-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Bài thảo luận Quy định chung về thừa kế | Trường Đại học Luật TPHCM
Tài liệu gồm 25 trang, bao gồm các kiến thức cơ bản liên quan đến quy định chung về thừa kế giúp bạn ôn luyện và nắm vững kiến thức môn học Luật dân sự. Mời bạn đọc đón xem!
Luật dân sự (LDS1) 11 tài liệu
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh 142 tài liệu
Bài thảo luận Quy định chung về thừa kế | Trường Đại học Luật TPHCM
Tài liệu gồm 25 trang, bao gồm các kiến thức cơ bản liên quan đến quy định chung về thừa kế giúp bạn ôn luyện và nắm vững kiến thức môn học Luật dân sự. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Luật dân sự (LDS1) 11 tài liệu
Trường: Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh 142 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT CHẤT LƯỢNG CAO LỚP CLC-48(B)
BỘ MÔN: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ, THỪA KẾ VÀ TÀI SẢN
BUỔI THẢO LUẬN THỨ NĂM: QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỪA KẾ
Giảng viên: Lê Thị Hồng Vân
Danh sách thành viên nhóm: 7 Phạm Bảo Khánh 2353801015081
Lê Trương Tuấn Minh 2353801011167
Nguyễn Trần Hoàng Long 2353801011162
Nguyễn Hoàng Bảo Minh 2353801015105 Huỳnh Nhật Huy 2353801011120
Lê Nguyễn Đức Anh 2353801011012
II. CẤU TRÚC BÀI TẬP
Vấn đề 1: Di sản thừa kế.
*Tóm tắt Bản án số 08/2020/DSST ngày 28/8/2020 của Tòa án Nhân dân
thành phố Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc. -
Nguyên đơn: Ông Trần Văn Hòa- Bị đơn: Anh Trần Hoài Nam Chị Trần Thanh Hương -
Nội dung: Bà Cao Thị Mai và ông Trần Văn Hòa kết hôn với nhau
năm 1980. Quá trình hôn nhân, hai ông bà có hai con chung là anh Nam và chị
Hương. Ngoài ra, không có con đẻ con nuôi nào khác. Tài sản của ông Hòa, bà
Mai gồm: 01 ngôi nhà 3 tầng, sân tường bao quanh và một lán bán hàng xây dựng
năm 2006, trên diện tích đất 169,5m2 (trong đó, diện tích được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Hòa là 84m2 , còn lại 85,5m2 còn lại ông
Hòa sử dụng ổn định và không có tranh chấp), địa chỉ thửa đất tại số nhà 257
đường Nguyễn Viết Xuân, phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh
Phúc. Theo biên bản thẩm định tài sản và định giá tài sản ngày 21/02/2020, tổng
tài sản có trị giá là 6.127.665.000đ. Tài sản các đương sự có tranh chấp: tiền cho
thuê nhà và lán bán hàng từ tháng 3/2018 đến thời điểm xét xử do ông Hòa đang
quản lý; tiền cho thuê lán bán hàng của năm 2017, 2018 do chị Hương quản lý.
Đối với đề nghị của anh Nam và chị Hương, yêu cầu xác định diện tích đất 85,5m2
chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là tài sản chung của gia đình,
đề nghị này không được Hội đồng xét xử chấp nhận. Đối với diện tích đất tăng
85,5m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Hội đồng xét xử xem
xét các vấn đề để quyết định. Từ các lập luận, tổng giá trị tài sản chung của ông
Hòa và bà Mai là 6.151.614.500đ. Tài sản được hình thành trong thời kỳ hôn
nhân và được hình thành từ tài sản của hôn nhân nên được chia đôi cho ông Hòa
và bà Mai mỗi người ½ giá trị. Ngày 31/07/2017, bà Mai chết và không để lại di
chúc nên di sản của bà Mai được phân chia theo pháp luật. Hiện ông Hòa đã lấy
vợ mới, và đăng ký hộ khẩu tạm trú tại huyện Phú Ninh, tỉnh Phú Thọ, nhà đất
tranh chấp chủ yếu là cho thuê. Vì các lẽ trên, Tòa án quyết định chia cho ông
Hòa số tài sản tổng trị giá 2.220.664.000đ; diện tích đất 38,4m2 ông Hòa có nghĩa
vụ liên hệ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận sau khi đã thực
hiện nghĩa vụ thuế; chia cho anh Nam số tài sản tổng trị giá 4.207.001.000đ; diện
tích đất 47,1m2 anh Nam có nghĩa vụ liên hệ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
cấp giấy chứng nhận sau khi đã thực hiện nghĩa vụ thuế; ông Hòa quản lý giấy
chứng nhận quyền sử dụngđất; chia cho chị Hương quyền sở hữu số tiền thuê
30.000.000đ; buộc anh Nam thanh toán chênh lệch về tài sản cho ông Hòa số tiền 1.880.412.000đ.
*Tóm tắt Án lệ số 16/2017/AL của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. -
Nguyên đơn : Ông Phùng Thị H1. - Bị đơn : Phùng Văn T. -
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Phùng Thị H3. -
Nội dung: Bố mẹ nguyên đơn là ông Phùng Văn N và bà Phùng Thị
G có tàisản chung là 01 ngôi nhà cấp 4 cùng công trình phụ trên diện tích đất
398m2 ở tại khu L, phường M, thành phố N, tỉnh Vĩnh Phúc. Ngày 07-7-1984 ông
Phùng Văn N chết (trước khi chết không để lại di chúc), bà Phùng Thị G và anh
Phùng Văn T quản lý và sử dụng nhà đất trên. Năm 1991, bà Phùng Thị G chuyển
nhượng cho ông Phùng Văn K diện tích 131m2 ; phần diện tích đất còn lại của
thửa đất là 267,4m2 . Năm 1999 bà
Phùng Thị G đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích 267,4m2 , bà
Phùng Thị G cùng vợ chồng anh Phùng Văn T vẫn quản lý sử dụng nhà đất này. Việc bà
Phùng Thị G chuyển nhượng đất cho ông Phùng Văn K các con bà Phùng Thị G đều
biết, nhưng không ai có ý kiến phản đối gì, các con của bà Phùng Thị G có lời khai bà
Phùng Thị G bán đất để lo cuộc sống của bà và các con. Nay ông Phùng Văn K cũng đã
được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, Tòa án cấp
sơ thẩm lại xác định di sản là tổng diện tích đất 398m2 (bao gồm cả phần đất đã bán cho
ông Phùng Văn K) để chia. Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại, không đưa diện tích đất bà
Phùng Thị G đã bán cho ông Phùng Văn K vào khối tài sản để chia. Tiếp đó, bà Phùng
Thị G muốn cho con gái là chị Phùng Thị H1 một phần diện tích đất của bà để làm nhà
ở nhưng anh Phùng Văn T vẫn giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi đã được
Tòa án yêu cầu trả. Chính vì vậy, bà Phùng Thị G không tách đất cho chị Phùng Thị H1
được. Tháng 03/2010 bà Phùng Thị G đã lập di chúc với nội dung: “Để lại cho chị Phùng
Thị H1 diện tích đất 90m2 và toàn bộ cây cối lâm lộc trên diện tích đất”. Ngày 19-12-
2010 bà Phùng Thị G chết. Tuy nhiên, diện tích 267m2 đất đứng tên bà Phùng Thị G
nhưng được xác định là tài sản chung của vợ chồng ông Phùng Văn N và bà Phùng Thị
G. Bà Phùng Thị G chỉ có quyền định đoạt 1/2 diện tích đất trong tổng diện tích 267m2
đất chung của vợ chồng bà. Ngoài ra, đối với 1/2 diện tích đất trong tổng diện tích 267m2
đất chung của vợ chồng là phần di sản của ông Phùng Văn N để lại nay đã hết thời hiệu
chia thừa kế, anh Phùng Văn T là một trong các thừa kế không đồng ý chia nên không
đủ điều kiện để chia tài sản chung nên phần diện tích đất này ai đang quản lý, sử dụng
thì được tiếp tục quản lý, sử dụng.
