



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58562220 MỤC LỤC
BÀI 1........................................................................................................................1
BÀI 2........................................................................................................................3
BÀI 3........................................................................................................................5
BÀI 4........................................................................................................................8
BÀI 5........................................................................................................................11
BÀI 6........................................................................................................................13
BÀI 7........................................................................................................................17
BÀI 8........................................................................................................................19
BÀI 9........................................................................................................................22
BÀI 10......................................................................................................................29 lOMoAR cPSD| 58562220
Bài 1 : Năm 2017, ông A, B, C, D cùng góp vốn thành lập Công ty trách nhiệm hữu
hạn E. 10/2009, Công ty E tách ra thành Công ty E và Công ty F, ông A và ông B là
thành viên Công ty E, ông C và ông D và ông G (thành viên góp vốn mới) là thành viên
của Công ty F. 11/2019, Công ty Y yêu cầu Công ty E phải thanh toán khoản nợ 2 tỉ
VNĐ đã vay vào 01/2019, Công ty E thanh toán cho Công ty Y 1 tỉ vì tổng tài sản chỉ
còn 1 tỉ và tuyên bố giải thể. Công ty Y yêu cầu Công ty F phải liên đới trả nợ nhưng
Công ty F từ chối vì cho rằng Công ty F là một pháp nhân độc lập với Công ty E nên
hoàn toàn không có trách nhiệm về các khoản nợ của Công ty E.
Anh (chị) hãy giải quyết tình huống trên. TRẢ LỜI
Theo Khoản 2, Điều 207, Luật Doanh nghiệp 2020 về các trường hợp và điều
kiện giải thể doanh nghiệp:
“2. Doanh nghiệp chỉ được giải thể khi bảo đảm thanh toán hết các khoản nợ, nghĩa vụ
tài sản khác và không trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án hoặc Trọng tài.
Người quản lý có liên quan và doanh nghiệp quy định tại điểm d khoản 1 Điều này cùng
liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ của doanh nghiệp.”
Việc công ty E chưa thanh toán xong khoảng 2 tỉ VNĐ vay vào tháng 01/2019
với công ty Y (chỉ mới thanh toán cho Công ty Y 1 tỉ) có nghĩa công ty E chưa đảm bảo
thanh toán hết khoản nợ này vậy nên công ty E chưa thể giải thể được.
Theo quy định tại Khoản 4, Điều 199 Luật Doanh Nghiệp 2020 như sau: “4. Sau
khi đăng ký doanh nghiệp, công ty bị tách và công ty được tách phải cùng liên đới chịu
trách nhiệm về các nghĩa vụ, các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và
nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị tách, trừ trường hợp công ty bị tách, công ty được
tách, chủ nợ, khách hàng và người lao động của công ty bị tách có thỏa thuận khác.
Các công ty được tách đương nhiên kế thừa toàn bộ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp
pháp được phân chia theo nghị quyết, quyết định tách công ty.”
Theo đó, khi tách ra để thành lập công ty mới thì các khoản nợ của công ty TNHH
cũ sẽ do cả hai công ty liên đới chịu trách nhiệm trừ khi có thỏa thuận khác.
Về nghĩa vụ dân sự liên đới, tại Khoản 1 Điều 288 Bộ luật dân sự 2015 định
nghĩa: “Nghĩa vụ dân sự liên đới là nghĩa vụ do nhiều người cùng phải thực hiện và
bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người có nghĩa vụ phải thực hiện
toàn bộ nghĩa vụ.” lOMoAR cPSD| 58562220
Trong trường hợp này, khoản nợ của công ty E phát sinh vào tháng 01/2019, đến
tháng 10/2019, mới thực hiện tách doanh nghiệp, do đó công ty F và công ty E phải
cùng liên đới chịu trách nhiệm về khoản nợ chưa thanh toán của công ty E. Vậy công ty
F có trách nhiệm liên đới trả khoản nợ 1 tỷ đồng theo yêu cầu của công ty Y. Dựa theo
nghị quyết, quyết định tách công ty mà khoản nợ này được chia tương ứng cho công ty
E và công ty F để trả, và ông G sẽ chịu trách nhiệm về khoản nợ này trong phạm vi vốn
góp thành lập công ty F, trừ khi lúc tách doanh nghiệp, hai công ty E và F ít nhất có thỏa
thuận công ty được tách (công ty F) sẽ không có trách nhiệm liên đối với bất kỳ khoản
nợ nào của công ty bị tách (công ty E).
Bài 2 : Hợp đồng số 10 giữa Doanh nghiệp tư nhân M và Công ty trách nhiệm hữu
hạn A do hai cá nhân góp vốn thành lập từ năm 2018. Trong quá trình thực hiện
hợp đồng thì xảy ra các trường hợp sau đây. Anh (chị) hãy xử lý các tình huống đó theo pháp luật : 1.
Công ty trách nhiệm hữu hạn A liên doanh với Công ty cổ phần quốc tịch
TrungQuốc để lắp ráp xe máy Trung Quốc tại Việt Nam. 2. Công ty A giải thể. 3.
Giám đốc Công ty A bị tòa án có thẩm quyền kết án tù và tước quyền hành nghề kinhdoanh. 4.
Chủ doanh nghiệp tư nhân M bán một phần vốn doanh nghiệp cho cá nhân khác
và chuyển doanh nghiệp tư nhân M thành công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên. TRẢ LỜI 1.
Theo quy định pháp luật về doanh nghiệp liên doanh như sau:
“Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác
thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký giữa Chính
phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ hoặc là doanh nghiệp do
doanh nghiệp có vốn đầu tư hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam hoặc do doanh nghiệp
liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Doanh
nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Mỗi bên
liên doanh chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn cam kết góp vào vốn pháp định của doanh nghiệp.” lOMoAR cPSD| 58562220
Việc liên doanh này không hề làm mất đi tư cách pháp nhân của hai bên liên
doanh, do đó, Công ty TNHH A vẫn đơn phương phải chịu những trách nhiệm đã có khi
ký kết hợp đồng số 10. 2.
