên giới của quốc gia. Đại dịch
Mặt khác, một đại dịch có thể được coi là một đợt bùng phát toàn cầu. Ít thường
xuyên hơn nhiều so với dịch bệnh , đại dịch là sự kiện dịch bệnh vượt qua biên giới
và mặc dù nó không có nghĩa là ảnh hưởng trên toàn thế giới, một số quốc gia bị ảnh hưởng bởi nó.
Đại dịch đáp ứng tốt nhất định nghĩa này là đại dịch xuất hiện vào những năm 1980
và tiếp tục lan rộng khắp thế giới ngày nay. *Nguyên nhân gây bệnh lOMoAR cPSD| 45470709
Mặc dù, giống như tất cả các bệnh truyền nhiễm, tác nhân gây bệnh là vi sinh vật,
nhưng có sự khác biệt quan trọng về các mầm bệnh gây ra mỗi sự kiện này: Dịch bệnh:
Nói rộng ra, một vụ dịch là do các mầm bệnh mà chúng ta đã "quen" gây ra. Chúng
thường được gây ra bởi các vi sinh vật gây bệnh đã lưu hành trong các hệ sinh thái trong một thời gian dài.
Tiếp xúc với con người nhiều lần, hệ thống miễn dịch của chúng ta đã nhận ra chúng.
Chúng được gây ra bởi vi khuẩn hoặc vi rút không mới đối với cơ thể chúng ta.
Mặt khác, các đại dịch thường được gây ra bởi các mầm bệnh mà chúng ta không
"quen". Các mầm bệnh gây ra chúng chưa bao giờ tiếp xúc với con người, vì vậy hệ
thống miễn dịch của chúng ta không được chuẩn bị để chống lại chúng và sự lây lan
của chúng rõ ràng hơn nhiều.
II. Một số đại dịch trên thế giới 1. HIV
HIV: Là tên của loại virus gây suy giảm hệ miễn dịch ở người, gây nên bệnh AIDS.
AIDS: Là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người do virus HIV gây nên.
1. Circa 1900: Từ Khỉ đến Người
Từ năm 1884 đến năm 1924, tại một nơi nào đó ở Tây Trung Phi, thợ săn đã giết một
con tinh tinh. Một phần máu của con vật xâm nhập vào cơ thể người thợ săn, có thể
qua vết thương hở. Máu mang một loại vi rút vô hại đối với tinh tinh nhưng gây chết người, đó là HIV.
2. 1981: Các trường hợp đầu tiên được công nhận
Vào tháng 6, CDC Hoa Kỳ (Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ
hay Trung tâm phòng chống dịch bệnh Hoa Kỳ (tiếng Anh: Centers for Disease
Control and Prevention, viết tắt là CDC)) công bố một báo cáo từ Los Angeles về
năm người đàn ông đồng tính trẻ tuổi bị viêm phổi do PCP gây tử vong hoặc đe dọa tính mạng.
3. 1982: Bệnh AIDS được đặt tên
CDC Hoa Kỳ gọi căn bệnh mới là hội chứng suy giảm miễn dịch hoặc AIDS. lOMoAR cPSD| 45470709
4. 1983: Các nhà khoa học phát hiện ra HIV
Các nhà nghiên cứu người Pháp đã phân lập một loại virus từ tuyến bạch huyết sưng
lên của một người bị AIDS. Họ gọi nó là virus liên quan đến bệnh hạch hoặc LAV..
Mãi đến năm 1986, mọi người mới đồng ý gọi vi rút HIV là vi rút suy giảm miễn dịch ở người.
5. 1985: Bắt đầu thử nghiệm
Vào tháng 3, FDA chấp thuận ELISA - phương pháp xét nghiệm máu thương mại đầu tiên cho HIV
6. 1988: Ngày thế giới phòng chống AIDS
Tổ chức Y tế Thế giới công nhận Ngày Thế giới phòng chống AIDS đầu tiên vào ngày 1 tháng 12. 7. 1996: Đột phá?