Câu 1: Ở pháp luật nước ngoài, di sản có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá
cố không? Nêu ít nhất một hệ thống pháp luật mà anh/chị biết về chủ đề này. Trả lời:
Theo Bộ luật Dân sự Pháp, di sản có bao gồm nghĩa vụ của người quá cố để lại,
được quy định trong Quyển III: Các hình thức chiếm hữu tài sản. Cụ thể như sau:
Điều 870 quy định: “Những người thừa kế cùng nhau đóng góp vào việc thanh
toán các khoản nợ và phí di sản theo tỷ lệ tương ứng với số tiền họ được thừa kế từ di
sản đó”. Từ quy định này có thể thấy, nếu người chết có nghĩa vụ, có nợ thì người thừa
kế di sản của người chết có nghĩa vụ phải trả nợ dựa trên phần di sản mà mình đã được
nhận mà không phải dùng tài sản cá nhân để trả.
Câu 2: Ở Việt Nam, di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. Trả lời:
Theo Điều 612 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì: “Di sản bao gồm tài sản riêng của
người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”.
Hơn nữa, Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
Điều 105. Tài sản:
1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá trị và quyền tài sản.
2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có
thểlà tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.
Quan điểm cho rằng di sản bao gồm tài sản của người chết và không bao gồm
nghĩa vụ tài sản được thể hiện tại Điều 612 và các Điều 614, 615 Bộ luật Dân sự năm
2015. Có thể hiểu rằng, trước khi chia tài sản, những người thừa kế phải thanh toán các
nghĩa vụ của người chết để lại xong còn lại mới phân chia. Việc thực hiện nghĩa vụ
không phải với tư cách là chủ thể của nghĩa vụ do họ xác lập mà thực hiện các nghĩa vụ
của người chết bằng chính tài sản của người chết.
Vậy, di sản không bao gồm nghĩa vụ của người quá cố.
Câu 3: Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế
bởi một tài sản mới sau đó thì tài sản mới có là di sản không? Vì sao? Trả lời:
Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi một tài
sản mới sau đó thì tài sản mới phải được xem xét nguyên nhân, mục đích thay thế thì
mới được coi là di sản. Cụ thể:
+ Nguyên nhân thay thế là nguyên nhân khách quan như: bão, lũ, hỏa hoạn hoặc
các thảm họa tự nhiên. Ví dụ: Ông A chết để lại di sản thừa kế là ngôi nhà, nhưng do hỏa
hoạn làm cho ngôi nhà thiêu cháy rụi hoàn toàn và không còn giá trị sử dụng. Trước thời
điểm mở thừa kế ngôi nhà khác được xây dựng thay thế ngôi nhà này. Khi đó ngôi nhà
mới này sẽ được coi là di sản thừa kế mà ông A để lại.
+ Nguyên nhân thay thế là nguyên nhân chủ quan: Nếu vì lý do chủ quan mà di
sản thừa kế bị làm hư hỏng hoặc bị bán mà không có sự đồng ý của các đồng thừa kế thì
giá trị phần di sản vẫn được coi là di sản thừa kế và người làm thất thoát di sản có trách
nhiệm trả lại phần giá trị làm thất thoát để chia thừa kế. Hướng giải quyết này chưa được
quy định trong văn bản nhưng rất thuyết phục và được áp dụng cả đối với trường hợp di
sản được thay thế bằng một khoản tiền như tiền đền bù. Thực tế còn cho thấy, khi di sản
bị bán cho người khác,Tòa án nhân dân tối cao cũng có định hướng tiền từ việc bán
(chuyển nhượng) là di sản và trong trường hợp Tòa án đã giao di sản cho một người
không được hưởng (và bản án đã có hiệu lực pháp luật), người được giao sở hữu tài sản
phải thanh toán giá trị tài sản và giá trị này cũng được chia như di sản. Tương tự như
vậy khi Tòa án giao di sản cho một người thừa kế và người thừa kế chuyển nhượng di
sản cho người khác nhưng sau đó quyết định giao di sản bị hủy thì di sản được chuyển
thành tiền và người nhận tiền phải chia cho những người thừa kế tiền đã nhận.
Câu 4: Để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất của
người quá cố có cần phải đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. Trả lời:
Nguyên tắc khi có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì người sử dụng đất mới
có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất trong đó có cả quyền để lại di sản
thừa kế. Tuy nhiên thiếu giấy chứng nhận quyền sử dụng đất dẫn đến việc thực hiện
quyền sẽ khó khăn, nhưng không có nghĩa sẽ tước bỏ quyền sử dụng đất.
Nghị quyết số 02/2004 ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao quy định: “trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không
có một trong các loại giấy tờ được hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 và tiểu mục 1.2 mục 1
này nhưng có di sản là nhà ở; vật kiến trúc khác (như: nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh,
giếng nước, nhà để ô tô, nhà thờ…cây ăn quả, cây công nghiệp hay các cây lâu năm
khác) gắn liền với quyền sử dụng đất đó mà yêu câu chia thừa kế, thì cần phân biệt các trường hợp sau:
Trong trường hợp sự cố văn bản của UBND cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử
dụng đất đó là hợp pháp nhưng chưa kịp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì
Tòa án giải quyết theo yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất và
quyền sử dụng đất đó”.