Theo Điểm e, Khoản 1, Điều 211, Luật Doanh nghiệp 2020 về các hoạt động
bịcấm kể từ khi có quyết định giải thể quy định như sau:
“1. Kể từ khi có quyết định giải thể doanh nghiệp, doanh nghiệp, người quản lý doanh
nghiệp bị nghiêm cấm thực hiện các hoạt động sau đây: e) Chấm dứt thực hiện hợp
đồng đã có hiệu lực;”
Như vậy, Công ty A có nghĩa vụ phải tiếp tục thực hiện hợp đồng số 10 với doanh
nghiệp M mặc dù đã có quyết định giải thể.
Tuy nhiên, nếu hai bên thống nhất được thì có thể tiến hành thanh lý hợp đồng
trước thời hạn để chấm dứt quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Sau đó công ty A có thể tiến hành giải thể. 3.
TH1: Giám đốc là thành viên góp vốn kiêm vai trò là người đại diện theo pháp luật của công ty A
Theo khoản 6, điều 12, Luật Doanh nghiệp 2020:
Điều 12. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
“6. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên, nếu có thành viên là cá
nhân làm người đại diện theo pháp luật của công ty chết, mất tích, đang bị truy cứu
trách nhiệm hình sự, bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, đang chấp hành biện
pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc, trốn khỏi
nơi cư trú, bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi, bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công
việc nhất định thì thành viên còn lại đương nhiên làm người đại diện theo pháp luật
của công ty cho đến khi có quyết định mới của Hội đồng thành viên về người đại diện
theo pháp luật của công ty.”
Như vậy, thành viên còn lại của Công ty trách nhiệm hữu hạn A sẽ là người đại
diện cho đến khi Hội đồng thành viên có quyết định mới về người đại diện tiếp theo và
công ty A vẫn sẽ tiếp tục hoạt động. Do đó, hợp đồng số 10 vẫn tiếp tục được thực hiện.
TH2: Trong trường hợp Giám đốc không phải là thành viên góp vốn mà chỉ được thuê
về để điều hành công ty thì căn cứ theo khoản 1, điều 64, Luật Doanh nghiệp 2020: lOMoAR cPSD| 58562220
Điều 64. Tiêu chuẩn và điều kiện làm Giám đốc, Tổng giám đốc “1.
Không thuộc đối tượng quy định tại khoản 2 điều 17 của Luật này.” Mà
theo Điểm e, Khoản 2, Điều 17, Luật Doanh nghiệp 2020:
Điều 17. Quyền thành lập, góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp và quản lý doanh nghiệp
“2. Tổ chức, cá nhân sau đây không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam:
e) Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt
tù, đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở
giáo dục bắt buộc hoặc đang bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc
làm công việc nhất định; các trường hợp khác theo quy định của Luật Phá sản, Luật
Phòng, chống tham nhũng. Trường hợp Cơ quan đăng ký kinh doanh có yêu cầu, người
đăng ký thành lập doanh nghiệp phải nộp Phiếu lý lịch tư pháp cho Cơ quan đăng ký kinh doanh;”
Như vậy, người này không có đủ tiêu chuẩn để đảm nhiệm chức vụ Giám đốc.
Lúc này, căn cứ theo điểm đ, khoản 2, điều 55, Luật Doanh nghiệp 2020:
Điều 55. Hội đồng thành viên
“2. Hội đồng thành viên có quyền và nghĩa vụ sau đây:
đ) Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch Hội đồng thành viên; quyết định bổ nhiệm,
miễn nhiệm, bãi nhiệm, ký và chấm dứt hợp đồng đối với Giám đốc hoặc Tổng giám
đốc, Kế toán trưởng, kiểm soát viên và người quản lý khác quy định tại điều lệ công ty;”
Hội đồng thành viên có quyền chọn hoặc thuê một Giám đốc mặt thay cho cựu
giám đốc bị kết án tù và tước quyền hành nghề kinh doanh nếu công ty có nhu cầu cần
thay thế người cho vị trí này.
Để xác định hợp đồng có được tiếp tục thực hiện không, phụ thuộc vào hai trường hợp dưới đây.
TH1: Hợp đồng số 10 không phải do cựu giám đốc công ty A ký mà có thể do giám đốc
khác hoặc người đại diện pháp luật khác ký.
Việc cựu giám đốc công ty A bị tòa án có thẩm quyền kết án tù và tước quyền
hành nghề kinh doanh không ảnh hưởng đến trách nhiệm thực hiện hợp đồng của công
ty A. Vậy, công ty A sẽ vẫn tiếp tục thực hiện trách nhiệm với hợp đồng này. lOMoAR cPSD| 58562220
TH2: Hợp đồng số 10 do cựu giám đốc công ty A ký.
Dựa theo điểm a, khoản 1, điều 142, Bộ luật dân sự 2015:
Điều 142. Hậu quả của giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện
“1. Giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm
phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ một trong các trường hợp sau đây:
a) Người được đại diện đã công nhận giao dịch;”
Vì trước đó giám đốc công ty A là người nhân danh công ty để ký hợp đồng và công ty
A cũng đã công nhận giao dịch, cho nên việc giám đốc bị kết án tù và tước quyền hành
nghề kinh doanh sẽ không ảnh hưởng đến quá trình thực hiện hợp đồng.