Liệu pháp kháng vi-rút tích cực cao hoặc HAART, có thể cắt giảm tải lượng vi-rút
HIV xuống mức không thể phát hiện được. Hy vọng dâng trào khi nhà nghiên cứu
AIDS là David Ho gợi ý rằng tồn tại phương pháp điều trị có thể loại bỏ HIV khỏi
cơ thể, nhưng anh ấy đã sai.
8. 1998-2000: Rất nhiều thuốc được nghiên cứu
Nhận thức rõ ràng rằng HAART có các tác dụng phụ nghiêm trọng. Những thất bại
trong điều trị cho thấy sự cần thiết của các loại thuốc mới và mạnh hơn. Trong những
năm sau đó, FDA phê duyệt các nhóm thuốc mới giúp điều trị HIV an toàn hơn, dễ
dàng hơn và hiệu quả hơn. Nhưng thuốc vẫn không chữa khỏi bệnh AIDS.
9. 2001-2002: Vấn đề toàn cầu phát triển
HIV AIDS trở thành nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên toàn thế giới đối với
những người từ 15 đến 59 tuổi.
10. 2006-2007: Những công trình nghiên cứu về điều trị bệnh HIV
Các nhà nghiên cứu cho biết việc điều trị HIV có thể kéo dài tuổi thọ thêm 24 năm -
với chi phí là 618,900 đô la. Trong khi đó, vắc-xin HIV của Merck không thành công
trong các thử nghiệm lâm sàng. Đây là lỗi mới nhất trong một hàng dài các lỗi.
Nhưng các loại vắc xin mới vẫn tiếp tục nghiên cứu và phát triển. lOMoAR cPSD| 45470709 11. 2012: PrEP đến
FDA chấp thuận phương pháp điều trị dự phòng trước phơi nhiễm HIV - PrEP. Đây
là loại thuốc uống hàng ngày mà những người có nguy cơ nhiễm HIV cao có thể
dùng để giảm tỷ lệ nhiễm vi rút của họ.
12. 2013: Chữa khỏi bệnh HIV?
Vào tháng 3, trường hợp trẻ nhiễm HIV đầu tiên được ghi nhận có vẻ như được chữa
khỏi bệnh HIV đã được công khai. Đứa trẻ được gọi là "Em bé Mississippi", bắt đầu
điều trị bằng thuốc kháng vi-rút khi mới sinh và không có mức độ hoặc dấu hiệu nào
của vi rút. Một năm sau, sau khi đứa bé không có dấu hiệu nhiễm HIV trong hơn 2
năm, vi rút quay trở lại. Điều này thúc đẩy nhiều nghiên cứu hơn về cách vi rút hoạt
động khác nhau ở trẻ sơ sinh và người lớn.
13. Cho đến nay, HIV/AIDS không có thuốc chủng ngừa. Tuy nhiên điều trị
bằngthuốc kháng virus có thể làm chậm tiến trình và kéo dài tuổi thọ cho bệnh nhân. 2. DỊCH TỄ HỌC Toàn Cầu
Trong năm 2004, 4,9 triệu người đã bị nhiễm và 3,1 triệu chết vì AIDS.
Năm 2005 là năm toàn cầu có số người tử vong do AIDS nhiều nhất với 2,3 triệu người
Năm 2006, AIDS đã giết chết hơn 25 triệu người. Theo số liệu năm 2006, khoảng
0,6% dân số thế giới bị nhiễm HIV.
Năm 2009, toàn thế giới có 1,8 triệu người mắc bệnh AIDS
Đến cuối năm 2012, trên toàn cầu có 35,3 triệu người nhiễm HIV hiện đang còn
sống. Số người tử vong do AIDS giảm từ 1,7 triệu người năm 2011, xuống còn 1,6 triệu người năm 2012
Từ năm 1981, AIDS đã giết 23,1 triệu người trong tổng cộng 79,9 triệu trường hợp.