Do đó đất của người chết để lại nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất nếu có các loại giấy tờ khác chứng minh được nguồn gốc đất hoặc UBND cấp
có thẩm quyền có văn bản xác nhận việc sử dụng đất là hợp pháp, đất được sử dụng lâu
dài, không có tranh chấp thì Tòa án vẫn xác định được đây là di sản thừa kế và tiến hành
chia thừa kế theo đúng trình tự, quy định của pháp luật.
Câu 5: Trong Bản án số 08, Tòa án có coi diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản không? Đoạn nào của bản
án có câu trả lời? Trả lời:
Trong bản án số 08, Tòa án coi diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là di sản.
Đoạn trích của bản án cho thấy câu trả lời trên là: “Đối với diện tích đất tăng
85,5m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: tại phiên tòa đại diện Viện
kiểm sát nhận định và lập luận cho rằng không được coi là di sản thừa kế, cần tiếp tục
tạm giao cho ông Hòa có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước để được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất... Đây vẫn là tài sản ông Hòa và bà Mai, chỉ có
điều là các đương sự phải thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước, nếu không xác định
là di sản thừa kế và phân chia thì sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên đương sự. Phần đề nghị này của đại diện viện kiểm sát không được hội đồng xét xử
chấp nhận. Các đề nghị khác đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà là có căn cứ, được Hội
đồng xét xử xem xét và quyết định.’’
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý nêu trên của Tòa án trong Bản
án số 08 về diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trả lời:
Hướng xử lý nêu trên của Tòa án trong bản án Số 08 về diện tích đất chưa được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là hợp lý.
Diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc quyền sở
hữu của ông Hòa vì anh Nam sinh năm 1981, chị Hương sinh năm 1983 tài sản hình
thành từ năm 1993 thời điểm này cả anh Nam và chị Hương đều còn nhỏ và sống phụ
thuộc vào gia đình. Do đó có đủ căn cứ để khẳng định tài sản nêu trên là tài sản chung
của vợ chồng ông Hòa bà Mai. Nên phần diện tích đất tăng 85,5m2 được giao cho ông Hòa tiếp tục xử lý.
Câu 7: Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m2 đất, phần di sản của
Phùng Văn N là bao nhiêu? Vì sao? Trả lời:
Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m2 đất, phần di sản của Phùng Văn N là 133,5m2.
Vì trong tổng diện tích 398m2 đất thì đã chuyển nhượng 131m2 đất cho ông
Phùng Văn K. Còn lại 267m2 đất là tài sản chung của vợ chồng ông N và bà G nên được
chia ½ (133,5m2) cho mỗi người.
Câu 8: Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng
Văn K có được coi là di sản để chia không? Vì sao? Trả lời:
Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K
không được coi là di sản vì phần đất tổng 398 m2 là tài sản chung của 2 vợ chồng ông
Phùng Văn N và bà Phùng Thị G, nhưng bà G đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất lại
cho ông Phùng Văn K với diện tích là 131m2. Việc chuyển nhượng này các con của bà
G đều biết nhưng không phản đối và cơ quan nhà nước cũng đã cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho bà G với diện tích là 267,4 m2 và cho ông K với diện tích đất là
131m2. Như vậy, phần đất đã chuyển nhượng là 131 m2 là tài sản của ông K và khi bà
G chết thì phần đất này không trở thành di sản của bà vì phần đất đã chuyển nhượng đó
không phải là tài sản riêng hay tài sản chung với người khác của bà G, căn cứ theo Điều
612 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài
sản của người chết trong tài sản chung với người khác.”
Đoạn văn trong Án lệ thể hiện câu trả lời là: “Năm 1991, bà Phùng Thị G chuyển
nhượng cho ông Phùng Văn K diện tích 131m2 trong tổng diện tích 398m2 của thửa đất
trên; phần diện tích đất còn lại của thửa đất là 267,4m2. Năm 1999 bà Phùng Thị G đã
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích 267,4m2, bà Phùng
Thị G cùng vợ chồng anh Phùng Văn T vẫn quản lý sử dụng nhà đất này. Việc bà Phùng
Thị G chuyển nhượng đất cho ông Phùng Văn K các con bà Phùng Thị G đều biết, nhưng
không ai có ý kiến phản đối gì, các con của bà Phùng Thị G có lời khai bà Phùng Thị G
bán đất để lo cuộc sống của bà và các con. Nay ông Phùng Văn K cũng đã được cơ quan
nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, có cơ sở để xác định các con
bà Phùng Thị G đã đồng ý để bà Phùng Thị G chuyển nhượng diện tích 131m2 nêu trên
cho ông Phùng Văn K. Tòa án cấp phúc thẩm không đưa diện tích đất bà Phùng Thị G
đã bán cho ông Phùng Văn K vào khối tài sản để chia là có căn cứ. Tòa án cấp sơ thẩm
xác định di sản là tổng diện tích đất 398m2 (bao gồm cả phần đất đã bán cho ông Phùng
Văn K) để chia là không đúng.”
Câu 9: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan
đến phần diện tích đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K. Trả lời:
Hướng giải quyết của Án lệ trên là hợp lý khi quyết định không đưa 131m2 đất
đã bán cho ông K vào phần di sản để chia thừa kế. Vì toà án đã nhận định rằng việc bà
Phùng Thị G chuyển nhượng đất cho ông Phùng Văn K là để lo cho cuộc sống của bà
và các con, đồng thời các con bà của bà đều biết nhưng không ai phản đối gì. Ông K
cũng đã được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó, có cơ
sở để xác nhận các con bà Phùng Thị G đã đồng ý để bà chuyển nhượng phần diện tích
đất nêu trên cho ông K. Vậy nên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà G
và ông K là hợp pháp và diện tích đất đã chuyển nhượng không còn trong khối di sản để
chia thừa kế mà thuộc quyền sử dụng của bên nhận chuyển là ông K. Lúc này, ông K có
quyền sở hữu tài sản trong hợp đồng là 131m2 đất căn cứ theo Điều 223 về việc xác lập
quyền sở hữu theo hợp đồng như sau: “Người được giao tài sản thông qua hợp đồng mua
bán, tặng cho, trao đổi, cho vay hoặc hợp đồng chuyển quyền sở hữu khác theo quy định
của pháp luật thì có quyền sở hữu tài sản đó.”
Câu 10: Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con
mà dùng cho tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó có được coi
là di sản để chia không? Vì sao? Trả lời:
Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con mà dùng cho
tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó không được coi là di sản để chia. Bởi vì:
+ Xét tài sản chung của vợ chồng bà G và ông N là 398m2 đất, sau khi ông N mất, không
để lại di chúc thì tài sản chung này sẽ được chia đôi là 196m2 đất theo quy định tại Điều
66 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014. Bà G, các con chung của 2 vợ chồng đều thuộc
hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 651 Bộ luật Dân sự năm
2015 nên đều được chia thừa kế như nhau.
