Bài tập môn Luật Dân sự I Những vấn đề chung về Luật dân sự - Bài số 1

Bài tập môn Luật Dân sự I Những vấn đề chung về Luật dân sự - Bài số 1 của Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống. Mời bạn đọc đón xem!

lOMoARcPSD|36477832
MỤC LỤC
VẤN ĐỀ CHUNG
Bài 1: Đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự 1
Những quan hệ nào thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự? 2
Quan hệ giữa A B trên thuộc phạm vi điều chỉnh của BLDS 2005 BLDS
2015 không? Vì sao? 2
Bài 2: Tuyên bố cá nhân đã chết 1
Tóm tắt bản án. 2
Những điểm giống và khác nhau giữa tuyên bố một người mất tích và tuyên bố một
người là đã chết. 2
Một người biệt tích và không có tin tức xác thực là còn sống trong thời hạn bao lâu
thì có thể bị Tòa án tuyên bố là đã chết? 2
Trong các vụ việc trên (quyết định m 2018 2019), nhân bị tuyên bố chết
biệt tích từ thời điểm nào? Vì sao? 2
Cho biết tầm quan trọng của việc xác định ngày chết của một nhân? Nêu sở
pháp lý và ví dụ minh hoạ. 2
Tòa án xác định ngày chết của các cá nhân bị tuyên bố chết là ngày nào? Đoạn nào
của các Quyết định trên (quyết định năm 2018 và 2019) cho câu trả lời? 2
Đối với hoàn cảnh như trong các quyết định trên (quyết định năm 2018 2019),
pháp luật nước ngoài xác định ngày chết là ngày nào ? 2
Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định ngày chết trong các Quyết định trên
(quyết định năm 2018 và 2019). 5
Cho biết căn cứ để hủy bỏ quyết định tuyên bố một người đã chết Tòa án tuyên
hủy quyết định tuyên bố ông H đã chết trong quyết định năm 2020 có phù hợp với
quy định không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. 2
Đối với vụ việc được giải quyết trong quyết định năm 2020, bà T và ông H có còn
được coi là vợ chồng nữa không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. 2
Nếu ông H tài sản, quan hệ về tài sản trước đây của ông H được xử như thế
nào sau khi có quyết định năm 2020? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.2
Bài 3: Tổ hợp tác 1
Tóm tắt bản án. 2
Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về tổ hợp tác và suy nghĩ của
anh/chị về những điểm mới này. 2
Trong Quyết định năm 2021, đoạn nào cho thấy giao dịch (hợp đồng thuê quyền sử
dụng đất) được xác lập giữa ông Th và bà H với Tổ hợp tác? 2
lOMoARcPSD|36477832
Theo Tòa án, ai phía Tổ hợp tác bên trong giao dịch (với ông Th H)? Hướng
xác định như vậy của Tòa án phù hợp với quy định không? Nêu sở pháp
khi trả lời.2
Theo Tòa án, ai Bị đơn hướng xác định như vậy của Tòa án thuyết phục
không ? Vì sao? 2
lOMoARcPSD|36477832
1
NỘI DUNG BÀI TẬP THÁNG THỨ NHẤT BÀI 1: ĐỐI TƯỢNG ĐIỀU
CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ
1. Những quan hệ nào thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự? - Đối
tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự những quan hệ hội thể cần phải
được điều chỉnh bằng pháp luật dân sự, bao gồm:
+ Ứng xử của cá nhân, pháp nhân
+ Quyền và nghĩa vụ về nhân thân tài sản của nhân, pháp nhân trong các quan
hệ dân sự (tức quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản)
Những quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự bao gồm các quan
hệ về nhân thân và quan hệ về tài sản.
- Quan hệ về tài sản do Luật dân sự điều chỉnh là: các quan hệ hội phát sinh
tronglĩnh vực dân sự (mang tính bình đẳng, tự nguyện) và có nội dung liên quan đến
tài sản. Các quan hệ tài sản do Luật dân sự điều chỉnh bao gồm:
+ Quan hệ giữa người với người
+ Về mặt tài sản hay vì lý do tài sản (được hiểu theo nghĩa pháp lý)
+ Dựa trên quy luật giá trị
- Các nhóm quan hệ tài sản do Luật dân sự điều chỉnh rất đa dạng, có thể kể
đếnnhư:
+ Quan hệ sở hữu
+ Quan hệ về trao đổi
+ Quan hệ về bồi thường thiệt hại +
Quan hệ thừa kế...
- Quan hệ về nhân thân do Luật dân sự điều chỉnh là: các quan hệ giữa người
vớingười về giá trị tinh thần phi kinh tế, gắn liền với chủ thể trong lĩnh vực dân sự
(VD: Quan hệ giữa con người với nhau về nh mạng, sức khỏe, danh dự...) - Các
nhóm quan hệ nhân thân do Luật dân sự điều chỉnh rất đa dạng, có thể kể đến như:
+ Quan hệ nhân thân phi vật chất
+ Quan hệ nhân thân có yếu tố tài sản
+ Quan hệ về quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học...
+ Quan hệ về quyền sở hữu đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp
2. Quan hệ giữa A B trên thuộc phạm vi điều chỉnh của BLDS 2005
BLDS 2015 không? Vì sao?
Căn cứ pháp lý: Điều 1 BLDS 2005 và Điều 1 BLDS 2015
Quan hệ giữa A B trong trường hợp nêu trên thuộc phạm vi điều chỉnh của
BLDS 2005 và BLDS 2015.
Bởi vì: Điều 01 BLDS 2005 quy định nhiệm vụ và phạm vi điều chỉnh của BLDS như
sau:
lOMoARcPSD|36477832
2
Bộ luật dân sự quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp cho cách ứng xử của
nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền, nghĩa vụ của các chủ thể về nhân thân tài
sản trong các quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự).
Bộ luật dân sựnhiệm vụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, lợi
ích của Nhà nước, lợi ích công cộng; bảo đảm sự bình đẳng và an toàn pháp lý trong
quan hệ dân sự, góp phần tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của
nhân dân, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Điều 01 BLDS 2015 quy định phạm vi điều chỉnh của BLDS như sau:
Bộ luật này quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của cá nhân,
pháp nhân; quyền, nghĩa vụ về nhân thân tài sản của nhân, pháp nhân trong
các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản
tự chịu trách nhiệm (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự).
Theo như nội dung hai Điều luật nêu trên, Bộ luật Dân sự quy định phạm vi điều chỉnh
bao gồm nhóm các quan hệ hội liên quan đến tài sản nhân thân của nhân,
pháp nhân các vấn đề liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của họ. Điều 01 BLDS
2005 đề cập đến “quyền, nghĩa vcủa các chủ thể về nhân thân tài sản trong
các quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau
đây gọi chung quan hệ dân sự)” tương tđối với Điều 1 BLDS 2015 cũng đề
cập đến “quyền, nghĩa vụ về nhân thân tài sản của cá nhân, pháp nhân trong các
quan hệ được nh thành trên sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản tự
chịu trách nhiệm (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự)”.
Xét thy rằng, quan hệ dân sự giữa anh A B trong trường hợp trên dù cho có hình
thành hay không (giao dịch dân sự bị hủy bỏ do yếu tố đe dọa) thì về bản vẫn
thuộc phạm vi điều chỉnh của luật dân sự.
BÀI 2: TUYÊN BỐ CÁ NHÂN ĐÃ CHẾT
1. Tóm tắt bản án
Tóm tắt Quyết định số: 272/2018/QĐST-DS ngày 27/4/2018 về “V/v yêu cầu tuyên
bố một người là đã chết” của Tòa án nhân dân Quận 9 TP. Hồ Chí Minh. Người
yêu cầu giải quyết việc dân sự là bà Bùi Thị T, yêu cầu Tòa án tuyên bố chồng mình
- ông Trần Văn C - đã chết.
Theo bà T, ông C đã bỏ nhà đi biệt tích từ năm 1985, bà T đã tổ chức tìm kiếm nhưng
không có tin tức.
Theo điểm d khoản 1 Điều 71 BLDS 2015, Tòa án xét thấy ông đã biệt tích 05 năm
liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống nên chấp nhận yêu cầu của bà T,
tuyên bố ông C là đã chết và lấy ngày mất của ông là ngày 01/01/1986.
lOMoARcPSD|36477832
3
Tóm tắt Quyết định thẩm số 04/2018/QĐST-DS V/v “Yêu cầu tuyên bố một
người đã chết” của Tòa án Nhân dân huyện Đông n, tỉnh Thanh Hóa. Người
yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự là anh Quản Bá Đ, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan là chị Quản Thị K.
Chị K (chị gái anh Đ) đã bỏ nhà đi từ m 1992 không có tin tức mặc dù đã tìm kiếm
trên phương tiện thông tin đại chúng nên anh Đ gửi đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố chị
K là đã chết và lấy ngày mất là ngày 19/11/2018.
Căn cứ o tài liệu, chứng cứ, Tòa án quyết định tuyên bố chị K đã chết theo yêu
cầu của anh Đ.
Tóm tắt Quyết định số 94/2019/QĐST-VDS ngày 15/11/2019 của Toà án nhân
dân TP. Hà Nội
Ngày 15/1/2019, tại trụ sở tòa án nhân dân tp Hà Nội m phiên họp sơ thẩm công khai