Ở Việt Nam, kể từ trường hợp nhiễm HIV đầu tiên tại thành phố Hồ Chí Minh vào
năm 1990, tính đến tháng 6 năm 2015 số người nhiễm HIV còn sống được báo cáo lOMoAR cPSD| 45470709
là 227.144 người, trong đó có 71.115 người đã chuyển sang giai đoạn AIDS, và đã
có 74.442 người tử vong do HIV/AIDS .
Tính đến tháng 10/2022, theo báo cáo của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
thì cả nước có 220.580 người nhiễm HIV hiện đang còn sống và 112.368 người nhiễm HIV đã tử vong.
Dịch tập trung chủ yếu ở khu vực Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long
chiếm gần 80% số người nhiễm mới phát hiện trên toàn quốc (thành phố Hồ Chí
Minh chiếm hơn 1/4 số người nhiễm mới phát hiện trên toàn quốc) và chủ yếu ở đối
tượng nam giới (trên 80%).
Đại dịch HIV đã có mặt ở 100% số tỉnh hơn 80% số xã, phường, thị trấn. Theo ước
tính của các chuyên gia, hiện có tới khoảng 260 ngàn người nhiễm HIV đang sống trong cộng đồng. ẢNH HƯỞNG -
Ảnh hưởng về kinh tế: Số người nhiễm HIV chủ yếu ở lứa tuổi lao động.
Khinhiều người bị nhiễm HIV và bị chết vì AIDS sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển
kinh tế của từng gia đình, cộng đồng và của đất nước. Chi phí cho công tác phòng
chống AIDS sẽ rất tốn kém. -
Ảnh hưởng về tâm lý xã hội: Mọi người sợ hãi dễ dẫn đến tình trạng phân biệt
đốixử. Cuộc sống của gia đình có người bị nhiễm HIV hoặc bệnh AIDS sẽ trở nên
căng thẳng, xuất hiện nhiều mâu thuẫn và dần tiến tới sự mất ổn định trong cuộc sống. -
Ảnh hưởng nặng nề cho hệ thống y tế: Phần nhiều hệ thống y tế bị quá tải,
phátsinh các nguy cơ lây nhiễm HIV trong môi trường y tế. Thuốc đặc trị không có
nhưng vẫn phải tiến hành việc điều trị cho các bệnh nhân bị nhiễm HIV/AIDS dẫn
đến chi phí cho điều trị lớn nhưng không đạt hiệu quả, bệnh nhân vẫn tử vong. -
HIV làm giảm tuổi thọ trung bình. Tăng tỷ lệ chết sơ sinh, tỷ lệ chết mẹ.....
làmnảy sinh các vấn đề về trẻ mồ côi, bảo tồn nòi giống.
4. Đại dịch hạch là một loạt các đại dịch gây ra bởi vi rút Yersinia pestis. Dưới
đây là một số đại dịch hạch nổi tiếng và năm xảy ra chúng:
Đại dịch Hạch Đen (1347-1351): Đây là đại dịch hạch lớn nhất trong lịch sử loài
người, gây ra hàng triệu người chết ở châu Âu, Á và châu Phi. lOMoAR cPSD| 45470709
Đại dịch Hạch Lớn thứ hai (1665-1666): Đây là một đại dịch hạch lớn tại London,
làm chết khoảng 100.000 người, chiếm khoảng 20% dân số lúc đó.
Đại dịch Hạch Bombay (1896-1906): Xuất hiện tại Ấn Độ, đại dịch này làm chết hàng triệu người.