+ Nếu bà G tự ý bán 131m2 đất cho ông K, không có sự đồng ý của các con và dùng
tiền đó cho cá nhân mình chứ không vì lợi ích của các con thì xem như bà đã bán một
phần đất của mình trong khối tài sản chung của hai vợ chồng. Việc mua bán này sẽ không
ảnh hưởng đến phần tài sản mà các đồng thừa kế khác được hưởng.
Câu 11: Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong
diện tích đất trên là bao nhiêu? Vì sao? Trả lời:
Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện tích đất
trên là 1/2 diện tích 398 m2 đất (133,5 m2 đất) vì theo nhận định của Toà, tài sản tuy
mang tên của bà Phùng Thị G nhưng vì được hình thành trong thời kỳ hôn nhân nên phải
xác định đây là tài sản chung của ông Phùng Văn N và bà Phùng Thị G (Khoản 1 điều
33 Luật hôn nhân gia đình 2014) . Vì vậy, bà Phùng Thị G chỉ có quyền định đoạt 1/2
diện tích đất trong tổng diện tích 267m2 đất chung của vợ chồng bà và khi bà G chết,
phần di sản của bà Phùng Thị G chính là 1/2 diện tích đất trên (133,5m2) (Điều 612 Bộ
luật Dân sự năm 2015).
Câu 12: Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là
43,5m2 có thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì sao? Trả lời:
Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43,5m2 là
không thuyết phục vì di sản lúc này của ông N (đã trừ đi phần đất bán cho ông K) là
267m2 :2 = 133,5m2 sẽ được chia đều cho hàng thừa kế thứ nhất (căn cứ theo Điểm a
Khoản 1 Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015) là bà G và 6 người con, nên phần mà bà
G nhận được là: 133,5:7 = ~19,07m2. Vậy trên thực tế, phần di sản mà bà G để lại (trừ
đi phần diện tích bà cho chị H1) là: 133,5m2 + 19,07m2 - 90m2 = 62,57m2.
Đây không phải là nội dung của Án lệ 16 vì án lệ này chỉ có nội dung xoay quanh
việc công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là di sản thừa kế do một
trong các đồng thừa kế chuyển nhượng.
Câu 13: Việc Tòa án quyết định “còn lại là 43,5m2 được chia cho 5 kỷ phần
còn lại” có thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì sao? Trả lời:
Việc Tòa án quyết định “còn lại 43,5m2 được chia cho 5 kỷ phần còn lại” là không thuyết phục.
Vì phần đất 43,5m2 còn lại là phần di sản được chia theo pháp luật, đáng ra phải
được chia đều cho 06 người con thuộc hàng thừa kế thứ nhất, tức bao gồm cả chị Phùng
Thị H1. Việc chị Phùng Thị H1 được bà Phùng Thị G chia di sản theo di chúc không hề
ảnh hưởng đến quyền thừa kế của chị, bởi vậy Tòa án quyết định chỉ chia cho 05 người
con còn lại là không đảm bảo quyền lợi cho chị Phùng Thị H1.
Đây không phải là nội dung của Án lệ số 16/2017/AL.
Vì nội dung của Án lệ số 16 nằm ở đoạn 2 phần Nhận định của Tòa án, là về việc
công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là di sản thừa kế do một trong
các đồng thừa kế chuyển nhượng. Các đồng thừa kế khác biết và không phản đối việc
chuyển nhượng đó. Số tiền nhận chuyển nhượng đã được dùng để lo cuộc sống của các
đồng thừa kế. Bên nhận chuyển nhượng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất.3 Tức là về việc bà Phùng Thị G đã chuyển nhượng một phần quyền sử dụng đất cho ông Phùng Văn K.
Vấn đề 2: Quản lý di sản.
Tóm tắt: Bản án số 11/2020/DS-PT ngày 10/06/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh
Sơn La về tranh chấp quyền quản lý di sản thừa kế.
Nguyên đơn: Anh Phạm Tiến H.
Bị đơn: Anh Phạm Tiến N.
Nội dung vụ kiện: Bố mẹ anh H khi còn sống có một ngôi nhà (nằm trong đất đã
có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Khi bố mẹ chết đã không để lại di chúc giao
lại quyền sử dụng, quản lý nhà và diện tích nói trên cho con cái nào trong gia đình vì
vậy tài sản đó để nguyên không ai quản lý. Anh H và anh Thiện đi chấp hành án, khi anh
H trở về thì ngôi nhà đang trong tình trạng xuống cấp trầm trọng. Anh H tu sửa lại nhà
và quản lý đất theo nguyện vọng của anh chị em trong nhà (không phân chia); tuy nhiên
khi anh có ý định sửa thì anh N cản trở không cho phép và xuất trình giấy ủy quyền với
nội dung là được ủy quyền trông coi bởi anh Thiện đến khi anh Thiện chấp hành án trở
về. Anh H yêu cầu Tòa án buộc anh N và anh Thiện ngừng việc cản trở anh tu sửa ngôi
nhà và cháu N ngừng việc xâm phạm quyền trông coi ngôi nhà và quản lý diện tích đất ở trên.
Quyết định Tòa án sơ thẩm: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Phạm Tiến H.
Quyết định Tòa án phúc thẩm: Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn anh
Phạm Tiến N, sửa bản án sơ thẩm về phần quan hệ pháp luật và không chấp nhận kháng
cáo về việc nhận trông coi, quản lý di sản thừa kế đang trong diện tranh chấp trên.
Tóm tắt: Quyết định số 147/2020/DS-GĐT ngày 09/07/2020 của Tòa án nhân
dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh về việc tranh chấp lối đi
Nguyên đơn: ông Trà Văn Đạm.
Bị đơn: ông Phạm Văn Sơn Nhỏ.
Nội dung vụ kiện: Ông Đạm đại diện hộ gia đình đứng tên diện tích đất thuộc
thửa đất số 528 nằm phía trong thửa đất số 525 do ông Phạm Văn Sơn Nhỏ quản lý và
sử dụng. Ông Đạm thỏa thuận với ông Nhỏ mở một lối đi từ đất của mình đến đường
dall công cộng. Sau khi ông Đạm chi trả chi phí thực hiện xong thỏa thuận với ông Nhỏ,
sự việc phát sinh với ông nhỏ, bà Chơi và những người cùng hàng thừa kế với ông Nhỏ
làm ông Đạm khởi kiện về việc xin mở lối đi qua đất tại thửa 525 nêu trên.