giải quyết về việc "yêu cầu tuyên bố cụ Phạm Văn C đã chết". Người yêu cầubà Phạm
Thị K trình bày: bố đẻ của bà là cụ Phạm Văn C đã bỏ nhà đi khỏi nhà từ tháng 1 năm
1997, từ đó đến nay ko trở về nhà. Gia đình K đã tìm kiếm nhiều lần nhưng ko có
kết quả. Nay yêu cầu toà án tuyên bố cụ C đã chết. Những người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan cùng nhất trí với yêu cầu của K đồng thời y quyền cho K
quyết định những vấn đề có liên quan trong việc giải quyết yêu cầu tuyên bố cụ C đã
chết nhận thay các văn bản tố tụng của Tòa án. Công an UBND phường Bạch
Mai đều xác nhận cụ C đi khỏi địa phương và không sinh sống tại i đăng kí hộ khẩu
thường trú từ năm 1997, đến nay không xác định đc cụ ở đâu, làm gì. Theo quy định
tại điểm d, Khoản 1, Điều 71 BLDS 2015 thì Tòa án ra quyết định tuyên bố 1 người
là đã chết trong trường hợp "Biệt tích 5 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực
còn sống"; thời hạn y được tính theo tại quy định tại khoản 1, Điều 68 của Bộ
luật y. Căn cứ vào quy định nêu trên, có cơ sở xác định cụ C đã chết ngày 1/5/1997.
Tóm tắt Quyết định số 02/2020/QĐST-DS ngày 13/01/2020 của Tòa án nhân dân
huyện C, tỉnh A (huyện Cần Đước, tỉnh Long An).
Ngày 13/1/2020 trụ sở Tòa án nhân dân huyện C mở phiên họp thẩm công khai giải
quyết về việc:" Yêu cầu hủy quyết định tuyên bố một người đã chết". Người yêu
cầu giải quyết việc dân sự là ông D H, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là bà
N T. Trong đơn yêu cầu ngày 17/12/2019 và tại phiên họp ông D H là người yêu cầu
trình bày Từ năm 2008 do vợ chồng có mâu thuẩn nên Ông Hoàng đến tỉnh
Lâm Đồng sinh sống không liên lạc với gia đình. Tại quyết định số: 01/2011/QĐMPH
ngày 02/3/2011Tòa án nhân dân huyện C đã tuyên bố mất ch. Tại quyết định số:
01/2015/QĐVDS-ST ngày 20/5/2015 Tòa án nhân dân huyện C đã tuyên bố Đ H đã
chết tại bản án số: 28/2011/HNST ngày 14/6/2011 Tòa án nhân dân huyện C đã
cho ly hôn giữa Bà N T và Ông Đ H.
lOMoARcPSD|36477832
4
Ngày 20/11/2019 Ông Đ H đã trở về sinh sống tại A, L, huyện C đơn yêu
cầu hủy quyết định tuyên bố một người là đã chết Sau khi thụ lý giải quyết Ông Đ H
đã cung cấp đơn xin xác nhận còn sống tại A, xã L, huyện C có xác nhận của UBND
L ngày 09/12/2019. Qua đối chiếu kết quả tra cứu hồ hkhẩu chứng minh
nhân dân đã có đủ căn cứ để xác định Ông Đ H vẫn còn sống. Tòa án nhân dân huyện
C đủ sở để chấp nhận yêu cầu của Ông Đ H hủy bỏ quyết định tuyên bố một
người là đã chết theo Điều 395 Bộ luật tố tụng dân sự.
2. Những điểm giống khác nhau giữa tuyên bố một người mất tích tuyên
bố một người là đã chết.
Tuyên bố một người mất Tuyên bố một người đã
tích chết
Giống nhau Quyết định của Tòa án phải có yếu cầu của người quyền, lợi ích
liên quan.
Quyết định của Tòa án phải được gửi cho Ủy ban nhân dân
cấp nơi trú cuối cùng của người bị tuyên bố mất tích
hoặc nơi trú của người bị tuyên bố đã chết để ghi chú
theo quy định của pháp luật về hộ tịch.
Khi người bị tuyên bố mất tích, người bị tuyên bố đã chết trở
về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu
cầu của người đó hoặc của người quyền, lợi ích liên quan
Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định đã tuyên bố (theo
Điều 70 và Điều 73 của BLDS 2015).
CCPL Điều 68 Bộ luật Dân sự 2015
Khác Thời gian 2 năm kể từ ngày biết được tin
nhau tức cuối cùng về người đó.
Điều 71 Bộ luật Dân sự 2015
Sau 3 năm kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích
của Tòa án hiệu lực vẫn không tin tức xác
thực là còn sống.
Vẫn không tin tức xác thực còn sống kể từ khi
chiến tranh kết thúc 5 năm. Không tin tức xác
thực còn sống sau 2 năm
kể từ sau khi thảm họa, thiên
tai chấm dứt.
Biệt tích 5 năm liền trở lên
không tin tức c thực
là còn sống
Tài sản Giao cho người quản lý theo Được giải quyết theo quy
quy định tại Điều 65 của định của pháp luật về thừa
BLDS. kế.
Người bị tuyên bố mất tích trở Người bị tuyên bố đã chết về
quyền yêu cầu người còn sống quyền yêu quản
tài sản chuyển giao lại cầu người thừa kế trả lại tài tài sản.
sản hiện còn.
Quan hệ Vhoặc chồng của người bị Vợ hoặc chồng của người vchồng
tuyên bố mất tích xin ly hôn bị tuyên bố chết có thể kết thì được tòa án giải
quyết cho hôn với người khác mà ly hôn theo quy định của pháp không cần
làm thủ tục ly luật. (Theo Khoản 2, Điều 68 hôn. BLDS 2015)
lOMoARcPSD|36477832
5
3. Một người biệt tích và không có tin tức xác thực là còn sống trong thời hạn
bao lâu thì có thể bị Tòa án tuyên bố là đã chết?
CSPL: Điểm d Khoản 1 Điều 71 BLDS 2015
Biệt tích 5 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống thì có thể bị Tòa
án tuyên bố là đã chết.
Điểm d khoản 1 điều 71 BLDS 2015 quy định:
1. Người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố một
người là đã chết trong trường hợp sau đây:
...
d) Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời hạn này
được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 68 của Bộ luật này.
Như vậy, theo quy định của Pháp luật hiện hành, Biệt tích 5 m liền trở lên và không
tin tức xác thực còn sống thì thể bị Tòa án tuyên bố đã chết theo yêu cầu
của người có quyền, lợi ích liên quan.
4. Trong các vụ việc trên (quyết định năm 2018 và 2019), cá nhân bị tuyên bố
chết biệt tích từ thời điểm nào? Vì sao?
Trong Quyết định 272:
Ông Trần n C bị tuyên bố chết biệt tích vào ngày 1/1/1991 T ông T xác
định ông C bỏ đi cuối năm 1985, Công an phường Bình Phước, Quận 9 không xác
định được ngày, tháng ông C vắng mặt tại địa phương. Đây thuộc trường hợp không
xác định được ngày, tháng tin tức cuối cùng của ông C. Do đó, áp dụng Điểm d
Khoản 1 Điều 71 Bộ luật dân sự 2015: “Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin
tức xác thực còn sống; thời hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 68
của bộ luật này.”
Và khoản 1 Điều 68 BLDS 2015 quy định:
...Thời hạn 02 m được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó; nếu
không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu
tiên của tháng tiếp theo tháng tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày,
tháng tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp
theo năm có tin tức cuối cùng.
Vậy nên thời hạn 05 năm kể từ ngày có tin tức cuối cùng được tính từ ngày 1/1/1986
là ngày 1/1/1991, nên ngày 1/1/1991 là ngày ông C bị tuyên bố chết. Trong Quyết
định 04:
Ngày chết của chị Quản Thị K ngày 1/1/1998, do m 1992 chị đã đi khỏi nhà
gia đình không có tin tức gì mặc dù đã đăng thông báo m kiếm. Nhưng thông tin từ
lOMoARcPSD|36477832
6
năm 1992 không xác định ngày tháng nên theo Điểm d Khoản 1 Điều 71 BLDS
2015 quy định: “Biệt tích 05 năm liền trở lên không tin tức xác thực còn
sống; thời hạn y được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 68 của bộ luật này.Nên
thời hạn 05 năm được tính là từ ngày 1/1/1993.
Trong Quyết định 94:
Cụ Phạm Văn C đi khỏi nhà khoảng tháng 1/1997, đến m 2008 gia đình cụ C
đăng tin tìm cụ trên các phương tiện thông tin đại chúng nhưng không tin tức gì.
Theo văn bản trả lời của quan Bảo hiểm hội Thành phố Nội vào ngày
13/11/2019, việc chi trả lương hưu cho cụ C chỉ được thực hiện đến hết tháng 4/1997.
Do đó, có cơ sở xác định tin tức cuối cùng về cụ C là tháng 4/1997. Căn cứ vào Điểm
d Khoản 1 Điều 71 Bộ luật dân sự 2015: “Biệt tích 05 năm liền trở lên không
tin tức xác thực còn sống; thời hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều
68 của bộ luật này.”
Và Khoản 1 Điều 68 Bộ luật dân sự 2015:
...Thời hạn 02 m được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó; nếu
không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu
tiên của tháng tiếp theo tháng tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày,
tháng tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp
theo năm có tin tức cuối cùng.
Vậy nên có cơ sở xác định cụ C đã chết từ ngày 1/5/1997.
5. Cho biết tầm quan trọng của việc xác định ngày chết của một cá nhân? Nêu
cơ sở pháp lý và ví dụ minh hoạ.
Xác định thời điểm chết của một người bị Tòa án tuyên bố đã chết ý nghĩa rất