Đại dịch Hạch Manchurian (1910-1911): Xuất hiện ở Bắc Trung Quốc và lan rộng
ra Siberia và các nước Châu Á lân cận, gây chết hàng trăm nghìn người. SARS-CoV-1
-Virus corona gây hội chứng suy hô hấp cấp tính nặng 1, viết tắt SARS-CoV-1
hoặc SARS-CoV[2] (tiếng Anh: Severe acute respiratory syndrome coronavirus), là
chủng virus gây ra bệnh hội chứng hô hấp cấp tính nặng (SARS)
-Vào ngày 16 tháng 11 năm 2002, dịch SARS bắt đầu tại tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc
-Trung Quốc thông báo cho Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) về dịch bệnh vào ngày
10 tháng 2 năm 2003, bao gồm 305 ca nhiễm, trong đó có 105 nhân viên y tế và 5 ca tử vong
-Tháng 1 năm 2003: Ca siêu lây nhiễm đầu tiên, Zhou Zuofen, một tiểu thương bán
cá, được đưa vào Bệnh viện Tưởng niệm Tôn Trung Sơn tại Quảng Châu vào ngày
31 tháng 1 và lây nhiễm cho 30 y tá và bác sĩ. Virus nhanh chóng lây lan sang các bệnh viện gần đó -
Sau đó lây lan sang các nước khác: Hồng Kông, Canada, Đài Loan, Singapore, Thái lan,... -
Việt Nam: Trường hợp nhiễm virus đầu tiên tại Hà Nội, Việt Nam là Johnny
Chen, một người đàn ông Mỹ gốc Hoa sống tại Thượng Hải, từng lưu trú gần với
ông Lưu tại Khách sạn Metropole. Ông được chuyển tới Bệnh viện Việt Pháp vào
ngày 26 tháng 2, và lây cho ít nhất 38 y bác sĩ. Mặc dù sau đó được đưa sang Hồng
Kông, ông tử vong vào ngày 13 tháng 3.[11]
Bác sĩ Carlo Urbani, chuyên gia bệnh truyền nhiễm của WHO, nằm trong số y bác
sĩ khám và chữa trị cho Chen. Urbani nhận thấy các y bác sĩ khác tại bệnh viện lOMoAR cPSD| 45470709
cũng đổ bệnh và biết mình đang phải đối mặt với một căn bệnh mới và nguy hiểm.
Ông cũng bị nhiễm bệnh và qua đời ngày 29 tháng 3 -
Tháng 6 năm 2003: WHO thông báo thế giới sẽ có thể xóa sổ SARS trong
vòng 2 tới 3 tuần tiếp theo, nhưng đồng thời cảnh báo dịch có thể trở lại tại Trung
Quốc vào mùa đông tiếp theo
-Tháng 4 năm 2004: Dịch SARS một lần nữa bùng phát tại Bắc Kinh và tỉnh An Huy.
-Ngày 18 tháng 5 năm 2004, WHO tuyên bố Trung Quốc hết dịch SARS sau khi
không có ca nhiễm nào khác trong vòng 3 tuần.
-Tháng 5 năm 2005. Đây là mùa đông đầu tiên không phát hiện ca nhiễm nào kể từ
đợt dịch đầu tiên vào cuối năm 2002.
Tổng số ca nhiễm 8096 , số ca tử vong 774 SARS-CoV-2
Virus corona gây hội chứng hô hấp cấp tính nặng 2, viết tắt SARS-CoV-2 (tiếng
Anh: Severe acute respiratory syndrome corona virus 2),[4][a] trước đây có tên là
virus corona mới 2019 (2019-nCoV) và cũng được gọi là virus corona ở người
2019 (HCoV-19 hoặc hCoV-19), là một chủng coronavirus gây ra bệnh viêm
đường hô hấp cấp do virus corona 2019 (COVID-19).
1. Nguồn gốc: khởi phát tại thành phố Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc, miền Trung Trung
Quốc. Bệnh nhân đầu tiên được phát hiện vào ngày 08/12/2019 2 Diễn biến
-Đến ngày 31/12/2019, Trung Quốc chính thức thông báo với Tổ chức Y tế thế giới
(WHO) về bùng phát dịch.