Tòa án sơ thẩm quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đạm.
Tòa án phúc thẩm quyết định: Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nhỏ
và sửa Bản án sơ thẩm; vẫn chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đạm.
Tòa án nhân dân tối cao quyết định: Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm và
giao hồ sơ lại cho Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử lại.
Câu 1: Trong bản án số 11, Tòa án xác định ai là người có quyền quản lý di
sản của ông Đ và bà T; việc xác định như vậy có thuyết phục không, vì sao? Trả lời:
Trong Bản án số 11, Tòa án xác định người có quyền quản lý di sản của ông Đ và
bà T là anh H. Dẫn chứng được trích từ bản án cụ thể như sau:
... qua xác minh với các bà Liền, Nhi, Nhường, Hoài, Hài đều xác nhận, đã ủy
quyền toàn bộ cho anh Hiệu giải quyết vụ án tại Tòa án; nhất trí với việc giao di sản
thừa kế cho anh Hiệu trông coi, quản lý… ...anh được các đồng thừa kế bao gồm các
bà Liền, Nhi, Nhường, Hoài, Hài đồng ý ủy quyền cho anh, đứng ra trông coi, quản lý,
sửa chữa và tôn tạo lại đất, tài sản trên đất tại Tiểu khu C, thị trấn nông trường M,
huyện M, tỉnh Sơn La. Toàn bộ nhà và đất là di sản thừa kế do bố mẹ anh để lại. Quá
trình giải quyết vụ án, ngoài ông Thiện; những người còn lại ở hàng thừa kế thứ nhất
đều nhất trí giao cho anh Phạm Tiến H quản lý khối di sản của ông Đ, bà T. Xét thấy,
các ông bà Hiệu, Liền, Nhi, Nhường, Hoài, Hài đều có đủ năng lực hành vi dân sự;
quyết định dựa trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện; không bị lừa dối, ép buộc; không vi
phạm điều cấm của pháp luật và không trái với đạo đức xã hội. Do đó, việc Tòa án cấp
sơ thẩm giao quyền quản lý di sản cho anh Phạm Tiến H là phù hợp.
Theo em việc xác định như vậy là có thuyết phục và có căn cứ pháp luật, nguyên
nhân là vì căn cứ vào Khoản 2 Điều 616 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định, trường
hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được
người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý
di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản. Thời điểm ông
Đ và bà T chết đều không để lại di chúc đối với khối di sản thừa kế nêu trên và không
giao quyền quản lý di sản thừa kế cho ai thì các thành viên trong gia đình đã thay nhau
trông coi, quản lý khối di sản của ông bà. Qua xác minh, các thành viên đều xác nhận
đã ủy quyền toàn bộ cho anh H trông coi và quản lý di sản thừa kế nên anh H trở thành
người thừa kế di sản hợp pháp của ông Đ và bà T theo quy định của pháp luật.
Câu 2: Trong bản án số 11, ông Thiện trước khi đi chấp hành án có là người
quản lý di sản không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời Trả lời:
Trong Bản án số 11, Tòa án xác định ông Thiện trước khi đi chấp hành án có là
người quản lý di sản. Dẫn trích được trích cụ thể từ bản án như sau:
Năm 2012, sau khi bà T chết, ông Thiện là người đang trực tiếp sinh sống tại nhà
và đất, tiếp tục quản lý di sản của ông bà Đ T. Khi ông Thiện đi chấp hành án, có giao
lại cho anh Nghĩa trông coi di sản của ông bà…
Việc xác định như vậy là có thuyết phục và có căn cứ pháp luật, nguyên nhân là
vì căn cứ pháp lý vào Khoản 2 Điều 616 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định, trường
hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được
người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý
di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản. Vì vậy, năm
1994, ông Đ chết, đến năm 2012 bà T chết; cả hai ông bà đều không để lại di chúc đối
với khối di sản thừa kế nêu trên và không giao quyền quản lý di sản thừa kế cho ai. Các
thành viên trong gia đình thay nhau trông coi, quản lý khối di sản của ông Đ, bà T
Câu 3: Trong bản án số 11, việc Tòa án giao cho anh Hiếu (Tiến H) quyền
quản lý di sản có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời Trả lời:
Trong Bản án số 11, việc Tòa án giao quyền quản lý di sản của ông Đ và bà T
cho anh Phạm Tiến H là hợp lý và thuyết phục. Dẫn trích được trích từ bản án cụ thể như sau:
Quá trình giải quyết vụ án, ngoài ông Thiện; những người còn lại ở hàng thừa kế
thứ nhất đều nhất trí giao cho anh Phạm Tiến H quản lý khối di sản của ông Đ, bà T. Xét
thấy, các ông bà Hiệu, Liền, Nhi, Nhường, Hoài, Hài đều có đủ năng lực hành vi dân sự;
quyết định dựa trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện; không bị lừa dối, ép buộc; không vi
phạm điều cấm của pháp luật và không trái với đạo đức xã hội.
Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm giao quyền quản lý di sản cho anh Phạm Tiến H
là phù hợp, căn cứ pháp lý vào Khoản 2 Điều 616 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định,
trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa
cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục
quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản. Việc
Tòa án giao cho anh Hiếu (Tiến H) quyền quản lý di sản là thuyết phục và hợp lý do căn
cứ vào điều khoản quy định về người thừa kế di sản thì thời điểm ông Đ và bà T chết
đều không để lại di chúc đối với khối di sản thừa kế nêu trên và không giao quyền quản
lý di sản thừa kế cho ai và anh H trở về sau khi chấp hành bản án đã được ủy quyền quản
lý và trông coi nhà cũng như là diện tích đất của bố mẹ để lại. Điều này là hoàn toàn phù
hợp với luật định cũng như là có căn cứ đích đáng, xác thực.
Câu 4: Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tôn tạo, tu
sửa lại di sản như trong bản án số 11 không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời Trả lời:
Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tôn tạo, tu sửa lại di
sản như trong Bản án số 11. Căn cứ pháp lý vào Khoản 2 Điều 617 Bộ luật Dân sự
năm 2015 quy định về nghĩa vụ của người quản lý di sản, áp dụng cụ thể vào trường
hợp trên theo Khoản 2 như sau:
Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại Khoản 2 Điều 616
của Bộ luật này có nghĩa vụ sau đây:
a) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc
định đoạt tài sản bằng hình thức khác;
b) Thông báo về di sản cho những người thừa kế;
c) Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;
d) Giao lại di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc
theo yêu cầu của người thừa kế.