quan trọng bởi thời điểm chết của một người thời điểm phát sinh skiện pháp
liên quan đến quyền, nghĩa vụ về tài sản của người đó. Đặc biệt, sở để xác
định thời điểm mở thừa kế theo quy định tại khoản 1, Điều 611 BLDS năm 2015.
Khoản 1, Điều 611 BLDS năm 2015 quy định:
1. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên
bố một người đã chết thì thời điểm mở thừa kế ngày được xác định tại khoản 2
Điều 71 của Bộ luật này.
Khi giải quyết tranh chấp về thừa kế (nếu phát sinh), Tòa án sẽ căn cứ vào thời điểm
xác định một người là đã chết để xác định những vấn đề liên quan như thời hiệu thừa
kế, hàng thừa kế, diện thừa kế, di sản… Do đó, xác định đúng hay sai thời điểm chết
của người bị tuyên bốđã chết sẽ dẫn đến việc Tòa án giải quyết vụ án thừa kế đúng
hay sai.
lOMoARcPSD|36477832
7
6. Tòa án xác định ngày chết của các nhân bị tuyên bố chết ngày nào?
Đoạn nào của các Quyết định trên (quyết định m 2018 và 2019) cho câu
trả lời?
Tại Quyết định số 272, Tòa án xác định ngày chết của ông Trần Văn C như sau:
Về việc xác định ngày chết của ông C: Bà T và ông T xác định ông C bỏ đi cuối năm
1985, Công an phường Phước Bình, quận 9 không xác định được ngày, tháng ông C
vắng mặt tại địa phương. Đây thuộc trường hợp không xác định được ngày, tháng có
tin tức cuối cùng của ông C. Do đó, ngày chết của ông C được tính là ngày đầu tiên
của năm tiếp theo năm tin tức cuối cùng nên ngày chết của ông C ngày
01/01/1986.
Tại Quyết định số 04, Tòa án xác định ngày chết của chị Quản Thị K như sau:
“Tuyên bố chị Quản Thị K - sinh 1969 đã chết ngày 19/11/2018.”
Tại Quyết định số 94, Tòa án xác định ngày chết của cụ Phạm Văn C như sau: Về việc
xác định ngày chết của cụ C: khoảng tháng 1/1997, cụ C đã ra khỏi nhà không
thấy trở về. Năm 2008, gia đình đăng tin tìm kiếm nhưng vẫn không có tin tức. Căn
cứ vào văn bản trả lời của quan Bảo hiểm hội Thành phố Nội ngày
13/11/2019, việc chi trả lương hưu cho cụ C được thực hiện đến hết tháng 4/1997.
Bởi lẽ đó, căn cứ xác định tin tức cuối cùng về cụ C tháng 4/1997. Do không
xác định được ngày tháng nên ngày chết của cụ C được tính ngày đầu tiên của
tháng tiếp theo tháng tin tức cuối cùng. vậy, ngày chết của cụ C ngày
1/5/1997.
7. Đối với hoàn cảnh như trong các quyết định trên (quyết định năm 2018
2019), pháp luật nước ngoài xác định ngày chết là ngày nào ?
Căn cứ vào khoản 3 Điều 45 Bộ luật dân sự Nga:
Ngày ra đi của công dân, người được tuyên bố là đã chết, sẽ là ngày bắt đầu có hiệu
lực của quyết định của Tòa án về việc tuyên bố người được tuyên bố là đã chết. Trong
trường hợp tuyên bố công dân đã chết, người đã biến mất trong hoàn cảnh nguy
hiểm đến tính mạng hoặc trong những trường hợp như đưa ra n cứ để cho rằng anh
ta thể đã chết như một kết quả của một vụ tai nạn xác định, tòa án có thể công
nhận ngày của công dân này bị diệt vong là ngày mất của anh.
Nên trong Quyết định 272, ông C sđược tuyên bố đã chết o ngày 27/04/2018
trong Quyết định 04, chị K được tuyên bố đã chết vào ngày 19/11/2018, trong
Quyết định số 94, cụ C được tuyên bố là đã chết vào ngày 15/11/2019.
8. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định ngày chết trong c Quyết
định trên (quyết định năm 2018 và 2019).
lOMoARcPSD|36477832
8
Tại Quyết định số 272, ông C được Tòa án xác định ngày chết là ngày 01/01/1986, do
Tòa án căn cứ theo lời T khai ông C bỏ đi từ năm 1985, không c định ngày,
tháng có tin tức cuối cùng nên quyết định lấy ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có
tin tức cuối cùng làm ngày chết của ông C. Còn tại Quyết định số 04, Tòa án xác định
ngày chết của chị Quản Thị K vào cùng ngày Tòa án tuyên bchị chết, tức ngày
19/11/2018 với do đó là ny m căn cứ phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quan hệ
về nhân thân, về tài sản, về hôn nhân gia đình, về thừa kế của chị Quản Thị K. Tại
Quyết định số 94, cụ Phạm Văn C được Tòa án xác định ngày chết ngày 01/05/1997,
do Tòa án căn cứ theo văn bản trả lời của Cơ quan Bảo hiểm xã hội thành phố Hà Nội
có cơ sở xác định tin tức cuối cùng về cụ C là tháng 4/19971997
Theo khoản 2 Điều 71 BLDS 2015 quy định: “Căn cứ vào các trường hợp quy định
tại khoản 1 Điều này, Tòa án xác định ngày chết của người bị tuyên bố đã chết.”,
như vậy, để xác định ngày chết của cá nhân bị tuyên bố là đã chết, Tòa án cần căn cứ
vào khoản 1 Điều 71, cụ thể, trường hợp tuyên bố chết của chị K và ông C thuộc quy
định tại Điểm d Điều khoản y: “Biệt tích 05 năm liền trở lên không tin tức
xác thực còn sống, thời hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 68 của
Bộ luật này”.
Bên cạnh đó, xét quy định tại khoản 1 Điều 68 BLDS 2015:
Thời hạn 02 năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó; nếu
không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu
tiên của tháng tiếp theo tháng tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày,
tháng tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của m tiếp
theo năm có tin tức cuối cùng.
Như vậy, thời hạn đủ để có thể tuyên bố một người là đã chết là biệt tích 05 năm liền,
tính từ ngày nhận được tin tức cuối cùng. Trong Quyết định số 272, bà T nhận tin tức
cuối cùng từ ông C o năm 1985, do không nhớ ngày, tháng nên sẽ tính vào
ngày 01/01/1986. Tương tự với trường hợp của chị K, ngày nhận tin tức cuối sẽ
01/01/1993 và cụ C, ngày nhận tin tức cuối sẽ là tháng 4/1997.
Việc xác định ngày chết của Tòa án trong ba Quyết định trên chưa hợp lý, do căn
cứ theo khoản 2 Điều 71 BLDS, Tòa án cần dựa theo các trường hợp tương ứng tại
khoản 1 Điều y để xác định ngày chết. Do đó, đối với ông C, ngày chết phải được
xác định vào ngày 02/01/1991 ngày y ngày kế tiếp ngày kết thúc thời hạn
05 m, đđể tuyên bđã chết. ơng tự đối với trường hợp chị K, ngày chết phải
được xác định là vào ngày 02/01/1998. Cuối cùng, đối với cụ C, ngày chết phải được
xác định là vào ngày 02/05/1997. Tòa án trong các Quyết định trên đã không dựa theo
điều kiện của pháp luật quy định, thể sẽ gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của
lOMoARcPSD|36477832
9
người bị tuyên bố đã chết mà còn ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của người khác. Một
thẩm phán TAND TPHCM ví dụ:
Ông A đang phải cấp dưỡng nuôi con thì mất tích. m 2005, tòa tuyên bố ông mất
tích theo yêu cầu của vợ của ông; giao tài sản của ông cho cha mẹ ông quản .
Năm 2007, tranh chấp về việc thực hiện nghĩa vụ cấp ỡng tòa buộc cha mẹ
ông A sử dụng tiền của ông để cấp ỡng thay. m 2010, khi giải quyết yêu cầu
tuyên bố một người đã chết, nếu tòa tuyên bố ông A chết vào m 2005 thì sẽ mâu
thuẫn với bản án tòa buộc cha mẹ ông A cấp dưỡng thay con năm 2007. Bởi lẽ nếu
xác định ông A chết vào năm 2005 thì đồng nghĩa với việc nghĩa vụ cấp dưỡng của
ông cũng chấm dứt ngay từ lúc đó.
(1)
Ngoài ra, Thẩm phán Trương Công Huấn (TAND Quận 11, TP.HCM) đã hướng dẫn:
“Đối với trường hợp biệt tích năm năm liền trở lên không tin tức xác thực
còn sống thì thời điểm chết phải được xác định ngày kế tiếp sau năm năm kể từ
ngày được xác định là biệt tích.”
(2)
9. Cho biết căn cứ để hủy bỏ quyết định tuyên bố một người đã chết
Tòa án tuyên hủy quyết định tuyên bố ông H đã chết trong quyết định năm
2020 có phù hợp với quy định không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
CSPL: Điều 73 BLDS 2015
Căn cứ để hủy bỏ quyết định tuyên bố 1 người là đã chết là: “Khi một người bị tuyên
bố là đã chết trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu cầu của
người đó hoặc của người quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ
quyết định tuyên bố người đó là đã chết.”
Quyết định tuyên bố ông H đã chết trong quyết định năm 2020 là phù hợp. Bởi vì
10. Đối với vụ việc được giải quyết trong quyết định m 2020, bà T và ông H
còn được coi vợ chồng nữa không? Nêu sở pháp khi trả lời.
CSPL: Điểm a Khoản 2 Điều 73
Đối với vụ việc được giải quyết trong quyết định năm 2020, bà T và ông H không còn
được coi là vợ chồng nữa
11. Nếu ông H tài sản, quan hệ về tài sản trước đây của ông H được xử