4. Theo mục c khoản 1 điều 205, Luật doanh nghiệp 2020
Điều 205. Chuyển đổi doanh nghiệp tư nhân thành công ty trách nhiệm hữu hạn,
công ty cổ phần, công ty hợp danh
“1. Doanh nghiệp tư nhân có thể chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn, công
ty cổ phần hoặc công ty hợp danh theo quyết định của chủ doanh nghiệp tư nhân nếu
đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
c) Chủ doanh nghiệp tư nhân có thỏa thuận bằng văn bản với các bên của hợp đồng
chưa thanh lý về việc công ty được chuyển đổi tiếp nhận và tiếp tục thực hiện các hợp đồng đó;”
Như vậy, hợp đồng 10 vẫn tiếp tục được tiến hành giữa công ty TNHH A và công ty TNHH M
Bài 3 : Ngày 10/6/1990, ông An được thừa kế số tài sản 1 tỷ trong Doanh nghiệp tư
nhâncủa người cha và đã làm thủ tục chuyển tên sở hữu cho mình đối với
Doanh nghiệp tại cơ quan nhà nước nhà nước có thẩm quyền. Năm 1992, ông An kết
hôn với bà Bình. 15/4/2007, ông An chết đột ngột nên không để lại di chúc. Sau khi
ông An chết, bà Bình làm thủ tục đứng tên đăng kí kinh doanh với tư cách chủ Doanh
nghiệp tư nhân và đổi tên Doanh nghiệp đó thành Doanh nghiệp tư nhân “Sao Mai”.
Hai tuần sau, đại diện Công ty trách nhiệm hữu hạn X đến yêu cầu bà Bình tiếp tục
thực hiện hợp đồng thì phải trả lại số tiền mà Công ty đã tạm ứng 50 triệu đồng cho
ông An cùng với lãi suất 3%/ tháng. Bà Bình không đồng ý yêu cầu trên. Bằng quy lOMoAR cPSD| 58562220
định của pháp luật hiện hành hãy cho biết yêu cầu của hai bên có đúng pháp luật không? tại sao?
Dữ kiện cho ngày 15/4/2007, ông An chết đột ngột nên không để lại di chúc. TRẢ LỜI
Theo mục a, khoản 1 điều 650 và mục a khoản 1 điều 651 Bộ luật dân sự 2015
Điều 650. Những trường hợp thừa kế theo pháp luật
“1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây: a)
Không có di chúc;”
Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ,
con nuôi của người chết;”
Ở đây, bà Bình thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Tuy nhiên cần phải xét thêm trường
hợp liệu bà Bình là người thừa kế thứ nhất duy nhất theo pháp luật hay không.
TH1: Bà Bình là người thừa kế duy nhất theo pháp luật
Điều 193. Thực hiện quyền của chủ doanh nghiệp tư nhân trong một số trường hợp đặc biệt
“2. Trường hợp chủ doanh nghiệp tư nhân chết thì người thừa kế hoặc một trong những
người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật là chủ doanh nghiệp tư nhân theo thỏa
thuận giữa những người thừa kế. Trường hợp những người thừa kế không thỏa thuận
được thì đăng ký chuyển đổi thành công ty hoặc giải thể doanh nghiệp tư nhân đó.”
Căn cứ theo điều khoản này, bà Bình có thể trở thành doanh nghiệp tư nhân
TH2: Ngoài bà Bình, còn có người thừa kế khác theo pháp luật cùng ở hàng thừa kế
thứ nhất, hoặc ở hàng thấp hơn bà Bình.
Dựa vào khoản 2 và 3, điều 651 Bộ luật Dân sự 2015
“2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng
thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản
hoặc từ chối nhận di sản”
Những người thừa kế theo pháp luật cùng hàng với bà Bình sẽ được hưởng phần
di sản bằng nhau, trong khi đó những người ở hàng thừa kế sau tạm thời chưa được lOMoAR cPSD| 58562220
hưởng thừa kế. Lúc này, theo khoản 2, điều 193, Luật Doanh nghiệp 2020: Điều 193.
Thực hiện quyền của chủ doanh nghiệp tư nhân trong một số trường hợp đặc biệt
“2. Trường hợp chủ doanh nghiệp tư nhân chết thì người thừa kế hoặc một trong những
người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật là chủ doanh nghiệp tư nhân theo thỏa
thuận giữa những người thừa kế. Trường hợp những người thừa kế không thỏa thuận
được thì đăng ký chuyển đổi thành công ty hoặc giải thể doanh nghiệp tư nhân đó.”
Do đó, việc bà Bình có thể trở thành chủ doanh nghiệp tư nhân hay không thì tùy
thuộc vào thoả thuận giữa những người thừa kế cùng hàng với bà.
Theo khoản 1, điều 188 Luật doanh nghiệp
Điều 188. Doanh nghiệp tư nhân
“1. Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp tư nhân là loại hình doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân, vì vậy, quyền và
nghĩa vụ của doanh nghiệp sẽ gắn liền với quyền và nghĩa của chủ doanh nghiệp.”
Mặt khác, theo quy định tại khoản 3 Điều 190 Luật doanh nghiệp 2029 thì chủ
doanh nghiệp tư nhân là đại diện hợp pháp của doanh nghiệp,
Điều 190. Quản lý doanh nghiệp tư nhân
“3. Chủ doanh nghiệp tư nhân là người đại diện theo pháp luật, đại diện cho doanh
nghiệp tư nhân với tư cách người yêu cầu giải quyết việc dân sự, nguyên đơn, bị đơn,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án, đại diện cho doanh
nghiệp tư nhân thực hiện quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.”
Vì vậy khi chủ doanh nghiệp tư nhân chết đi, doanh nghiệp cũng sẽ chấm dứt
hoạt động. Các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp tư nhân mà chưa được
thực hiện sẽ được bảo đảm bằng tài sản của chủ doanh nghiệp. Theo đó, khi chủ doanh
nghiệp là ông An chết, tư cách pháp lý của doanh nghiệp tư nhân sẽ chấm dứt. Trong
trường hợp này, bà Bình không được thừa kế doanh nghiệp tư nhân mà chỉ được thừa
kế tài sản của doanh nghiệp tư nhân.