Điều khoản về nghĩa vụ của người quản lý di sản theo quy định tại Điều 617 Bộ
luật Dân sự năm 2015 đã quy định trách nhiệm của người quản lý về việc bảo quản,
tôn tạo, tu sửa di sản đang trong quyền của mình. Kể từ thời điểm mở thừa kế cho đến
khi di sản thừa kế được chia cho những người thừa kế có quyền hưởng hoặc theo di chúc
hoặc theo pháp luật là một khoảng thời gian nhất định. Vì vậy, việc quản lý di sản thừa
kế chưa chia là cần thiết, tránh mất mát, hao hụt, hư hỏng. Nhằm bảo quản di sản thừa
kế chưa chia, người quản lý di sản có thể tìm những giải pháp tốt nhất để bảo quản di
sản như mua sắm vật liệu che mưa, che nắng, bảo quản tránh hư hỏng, hao hụt, tiêu huỷ
theo thời gian trong môi trường cụ thể hoặc phải thuê kho, thuê mặt bằng để tập kết và
bảo quản di sản là những động sản, xây dựng hàng rào để bảo quản nhà cửa, bảo vệ vật
nuôi, bảo quản cây trồng và những tài sản thuộc di sản thừa kế. Vì vậy, người quản lý di
sản có quyền cũng như có nghĩa vụ tôn tạo và tu sửa lại di sản để bảo toàn nguyên vẹn
hiện trạng như ban đầu.
Câu 5: Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền giao lại
cho người khác quản lý di sản (như trong bản án số 11 là ông Thiện giao lại
cho con trai) không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. Trả lời:
Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản không có quyền giao lại cho
người khác quản lý di sản (như trong Bản án số 11 là ông Thiện giao lại cho con trai). Nguyên nhân là do:
Căn cứ pháp lý: Điểm a Khoản 2 Điều 617 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại Khoản 2 Điều 616 của
Bộ luật này có nghĩa vụ sau đây:
a) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc
định đoạt tài sản bằng hình thức khác.
Xét cụ thể trường hợp của bản án, áp dụng thêm Điều 616 Bộ luật Dân sự năm
2015 thì: “Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người
thừa kế thỏa thuận cử ra”.
Qua đó ta thấy khi Ông Đ và bà T chết đã không để lại di chúc nên việc quản lý di
sản của ông Thiện không có sự nhất trí bằng văn bản của các đồng thừa kế. Giấy ủy quyền
cho con trai là anh N của ông T không có giá trị pháp lý; không phải là cơ sở để phát sinh
quyền quản lý di sản của anh N đối với di sản của ông bà Đ và T.
Do đó, ông Thiện không có quyền giao lại cho con trai là anh N trông coi, sử dụng
di sản của ông bà Đ và T.
Thực tiễn xét xử cho thấy nếu không phải là người thừa kế chính thống theo di chúc
hay người được cử làm người thừa kế theo quy định của pháp luật mà chỉ là người được
trao quyền từ người đang quản lý hiện hữu thì khả năng cao cho thấy rằng việc ủy quyền
này là không có căn cứ pháp lý và trái với quy định của luật hiện hành. Nếu không thuộc
trường hợp là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận
cử ra thì không thể trở thành người quản lý di sản; vì vậy việc giao lại tài sản cho người
khác quản lý trong trường hợp này là vi phạm pháp luật.
Câu 6: Trong quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý không có
quyền tự thỏa thuận mở lối đi cho người khác qua di sản có thuyết phục
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. Trả lời:
Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý không có quyền tự thỏa
thuận mở lối đi cho người khác qua di sản là hợp lý và thuyết phục.
Căn cứ pháp lý: Điểm b Khoản 1 Điều 617 Bộ luật Dân sự năm 2015.
1. Người quản lý di sản quy định tại Khoản 1 và Khoản 3 Điều 616 của Bộ luật
này có nghĩa vụ sau đây: …
b) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định
đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản…
Xét cụ thể trong trường hợp của Quyết định trên, ta nhận thấy Ông Nhỏ chỉ là người
quản lý di sản của ông Ngót và phần diện tích đất thuộc quyền sử dụng của bà Chơi, không
có quyền định đoạt. Tòa án xác định ông không có quyền tự ý thỏa thuận mở lối đi khi
không được sự đồng ý của bà Chơi cùng các đồng thừa kế thứ nhất của ông Ngót qua di
sản là đúng, hợp lý và xác đáng.
Vấn đề 3: Thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế.
*Tóm tắt Án lệ số 26/2018/AL về xác định thời điểm bắt đầu tính thời hiệu
và thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế là bất động sản.
Đại diện phía nguyên đơn là bà Cấn Thị N2.
Bị đơn gồm cụ Nguyễn Thị L và ông Cấn Anh C.
Phía nguyên đơn khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung của cụ T và chia di sản
thừa kế của cụ K theo quy định của pháp luật.
Có sự tranh luận về tài sản của cụ T đã chia hay vẫn là tài sản chung chưa chia.
Tòa án cấp sơ thẩm đã sai sót, xác định tại thời điểm các đương sự khởi kiện (tháng 11-
2010) là đã hết thời hiệu để chia thừa kế của cụ T, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm xác định
di sản của cụ T để lại là tài sản chung chưa chia và tuyên chia cho 08 người con của cụ
T là không đúng theo quy định.
Tòa án cấp phúc thẩm xác định thời hiệu khởi kiện về thừa kế của cụ T đã hết và
không chấp nhận yêu cầu của các nguyên đơn về việc chia tài sản chung đối với phần di
sản của cụ T là đúng. Do đó Tòa án quyết định chấp nhận Kháng nghị số 73/2016/KN-
DS với Bản án dân sự phúc thẩm số 106/2013/DS-PT, đồng thời hủy toàn bộ Bản án dân
sự phúc thẩm nêu trên và hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 30/2012/DS-ST.
Câu 1: Có hệ thống pháp luật nước ngoài nào áp dụng thời hiệu yêu cầu chia di sản không? Trả lời:
Một số quốc gia áp dụng hệ thống pháp luật có thời hiệu yêu cầu chia di sản. Tuy
nhiên, cụ thể về cách thức và thời gian áp dụng có thể khác nhau tùy theo quốc gia và
luật pháp cụ thể của từng nơi. Dưới đây là một số ví dụ:
+ Hoắc Viên (Hong Kong): Luật di sản gia đình ở Hoắc Viên cho phép người có
quyền thừa kế yêu cầu phân chia tài sản của người chết. Thời hiệu yêu cầu phải được
thực hiện trong 6 tháng kể từ ngày quyết định của tòa án về việc cấp phép thừa kế.
+ Anh: Tại Anh, Đạo luật Di sản gia đình năm 1975 quy định về thời hiệu yêu
cầu chia di sản. Theo đó, người có quyền thừa kế phải yêu cầu chia tài sản trong vòng 6
tháng kể từ ngày bắt đầu quyền thừa kế.