như thế nào sau khi có quyết định năm 2020? Nêu sở pháp khi trả
lời.
CSPL: Khoản 3 Điều 73 BLDS 2015
Nếu ông H có tài sản, quan hệ về tài sản trước đây của ông H được xử lý như sau: ông
H có quyền yêu cầu những người đã nhận tài sản thừa kế trả lại tài sản, giá trị tài sản
hiện còn.
lOMoARcPSD|36477832
10
BÀI 3: TỔ HỢP TÁC
1. Tóm tắt bản án
Tóm tắt Bản án số: 02/2021/DS-PT ngày 11 01 - 2021 về việc tranh chấp hợp
đồng thuê quyền sử dụng đất.
Ngày 13/09/2018, Tổ hợp tác X xã N (viết tắt là Tổ hợp tác ) ký hợp đồng thuê quyền
sử dụng đất của ông Nguyễn Thế Th, bà Bùi Thị H để thuê 500m2 đất. Sau khi ký kết
hợp đồng và chứng thực tại Ủy ban nhân dân xã N, ông Nguyễn Thế Th đã tiến hành
phá bỏ một diện tích cây cối nhất định nhằm mục đích giải phóng mặt bằng trước khi
cho thuê quyền sử dụng đất.
Ngày 11/01/2019, ông Th nhận được Thông báo của Tổ hợp tác về việc chấm dứt hợp
đồng thuê đất do hoàn cảnh thay đổi theo Điều 42 BLDS 2015.
Ngày 14/01/2019, ông Th gửi văn bản thông báo cho Tổ hợp tác về việc không đồng
ý chấm dứt hợp đồng thuê quyền sử dụng đất ngày 13/09/2018 đồng thời yêu cầu Tổ
hợp tác bồi thường thiệt hại về y cối trước sau khi giải phóng mặt bằng với số
tiền 50.400.000 đồng.
Tòa án thẩm không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Th đồng thời
quyết định chi ptố tụng, án phí thông báo quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 29/7/2020, ông Nguyễn Thế Th kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét
xử lại vụ án theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tòa án phúc thẩm chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Thế Th, hủy bản án
dân sự thẩm chuyển hồ ván cho Tòa án nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh
Đắk Nông để giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm. Ông Th còn được hoàn trả lại
tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm là 300.000đ.
2. Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về tổ hợp tác suy
nghĩ của anh/chị về những điểm mới này.
Về những điểm mới trong BLDS 2015 so với BLDS 2005 về ‘tổ hợp tác’:
Bộ luật dân sự năm 2015 một mặt vẫn thừa nhận hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác
không có tư cách pháp nhân là những thực thể pháp lý đang tồn tại trong đời sống xã
hội, tham gia vào nhiều quan hệ pháp luật dân sự như quan hệ sử dụng đất, điện,
nước... phù hợp với các điều kiện đặc thù về kinh tế, văn hóa, xã hội, gia đình và lịch
sử của Nhà nước ta. Mặt khác quy định y được sửa đổi theo hướng, việc tham gia
của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức không cách pháp nhân vào quan hệ dân sự
là thông quanhân đại diện. Điểm mới y của BLDS năm 2015 đã giải quyết được
những vướng mắc, bất cập kéo dài trong nhiều năm qua liên quan đến việc tham gia
các quan hệ dân sự của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có cách pháp
nhân trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án và cơ quan nhà nước khác.
lOMoARcPSD|36477832
11
Bộ luật Dân sự năm 2015 đã bổ sung một chủ thể khác trong giao dịch dân sự bên
cạnh hộ gia đình tổ hợp tác, đó “tổ chức khác không ch pháp nhân”,
nhằm xác định địa vpháp của các chthể tổ chức nhưng không cách
pháp nhân trong các giao dịch dân sự, giải quyết những bất cập trong thực tiễn thi
hành pháp luật liên quan đến những chủ thể trên. Bên cạnh đó, BLDS m 2015 không
phân tách các quy định của hộ gia đình tổ hợp tác ra thành 2 nội dung riêng biệt
sử dụng những quy định nhằm điều chỉnh chung, căn cứ vào những đặc điểm giống
nhau giữa các chủ thể, tránh những nội dung trùng lặp y phức tạp trong quy định
của pháp luật.
Về chủ thể, khoản 1 Điều 101 quy định trong quan hệ dân sự sự tham gia của hộ
gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân, thì các thành viên của
hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân là chủ thể tham gia
xác lập, thực hiện giao dịch dân sự hoặc y quyền cho người đại diện tham gia xác
lập, thực hiện giao dịch dân sự. Được hiểu bản thân hộ gia đình, thợp tác hay tổ
chức khôngtư cách pháp nhân không được xem là một bên chủ thể trong quan hệ
dân sự các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức không cách pháp
nhân hoặc người đại diện theo uquyền. Quy định này phù hợp với tinh thần chung.
3. Trong Quyết định năm 2021, đoạn nào cho thấy giao dịch (hợp đồng thuê
quyền sử dụng đất) được xác lập giữa ông Th H với Tổ hợp tác? Ngày
13/9/2018, Tổ hợp tác X N (viết tắt Tổ hợ p tác ) hợp đồng thuê quyền sử
dụng đất của ông Nguyễn Thế Th, Bùi ThH để thuê 500m2 đất tọa lạc tại thôn
06, N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, mục đích y dựng kho cất trữ phê sau thu
hoạch, diện tích đất cho thuê một phần của thửa đất số 50, tờ bản đồ số 03, diện
tích 12.103m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Y do Ủy ban nhân dân
huyện Đ cấp ngày 12/12/2006, đứng tên hộ ông Nguyễn Thế Th và bà Bùi Thị H. Vị
trí đất cho thuê tứ cận: Phía Đông giáp đường tông; phía Tây giáp đất ông
Nguyễn Thế Th; phía Nam giáp đường đất; phía Bắc giáp đất ông Nguyễn Hữu H.
(Đoạn đầu tiên phần Nội dung vụ án).
Ngày 13/9/2018, ông Bùi Vĩnh H đại diện cho Tổ hợp tác thuê 500m2 đất của ông Th
để làm nhà kho theo Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất số: 61/SCT/HĐ-GD.
(Dòng 2,3 đoạn 4 phần Nội dung vụ án).
4. Theo Tòa án, ai phía Tổ hợp tác bên trong giao dịch (với ông Th
H)? Hướng xác định như vậy của Tòa án phù hợp với quy định không? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời. Căn cứ pháp lý: Điều 101 Bộ luật dân sự 2015
Theo Tòa án, người đại diện bên phía Tổ hợp tác là bên trong giao dịch với ông Th và
bà H được xác định là: Ông Bùi Vĩnh H, căn cứ trong bản án như sau:
lOMoARcPSD|36477832
12
Ngày 13/09/2018, ông Bùi Vĩnh H đại diện cho Tổ hợp tác thuê 500m2 đất của ông
Th để làm nhà kho theo Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất số: 61/SCT/HĐ-GD. Thời
điểm kết hợp đồng, ông Bùi đang làm Tổ trưởng Tổ hợp tác. Cùng vào thời điểm
đó, Ông Nguyễn T - Chủ tịch Ủy ban nhân dân N nhiệm kỳ 2016 - 2021 cũng đã
chứng thực hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất giữa ông Th, bà H với ông H là đại
diện của Tổ hợp tác.
Dựa vào những ý trên, thể nói rằng Tòa án nhận định hợp đồng thuê quyn sử dụng
đất ngày 13/09/2018 được kết giữa ông Nguyễn Thế Th, Bùi Thị H với Tổ
trưởng Tổ hợp tác là ông Bùi Vĩnh H.
Hướng xác định như vậy của Tòa án theo em chưa phù hợp với quy định vì: Dựa
theo quy định tại Điều 101 BLDS 2015 thì “chủ thể xác lập, thực hiện giao dịch của
Tổ hợp tác là tất cả các thành viên của Tổ hợp tác hoặc các thành viên ủy quyền phải
được lập thành văn bản. Trường hợp thành viên của Tổ hợp tác không được các thành
viên khác ủy quyền m người đại diện thì thành viên đó là chủ thể của quan hệ dân
sự do mình xác lập, thực hiện”.
Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác minh làm việc ông H kết hợp đồng thuê
đất có được các thành viên của Tổ hợp tác ủy quyền hay không, trong hồ sơ không có
văn bản ủy quyền của các thành viên Tổ hợp tác.
Vì thế, không thể xác định giao dịch dân sự được thực hiện với ông Th và bà H là do
ai làm chủ thể, tất cả thành viên của Tổ hợp tác hay cá nhân ông Bùi Vĩnh H. Bởi
những lẽ trên, Tòa án xác định ông Bùi Vĩnh H đại diện Tổ hợp tác thực hiện giao
dịch với ông Th và bà H là không phù hợp với quy định của pháp luật.
5. Theo Tòa án, ai là Bị đơn và hướng xác định như vậy của Tòa án thuyết
phục không ? Vì sao .
Theo Tòa án, trong qtrình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị đơn là
Tổ hợp tác X xã N với người đại diện là ông Bùi Vĩnh H.
Hướng xác định như vậy theo em là thuyết phục vì lý do sau:
“Ông Bùi Vĩnh H người kết hợp đồng thuê quyền sử dụng đất nên ông H bị
đơn trong vụ án. Ông H là người trực tiếp kết hợp đồng còn các thành viên trong
tổ hợp tác tại thời điểm ký hợp đồng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan…” cho
nên ông H là bị đơn trong vụ án là hợp lý và thuyết phục.
| 1/14