Trường hợp bà Bình muốn tiếp tục duy trì hoạt động của doanh nghiệp tư nhân
đó thì phải tiến hành đăng ký thay đổi chủ doanh nghiệp tư nhân theo quy định để thành
lập một doanh nghiệp tư nhân mới với chủ doanh nghiệp là bà Bình – Doanh nghiệp tư lOMoAR cPSD| 58562220
nhân “Sao Mai”. Do đó, doanh nghiệp này là doanh nghiệp mới, không liên quan đến
doanh nghiệp của ông An trước đó.
Như vậy, theo quy định thì bà Bình chỉ có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản
và các khoản nợ của doanh nghiệp mà ông An chưa thực hiện trong phạm vi di sản do
ông An để lại chứ không cần phải tiếp tục các hợp đồng hay dự án của ông An. Chính
vì thế, trong trường hợp này bà Bình có nghĩa vụ trả lại số tiền mà công ty đã tạm ứng
50 triệu đồng cùng với lãi suất 3%/ tháng nhưng không cần phải tiếp tục thực hiện hợp
đồng với công ty X. Vậy việc công ty X yêu cầu tiếp tục hợp đồng và việc bà Bình từ
chối thì cả hai đều chưa đúng.
Bài 4 : Giám đốc công ty lương thực tỉnh K (bên A) ký HÐ số 20 mua 1000 tấn gạo
của công ty thương mại tỉnh D (bên B) và ủy quyền cho ông An trưởng chi nhánh của
công ty lương thực tỉnh K mở tại tỉnh D đến thanh toán tiền và nhận hàng. Trong khi
giao hàng cho ông An do có nhu cầu giải phóng kho vải, bên B đề nghị bán thêm 500
tấn gạo với giá rẻ, thanh toán tiền hàng sau 1 tháng kể từ ngày nhận hàng. Trước những
điều kiện thuận lợi như vậy, ông An nhân danh công ty mình ký HÐ số 21 để mua thêm
500 tấn gạo mà không chờ giấy ủy quyền của giám đốc công ty.
Trong sổ nhật ký nhập hàng của công ty lương thực tỉnh K có ghi rõ ngày
20/01/18 nhận đủ 1.500 tấn gạo tại cảng Hải Phòng. Do giá gạo ở miền bắc xuống
nhanh, giám đốc bên A có công văn đề nghị bên B giảm 200.000đ/1 tấn gạo trong số
500 tấn mua thêm, bên B không đồng ý.
Ngày 01/03/18 bên A gửi đơn đề nghị tòa án tuyên bố hợp đồng số 21 là vô hiệu
toàn bộ do người ký hợp đồng này là ông An không được giám đốc công ty lương thực
tỉnh K ủy quyền hợp pháp.
Đồng thời bên B cũng kiện yêu cầu bên A phải trả tiền hàng đồng thời chịu phạt
hợp đồng và bồi thường thiệt hại cho bên B do A đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán, theo
hợp đồng thời hạn thanh toán chậm nhất là ngày 25/1/2018 nhưng đến nay A vẫn chưa
thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho B.
Anh (chị) hãy đề ra hướng giải quyết tranh chấp trên. lOMoAR cPSD| 58562220 TRẢ LỜI
*Căn cứ xét hợp đồng số 21 vô hiệu:
Theo Khoản 1 và khoản 5 Điều 84 Bộ luật dân sự 2015: Chi nhánh, văn phòng đại
diện của pháp nhân:
“1. Chi nhánh, văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, không phải là pháp nhân.
5. Người đứng đầu chi nhánh, văn phòng đại diện thực hiện nhiệm vụ theo ủy quyền
của pháp nhân trong phạm vi và thời hạn được ủy quyền.”
Như vậy chi nhánh của công ty lương thực tỉnh K mở tại tỉnh D không phải là
pháp nhân và ông An là trưởng chi nhánh chỉ được đại diện công ty kí kết hợp đồng
trong phạm vi và thời hạn được ủy quyền. Do đó, ông An chỉ có thẩm quyền để kí kết
hợp đồng số 20. Tuy nhiên, ông An không được giám đốc công ty lương thực tỉnh K ủy
quyền để nhân danh công ty ký hợp đồng số 21 mua thêm 500 tấn gạo do đó ông An
không có thẩm quyền để kí kết hợp đồng này.
Theo khoản 1 điều 117 BLDS 2015 Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự:
“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao
dịch dân sự được xác lập”
Do ông An không có năng lực chủ thể để kí hợp đồng số 21 nên Hợp đồng số 21 vô hiệu.
*Trách nhiệm của bên A (công ty lương thực tỉnh K):
Theo điều 43 Luật thương mại 2005: Giao thừa hàng
“1. Trường hợp bên bán giao thừa hàng thì bên mua có quyền từ chối hoặc chấp nhận
số hàng thừa đó.
2. Trường hợp bên mua chấp nhận số hàng thừa thì phải thanh toán theo giá thoả thuận
trong hợp đồng nếu các bên không có thoả thuận khác.”
Vì trong sổ nhật ký nhập hàng của công ty lương thực tỉnh K có ghi rõ ngày
20/01/18 nhận đủ 1.500 tấn gạo tại cảng Hải Phòng, do đó coi như công ty lương thực
tỉnh K đã chấp nhận số hàng thừa là 500 tấn gạo so với số lượng hàng đặt mua trong
hợp đồng số 20 (1000 tấn gạo). Vì vậy công ty lương thực tỉnh K phải thanh toán tiền
hàng cho 1500 tấn gạo theo giá thỏa thuận trong hợp đồng. lOMoAR cPSD| 58562220
Theo khoản 12 điều 3 Luật thương mại 2005: “Vi phạm hợp đồng là việc một bên
không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thoả
thuận giữa các bên hoặc theo quy định của Luật này.”