+ Canada: Ở một số tỉnh ở Canada như Ontario, Luật Di sản gia đình quy định về
thời hiệu yêu cầu chia di sản. Thời hiệu này có thể thay đổi tùy theo quy định của từng tỉnh.
+ Úc: Ở Úc, các bang và lãnh thổ có các quy định riêng về di sản gia đình. Thời
hiệu yêu cầu chia di sản có thể khác nhau tùy theo luật pháp của từng bang.
Lưu ý rằng các quy định cụ thể và thời hiệu yêu cầu chia di sản có thể thay đổi
theo thời gian và theo sự điều chỉnh của pháp luật trong từng quốc gia. Đề nghị tìm kiếm
thông tin cụ thể và tư vấn pháp lý từ chuyên gia trong quốc gia hoặc khu vực bạn quan tâm.
Câu 2: Cho biết các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở Việt Nam. Trả lời:
Có 3 loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở Việt Nam:
a. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản:
Điều 645 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Thời hiệu khởi kiện để người
thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa
kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.
Khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Thời hiệu để người thừa
kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ
thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý
di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau: a)
Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy
địnhtại Điều 236 của Bộ luật này; b)
Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy
địnhtại điểm a khoản này.
b. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc
bác bỏ quyền thừa kế của người khác:
Điều 645 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Thời hiệu khởi kiện để người
thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa
kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.
Khoản 2 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Thời hiệu để người
thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người
khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.
c. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại:
Điều 645 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu
người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.
Khoản 3 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Thời hiệu yêu cầu
người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.
Câu 3: Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm nào? Đoạn nào
của Quyết định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời? Trả lời:
Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm 1972. Năm ở phần “nội dung vụ án” cụ thể:
“Cụ T chết năm 1972, thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế đã hết. Có đồng thừa
kế không thống nhất xác định di sản của cụ T để lại là tài sản chung chưa chia, nên không
chấp nhận yêu cầu của các nguyên đơn về việc chia di sản của cụ T để lại như chia tài
sản chung cho 8 người con của cụ T. Do đã hết thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế,
nên những người đồng thừa kế đang quản lý di sản là cụ Nguyễn Thị L và ông Cấn Anh
C được tiếp tục quản lý sử dụng và sở hữu.”
Câu 4: Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của Bộ luật Dân
sự năm 2015 cho di sản của cụ T có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao? Trả lời:
Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của Bộ luật Dân sự năm
2015 cho di sản của cụ T là có cơ sở văn bản pháp luật và thuyết phục. Bởi vì vụ án tranh
chấp di sản thừa kế trên là trước ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực (1/1/2017)
nên theo quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015, đối với
giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật Dân sự này có hiệu lực, thì “Thời hiệu
được áp dụng theo quy định của Bộ luật này”. Đồng thời theo quy định tại Khoản 1
Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 (có hiệu lực từ ngày 01-012017):
“Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản,
10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc
về người thừa kế đang quản lý di sản đó…”.
Như vậy, đối với vụ việc tranh chấp trên, thời hiệu áp dụng theo Bộ luật Dân sự
năm 2015 là vẫn còn nên người khởi kiện có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án.
Câu 5: Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của Bộ luật Dân
sự năm 2015 cho di sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp
lệnh thừa kế năm 1990 được công bố có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao? Trả lời:
Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm cho di sản của cụ T là có cơ sở văn bản pháp luật:
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 (có hiệu lực từ ngày 01-01-2017):
“Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản,
10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc
về người thừa kế đang quản lý di sản đó…”.
Đồng thời căn cứ vào quy định tại Điều 36 Pháp lệnh thừa kế (30/8/1990) về
thời hiệu khởi kiện về thừa kế:
1. Trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế, người thừa kế có quyền
khởi kiện để yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền
thừa kế của người khác.
2.Trong thời hạn ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế, cá nhân, cơ quan, tổ chức
có quyền khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết
để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản. 3.
Trong trường hợp do trở ngại khách quan mà không thể thực hiện
đượcquyền khởi kiện trong thời hạn quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều này thì thời
gian bị trở ngại khách quan không tính vào thời hiệu khởi kiện. 4.
Đối với các việc thừa kế đã mở trước ngày ban hành Pháp lệnh này thì
thờihạn quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều này được tính từ ngày công bố Pháp lệnh này.
Điều này là thuyết phục vì theo quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 688 Bộ luật
Dân sự năm 2015, đối với giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật Dân sự
này có hiệu lực, thì thời hiệu được áp dụng theo quy định của Bộ luật này. Mặt khác khi
áp dụng thời hiệu 30 năm cho di sản của cụ Thi thì thời hiệu khởi kiện vẫn còn hiệu lực
vì cụ Thi mất vào năm 1972 nhưng các con của cụ Thi khởi kiện vào năm 2010. Như
vậy kể từ ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, Tòa án áp dụng quy định
Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 để xác định thời hiệu đối với trường hợp mở thừa
kế trước kế 01/01/2017. Đồng thời:
+ Đối với các giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật Dân sự có hiệu
lực mà các văn bản pháp luật trước đây có quy định về thời hiệu hưởng quyền dân sự,
thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự và thời hiệu khởi kiện, thì áp dụng các quy định về
thời hiệu của các văn bản pháp luật đó.
Nên căn cứ vào Điều 36 Pháp lệnh thừa kế ngày 30/8/1990 và Bộ luật Dân sự
năm 2015, trong trường hợp này thời hiệu khởi kiện chia di sản của cụ T cho các đồng
thừa kế vẫn còn theo quy định của pháp luật.
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về Án lệ số 26/2018/AL nêu trên. Trả lời:
Theo nhóm em thấy Tòa án phúc thẩm chưa làm rõ được số liệu về phần tài sản
được hưởng của những người có quyền hưởng số tài sản của ông K. Tài sản mà cụ K
được hưởng từ tài sản chung của ông với cụ T là 768.165.986 đồng, tài sản chung của
cụ K và cụ L là 21.338.977 đồng. Khi cụ K chết, cụ K không để lại di chúc nên tài sản
được chia theo quy định của pháp luật. Do cụ K có 2 đời vợ, nên tổng cộng có 12 người
con ruột, và 1 vợ (cụ T đã chết trước khi cụ K lấy cụ L). Di sản mà cụ K được hưởng từ
tài sản chung với cụ T được xem là tài sản riêng do thừa kế riêng với vợ cũ. Do đó tài
sản khi cụ K chết bao gồm 768.165.986 đồng (tài sản chung với cụ T) và 10.669.489
đồng (tài sản chung với cụ L). Theo Điểm a Khoản 1 Điều 676 Bộ luật Dân sự năm
2005 quy định: “Hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi,
mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết” và Khoản 2 Điều 676 Bộ luật Dân sự năm
2005 quy định: “Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau”.