-Đến 06/02/2020, số người chết do bệnh viêm phổi cấp lên tới 565 người
-31/01/2020, WHO tuyên bố tình trạng khẩn cấp toàn cầu đối với dịch viêm phổi
cấp do vi-rút Cô-rô-na chủng mới gây ra. Ngày
-11/3/2020, tổ chức Y tế thế giới (WHO) chính thức công bố dịch Covid-19 do
virút Cô-rô-na chủng mới (SARS-CoV-2) là đại dịch toàn cầu. lOMoAR cPSD| 45470709
- Tính đến thời điểm 17h ngày 30/3/2020, ở gần 200 quốc gia và vùng lãnhthổ đã
có hơn 735.000 ca nhiễm, hơn 34.000 người tử vong. Mỹ hiện trở thành vùng
dịch lớn nhất thế giới với tổng số hơn 140.000 trường hợp mắc Covid-19 và hơn
2.000 trường hợp tử vong
- 21/3/2024: Tổng số ca nhiễm 649.799.405 , ca tử vong 6.646.043
Ở Việt Nam,
-ngày 23/01/2020 ghi nhận trường hợp mắc Covid-19 đầu tiên,sau đó tiếp tục ghi
nhận thêm 15 trường hợp. Tất cả 16 trường hợp này đều được chữa khỏi hoàn toàn.
-Sau 22 ngày không ghi nhận trường hợp mắc mới, ngày 06/3/2020 Việt Nam phát
hiện ca nhiễm bệnh từ châu Âu
-Ngày 21 tháng 3 năm 2020, Việt Nam tạm ngừng nhập cảnh khách nước ngoài.
-Tính đến ngày 01/4/2020, Việt Nam đã ghi nhận có tổng số 212 ca nhiễm mắc mới
-Từ ngày 31 tháng 7 năm 2020, Việt Nam ghi nhận những ca tử vong. -
Ngày 8 tháng 3 /2021, chính thức tiến hành việc tiêm vaccine COVID-19 ở Việt Nam.
-Ngày 27 tháng 5/2021, Thành phố Hồ Chí Minh ghi nhận 36 ca nhiễm COVID-19
liên quan đến Hội thánh Truyền giáo Phục Hưng
10/10/2021, Bô Y tế đánh giá dịch đã cơ bản được kiểm soát trên phạm vi toàn ̣
quốc với 835.036 ca mắc tại cộng đồng ở 62 tỉnh, thành phố, trong đó có 20.520 ca tử vong
-Ngày 11 tháng 11/2021, Việt Nam vượt 1 triệu ca mắc COVID-19
-Ngày 22 tháng 10/2023, lần đầu tiên sau nhiều tháng, không có ca COVID-19 mới
-21/3/2024: tổng số ca nhiễm 11.619.990 , ca tử vong 43.206
Tác động tới chuỗi cung ứng thương mại Việt Nam -
Gián đoạn chuỗi cung ứng khu vực dẫn đến sản xuất, kinh doanh ở Việt Nam bịtrì trệ lOMoAR cPSD| 45470709 -
Đứt gãy chuỗi cung ứng thương mại dẫn đến hoạt động của ngành chế biến, chếtạo giảm -
Đứt gãy nguồn ‘cung – cầu’ lao động việc làm, tỉ lệ thất nghiệp gia tăng
Dịch Covid-19 đã và đang tác động đến nhiều mặt của đời sống kinh tế, xã hội,
trong đó đã tác động mạnh mẽ đến các hoạt động của ngành Văn hóa, Thể thao và
Du lịch (VH-TT&DL) từ những tháng đầu năm 2020 đến nay. Các địa phương
trong tỉnh đều dừng hoặc giảm các hoạt động lễ hội, đặc biệt là các lễ hội có số
lượng lớn người dân và du khách tham gia; dừng tổ chức các hoạt động văn hóa,
văn nghệ, lễ kỷ niệm, ngày truyền thống, các chương trình vui chơi, giải trí tập
trung đông người để tập trung cho công tác phòng, chống dịch. 10. Dịch tả -
Bệnh tả, hoặc thổ tả, dịch tả ( Tiếng Anh gọi là cholera ) là một bệnh nhiễm
trùng đường ruột do vi trùng Vibrio cholerae gây ra, độc tố của vi trùng này gây
tiêu chảy nặng kèm theo mất nước và có thể dẫn đến tử vong trong một số trường
hợp. Robert Koch là người nhận dạng được vi trùng gây bệnh tả vào năm 1883 .