Do bên A là công ty lương thực tỉnh K đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên bên
A đã vi phạm hợp đồng số 20.
Theo khoản 1 Điều 297 Luật Thương mại 2005: Buộc thực hiện đúng hợp đồng
“1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực
hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên
vi phạm phải chịu chi phí phát sinh.”
Do đó bên B có quyền yêu cầu bên A thực hiện đúng hợp đồng đó là phải thực
hiện nghĩa vụ thanh toán đối với số hàng đã giao.
Theo Điều 303 Luật thương mại 2005: Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
“Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, trách nhiệm
bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây:
1. Có hành vi vi phạm hợp đồng;
2. Có thiệt hại thực tế;
3. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại”Xét 2 trường hợp:
TH1: bên B có thiệt hại thực tế do việc vi phạm nghĩa vụ thanh toán của bên A => Như
vậy theo điều 3 và điều 303 Luật Thương Mại 2005 thì bên A phải có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại cho bên B
TH2: bên B không có thiệt hại thực tế, hoặc thiệt hại không phải do việc vi phạm thanh toán của bên A gây ra
=>Tuy bên A có hành vi vi phạm hợp đồng nhưng bên A không có nghĩa vụ bồi thường
thiệt hại do không thỏa mãn cả 3 điều kiện trên. Theo Điều 300 Luật thương mại 2005: Phạt vi phạm
“Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do
vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả thuận, trừ các trường hợp miễn trách
nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này.” lOMoAR cPSD| 58562220
Do đó, điều kiện để phạt vi phạm hợp đồng bao gồm 2 điều kiện:
+ Có hành vi vi phạm hợp đồng xảy ra
+ Việc phạt vi phạm có thỏa thuận trong hợp đồng.
Vì bên A đã có hành vi vi phạm hợp đồng (vi phạm nghĩa vụ thanh toán) nên phải
căn cứ vào việc 2 bên có quy định việc phạt vi phạm trong hợp đồng hay không để xác
định trách nhiệm của bên A.
Như vậy, nếu như trong hợp đồng số 20 của bên A và bên B kí có thỏa thuận về
việc phạt vi phạm hợp đồng thì bên A phải có nghĩa vụ trả một khoản phạt vi phạm hợp
đồng cho bên B. Ngược lại, nếu trong hợp đồng số 20 đó không có thỏa thuận về việc
phạt vi phạm thì bên A không cần trả khoản phạt vi phạm cho bên B.
Bài 5 : Các ông A,B,C,D,E cùng thỏa thuận thành lập 1 CTCP lấy tên là CTCP Hoa
Hồng, đặt trụ sở chính tại thành phố H. Vốn điều lệ dự định là 3 tỷ đồng và được các
thành viên thỏa thuận chia thành 30.000 phần. Hỏi:
1. Để huy động được số vốn điều lệ nói trên, cty phải phát hành bao nhiêu CP, vàmỗi
cổ phần có mệnh giá là bao nhiêu? A,B,C,D,E có phải cùng đăng ký mua ít nhất 20%
tổng số CPPT được quyền chào bán của công ty hay không? Biết rằng E không ký tên
vào bản điều lệ đầu tiên của công ty.
2. Việc đặt tên công ty như trên có trái với LDN không, nếu trước đó đã có Côngty
TNHH Thương Mại và Dịch Vụ Hoa Hồng được cấp giấy chứng nhận ĐKKD và đặt
trụ sở chính tại thành phố H.
3. Điều lệ công ty quy định A là giám đốc của CTCP Hoa Hồng. Hiện A cũngđồng
thời là giám đốc một công ty TNHH X. Điều này có trái với LDN không? TRẢ LỜI Câu a:
Theo điểm a, khoản 1, điều 111, Luật doanh nghiệp 2020
“1. Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó:
a) Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;”
Vậy để huy động số vốn điều lệ nói trên, công ty phải phát hành 30000 cổ phẩn.
Mỗi cổ phần có mệnh giá bằng nhau là: 3.000.000.000/30.000= 100.000 đồng - Theo
điểm b, khoản 1, điều 111, Luật doanh nghiệp 2020: lOMoAR cPSD| 58562220
“b) Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là 03 và không hạn
chế số lượng tối đa.”
Và theo khoản 1, khoản 2 điều 120, Luật doanh nghiệp 2020:
Điều 120. Cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập
“1. Công ty cổ phần mới thành lập phải có ít nhất 03 cổ đông sáng lập. Công ty cổ
phần được chuyển đổi từ doanh nghiệp nhà nước hoặc từ công ty trách nhiệm hữu hạn
hoặc được chia, tách, hợp nhất, sáp nhập từ công ty cổ phần khác không nhất thiết phải
có cổ đông sáng lập; trường hợp này, Điều lệ công ty trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp
phải có chữ ký của người đại diện theo pháp luật hoặc các cổ đông phổ thông của công ty đó.
2. Các cổ đông sáng lập phải cùng nhau đăng ký mua ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ
thông được quyền chào bán khi đăng ký thành lập doanh nghiệp.”
Công ty CP Hoa Hồng có 5 thành viên, thoả mãn đủ số lượng cổ đông sáng lập
tối thiểu theo luật, trường hợp ông E không kí vào bản điều lệ đầu tiên của công ty thì
cần có người đại diện theo pháp luật kí tên và A, B, C, D, E phải cùng đăng ký mua ít
nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán cho công ty. Câu b:
Theo điểm a, khoản 2 điều 41, luật Doanh nghiệp 2020 Điều
41. Tên trùng và tên gây nhầm lẫn:
“2. Các trường hợp được coi là tên gây nhầm lẫn với tên của doanh nghiệp đã đăng ký bao gồm:
a) Tên tiếng Việt của doanh nghiệp đề nghị đăng ký được đọc giống tên doanh nghiệp đã đăng ký;”
Trước đó, đã có công ty TNHH Thương Mại và Dịch vụ Hoa Hồng được cấp
giấy chứng nhận ĐKKĐ và đặt trụ sở chính tại thành phố H thì việc đặt tên CTCP Hoa
Hồng sẽ trái với luật Doanh nghiệp 2020 với lý do là dễ gây nhầm lẫn. Câu c
- Theo khoản 2, điều 59, Luật Kinh doanh 2020:” Trường hợp Điều lệ công ty không
có quy định khác thì nghị quyết, quyết định về các vấn đề sau đây phải được thông qua
bằng biểu quyết tại cuộc họp Hội đồng thành viên: a) Sửa đổi, bổ sung nội dung Điều lệ công ty;
b) Quyết định phương hướng phát triển công ty; lOMoAR cPSD| 58562220
c) Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch Hội đồng thành viên; bổ nhiệm, miễn nhiệm,bãi
nhiệm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc;
d) Thông qua báo cáo tài chính hằng năm;
đ) Tổ chức lại, giải thể công ty. “
Ở công ty TNHH, việc bổ nhiệm hay thuê A làm giám đốc là toàn quyền quyết
định của Hội đồng. Hơn nữa, bởi vì điều lệ công ty đã quy định anh A là Giám đốc của
công ty CP Hoa Hồng rồi nên anh A chắc chắn đạt đủ tiêu chuẩn theo khoản 5, điều
162, Luật Doanh nghiệp 2020:
“Đối với công ty đại chúng, doanh nghiệp nhà nước theo quy định tại điểm b khoản 1
Điều 88 của Luật này và công ty con của doanh nghiệp nhà nước theo quy định tại
khoản 1 Điều 88 của Luật này thì Giám đốc hoặc Tổng giám đốc phải đáp ứng các tiêu
chuẩn, điều kiện sau đây:
a) Không thuộc đối tượng quy định tại khoản 2 Điều 17 của Luật này;
b) Không được là người có quan hệ gia đình của người quản lý doanh nghiệp, Kiểmsoát
viên của công ty và công ty mẹ; người đại diện phần vốn nhà nước, người đại diện
phần vốn của doanh nghiệp tại công ty và công ty mẹ;
c) Có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm trong quản trị kinh doanh của công ty. “
Và vì đã là Giám đốc của CTCP Hoa Hồng, theo điều 64 (tiêu chuẩn và điều kiện
làm Giám đốc, Tổng giám đốc), A đồng thời đáp ứng đủ những tiêu chuẩn và điều kiện
làm giám đốc của công ty TNHH X.
Kết luận: Việc A là Giám đốc CTCP Hoa Hồng đồng thời là giám đốc công ty
TNHH X không trái với luật Kinh Doanh 2020.
Bài 6 : Dương, Thành, Trung, Hải thành lập Công ty TNHH Thái Bình Dương, kinh
doanh XNK và xúc tiến xuất khẩu. Công ty đã đăng ký thành lập doanh nghiệp với số
vốn điều lệ là 5 tỷ đồng. Số vốn góp của mỗi thành viên như sau:
- Dương góp 800 triệu tiền mặt (chiếm 16% vốn điều lệ)
- Thành góp bằng giấy nhận nợ của công ty Thành Mỹ, tổng số tiền của giấy nhậnnợ
là 1,3 tỷ, được các bên nhất trí định giá là 1,2 tỷ (100 triệu là khoản trừ cho rủi ro không
đòi được nợ của Thành Mỹ) (chiếm 24% vốn điều lệ)
- Trung góp vốn bằng ngôi nhà của mình, trị giá tại thời điểm góp vốn là 700
triệunhưng được các thành viên thống nhất định giá là 1,5 tỷ (chiếm 30% vốn điều lệ) lOMoAR cPSD| 58562220
do tin chắc rằng trong thời gian tới, con đường trước ngôi nhà đó sẽ được mở rộng và
trị giá ngôi nhà sẽ tăng
- Hải góp vốn bằng 1,5 tỷ đồng tiền mặt (chiếm 30% vốn điều lệ) nhưng lúc đầuchỉ
góp 500 triệu, 1 tỷ Hải cam kết sẽ góp khi công ty cần vốn tiền mặt.
Sau 1 năm hoạt động, công ty có lãi ròng 800 triệu. Các thành viên họp Hội đồng
thành viên để phân chia lợi nhuận nhưng không thống nhất được. Các tranh cãi xảy ra là: (1)
Hải được chia lợi nhuận trên tỷ lệ của số vốn đã thực góp (500 triệu) hay
sốvốn đã cam kết góp (1,5 tỷ)? (2)
Góp vốn bằng giấy nhận nợ có hợp pháp không? Khoản nợ của công ty
ThànhMỹ chỉ đòi được một nửa (600 triệu) vì công ty này đang lâm vào tình trạng phá
sản, phần còn lại Thành có phải góp thêm không? Thành sẽ được chia lợi nhuận như thế nào? (3)
Việc định giá ngôi nhà cao hơn giá trị thực tế tại thời điểm góp vốn sẽ được
xửlý như thế nào? Trung có được chia lợi nhuận trên trị giá 1,5 tỷ không? TRẢ LỜI
1. Hải được chia lợi nhuận dựa trên tỷ lệ của số vốn đã thực góp (500 triệu)
Theo Điều 24 Điều lệ công ty Luật Doanh nghiệp 2020 Việc chia lợi nhuận sau thuế
và xử lý lỗ trong kinh doanh sẽ được quy định cụ thể theo nội dung điều lệ công ty.
“Nếu như điều lệ công ty không quy định rõ thì việc phân chia lợi nhuận (sau thuế và
các nghĩa về tài chính khác) sẽ được quy định theo điểm c khoản 1 Điều 49 Luật Doanh nghiệp 2020”
Điều 49. Quyền của thành viên Hội đồng thành viên “1.