Khi chia tài sản cho hàng thừa kế thứ nhất của cụ K gồm 13 người: 1 vợ và 12 người
con (ông S đã chết do đó vợ và hai đứa con của ông S sẽ hưởng). Vậy tài sản của cụ K
tổng là 778.835.475 đồng, vậy chi mỗi người được hưởng 59.910.421 đồng chứ không phải 30.365.575 đồng.
Vấn đề 4: Tìm kiếm tài liệu.
Yêu cầu 1: Liệt kê những bài viết liên quan đến pháp luật về tài sản và pháp luật
về thừa kế được công bố trên các Tạp chí chuyên ngành Luật từ đầu năm 2018
đến nay. Khi liệt kê, yêu cầu viết theo trật tự theo tên tác giả và việc liệt kê phải
thỏa mãn những thông tin theo trật tự sau: 1) Họ và tên tác giả, 2) Tên bài viết để
trong dấu ngoặc kép, 3) Tên Tạp chí in nghiêng 4) Số và năm của Tạp chí, 5) Số
trang của bài viết (ví dụ: từ tr.41 đến 51). Các bài viết được liệt kê theo alphabet
tên các tác giả (không nêu chức danh). Trả lời: -
Chu Thị Thanh An, ' Quyền thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý thu hồi nợ của tổ
chứctín dụng", Tạp chí Nhà nước và Pháp Luật, Số 11 năm 2019, tr.25 đến 30. -
Dương Anh Sơn, ' Bảo lưu quyền sở hữu và hiệu lực đối kháng với người thứ
ba",Tạp chí Nhà nước và Pháp Luật, Số 2 năm 2018, tr.19 đến 25. -
Lê Thị Bích Thủy, ' Pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền sở
hữutrí tuệ đối với thuốc y học cổ truyền", Tạp chí Nhà nước và Pháp Luật, Số 11 năm 2019, tr.31 đến 44. -
Liên Đăng Phước Hải - Trần Khánh Vân, ' Chế định thuộc loại tài sản - So sánh
phápluật Việt Nam và một số quốc gia khác", Tạp chí Nhà nước và Pháp Luật, Số 7 năm 2021, tr. 22 đến 33. -
Nguyễn Thị Lâm Nghi, ' Quyền công bố tác phẩm trong pháp luật quyền tác giả
ViệtNam: Quyền nhân thân hay quyền tài sản?", Tạp chí Nhà nước và Pháp Luật, Số 10 năm 2021, tr. 29 đến 43. -
Nguyễn Thị Lâm Nghi, ' Quyền của tác giả bảo vệ sự toàn vẹn tác phẩm theo
phápluật Việt Nam", Tạp chí Nhà nước và Pháp Luật, Số 10 năm 2019, tr.3 đến 17. -
Nguyễn Văn Tiến - Tạ Văn Nhất, ' Tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp
đất đaiở khu vực Tây Nguyên", Tạp chí Nhà nước và Pháp Luật, Số 12 năm 2020, tr. 77 đến 84. -
Phạm Thị Minh Trang, ' Chế định bồi thường thiệt hại về tài sản gắn liền với đất
khiNhà nước thu hồi đất", Tạp chí Nhà nước và Pháp Luật, Số 11 năm 2021, tr. 59 đến 69. -
Phan Hoài Nam, ' Thẩm quyền của tòa án Việt Nam đối với các vụ việc dân sự
có yếutố nước ngoài khi bị đơn có tài sản trên lãnh thổ Việt Nam", Tạp chí Nhà nước và
Pháp Luật, Số 12 năm 2019, tr.47 đến 54. -
Phan Thành Nhân, ' Người thừa kế theo pháp luật trong BLDS năm 2015", Tạp
chíNhà nước và Pháp Luật, Số 12 năm 2019, tr. 39 đến 46. -
Phan Thị Hồng, ' Đăng ký đất đai và giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất
tạiViệt Nam", Tạp chí Nhà nước và Pháp Luật, Số 2 năm 2023, tr. 62 đến 70. -
Phan Thị Hương Giang, ''Bàn về chế định người Việt Nam định cư ở nước ngoài
sửdụng đất tại Việt Nam", Tạp chí Nhà nước và Pháp Luật, Số 12 năm 2021, tr. 43 đến 50. -
Phan Trung Hiền - Châu Hoàng Thân, ' Bất cập trong quy hoạch đất đai ảnh
hưởngđến quyền của người sử dụng đất", Tạp chí Nhà nước và Pháp Luật, Số 2 năm 2022, tr. 43 đến 52. -
Trần Văn Biên - Nguyễn Minh Oanh, ' Tiền ảo và một số vấn đề pháp lý đặt ra ở
ViệtNam hiện nay", Tạp chí Nhà nước và Pháp Luật, Số 4 năm 2020, tr. 30 đến 40. -
Tràn Vang Phù, ' Hoàn thiện chế định về thời hạn sở hữu nhà ở của cá nhân
nướcngoài tại Việt Nam", Tạp chí Nhà nước và Pháp Luật, Số 9 năm 2019, tr.28 đến 35. -
Trịnh Thục Hiền, ' Bàn về chế định bảo lưu quyền sở hữu", Tạp chí Nhà nước
vàPháp Luật, Số 8 năm 2019, tr.19 đến 29. -
Vũ Thị Hải Yến, ' Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm được tạo ra bởi trí tuệ
nhântạo", Tạp chí Nhà nước và Pháp Luật, Số 3 năm 2020, tr. 45 đến 54. -
Vũ Thị Hải Yến, ' Một số vướng mắc, bất cập trong áp dụng quy định của pháp
luậtliên quan đến các hợp đồng có đối tượng là quyền sở hữu trí tuệ", Tạp chí Nhà nước
và Pháp Luật, Số 2 năm 2022, tr. 17 đến 31. -
Vũ Thị Hồng Yến, ' Bình luận quy định của BLDS năm 2015 về hợp đồng tặng
chotài sản", Tạp chí Nhà nước và Pháp Luật, Số 9 năm 2018, tr.36 đến 43.
Yêu cầu 2: Cho biết làm thế nào để tìm được những bài viết trên. Trả lời:
Để tìm được những bài viết trên nhóm em đã tra cứu tài liệu ở những tạp chí Luật uy tín
được Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh đề cử ở trên diễn đàn chính thức của trường.
Và để tìm được nhiều nhất có thể, nhóm em đã tra cứu nội dung bài viết ở phần mục lục tạp chí.