- Bệnh tả có lẽ có nguồn gốc từ tiểu lục địa Ấn Độ ; ở vùng châu thổ sông Hằng vào
thời cổ đại. Bệnh tả xuất hiện ở châu Á vào khoảng 600 năm trước Công nguyên,
ghi nhận lần đầu tiên trong y học vào năm 1563 tại Ấn Độ . -
Căn bệnh này xuất hiện trong các tài liệu châu Âu từ năm 1642, từ mô tả của bácsĩ người Hà Lan. -
Bệnh lần đầu tiên lây lan theo đường thương mại (đường bộ và đường biển)
đến Nga vào năm 1817, sau đó đến phần còn lại của châu Âu, và từ châu Âu đến
Bắc Mỹ và phần còn lại của thế giới, (do đó có tên là "bệnh dịch tả châu Á"). Bảy
lần đại dịch tả đã xảy ra trong 200 năm qua, với đại dịch thứ bảy bắt nguồn từ Indonesia vào năm 1961.
+ Đại dịch tả đầu tiên xảy ra ở vùng Bengal của Ấn Độ , gần Calcutta bắt đầu từ
năm 1817 đến năm 1824. Bệnh lây lan từ Ấn Độ sang Đông Nam Á, Trung Đông, Châu Âu và Đông Phi.
+ Trận đại dịch thứ hai kéo dài từ năm 1826 đến năm 1837 và đặc biệt ảnh hưởng
đến Bắc Mỹ và Châu Âu do kết quả của những tiến bộ trong giao thông vận tải và
thương mại toàn cầu, và sự gia tăng di cư của con người, bao gồm cả binh lính. +
Trận đại dịch thứ ba bùng phát vào năm 1846, kéo dài cho đến năm 1860, lan đến
Bắc Phi và Nam Mỹ, lần đầu tiên ảnh hưởng đặc biệt đến Brazil. lOMoAR cPSD| 45470709
+ Trận đại dịch thứ tư kéo dài từ năm 1863 đến năm 1875, lan từ Ấn Độ đến Naples và Tây Ban Nha.
+ Đại dịch thứ năm là từ năm 1881–1896 và bắt đầu ở Ấn Độ rồi lan sang châu Âu, châu Á và Nam Mỹ .
+ Trận đại dịch thứ sáu bắt đầu từ 1899–1923, ít gây tử vong hơn do sự hiểu biết
nhiều hơn về vi khuẩn tả. Ai Cập, bán đảo Ả Rập, Ba Tư, Ấn Độ và Philippines bị
ảnh hưởng nặng nề nhất trong đợt dịch bệnh này, trong khi các khu vực khác bị nhẹ hơn.
+ Đại dịch thứ bảy bắt nguồn từ năm 1961 tại Indonesia và được đánh dấu bằng sự
xuất hiện của một chủng mới, có biệt danh là El Tor , vẫn tồn tại (tính đến năm
2018) ở các nước đang phát triển.
- Ảnh hưởng : Bệnh tả trở nên phổ biến vào thế kỷ 19.Kể từ đó nó đã giết chết
hàng chục triệu người.
Loại vắc xin hiệu quả đầu tiên dành cho người được phát triển vào năm 1885, và
loại kháng sinh hiệu quả đầu tiên được phát triển vào năm 1948. 12. Dịch cúm
- Bệnh cúm là một bệnh truyền nhiễm virus cúm tấn công hệ hô hấp của người bệnh
- mũi, cổ họng và phổi. Đối với hầu hết mọi người, cúm sẽ tự khỏi. Nhưng đôi khi,
cúm và các biến chứng của nó có thể gây tử vong ở những đối tượng có nguy cơ cao bị biến chứng cúm.