Thành viên Hội đồng thành viên có các quyền sau đây:
c) Được chia lợi nhuận tương ứng với phần vốn góp sau khi công ty đã nộp đủ thuế và
hoàn thành các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật;
Thành viên Hội đồng thành viên được quyền chia lợi nhuận tương ứng với phần vốn
góp sau khi công ty đã nộp đủ thuế và hoàn thành các nghĩa vụ tài chính khác theo quy
định của pháp luật.”
Theo khoản 4, điều 47 Luật Doanh nghiệp 2020
Điều 47 Góp vốn thành lập công ty và cấp giấy chứng nhận phần vốn góp “4.
Trường hợp có thành viên chưa góp vốn hoặc chưa góp đủ số vốn đã cam kết, công ty lOMoAR cPSD| 58562220
phải đăng ký thay đổi vốn điều lệ, tỷ lệ phần vốn góp của các thành viên bằng số vốn
đã góp trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày cuối cùng phải góp đủ phần vốn góp theo quy
định tại khoản 2 Điều này. Các thành viên chưa góp vốn hoặc chưa góp đủ số vốn đã
cam kết phải chịu trách nhiệm tương ứng với tỷ lệ phần vốn góp đã cam kết đối với các
nghĩa vụ tài chính của công ty phát sinh trong thời gian trước ngày công ty đăng ký
thay đổi vốn điều lệ và tỷ lệ phần vốn góp của thành viên.”
Phần vốn góp là tổng giá trị tài sản của một thành viên đã góp hoặc cam kết góp
vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh. Tại điều 47, luật không quy định
rõ phần vốn góp là vốn thực góp hay số vốn cam kết góp.
Tại nghị định 102/2010/NĐ-CP, khoản 3 điều 18 quy định:
“Trong thời hạn chưa góp đủ số vốn theo cam kết, thành viên có số phiếu biểu quyết và
được chia lợi tức tương ứng với tỷ lệ số vốn thực góp, trừ trường hợp Điều lệ công ty quy định khác.”
Theo khoản 2, điều 47 Luật Doanh nghiệp 2020
Điều 47. Góp vốn thành lập công ty và cấp giấy chứng nhận phần vốn góp “2.
Thành viên phải góp vốn cho công ty đủ và đúng loại tài sản đã cam kết khi đăng ký
thành lập doanh nghiệp trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp, không kể thời gian vận chuyển, nhập khẩu tài sản góp vốn, thực
hiện thủ tục hành chính để chuyển quyền sở hữu tài sản. Trong thời hạn này, thành viên
có các quyền và nghĩa vụ tương ứng với tỷ lệ phần vốn góp đã cam kết. Thành viên
công ty chỉ được góp vốn cho công ty bằng loại tài sản khác với tài sản đã cam kết nếu
được sự tán thành của trên 50% số thành viên còn lại.”
Sau thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này mà vẫn có thành viên chưa góp vốn
hoặc chưa góp đủ phần vốn góp đã cam kết thì được xử lý như sau: Thành viên chưa
góp đủ phần vốn góp đã cam kết có các quyền tương ứng với phần vốn góp đã góp.
Vì công ty đã hoạt động và đăng ký thành lập doanh nghiệp được 1 năm, nên đã
qua thời hạn 90 ngày kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mà
ông Hải vẫn không góp đủ số vốn đã cam kết. Do đó, ông Hải chỉ được chia lợi nhuận
dựa trên tỷ lệ số vốn đã góp là 500 triệu.
2. Việc góp vốn bằng giấy nhận nợ của Thành là hợp pháp
Theo khoản 1, điều 34 Luật Doanh nghiệp 2020
Điều 34. Tài sản góp vốn lOMoAR cPSD| 58562220
“1. Tài sản góp vốn là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, tài sản khác có thể định giá được
bằng Đồng Việt Nam.” Theo khoản 1, điều 105 Luật Dân sự 2015
Điều 105. Tài sản
“1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.” Theo
khoản 2, điều 36 Luật Doanh nghiệp 2020:
Điều 36. Định giá tài sản góp vốn
“2. Tài sản góp vốn khi thành lập doanh nghiệp phải được các thành viên, cổ đông
sáng lập định giá theo nguyên tắc đồng thuận hoặc do một tổ chức thẩm định giá định
giá. Trường hợp tổ chức thẩm định giá định giá thì giá trị tài sản góp vốn phải được
trên 50% số thành viên, cổ đông sáng lập chấp thuận.”
Việc Thành góp vốn bằng giấy nhận nợ cũng như giá trị của phần vốn góp đã
được các thành viên nhất trí và định giá. Do đó, việc góp vốn này là hoàn toàn hợp pháp.
Việc công ty Thành Mỹ lâm vào tình trạng phá sản sau khi công ty TNHH Thái
Bình Dương hoạt động 1 năm là hoàn toàn độc lập với việc góp vốn của Thành. Trong
quá trình hoạt động, công ty Thành Mỹ đã trả 600 triệu đồng và công ty Thái Bình
Dương đã tiếp nhận số tiền này. Điều đó cho thấy công ty Thái Bình Dương đã là chủ
nợ hợp pháp của công ty Thành Mỹ. Và do vậy công ty Thái Bình Dương sẽ không có
quyền buộc Thành nộp thêm số tiền còn thiếu. Thành sẽ được chia lợi nhuận trên tỷ lệ
của số vốn 1,2 tỷ đồng.
3. Theo khoản 1, điều 107 Luật dân sự 2015
Điều 107. Bất động sản và động sản
“1. Bất động sản bao gồm: a) Đất đai;
b) Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai;
c) Tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng;
d) Tài sản khác theo quy định của pháp luật.
2. Động sản là những tài sản không phải là bất động sản.”
Nhà là bất động sản , là tài sản có giá trị lưu thông trên thị trường và quy được
bằng tiền, do đó nếu căn nhà là hợp pháp và các bên nhất trí hoặc có quy định tại điều
lệ công ty thì sẽ được xem là tài sản khác được chấp nhận là tài sản góp vốn. lOMoAR cPSD| 58562220
Việc định giá ngôi nhà cao hơn giá trị thực tế tại thời điểm góp vốn sẽ được xem
là hợp pháp theo khoản 2 điều 36 Luật Doanh nghiệp 2020
Điều 36. Định giá tài sản góp vốn
“2. Tài sản góp vốn khi thành lập doanh nghiệp phải được các thành viên, cổ đông
sáng lập định giá theo nguyên tắc đồng thuận hoặc do một tổ chức thẩm định giá định
giá. Trường hợp tổ chức thẩm định giá định giá thì giá trị tài sản góp vốn phải được
trên 50% số thành viên, cổ đông sáng lập chấp thuận.”
Do đó, Trung vẫn được chia lợi nhuận theo tỷ lệ phần vốn góp là 1,5 tỷ đồng.
Tuy nhiên, nếu có tranh chấp xảy ra, khoản 2 điều 36 Luật Doanh nghiệp 2020 quy định:
Điều 36. Định giá tài sản góp vốn
“Trường hợp tài sản góp vốn được định giá cao hơn so với giá trị thực tế của tài sản
đó tại thời điểm góp vốn thì các thành viên, cổ đông sáng lập cùng liên đới góp thêm
bằng số chênh lệch giữa giá trị được định giá và giá trị thực tế của tài sản góp vốn tại
thời điểm kết thúc định giá; đồng thời liên đới chịu trách nhiệm đối với thiệt hại do cố
ý định giá tài sản góp vốn cao hơn giá trị thực tế.”
Vào thời điểm định giá, ngôi nhà theo giá thị trường là 700 triệu nhưng tất cả các
thành viên đã thỏa thuận thống nhất là 1,5 tỷ. Như vậy, các thành viên đã định giá tài
sản góp vốn cao hơn thực tế vào thời điểm góp vốn là 800 triệu đồng. Trong trường hợp
phát sinh nợ và những nghĩa vụ tài sản khác của công ty thì các thành viên trong công
ty phải liên đới chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ đó đối với số chênh lệch 800 triệu
đồng bằng cách: định giá lại tài sản theo giá trị thực tế vào thời điểm góp vốn, tiến hành
góp thêm số tiền 800 triệu đồng, Trung sẽ được chia lợi nhuận dựa trên tỷ lệ vốn thực
góp, được hình thành sau khi các thành viên công ty góp thêm 800 triệu đồng.
Bài 7 : Hợp đồng mua bán dược phẩm giữa một công ty Việt Nam và một công ty Đài
Loan có quy định về điều khoản bất khả kháng như sau:
“Bất khả kháng: Người bán không chịu trách nhiệm trong việc chậm giao hàng trong
mọi trường hợp xảy ra bất khả kháng, bao gồm: chiến tranh, đình công, phong tỏa, bạo
loạn, phản loạn, hỏa hoạn, lũ lụt, chiến tranh, cấm vận, đình trệ sản xuất và vận chuyển
thiết bị, hoặc do những quy định, sắc lệnh của nhà cầm quyền. Khi xảy ra sự kiện bất
khả kháng, người bán phải gửi bằng chứng chứng minh sự kiện bất khả kháng đến
người mua mà không có sự trì hoãn nào.” Hãy bình luận điều khoản nói trên. lOMoAR cPSD| 58562220 TRẢ LỜI
Khoản 1 Điều 156 Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS 2015) quy định: “Sự kiện
bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và
không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho
phép. Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm
cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của
mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền, nghĩa vụ dân sự của mình”.
Từ quy định trên, có thể hiểu rằng một sự kiện được coi là bất khả kháng với tính
chất là căn cứ để miễn trách nhiệm hợp đồng phải thỏa mãn các dấu hiệu: (i) Sự kiện
bất khả kháng xảy ra sau khi các bên đã giao kết hợp đồng, sự kiện đó xảy ra hoàn toàn
khách quan, không do yếu tố chủ quan của con người; (ii) Sự kiện đó có tính chất bất
thường mà các bên không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù
đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép; (iii) Sự kiện là nguyên nhân
dẫn đến sự vi phạm hợp đồng. Với cách hiểu như vậy, các trường hợp trong điều khoản
trên được xem là bất khả kháng bao gồm: chiến tranh, đình công, phong tỏa, bạo loạn,
phản loạn, hỏa hoạn, lũ lụt, chiến tranh, cấm vận, những quy định, sắc lệnh của nhà cầm quyền.
Riêng trường hợp “đình trệ sản xuất và vận chuyển thiết bị” không nên được ghi
trong điều khoản trên, vì căn cứ theo điều luật đã nêu cũng như 03 dấu hiệu cần thỏa
mãn để được xem là bất khả kháng thì đây là trường hợp không được xem là sự kiện bất
khả kháng vì việc đình trệ này bên bán có thể lường trước được và đưa ra biện pháp để
khắc phục. Việc đình trệ về sản xuất và vận chuyển thiết bị này chỉ được xem là bất khả
kháng nếu nó bắt nguồn từ các sự kiện bất khả kháng ghi rõ trong điều khoản trên.
Nếu cứ quy định việc đình trệ này là bất khả kháng, thì dù trường hợp này xảy
ra vì lý do gì bên bán cũng không phải chịu trách nhiệm do nó đã được xem là bất khả
kháng theo điều khoản hợp đồng, căn cứ theo Khoản 2 Điều 351 BLDS năm
2015:“Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả
kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc
pháp luật có quy định khác.”
Tóm lại, khi quy định điều khoản bất khả kháng trong hợp đồng, bên bán và bên
mua cần quy định rõ trường hợp thế nào mới được xem là bất khả kháng, tránh xảy ra tranh chấp.