Preview text:

lOMoARcPSD| 36477832 MỤC LỤC VẤN ĐỀ CHUNG
Bài 1: Đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự 1
Những quan hệ nào thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự? 2
Quan hệ giữa A và B trên có thuộc phạm vi điều chỉnh của BLDS 2005 và BLDS 2015 không? Vì sao? 2
Bài 2: Tuyên bố cá nhân đã chết 1 Tóm tắt bản án. 2
Những điểm giống và khác nhau giữa tuyên bố một người mất tích và tuyên bố một người là đã chết. 2
Một người biệt tích và không có tin tức xác thực là còn sống trong thời hạn bao lâu
thì có thể bị Tòa án tuyên bố là đã chết? 2
Trong các vụ việc trên (quyết định năm 2018 và 2019), cá nhân bị tuyên bố chết
biệt tích từ thời điểm nào? Vì sao? 2
Cho biết tầm quan trọng của việc xác định ngày chết của một cá nhân? Nêu cơ sở
pháp lý và ví dụ minh hoạ. 2
Tòa án xác định ngày chết của các cá nhân bị tuyên bố chết là ngày nào? Đoạn nào
của các Quyết định trên (quyết định năm 2018 và 2019) cho câu trả lời? 2
Đối với hoàn cảnh như trong các quyết định trên (quyết định năm 2018 và 2019),
pháp luật nước ngoài xác định ngày chết là ngày nào ? 2
Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định ngày chết trong các Quyết định trên
(quyết định năm 2018 và 2019). 5
Cho biết căn cứ để hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết và Tòa án tuyên
hủy quyết định tuyên bố ông H đã chết trong quyết định năm 2020 có phù hợp với
quy định không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. 2
Đối với vụ việc được giải quyết trong quyết định năm 2020, bà T và ông H có còn
được coi là vợ chồng nữa không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. 2
Nếu ông H có tài sản, quan hệ về tài sản trước đây của ông H được xử lý như thế
nào sau khi có quyết định năm 2020? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.2
Bài 3: Tổ hợp tác 1 Tóm tắt bản án. 2
Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về tổ hợp tác và suy nghĩ của
anh/chị về những điểm mới này. 2
Trong Quyết định năm 2021, đoạn nào cho thấy giao dịch (hợp đồng thuê quyền sử
dụng đất) được xác lập giữa ông Th và bà H với Tổ hợp tác? 2 lOMoARcPSD| 36477832
Theo Tòa án, ai phía Tổ hợp tác là bên trong giao dịch (với ông Th và bà H)? Hướng
xác định như vậy của Tòa án có phù hợp với quy định không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.2
Theo Tòa án, ai là Bị đơn và hướng xác định như vậy của Tòa án có thuyết phục không ? Vì sao? 2 lOMoARcPSD| 36477832
NỘI DUNG BÀI TẬP THÁNG THỨ NHẤT BÀI 1: ĐỐI TƯỢNG ĐIỀU
CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ
1. Những quan hệ nào thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự? - Đối
tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự là những quan hệ xã hội có thể và cần phải
được điều chỉnh bằng pháp luật dân sự, bao gồm:
+ Ứng xử của cá nhân, pháp nhân
+ Quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp nhân trong các quan
hệ dân sự (tức quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản)
Những quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự bao gồm các quan
hệ về nhân thân và quan hệ về tài sản. -
Quan hệ về tài sản do Luật dân sự điều chỉnh là: các quan hệ xã hội phát sinh
tronglĩnh vực dân sự (mang tính bình đẳng, tự nguyện) và có nội dung liên quan đến
tài sản. Các quan hệ tài sản do Luật dân sự điều chỉnh bao gồm:
+ Quan hệ giữa người với người
+ Về mặt tài sản hay vì lý do tài sản (được hiểu theo nghĩa pháp lý)
+ Dựa trên quy luật giá trị -
Các nhóm quan hệ tài sản do Luật dân sự điều chỉnh rất đa dạng, có thể kể đếnnhư: + Quan hệ sở hữu + Quan hệ về trao đổi
+ Quan hệ về bồi thường thiệt hại + Quan hệ thừa kế... -
Quan hệ về nhân thân do Luật dân sự điều chỉnh là: các quan hệ giữa người
vớingười về giá trị tinh thần – phi kinh tế, gắn liền với chủ thể trong lĩnh vực dân sự
(VD: Quan hệ giữa con người với nhau về tính mạng, sức khỏe, danh dự...) - Các
nhóm quan hệ nhân thân do Luật dân sự điều chỉnh rất đa dạng, có thể kể đến như:
+ Quan hệ nhân thân phi vật chất
+ Quan hệ nhân thân có yếu tố tài sản
+ Quan hệ về quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học...
+ Quan hệ về quyền sở hữu đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp
2. Quan hệ giữa A và B trên có thuộc phạm vi điều chỉnh của BLDS 2005 và
BLDS 2015 không? Vì sao?
Căn cứ pháp lý: Điều 1 BLDS 2005 và Điều 1 BLDS 2015
Quan hệ giữa A và B trong trường hợp nêu trên có thuộc phạm vi điều chỉnh của BLDS 2005 và BLDS 2015.
Bởi vì: Điều 01 BLDS 2005 quy định nhiệm vụ và phạm vi điều chỉnh của BLDS như sau: 1 lOMoARcPSD| 36477832
Bộ luật dân sự quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của cá
nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền, nghĩa vụ của các chủ thể về nhân thân và tài
sản trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự).

Bộ luật dân sự có nhiệm vụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, lợi
ích của Nhà nước, lợi ích công cộng; bảo đảm sự bình đẳng và an toàn pháp lý trong
quan hệ dân sự, góp phần tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của

nhân dân, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Điều 01 BLDS 2015 quy định phạm vi điều chỉnh của BLDS như sau:
Bộ luật này quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của cá nhân,
pháp nhân; quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp nhân trong
các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và
tự chịu trách nhiệm (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự).

Theo như nội dung hai Điều luật nêu trên, Bộ luật Dân sự quy định phạm vi điều chỉnh
bao gồm nhóm các quan hệ xã hội liên quan đến tài sản và nhân thân của cá nhân,
pháp nhân và các vấn đề liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của họ. Điều 01 BLDS
2005 có đề cập đến “quyền, nghĩa vụ của các chủ thể về nhân thân và tài sản trong
các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau
đây gọi chung là quan hệ dân sự)”
và tương tự đối với Điều 1 BLDS 2015 cũng đề
cập đến “quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp nhân trong các
quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự
chịu trách nhiệm (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự)”
.
Xét thấy rằng, quan hệ dân sự giữa anh A và B trong trường hợp trên dù cho có hình
thành hay không (giao dịch dân sự bị hủy bỏ do có yếu tố đe dọa) thì về cơ bản vẫn
thuộc phạm vi điều chỉnh của luật dân sự.
BÀI 2: TUYÊN BỐ CÁ NHÂN ĐÃ CHẾT
1. Tóm tắt bản án
Tóm tắt Quyết định số: 272/2018/QĐST-DS ngày 27/4/2018 về “V/v yêu cầu tuyên
bố một người là đã chết” của Tòa án nhân dân Quận 9 TP. Hồ Chí Minh. Người
yêu cầu giải quyết việc dân sự là bà Bùi Thị T, yêu cầu Tòa án tuyên bố chồng mình
- ông Trần Văn C - đã chết.
Theo bà T, ông C đã bỏ nhà đi biệt tích từ năm 1985, bà T đã tổ chức tìm kiếm nhưng không có tin tức.
Theo điểm d khoản 1 Điều 71 BLDS 2015, Tòa án xét thấy ông đã biệt tích 05 năm
liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống nên chấp nhận yêu cầu của bà T,
tuyên bố ông C là đã chết và lấy ngày mất của ông là ngày 01/01/1986. 2 lOMoARcPSD| 36477832
Tóm tắt Quyết định sơ thẩm số 04/2018/QĐST-DS V/v “Yêu cầu tuyên bố một
người đã chết” của Tòa án Nhân dân huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Người
yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự là anh Quản Bá Đ, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan là chị Quản Thị K.
Chị K (chị gái anh Đ) đã bỏ nhà đi từ năm 1992 không có tin tức mặc dù đã tìm kiếm
trên phương tiện thông tin đại chúng nên anh Đ gửi đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố chị
K là đã chết và lấy ngày mất là ngày 19/11/2018.
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ, Tòa án quyết định tuyên bố chị K là đã chết theo yêu cầu của anh Đ.
Tóm tắt Quyết định số 94/2019/QĐST-VDS ngày 15/11/2019 của Toà án nhân dân TP. Hà Nội
Ngày 15/1/2019, tại trụ sở tòa án nhân dân tp Hà Nội mở phiên họp sơ thẩm công khai
giải quyết về việc "yêu cầu tuyên bố cụ Phạm Văn C đã chết". Người yêu cầubà Phạm
Thị K trình bày: bố đẻ của bà là cụ Phạm Văn C đã bỏ nhà đi khỏi nhà từ tháng 1 năm
1997, từ đó đến nay ko trở về nhà. Gia đình bà K đã tìm kiếm nhiều lần nhưng ko có
kết quả. Nay bà yêu cầu toà án tuyên bố cụ C đã chết. Những người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan cùng nhất trí với yêu cầu của bà K đồng thời ủy quyền cho bà K
quyết định những vấn đề có liên quan trong việc giải quyết yêu cầu tuyên bố cụ C đã
chết và nhận thay các văn bản tố tụng của Tòa án. Công an và UBND phường Bạch
Mai đều xác nhận cụ C đi khỏi địa phương và không sinh sống tại nơi đăng kí hộ khẩu
thường trú từ năm 1997, đến nay không xác định đc cụ ở đâu, làm gì. Theo quy định
tại điểm d, Khoản 1, Điều 71 BLDS 2015 thì Tòa án ra quyết định tuyên bố 1 người
là đã chết trong trường hợp "Biệt tích 5 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực
là còn sống"; thời hạn này được tính theo tại quy định tại khoản 1, Điều 68 của Bộ
luật này. Căn cứ vào quy định nêu trên, có cơ sở xác định cụ C đã chết ngày 1/5/1997.
Tóm tắt Quyết định số 02/2020/QĐST-DS ngày 13/01/2020 của Tòa án nhân dân
huyện C, tỉnh A (huyện Cần Đước, tỉnh Long An).
Ngày 13/1/2020 trụ sở Tòa án nhân dân huyện C mở phiên họp sơ thẩm công khai giải
quyết về việc:" Yêu cầu hủy quyết định tuyên bố một người là đã chết". Người yêu
cầu giải quyết việc dân sự là ông D H, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là bà
N T. Trong đơn yêu cầu ngày 17/12/2019 và tại phiên họp ông D H là người yêu cầu
trình bày Từ năm 2008 do vợ chồng có mâu thuẩn nên Ông Hoàng đến tỉnh
Lâm Đồng sinh sống không liên lạc với gia đình. Tại quyết định số: 01/2011/QĐMPH
ngày 02/3/2011Tòa án nhân dân huyện C đã tuyên bố mất tích. Tại quyết định số:
01/2015/QĐVDS-ST ngày 20/5/2015 Tòa án nhân dân huyện C đã tuyên bố Đ H đã
chết và tại bản án số: 28/2011/HNST ngày 14/6/2011 Tòa án nhân dân huyện C đã
cho ly hôn giữa Bà N T và Ông Đ H. 3 lOMoARcPSD| 36477832
Ngày 20/11/2019 Ông Đ H đã trở về sinh sống tại A, xã L, huyện C và có đơn yêu
cầu hủy quyết định tuyên bố một người là đã chết Sau khi thụ lý giải quyết Ông Đ H
đã cung cấp đơn xin xác nhận còn sống tại A, xã L, huyện C có xác nhận của UBND
xã L ngày 09/12/2019. Qua đối chiếu kết quả tra cứu hồ sơ hộ khẩu và chứng minh
nhân dân đã có đủ căn cứ để xác định Ông Đ H vẫn còn sống. Tòa án nhân dân huyện
C có đủ cơ sở để chấp nhận yêu cầu của Ông Đ H hủy bỏ quyết định tuyên bố một
người là đã chết theo Điều 395 Bộ luật tố tụng dân sự.
2. Những điểm giống và khác nhau giữa tuyên bố một người mất tích và tuyên
bố một người là đã chết.
Tuyên bố một người mất
Tuyên bố một người đã tích chết
Giống nhau Quyết định của Tòa án phải có yếu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan.
Quyết định của Tòa án phải được gửi cho Ủy ban nhân dân
cấp xã nơi cư trú cuối cùng của người bị tuyên bố mất tích
hoặc nơi cư trú của người bị tuyên bố là đã chết để ghi chú
theo quy định của pháp luật về hộ tịch.
Khi người bị tuyên bố mất tích, người bị tuyên bố đã chết trở
về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu
cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan
Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định đã tuyên bố (theo
Điều 70 và Điều 73 của BLDS 2015). CCPL
Điều 68 Bộ luật Dân sự 2015 thực là còn sống sau 2 năm
kể từ sau khi thảm họa, thiên Khác Thời gian
2 năm kể từ ngày biết được tin tai chấm dứt.
Biệt tích 5 năm liền trở lên
nhau tức cuối cùng về người đó.
mà không có tin tức xác thực
Điều 71 Bộ luật Dân sự 2015 là còn sống
Sau 3 năm kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích
của Tòa án có hiệu lực mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống.
Vẫn không có tin tức xác thực là còn sống kể từ khi
chiến tranh kết thúc 5 năm. Không có tin tức xác Tài sản
Giao cho người quản lý theo
Được giải quyết theo quy
quy định tại Điều 65 của
định của pháp luật về thừa BLDS. kế.
Người bị tuyên bố mất tích trở Người bị tuyên bố đã chết về
có quyền yêu cầu người mà còn sống có quyền yêu quản lý
tài sản chuyển giao lại cầu người thừa kế trả lại tài tài sản. sản hiện còn.
Quan hệ Vợ hoặc chồng của người bị Vợ hoặc chồng của người vợ chồng
tuyên bố mất tích xin ly hôn bị tuyên bố chết có thể kết thì được tòa án giải
quyết cho hôn với người khác mà ly hôn theo quy định của pháp không cần
làm thủ tục ly luật. (Theo Khoản 2, Điều 68 hôn. BLDS 2015) 4 lOMoARcPSD| 36477832
3. Một người biệt tích và không có tin tức xác thực là còn sống trong thời hạn
bao lâu thì có thể bị Tòa án tuyên bố là đã chết?
CSPL: Điểm d Khoản 1 Điều 71 BLDS 2015
Biệt tích 5 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống thì có thể bị Tòa
án tuyên bố là đã chết.
Điểm d khoản 1 điều 71 BLDS 2015 quy định:
1. Người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố một
người là đã chết trong trường hợp sau đây: ...
d) Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời hạn này
được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 68 của Bộ luật này.
Như vậy, theo quy định của Pháp luật hiện hành, Biệt tích 5 năm liền trở lên và không
có tin tức xác thực là còn sống thì có thể bị Tòa án tuyên bố là đã chết theo yêu cầu
của người có quyền, lợi ích liên quan.
4. Trong các vụ việc trên (quyết định năm 2018 và 2019), cá nhân bị tuyên bố
chết biệt tích từ thời điểm nào? Vì sao? Trong Quyết định 272:
Ông Trần Văn C bị tuyên bố chết biệt tích vào ngày 1/1/1991 vì bà T và ông T xác
định ông C bỏ đi cuối năm 1985, Công an phường Bình Phước, Quận 9 không xác
định được ngày, tháng ông C vắng mặt tại địa phương. Đây thuộc trường hợp không
xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng của ông C. Do đó, áp dụng Điểm d
Khoản 1 Điều 71 Bộ luật dân sự 2015: “Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin
tức xác thực là còn sống; thời hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 68
của bộ luật này.”

Và khoản 1 Điều 68 BLDS 2015 quy định:
...Thời hạn 02 năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó; nếu
không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu
tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày,
tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp
theo năm có tin tức cuối cùng.

Vậy nên thời hạn 05 năm kể từ ngày có tin tức cuối cùng được tính từ ngày 1/1/1986
là ngày 1/1/1991, nên ngày 1/1/1991 là ngày ông C bị tuyên bố chết. Trong Quyết định 04:
Ngày chết của chị Quản Thị K là ngày 1/1/1998, do năm 1992 chị đã đi khỏi nhà và
gia đình không có tin tức gì mặc dù đã đăng thông báo tìm kiếm. Nhưng thông tin từ 5 lOMoARcPSD| 36477832
năm 1992 không xác định rõ ngày tháng nên theo Điểm d Khoản 1 Điều 71 BLDS
2015 quy định: “Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn
sống; thời hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 68 của bộ luật này.”
Nên
thời hạn 05 năm được tính là từ ngày 1/1/1993. Trong Quyết định 94:
Cụ Phạm Văn C đi khỏi nhà khoảng tháng 1/1997, đến năm 2008 gia đình cụ C có
đăng tin tìm cụ trên các phương tiện thông tin đại chúng nhưng không có tin tức gì.
Theo văn bản trả lời của cơ quan Bảo hiểm xã hội Thành phố Hà Nội vào ngày
13/11/2019, việc chi trả lương hưu cho cụ C chỉ được thực hiện đến hết tháng 4/1997.
Do đó, có cơ sở xác định tin tức cuối cùng về cụ C là tháng 4/1997. Căn cứ vào Điểm
d Khoản 1 Điều 71 Bộ luật dân sự 2015: “Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có
tin tức xác thực là còn sống; thời hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều
68 của bộ luật này.”

Và Khoản 1 Điều 68 Bộ luật dân sự 2015:
...Thời hạn 02 năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó; nếu
không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu
tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày,
tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp
theo năm có tin tức cuối cùng.

Vậy nên có cơ sở xác định cụ C đã chết từ ngày 1/5/1997.
5. Cho biết tầm quan trọng của việc xác định ngày chết của một cá nhân? Nêu
cơ sở pháp lý và ví dụ minh hoạ.
Xác định thời điểm chết của một người bị Tòa án tuyên bố là đã chết có ý nghĩa rất
quan trọng bởi thời điểm chết của một người là thời điểm phát sinh sự kiện pháp lý
liên quan đến quyền, nghĩa vụ về tài sản của người đó. Đặc biệt, nó là cơ sở để xác
định thời điểm mở thừa kế theo quy định tại khoản 1, Điều 611 BLDS năm 2015.
Khoản 1, Điều 611 BLDS năm 2015 quy định:
1. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên
bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2
Điều 71 của Bộ luật này.

Khi giải quyết tranh chấp về thừa kế (nếu phát sinh), Tòa án sẽ căn cứ vào thời điểm
xác định một người là đã chết để xác định những vấn đề liên quan như thời hiệu thừa
kế, hàng thừa kế, diện thừa kế, di sản… Do đó, xác định đúng hay sai thời điểm chết
của người bị tuyên bố là đã chết sẽ dẫn đến việc Tòa án giải quyết vụ án thừa kế đúng hay sai. 6 lOMoARcPSD| 36477832
6. Tòa án xác định ngày chết của các cá nhân bị tuyên bố chết là ngày nào?
Đoạn nào của các Quyết định trên (quyết định năm 2018 và 2019) cho câu trả lời?
Tại Quyết định số 272, Tòa án xác định ngày chết của ông Trần Văn C như sau:
Về việc xác định ngày chết của ông C: Bà T và ông T xác định ông C bỏ đi cuối năm
1985, Công an phường Phước Bình, quận 9 không xác định được ngày, tháng ông C
vắng mặt tại địa phương. Đây thuộc trường hợp không xác định được ngày, tháng có
tin tức cuối cùng của ông C. Do đó, ngày chết của ông C được tính là ngày đầu tiên
của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng nên ngày chết của ông C là ngày
01/01/1986.
Tại Quyết định số 04, Tòa án xác định ngày chết của chị Quản Thị K như sau:
“Tuyên bố chị Quản Thị K - sinh 1969 đã chết ngày 19/11/2018.”
Tại Quyết định số 94, Tòa án xác định ngày chết của cụ Phạm Văn C như sau: Về việc
xác định ngày chết của cụ C: khoảng tháng 1/1997, cụ C đã ra khỏi nhà và không
thấy trở về. Năm 2008, gia đình có đăng tin tìm kiếm nhưng vẫn không có tin tức. Căn
cứ vào văn bản trả lời của cơ quan Bảo hiểm xã hội Thành phố Hà Nội ngày
13/11/2019, việc chi trả lương hưu cho cụ C được thực hiện đến hết tháng 4/1997.
Bởi lẽ đó, có căn cứ xác định tin tức cuối cùng về cụ C là tháng 4/1997. Do không
xác định được rõ ngày tháng nên ngày chết của cụ C được tính là ngày đầu tiên của
tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng. Vì vậy, ngày chết của cụ C là ngày
1/5/1997.
7. Đối với hoàn cảnh như trong các quyết định trên (quyết định năm 2018 và
2019), pháp luật nước ngoài xác định ngày chết là ngày nào ?
Căn cứ vào khoản 3 Điều 45 Bộ luật dân sự Nga:
Ngày ra đi của công dân, người được tuyên bố là đã chết, sẽ là ngày bắt đầu có hiệu
lực của quyết định của Tòa án về việc tuyên bố người được tuyên bố là đã chết. Trong
trường hợp tuyên bố là công dân đã chết, người đã biến mất trong hoàn cảnh nguy
hiểm đến tính mạng hoặc trong những trường hợp như đưa ra căn cứ để cho rằng anh
ta có thể đã chết như một kết quả của một vụ tai nạn xác định, tòa án có thể công
nhận ngày của công dân này bị diệt vong là ngày mất của anh.

Nên trong Quyết định 272, ông C sẽ được tuyên bố là đã chết vào ngày 27/04/2018
và trong Quyết định 04, chị K được tuyên bố là đã chết vào ngày 19/11/2018, trong
Quyết định số 94, cụ C được tuyên bố là đã chết vào ngày 15/11/2019.
8. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định ngày chết trong các Quyết
định trên (quyết định năm 2018 và 2019). 7 lOMoARcPSD| 36477832
Tại Quyết định số 272, ông C được Tòa án xác định ngày chết là ngày 01/01/1986, do
Tòa án căn cứ theo lời bà T khai ông C bỏ đi từ năm 1985, không xác định rõ ngày,
tháng có tin tức cuối cùng nên quyết định lấy ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có
tin tức cuối cùng làm ngày chết của ông C. Còn tại Quyết định số 04, Tòa án xác định
ngày chết của chị Quản Thị K là vào cùng ngày Tòa án tuyên bố chị chết, tức ngày
19/11/2018 với lý do đó là ngày làm căn cứ phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quan hệ
về nhân thân, về tài sản, về hôn nhân gia đình, về thừa kế của chị Quản Thị K. Tại
Quyết định số 94, cụ Phạm Văn C được Tòa án xác định ngày chết là ngày 01/05/1997,
do Tòa án căn cứ theo văn bản trả lời của Cơ quan Bảo hiểm xã hội thành phố Hà Nội
có cơ sở xác định tin tức cuối cùng về cụ C là tháng 4/19971997
Theo khoản 2 Điều 71 BLDS 2015 quy định: “Căn cứ vào các trường hợp quy định
tại khoản 1 Điều này, Tòa án xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết.”,
như vậy, để xác định ngày chết của cá nhân bị tuyên bố là đã chết, Tòa án cần căn cứ
vào khoản 1 Điều 71, cụ thể, trường hợp tuyên bố chết của chị K và ông C thuộc quy
định tại Điểm d Điều khoản này: “Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức
xác thực là còn sống, thời hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 68 của Bộ luật này”.

Bên cạnh đó, xét quy định tại khoản 1 Điều 68 BLDS 2015:
Thời hạn 02 năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó; nếu
không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu
tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày,
tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp
theo năm có tin tức cuối cùng.

Như vậy, thời hạn đủ để có thể tuyên bố một người là đã chết là biệt tích 05 năm liền,
tính từ ngày nhận được tin tức cuối cùng. Trong Quyết định số 272, bà T nhận tin tức
cuối cùng từ ông C vào năm 1985, do không nhớ rõ ngày, tháng nên sẽ tính là vào
ngày 01/01/1986. Tương tự với trường hợp của chị K, ngày nhận tin tức cuối sẽ là
01/01/1993 và cụ C, ngày nhận tin tức cuối sẽ là tháng 4/1997.
Việc xác định ngày chết của Tòa án trong ba Quyết định trên là chưa hợp lý, do căn
cứ theo khoản 2 Điều 71 BLDS, Tòa án cần dựa theo các trường hợp tương ứng tại
khoản 1 Điều này để xác định ngày chết. Do đó, đối với ông C, ngày chết phải được
xác định là vào ngày 02/01/1991 vì ngày này là ngày kế tiếp ngày kết thúc thời hạn
05 năm, đủ để tuyên bố đã chết. Tương tự đối với trường hợp chị K, ngày chết phải
được xác định là vào ngày 02/01/1998. Cuối cùng, đối với cụ C, ngày chết phải được
xác định là vào ngày 02/05/1997. Tòa án trong các Quyết định trên đã không dựa theo
điều kiện của pháp luật quy định, có thể sẽ gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của 8 lOMoARcPSD| 36477832
người bị tuyên bố đã chết mà còn ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của người khác. Một
thẩm phán TAND TPHCM ví dụ:
Ông A đang phải cấp dưỡng nuôi con thì mất tích. Năm 2005, tòa tuyên bố ông mất
tích theo yêu cầu của vợ cũ của ông; giao tài sản của ông cho cha mẹ ông quản lý.
Năm 2007, có tranh chấp về việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng và tòa buộc cha mẹ
ông A sử dụng tiền của ông để cấp dưỡng thay. Năm 2010, khi giải quyết yêu cầu
tuyên bố một người đã chết, nếu tòa tuyên bố ông A chết vào năm 2005 thì sẽ mâu
thuẫn với bản án tòa buộc cha mẹ ông A cấp dưỡng thay con năm 2007. Bởi lẽ nếu
xác định ông A chết vào năm 2005 thì đồng nghĩa với việc nghĩa vụ cấp dưỡng của
ông cũng chấm dứt ngay từ lúc đó. (1)
Ngoài ra, Thẩm phán Trương Công Huấn (TAND Quận 11, TP.HCM) đã hướng dẫn:
“Đối với trường hợp biệt tích năm năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là
còn sống thì thời điểm chết phải được xác định là ngày kế tiếp sau năm năm kể từ
ngày được xác định là biệt tích.”
(2)
9. Cho biết căn cứ để hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết và
Tòa án tuyên hủy quyết định tuyên bố ông H đã chết trong quyết định năm
2020 có phù hợp với quy định không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
CSPL: Điều 73 BLDS 2015
Căn cứ để hủy bỏ quyết định tuyên bố 1 người là đã chết là: “Khi một người bị tuyên
bố là đã chết trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu cầu của
người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ
quyết định tuyên bố người đó là đã chết.”
Quyết định tuyên bố ông H đã chết trong quyết định năm 2020 là phù hợp. Bởi vì
10. Đối với vụ việc được giải quyết trong quyết định năm 2020, bà T và ông H
có còn được coi là vợ chồng nữa không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
CSPL: Điểm a Khoản 2 Điều 73
Đối với vụ việc được giải quyết trong quyết định năm 2020, bà T và ông H không còn
được coi là vợ chồng nữa
11. Nếu ông H có tài sản, quan hệ về tài sản trước đây của ông H được xử lý
như thế nào sau khi có quyết định năm 2020? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
CSPL: Khoản 3 Điều 73 BLDS 2015
Nếu ông H có tài sản, quan hệ về tài sản trước đây của ông H được xử lý như sau: ông
H có quyền yêu cầu những người đã nhận tài sản thừa kế trả lại tài sản, giá trị tài sản hiện còn. 9 lOMoARcPSD| 36477832
BÀI 3: TỔ HỢP TÁC
1. Tóm tắt bản án
Tóm tắt Bản án số: 02/2021/DS-PT ngày 11– 01 - 2021 về việc tranh chấp hợp
đồng thuê quyền sử dụng đất.
Ngày 13/09/2018, Tổ hợp tác X xã N (viết tắt là Tổ hợp tác ) ký hợp đồng thuê quyền
sử dụng đất của ông Nguyễn Thế Th, bà Bùi Thị H để thuê 500m2 đất. Sau khi ký kết
hợp đồng và chứng thực tại Ủy ban nhân dân xã N, ông Nguyễn Thế Th đã tiến hành
phá bỏ một diện tích cây cối nhất định nhằm mục đích giải phóng mặt bằng trước khi
cho thuê quyền sử dụng đất.
Ngày 11/01/2019, ông Th nhận được Thông báo của Tổ hợp tác về việc chấm dứt hợp
đồng thuê đất do hoàn cảnh thay đổi theo Điều 42 BLDS 2015.
Ngày 14/01/2019, ông Th gửi văn bản thông báo cho Tổ hợp tác về việc không đồng
ý chấm dứt hợp đồng thuê quyền sử dụng đất ngày 13/09/2018 đồng thời yêu cầu Tổ
hợp tác bồi thường thiệt hại về cây cối trước và sau khi giải phóng mặt bằng với số tiền 50.400.000 đồng.
Tòa án sơ thẩm không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Th đồng thời
quyết định chi phí tố tụng, án phí và thông báo quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 29/7/2020, ông Nguyễn Thế Th kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét
xử lại vụ án theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tòa án phúc thẩm chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Thế Th, hủy bản án
dân sự sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh
Đắk Nông để giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm. Ông Th còn được hoàn trả lại
tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm là 300.000đ.
2. Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về tổ hợp tác và suy
nghĩ của anh/chị về những điểm mới này.
Về những điểm mới trong BLDS 2015 so với BLDS 2005 về ‘tổ hợp tác’:
Bộ luật dân sự năm 2015 một mặt vẫn thừa nhận hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác
không có tư cách pháp nhân là những thực thể pháp lý đang tồn tại trong đời sống xã
hội, tham gia vào nhiều quan hệ pháp luật dân sự như quan hệ sử dụng đất, điện,
nước... phù hợp với các điều kiện đặc thù về kinh tế, văn hóa, xã hội, gia đình và lịch
sử của Nhà nước ta. Mặt khác quy định này được sửa đổi theo hướng, việc tham gia
của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức không có tư cách pháp nhân vào quan hệ dân sự
là thông qua cá nhân đại diện. Điểm mới này của BLDS năm 2015 đã giải quyết được
những vướng mắc, bất cập kéo dài trong nhiều năm qua liên quan đến việc tham gia
các quan hệ dân sự của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp
nhân trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án và cơ quan nhà nước khác. 10 lOMoARcPSD| 36477832
Bộ luật Dân sự năm 2015 đã bổ sung một chủ thể khác trong giao dịch dân sự bên
cạnh hộ gia đình và tổ hợp tác, đó là “tổ chức khác không có tư cách pháp nhân”,
nhằm xác định rõ địa vị pháp lý của các chủ thể là tổ chức nhưng không có tư cách
pháp nhân trong các giao dịch dân sự, giải quyết những bất cập trong thực tiễn thi
hành pháp luật liên quan đến những chủ thể trên. Bên cạnh đó, BLDS năm 2015 không
phân tách các quy định của hộ gia đình và tổ hợp tác ra thành 2 nội dung riêng biệt
mà sử dụng những quy định nhằm điều chỉnh chung, căn cứ vào những đặc điểm giống
nhau giữa các chủ thể, tránh những nội dung trùng lặp gây phức tạp trong quy định của pháp luật.
Về chủ thể, khoản 1 Điều 101 quy định trong quan hệ dân sự có sự tham gia của hộ
gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân, thì các thành viên của
hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân là chủ thể tham gia
xác lập, thực hiện giao dịch dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia xác
lập, thực hiện giao dịch dân sự. Được hiểu là bản thân hộ gia đình, tổ hợp tác hay tổ
chức không có tư cách pháp nhân không được xem là một bên chủ thể trong quan hệ
dân sự mà là các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức không có tư cách pháp
nhân hoặc là người đại diện theo uỷ quyền. Quy định này phù hợp với tinh thần chung.
3. Trong Quyết định năm 2021, đoạn nào cho thấy giao dịch (hợp đồng thuê
quyền sử dụng đất) được xác lập giữa ông Th và bà H với Tổ hợp tác? Ngày
13/9/2018, Tổ hợp tác X xã N (viết tắt là Tổ hợ p tác ) ký hợp đồng thuê quyền sử
dụng đất của ông Nguyễn Thế Th, bà Bùi Thị H để thuê 500m2 đất tọa lạc tại thôn
06, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, mục đích xây dựng kho cất trữ cà phê sau thu
hoạch, diện tích đất cho thuê là một phần của thửa đất số 50, tờ bản đồ số 03, diện
tích 12.103m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Y do Ủy ban nhân dân
huyện Đ cấp ngày 12/12/2006, đứng tên hộ ông Nguyễn Thế Th và bà Bùi Thị H. Vị
trí đất cho thuê có tứ cận: Phía Đông giáp đường bê tông; phía Tây giáp đất ông
Nguyễn Thế Th; phía Nam giáp đường đất; phía Bắc giáp đất ông Nguyễn Hữu H.
(Đoạn đầu tiên phần Nội dung vụ án).
Ngày 13/9/2018, ông Bùi Vĩnh H đại diện cho Tổ hợp tác thuê 500m2 đất của ông Th
để làm nhà kho theo Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất số: 61/SCT/HĐ-GD.
(Dòng 2,3 đoạn 4 phần Nội dung vụ án).
4. Theo Tòa án, ai phía Tổ hợp tác là bên trong giao dịch (với ông Th và bà
H)? Hướng xác định như vậy của Tòa án có phù hợp với quy định không? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.
Căn cứ pháp lý: Điều 101 Bộ luật dân sự 2015
Theo Tòa án, người đại diện bên phía Tổ hợp tác là bên trong giao dịch với ông Th và
bà H được xác định là: Ông Bùi Vĩnh H, căn cứ trong bản án như sau: 11 lOMoARcPSD| 36477832
Ngày 13/09/2018, ông Bùi Vĩnh H đại diện cho Tổ hợp tác thuê 500m2 đất của ông
Th để làm nhà kho theo Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất số: 61/SCT/HĐ-GD. Thời
điểm ký kết hợp đồng, ông Bùi đang làm Tổ trưởng Tổ hợp tác. Cùng vào thời điểm
đó, Ông Nguyễn T - Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã N nhiệm kỳ 2016 - 2021 cũng đã
chứng thực hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất giữa ông Th, bà H với ông H là đại
diện của Tổ hợp tác.

Dựa vào những ý trên, có thể nói rằng Tòa án nhận định hợp đồng thuê quyền sử dụng
đất ngày 13/09/2018 được ký kết giữa ông Nguyễn Thế Th, bà Bùi Thị H với Tổ
trưởng Tổ hợp tác là ông Bùi Vĩnh H.
Hướng xác định như vậy của Tòa án theo em là chưa phù hợp với quy định vì: Dựa
theo quy định tại Điều 101 BLDS 2015 thì “chủ thể xác lập, thực hiện giao dịch của
Tổ hợp tác là tất cả các thành viên của Tổ hợp tác hoặc các thành viên ủy quyền phải
được lập thành văn bản. Trường hợp thành viên của Tổ hợp tác không được các thành
viên khác ủy quyền làm người đại diện thì thành viên đó là chủ thể của quan hệ dân
sự do mình xác lập, thực hiện”.
Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác minh làm rõ việc ông H ký kết hợp đồng thuê
đất có được các thành viên của Tổ hợp tác ủy quyền hay không, trong hồ sơ không có
văn bản ủy quyền của các thành viên Tổ hợp tác.
Vì thế, không thể xác định giao dịch dân sự được thực hiện với ông Th và bà H là do
ai làm chủ thể, là tất cả thành viên của Tổ hợp tác hay cá nhân ông Bùi Vĩnh H. Bởi
những lẽ trên, Tòa án xác định ông Bùi Vĩnh H đại diện Tổ hợp tác thực hiện giao
dịch với ông Th và bà H là không phù hợp với quy định của pháp luật.
5. Theo Tòa án, ai là Bị đơn và hướng xác định như vậy của Tòa án có thuyết
phục không ? Vì sao .
Theo Tòa án, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị đơn là
Tổ hợp tác X xã N với người đại diện là ông Bùi Vĩnh H.
Hướng xác định như vậy theo em là thuyết phục vì lý do sau:
“Ông Bùi Vĩnh H là người ký kết hợp đồng thuê quyền sử dụng đất nên ông H là bị
đơn trong vụ án. Ông H là người trực tiếp ký kết hợp đồng còn các thành viên trong
tổ hợp tác tại thời điểm ký hợp đồng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan…”
cho
nên ông H là bị đơn trong vụ án là hợp lý và thuyết phục. 12