- Đại dịch cúm lần đầu tiên được ghi nhận năm 1580 và kể từ đó các đại dịch cúm
diễn ra cứ mỗi 10 đến 30 năm.
- Đại dịch cúm 1889–1890, hay còn gọi là Cúm Nga, được báo cáo đầu tiên vào
tháng 5 năm 1889 ở Bukhara , Uzbekistan . Khoảng 1 triệu người chết do đại dịch này.
- Cúm Tây Ban Nha (1918–1919). Được xác định đầu tiên vào tháng 3 năm 1918
trong một trại huấn luyện lính của Hoa Kỳ cuối cùng lây nhiễm 1/3 dân số thế giới
vào thời điểm đó (khoảng 500 triệu người)
- Cúm châu Á (1957–1958). Virus H2N2 đã làm khoảng 70.000 người chết ở Hoa Kỳ.
- Cúm Hồng Kông (1968–69). Virus H3N2 làm chết khoảng 34.000 người ở Hoa
Kỳ. Loại virus này được phát hiện đầu tiên ở Hồng Kông vào đầu năm 1968, và
lây lan sang Hoa Kỳ vào một năm sau đó. Hiện tại, các virus cúm A (H3N2) vẫn còn tồn tại. lOMoAR cPSD| 45470709
- Cúm H1N1 (2009) . Người ta ước tính rằng 11–21% dân số toàn cầu lúc bấy giờ
(khoảng 6,8 tỷ), tương đương 700–1400 triệu người mắc bệnh - nhiều hơn về mặt
tuyệt đối so với đại dịch cúm Tây Ban Nha.
- Dịch bệnh Ebola tại châu Phi năm 2014 làm chết hơn 10 ngàn người.
- Cúm do virus Covid-19: đang diễn ra, đã có hơn 5,2 triệu người chết
III. Các loại dịch liên quan đến vấn đề môi trường
1. Đại dịch đã có những ảnh hưởng nhất định mang tính chất tích cực và tiêu cực đến môi trường.
-Dịch bệnh càng làm rõ nét tác động tích cực đến môi trường một cách chân thật
nhất. Khi đại dịch mới xảy ra, chất lượng môi trường dần được cải thiện như không
khí sạch hơn, nghe thấy tiếng chim hót thay vì âm thanh ầm ĩ của xe cộ khi các
thành phố áp đặt lệnh phong tỏa hay giãn cách xã hội… -
Tại Việt Nam, Tổng cục Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho
biết, so sánh kết quả chất lượng không khí tại các đô thị miền Bắc từ tháng 1-
4/2020. So với cùng thời gian của những năm trước, chất lượng không khí cũng có
xu hướng được cải thiện hơn -
Kể từ khi con người giảm bớt di chuyển không cần thiết do dịch Covid-19
đã gópphần vào sự sụt giảm đáng kể khí carbon dioxide, methane, và lượng khí thải carbon monoxide. -
Các biện pháp giãn cách xã hội được áp dụng ở hầu hết các nước nên hoạt
động du lịch bị ngưng lại, bãi biển trở nên vắng người, sạch hơn, rác thải ở các
điểm du lịch cũng giảm mạnh.
-Tiếng ồn ở đô thị và các điểm công cộng cũng giảm do người dân không được tập
trung, hoạt động buôn bán bị dừng lại, xe cộ bị hạn chế lưu thông. -
Tuy nhiên, dịch bệnh tác động một cách tích cực cho môi trường nhưng
chúng tacũng không thể phủ nhận rằng môi trường vẫn đang phải chịu những tác
động tiêu cực cũng chính từ đại dịch này.
+Thực trạng là chất thải ra môi trường gia tăng làm ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí,…
Do việc sử dụng khẩu trang dùng một lần cao chưa từng có, một số lượng đáng kể
khẩu trang đã bị vứt bỏ vào môi trường tự nhiên, làm tăng thêm gánh nặng rác thải lOMoAR cPSD| 45470709
nhựa trên toàn thế giới. Trong đại dịch COVID-19, nhu cầu sử dụng nhựa trong y
tế đã tăng lên đáng kể ở một số quốc gia. Bên cạnh thiết bị bảo vệ cá nhân như
khẩu trang, găng tay, nước sát khuẩn, việc sử dụng nhựa tăng lên đáng kể liên quan
đến yêu cầu đóng gói và các mặt hàng sử dụng một lần.
Chỉ tính riêng Hải Dương, khối lượng chất thải có nguy cơ chứa SARS-CoV-2 đã
thu gom từ khi xảy ra đợt dịch COVID-19 lần thứ 3 ngày 27/1-20/2/2021 là 304,856 tấn.
+Cơ quan y tế cũng sử dụng một lượng lớn các hóa chất khử trùng, chủ yếu là
Chloramin B, cũng rất độc hại cho môi trường.
+Để bảo đảm an toàn, nhiều khu cách ly, bệnh viện, khu xử lý chất thải đô thị đã sử
dụng biện pháp đốt chất thải y tế, dẫn đến ô nhiễm không khí.
+ Số lượng người mất tăng cao khiến không cóa chỗ trôn gây mất thẩm mĩ môi
trường , gây ô nhiễm nguồn nước , ô nhiễm không khí gây lây lan virut ra môi
trường vì đa số người mất là do mắc bệnh . HIV/AIDS:
+ Xả kim tiêm ra môi trường gây ô nhiễm ảnh hưởng tới mọi người trong cộng đồng
+ Kim tiêm dùng 1 lần tăng lên gây ảnh hưởng đến rác thải nhựa được thải ra môi trường . - Dịch tả :
+ nguồn nước bị nhiễm vi trùng do nhiều yếu tố khiền người dùng bị mắc bệnh . +
Nước thải và chất thải của người bệnh mang theo vi khuẩn vi trùng được xả ra môi
trường không được xử lí một cách hiệu quả gây ra ô nhiễm môi trường đất và môi
trường nước - Dịch bệnh đậu mùa :
+ các bệnh nhân trong thời ủ bệnh không có bệnh pháp phòng bệnh đúng đắn vì chưa
phát hiện họ hô hấp trung trong bầu không khí khiến các virut lây lan khiến mọi
người bị lây nhiễm bệnh qua vòng họng , mũi ,...--> không khí bị nhiễm virut .
V. Khắc phục và phát triển bền vững 1.
Tăng cường nhận thức và giáo dục: Tạo ra chiến dịch giáo dục để tăng
cường nhận thức về vấn đề môi trường và bền vững trong cộng đồng. 2.
Thúc đẩy sử dụng năng lượng tái tạo: Đầu tư vào nguồn năng lượng tái tạo
như năng lượng mặt trời, gió và thủy điện để giảm thiểu phát thải carbon. 3.
Tăng cường quản lý tài nguyên: Xây dựng các chính sách và quy định để
bảo vệvà tối ưu hóa sử dụng tài nguyên như nước, đất đai và nguồn lợi thủy sản. lOMoAR cPSD| 45470709 4.
Khuyến khích công nghệ sạch: Đầu tư vào nghiên cứu và phát triển công
nghệ sạch giúp giảm thiểu ô nhiễm và tác động tiêu cực đến môi trường. 5.
Hỗ trợ phát triển kinh tế xanh: Khuyến khích sự phát triển của các ngành
công nghiệp và doanh nghiệp có trách nhiệm xã hội và môi trường. 6.
Tăng cường hợp tác quốc tế: Hợp tác với các quốc gia khác để giải quyết các
vấn đề môi trường toàn cầu và đảm bảo phát triển bền vững.
Sau đại dịch COVID-19, để khắc phục và muốn phát triển bền vững, cần thực hiện các biện pháp sau: