Bài tập môn Luật dân sự - Quy định về di chúc
Bài tập môn Luật dân sự - Quy định về di chúc
Môn: Luật dân sự (LDS1)
Trường: Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA THƯƠNG MẠI
MÔN HỌC: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ LUẬT
DÂN SỰ, TÀI SẢN VÀ THỪA KẾ
BÀI TẬP TUẦN THỨ SÁU
QUY ĐỊNH VỀ DI CHÚC
Giảng viên phụ trách: Th.S. Lê Hà Huy Phát. Lớp: 126 – TM46A2.
DANH SÁCH SINH VIÊN THỰC HIỆN (NHÓM 6) Huỳnh Thị Trúc Kim 2153801011084 Đoàn Châu Lân 2153801011094 Nguyễn Thị Kiều Linh 2153801011103 Trần Thị Mỹ Linh 2153801011105 Nguyễn Đỗ Anh Minh 2153801011112 Nguyễn Ngọc Phú Minh 2153801011114
Đặng Quỳnh Ngân (Nhóm trưởng) 2153801011128
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 4 năm 2022. Thành viên
Mã số sinh viên
Phân công công việc Đánh giá Huỳnh Thị Trúc Kim 2153801011084 Thực hiện mục 3 Tốt Đoàn Châu Lân 2153801011094 Thực hiện mục 1 Tốt Nguyễn Thị Kiều Linh 2153801011103 Thực hiện mục 1 Tốt Trần Thị Mỹ Linh 2153801011105 Thực hiện mục 2 Tốt Nguyễn Đỗ Anh Minh 2153801011112 Thực hiện mục 1 Tốt Nguyễn Ngọc Phú Minh 2153801011114 Thực hiện mục 3 Tốt - Phân công, điều phối công việc. Đặng Quỳnh Ngân - Tổng kết, đánh giá 2153801011128 Tốt (Nhóm trưởng) công việc. - Thực hiện mục 2 và 4.
BẢNG ĐÁNH GIÁ CÔNG VIỆC MỤC LỤC
1. HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC .................................................................................. 3
*Tóm tắt Bản án số 83/2009/DSPT ngày 28/12/2009 của Toà án nhân
dân tỉnh Phú Yên ............................................................................................................ 3
*Tóm tắt Quyết định số 874/2011/DS-GĐT ngày 22/11/2011 của Toà
dân sự Toà án nhân dân tối cao ................................................................................ 3
1.1. Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời ..................................................................................................... 4
1.2. Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì
những người đã làm chứng di chúc của ông Này có là người làm chứng
hợp pháp không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời .................................................. 4
1.3. Di chúc của ông Này có là di chúc do ông Này tự viết tay không? Vì
sao? .................................................................................................................................... 5
1.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan
đến hình thức di chúc của ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết
tay ............................................................................................ 5
1.5. Di chúc của cụ Hựu đã được lập như thế nào? .......................................... 6
1.6. Cụ Hựu có biết chữ không? Đoạn nào của Quyết định số 874 cho
câu trả lời? ....................................................................................................................... 6
1.7. Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào
để có hình thức phù hợp với quy định của pháp luật? ..................................... 6
1.8. Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của
ông Hựu? .......................................................................................................................... 6
1.9. Các điều kiện nào nêu trên đã không được đáp ứng đối với di chúc
của ông Hựu? .................................................................................................................. 7
1.10. Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình
thức không? Vì sao? ...................................................................................................... 7 1
1.11. Suy nghĩ của anh/chị về các quy định trong Bộ luật Dân sự liên
quan đến hình thức di chúc của người không biết chữ .................................... 7
2. TÀI SẢN ĐƯỢC ĐỊNH ĐOẠT THEO DI CHÚC ............................................. 8
*Tóm tắt Quyết định số 359/2013/DS-GĐT ngày 28/8/2013 của Tòa dân
sự Tòa án nhân dân tối cao ........................................................................................ 8
*Tóm tắt Quyết định số 58/2018/DS-GĐT ngày 27-9-2018 của Tòa án
nhân dân cấp cao tại Hà Nội ...................................................................................... 8
2.1. Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết định số
359 cho câu trả lời? ...................................................................................................... 9
2.2. Đoạn nào của Quyết định số 359 cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt
trong di chúc là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương? ................................ 9
2.3. Tòa án đã công nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của Quyết
định số 359 cho câu trả lời? .................................................................................... 10
2.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc
thẩm ................................................................................................................................ 10
2.5. Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị
pháp lý? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời ................................................................. 11
2.6. Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ
Hương vào đầu ............................................................................................................ 13
2.7. Quyết định số 58, đoạn nào cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C
và cụ D đã bị thu hồi trước khi hai cụ chết? ..................................................... 13
2.8. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác
định di sản của ............................................................................................................ 13
2.9. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo
hướng cụ C và cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng
đất bị Nhà nước thu hồi? Suy nghĩ của anh/chị về hướng vừa nêu của
Tòa giám đốc thẩm ..................................................................................................... 15
3. DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ CHỒNG ............................................................... 16 2
*Tóm tắt Bản án số 14/2017/DSST ngày 28/9/2017 của Tòa án nhân dân
huyện C tỉnh Phú Thọ ................................................................................................ 16
3.1. Đoạn nào của bản án số 14/2017/DSST cho thấy di chúc có tranh
chấp là di chúc chung của vợ chồng? ................................................................... 16
3.2. Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp
dụng BLDS 2015 không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời ................ 16
3.3. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của tòa án về di chúc
chung của vợ chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015 .............................. 17
4. DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG ......................................................... 18
*Tóm tắt Bản án số 211/2009/DSST ngày 16/9/2009 của Tòa án nhân
dân Huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai .............................................................. 18
4.1. Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời ................................................................................... 18
4.2. Đoạn nào của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc
dùng vào việc thờ cúng? .......................................................................................... 19
4.3. Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp có
được thỏa mãn trong vụ việc đang nghiên cứu không? ............................... 19
4.4. Ai đồng ý và ai không đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng
trong vụ tranh chấp này? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời? ............. 19
4.5. Cuối cùng Tòa án có chấp nhận di sản đã được di chúc dùng vào việc
thờ cúng không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời? .............................. 20
4.6. Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng
trong BLDS và giải pháp của Tòa án trong vụ việc đang được nghiên
cứu ......................................................................................... 21
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................. 25 3
BUỔI THẢO LUẬN THỨ SÁU QUY ĐỊNH
VỀ DI CHÚC
1. HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC.
*Tóm tắt Bản án số 83/2009/DSPT ngày 28/12/2009 của Toà án
nhân dân tỉnh Phú Yên.
- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Thành Hiếu (con riêng của ông Nguyễn Này).
- Bị đơn: Bà Đặng Thị Trọng (vợ hợp pháp của ông Nguyễn Này).
- Nguyên nhân khởi kiện: Tranh chấp di sản thừa kế của ông Nguyễn Này.
Ông Nguyễn Này trước khi mất đã để lại toàn bộ nhà đất thuộc quyền sở
hữu của ông và bà Trọng cho anh Hiếu là không hợp pháp. Sau đó
nguyên đơn đã khởi kiện vì bị đơn đuổi phía nguyên đơn ra khỏi nhà khi có tranh chấp.
- Toà sơ thẩm: Chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Thành Hiếu về việc
tranh chấp di sản thừa kế. Giao bà Trọng sở hữu toàn bộ nhà đất và tranh
toán lại cho anh Hiếu ½ giá trị.
=> Quyết định của toà phúc thẩm: Bác kháng cáo của ông Hiếu và giữ
nguyên như quyết định của bản án sơ thẩm. 4
*Tóm tắt Quyết định số 874/2011/DS-GĐT ngày 22/11/2011 của
Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao.
- Nguyên đơn: Ông Đỗ Văn Quang .
- Bị đơn: Bà Hoàng Thị Ngâm .
- Nguyên nhân khởi kiện: Tranh chấp về thừa kế tài sản
- Nội dung: Đất tranh chấp tại xã Lê Xá là của tổ tiên để lại cho cụ Hằng
và cụ Hựu. Năm 2005 cụ Hựu chết, bà Ngâm đứng tên cụ Hựu kê khai,
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ông Vũ cho rằng đất tranh
chấp là của dòng họ Đỗ, nhưng không có giấy tờ chứng minh. Tòa án các
cấp xác định đất có tranh chấp trên là của dòng họ Đỗ là không đúng, và
xác định di chúc của cụ Hựu hợp pháp là chưa đủ căn cứ. Tòa tối cao hủy hai
bản án sơ thẩm và phúc thẩm, giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân Huyện Đông Anh xét xử lại.
1.1. Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp
lý? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Cơ sở pháp lý: khoản 1 Điều 630, Điều 632, Điều 634 Bộ luật Dân sự
2015; khoản 1 Điều 652, Điều 654, Điều 656 Bộ luật Dân sự 2005.
- Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý đó
chính là người lập di chúc phải minh mẫn, sáng suốt; không bị lửa dối, đe
doạ, cưỡng ép trong khi lập di chúc. Nội dung và hình thức của di chúc
không được trái quy định của pháp luật và vi phạm đạo đức xã hội. Ngoài ra
di chúc viết tay phải có ít nhất hai người làm chứng (những người này
không được là người thừa kế, người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan
đến nội dung di chúc và người chưa thành niên, mất hoặc có khó khăn
trong năng lực hành vi dân sự) điểm chỉ và ký tên làm chứng. Người lập
di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người
làm chứng là bản di chúc tự viết tay sẽ là hợp pháp1.
1 Đỗ Văn Đại, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của Đại học Luật TP.
HCM, Nxb. Hồng Đức 2018, Chương II. 5
1.2. Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng
thì những người đã làm chứng di chúc của ông Này có là người
làm chứng hợp pháp không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Cơ sở pháp lý: Điều 632 Bộ luật Dân sự 2015; Điều 654 Bộ luật Dân sự 2005
- Di chúc của ông Này là di chúc có cha, em gái, em trai của ông
Này là người làm chứng và những người này đều là người làm chứng hợp
pháp. Vì theo quy định của pháp luật, mọi người đều có thể làm chứng
cho việc lập di chúc trừ những người sau đây:
“1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;
3. Người chưa đủ mười tám tuổi, người không có năng lfic hành vi dân sfi.”
Mà người thừa kế theo di chúc của ông Này là ông Hiếu và bà Trọng là
người thừa kế theo pháp luật. Cha, em gái, em trai của ông Này cũng
không thuộc nhóm những người quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 654
Bộ luật Dân sự 2005 nên những người này đều là người làm chứng hợp pháp.
1.3. Di chúc của ông Này có là di chúc do ông Này tự viết tay
không? Vì sao?
Di chúc của ông Này là di chúc do ông Này tự viết tay. Phần “Xét
thấy”của Bản án thể hiện điều nay. Sau khai nghiên cứu các tài liệu có
trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh
luận của các bên đương sự, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã nhận định như sau:
“Trước khi qua đời, vào ngày 19/12/2007 ông Nguyễn Này lập giấy
giao quyền thừa kế toàn bộ nhà đất thuộc quyền sở hữu chung của ông
và bà Trọng cho Nguyễn Thành Hiếu là con riêng của ông Này, được cha,
em gái, em trai ông Này điểm chỉ và ký tên làm chứng. Xét thấy, giấy
thừa kế do ông Nguyễn Này viết không được chính quyền địa phương 6
công chứng, chứng thfic nhưng được lập trong lúc ông Này còn minh
mẫn, sáng suốt không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép và có nhiều
người làm chứng nên được coi là di chúc hợp pháp”2
1.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án
liên quan đến hình thức di chúc của ông Này khi đây là di chúc do
ông Này tự viết tay.
Hướng giải quyết của Toà án liên quan đến hình thức di chúc của
ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay là công nhận tính pháp
lý của bản di chúc này. Nhóm thảo luận đồng quan điểm với hướng giải
quyết trên của Toà án vì:
- Di chúc được ông Này viết trong lúc còn minh mẫn, sáng suốt
không bị lừa dối đe doạ hay cưỡng ép. Nội dung của di chúc cũng không trái
pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp
luật nên bản di chúc này được coi là hợp pháp theo quy định tại khoản 1
Điều 652 Bộ luật Dân sự 2005.
- Tuy bản di chúc này không có công chứng, chứng thực của chính
quyền địa phương nhưng có người là chứng cho việc lập di chúc là cha,
em gái, em trai của ông Này. Những người này đều là người làm chứng
hợp pháp theo Điều 654 Bộ luật Dân sự 2005. Nên bản di chúc viết tay có
người làm chứng của ông Này là hợp pháp theo quy định tại Điều 656 Bộ luật Dân sự 2005.
1.5. Di chúc của cụ Hựu đã được lập như thế nào?
Căn cứ vào phần “Xét thấy” của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm Toà
dân sự Toà án nhân dân tối cao thì di chúc đề ngày 25/11/1998 của cụ
Hựu do bà Ngâm xuất trình. Bà Ngâm, bà Đỗ Thị Lựu và ông Đỗ Văn Vũ
(đại diện dòng họ Đỗ) khai di chúc do cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết, cụ Hựu
điểm chỉ, ông Vũ và cụ Đỗ Thị Quý (mẹ ông Vũ) ký tên làm chứng. Sau đó
ngày 04/01/1999 bà Lựu mang di chúc đến cho ông Hoàng Văn Thưởng
(là trưởng thôn) và Uỷ ban nhân dân xã Mai Lâm xác nhận.3
2 Bản án số 83/2009/DSPT ngày 28/12/2009 của Toà án nhân dân tỉnh Phú Yên, tr.6.
3 Quyết định số 874/2011/DS-GĐT ngày 22/11/2011 của Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao, tr.6. 7
1.6. Cụ Hựu có biết chữ không? Đoạn nào của Quyết định số 874
cho câu trả lời?
Cụ Hựu không biết chữ, đoạn “Xét thấy” của Quyết định số 874 cho
câu trả lời: “Bà Ngâm, bà Đỗ Thị Lfiu và ông Đỗ Văn Vũ (đại diện dòng họ
Đỗ) khai di chúc do cụ Hfiu đọc cho ông Vũ viết, cụ Hfiu điểm chỉ, ông Vũ
và cụ Đỗ Thị Quý (mẹ ông Vũ) ký tên làm chứng” và “Ông Quang xác
định cụ Hfiu là người không biết chữ”.4
1.7. Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều
kiện nào để có hình thức phù hợp với quy định của pháp luật?
Di chúc của người không biết chữ phải thoả mãn các điều kiện sau
để có hình thức phù hợp với quy định của pháp luật:
- Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết
chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực5.
- Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể
hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và
ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm
chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý
chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực6.
1.8. Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của ông Hựu?
Các điều kiện đã đáp ứng được đối với di chúc của ông Hựu là:
- Di chúc được người làm chứng (là ông Vũ) lập thành văn bản.
- Di chúc có đủ 02 người làm chứng là ông Vũ và cụ Quý.
- Di chúc có xác nhận của ông Thường (là Trưởng thôn) và xác nhận
của Uỷ ban nhân dân xã Mai Lâm7.
4 Quyết định số 874/2011/DS-GĐT ngày 22/11/2011 của Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao, tr.6.
5 Khoản 3 Điều 652 Bộ luật Dân sự 2005.
6 Khoản 5 Điều 652 Bộ luật Dân sự 2005.
7 Quyết định số 874/2011/DS-GĐT ngày 22/11/2011 của Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao, tr.6. 8
1.9. Các điều kiện nào nêu trên đã không được đáp ứng đối với di
chúc của ông Hựu?
- Ông Thưởng (là Trưởng thôn) không chứng kiến cụ Hựu lập di chúc
- Uỷ ban nhân dân xã Mai Lâm xác nhận di chúc do bà Lựu mang
đến xác nhận sau hơn 1 tháng lập di chúc (trong khi quy định của pháp luật là 5 ngày)
- Uỷ ban nhân dân xã Mai Lâm chỉ xác nhận chữ ký của ông Thưởng
chứ không xác nhận nội dung di chúc của cụ Hựu.
- Không có đủ yếu tố giám định dấu vân tay của cụ Hựu để lại tại
bản di chúc nên không có căn cứ các định di chúc có thể hiện ý chí cuối cùng của cụ Hựu.8
1.10. Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về
hình thức không? Vì sao?
Theo quan điểm của nhóm thảo luận, di chúc nêu trên không đủ
điều kiện để thoả mãn vì hình thức. Căn cứ vào khoản 5 Điều 652 Bộ luật
Dân sự 2005 thì di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc
miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm
chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên
hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng
thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực.
Nhưng qua điều tra và giám định thì lại không có căn cứ xác minh di
chúc này có phải là ý chí cuối cùng của cụ Hựu hay không. Ngoài ra, bà Lựu
cũng không đảm bảo được yếu tố sau khi lập di chúc phải đi công chứng
hoặc chứng thực trong thời hạn năm ngày (bà Lựu mang di chúc đi xác
nhận sau hơn một tháng cụ Hựu lập di chúc).
1.11. Suy nghĩ của anh/chị về các quy định trong Bộ luật Dân sự
liên quan đến hình thức di chúc của người không biết chữ.
Theo quan điểm của nhóm thảo luận, quy định liên quan đến hình
thức di chúc của người không biết chữ trong Bộ luật Dân sự là hợp lý,
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khi yêu cầu “Di chúc
8 Quyết định số 874/2011/DS-GĐT ngày 22/11/2011 của Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao, tr.7. 9
của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải
được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng
thực” cả trong khoản 3 Điều 652 Bộ luật Dân sự 2005 lẫn tại khoản 3
Điều 620 Bộ luật Dân sự 2015. Bộ Luật Dân sự đã quy định rõ với trường
hợp di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ
được người làm chứng lập thành văn bản thì bắt buộc phải có công chứng,
chứng thực. Thủ tục này phát sinh nhằm để phân biệt trường hợp người lập
di chúc không tự mình viết ở đây là những người bị hạn chế về thể chất hay
không biết chữ để biết được người lập di chúc hộ có lập đúng các nội
dung theo ý chí của mình hay không. Những quy định nghiêm ngặt về
hình thức như thế này xuất phát từ cơ sở pháp lý và cơ sở kỹ thuật của
nó. Nhằm bảo vệ tối đa ý chí đích thực của người đẻ lại di sản và cũng đề
phòng việc người khác lợi dụng những khiếm khuyết của người để lại di
sản để giả mạo di chúc, lừa dối, đe dọa, cưỡng ép, ….
2. TÀI SẢN ĐƯỢC ĐỊNH ĐOẠT THEO DI CHÚC.
*Tóm tắt Quyết định số 359/2013/DS-GĐT ngày 28/8/2013 của
Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
- Nguyên đơn: Cụ Lê Thanh Quý.
- Bị đơn: Nguyễn Hữu Dũng và Nguyễn Hữu Lộc
- Vụ việc: Tranh chấp thừa kế
Nguyên đơn khởi kiện về việc chia di sản thừa kế của cụ Nguyễn
Văn Hương (chồng cụ Quý, đã mất).
- Quyết định của Tòa án: Tòa án sơ thẩm chấp nhận đơn yêu cầu chia tài
sản chung và chia thừa kế của cụ Lê Thanh Quý. Tuy nhiên, ông Nguyễn
Hữu Lộc đã kháng cáo vì Tòa sơ thẩm buộc ông phải giao nhà cho cụ Quý
trong khi bản án không yêu cầu ông giao nhà cho ai.
*Tóm tắt Quyết định số 58/2018/DS-GĐT ngày 27-9-2018 của Tòa
án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.
- Nguyên đơn: Ông Trần Văn Y
- Bị đơn: Phòng công chứng M
- Vụ việc: Tranh chấp yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu 10
Nguyên đơn khởi kiện về việc Phòng công chứng M (Bị đơn) đã công
chứng cho di chúc của cụ D và cụ C đối với mảnh đất tranh chấp.
- Quyết định của Tòa án: Tòa án sơ thẩm đã tuyên bố Văn bản Công
chứng di chúc và Văn bản Công chứng Văn bản công bố của Phòng Công
chứng M vô hiệu. Ông Nguyễn Văn D1 (con cụ D và cụ C) kháng cáo. Tại
bản án dân sự phúc thẩm, Tòa án phúc thẩm quyết định giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.
2.1. Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết
định số 359 cho câu trả lời?
Cụ Hương đã định đoạt tài sản là Căn nhà số 302 Nguyễn Thượng
Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận (Số cũ 25D/19 Nguyễn Văn Đậu) có diện tích 680,6m2.
Đoạn của Quyết định 359 thể hiện điều đó:
“... nhà đất tại địa chỉ 25D/19 Nguyễn Văn Đậu (nay là 302 Nguyễn
Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận) được Ủy ban nhân dân quận
Phú Nhuận cấp giấy chứng nhận cho cụ Nguyễn Văn Hương vào năm 1994.
Ngày 16/01/2009, cụ Hương di chúc toàn bộ nhà đất cho các con là Nguyễn
Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng,
Quảng Thị Kiều (Vọ ông Nguyễn Hữu Trí). Bản di chúc này về hình thức có
công chứng của Phòng Công chứng số 4, thành phố Hồ Chí Minh. Tại thời
điểm lập di chúc, cụ Hương có giấy chứng nhận sức khỏe của Bệnh viện
Phú Nhuận xác nhận cụ Hương minh mẫn...”9
2.2. Đoạn nào của Quyết định số 359 cho thấy tài sản cụ Hương
định đoạt trong di chúc là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương?
Trích đoạn của Quyết định cho thấy tài sản của cụ Hương là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương:
“[...] Về tài sản chung:
Công nhận căn nhà số 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận (số cũ
25D/19 Nguyễn Văn Đậu) có diện tích 680,6m2, trị giá tiền xây dựng 433.587.700 đồng là
tài sản chung của cụ Hương và cụ Quý.[...]10”
9 Quyết định số 359/2013/DS-GĐT ngày 28/8/2013 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, trang 6
10 Quyết định số 359/2013/DS-GĐT ngày 28/8/2013 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, trang 6. 11
“[...] Bản di chúc này về hình thức có công chứng của Phòng công chứng số 4,
thành phố Hồ Chí Minh. Tại thời điểm lập di chúc, cụ Hương có giấy chứng nhận sức khỏe
của Bệnh viện Phú Nhuận xác nhận cụ Hương minh mẫn. Do đó, theo quy định tại Khoản 1
Điều 652 Bộ luật dân sự năm 2005 thì di chúc trên là hợp pháp. Tuy nhiên, về nội dung thì
di chúc chỉ có giá trị một phần bởi nhà đất trên là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương và
cụ Quý. [...]11”
2.3. Tòa án đã công nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của
Quyết định số 359 cho câu trả lời?
Tòa án đã công nhận phần di chúc định đoạt ½ nhà đất thuộc sở
hữu của cụ Hương trong phần tài sản chung của vợ chồng cụ Hương và cụ Quý.
Đoạn trong Quyết định 359 thể hiện điều đó
“... Tòa án cấp sơ thẩm xét di chúc của cụ Nguyễn Văn Hương có hiệu
lfic một phần đối với phần tài sản của cụ Hương (1/2 nhà đất) nên được
chia đều cho 5 người con là các ông bà Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu
Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị kiều (vợ ông
Nguyễn Hữu Trí) sau khi đã chia cho cụ Quý 2/3 suất thừa kế theo pháp
luật; còn ½ diện tích đất còn lại được chia cho cụ Quý...”12
2.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm.
Việc giám đốc thẩm quyết định chia di sản của cụ Quý trên phù hợp với quy định của pháp luật.
Theo Điều 612 Bộ luật Dân sự 2015 định nghĩa về di sản: “Di sản bao gồm tài sản
riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”.
Trong trường hợp của cụ Quý và cụ Hương, tài sản thuộc sở hữu chung của cả hai
người. Trước khi chết, cụ Hương để lại di chúc về nhà đất, ngoài ra không có tài sản nào
khác, vì vậy phần tài sản của cụ Hương trong tài sản chung với cụ Quý được coi là di sản.
Vì vậy, việc Tòa xác định chỉ có nhà đất được chia cho năm người thừa kế là phù hợp với
quy định của pháp luật.
11 Quyết định số 359/2013/DS-GĐT ngày 28/8/2013 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, trang 7.
12 Quyết định số 359/2013/DS-GĐT ngày 28/8/2013 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, trang 7. 12
Điều 644 của Bộ luật Dân sự 2015 cũng quy định về Người thừa kế không phụ thuộc
vào nội dung của di chúc:
“1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của
một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ
không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai
phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.
2. Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản
theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy
định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này.”
Cụ Quý không thuộc trường hợp quy định tại Điều 620 và khoản 1 Điều 621 của Bộ
luật Dân sự 2015. Khi cụ Hương chết, cụ Quý có quan hệ vợ chồng với cụ Hương cũng
không nằm trong di chúc của cụ Hương.
Do đó, việc Tòa án xác định chia cho cụ Quý hai phần ba suất thừa kế theo pháp luật là hoàn toàn hợp lý.
2.5. Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có
giá trị pháp lý? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương thì di chúc chỉ có giá trị pháp lý đối
với phần tài sản của cụ bao gồm ½ nhà đất cùng với phần tài sản cụ
được hưởng thừa kế từ phần di sản của cụ Quý. - Trường hợp 1:
Trong trường hợp cụ Quý chết trước cụ Hương mà không để lại di chúc
thì theo điểm a khoản 1 Điều 650 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về những
trường hợp thừa kế theo pháp luật:
“1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:
a) Không có di chúc;”
và điểm a khoản 1 Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015 quy định Người
thừa kế theo pháp luật:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tfi sau đây: 13
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi,
mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;”
Theo đó, phần di sản của cụ Quý sẽ được chia đều cho cụ Hương và
các con. Vì vậy, phần tài sản của cụ Hương sẽ bao gồm phần tài sản cụ
được hưởng thừa kế từ phần di sản của cụ Quý và ½ nhà đất là tài sản
chung của 2 vợ chồng cụ.
Khi đó, phần di chúc của cụ Hương vẫn sẽ chỉ có giá trị pháp lý một
phần ứng với tài sản nêu trên. - Trường hợp 2:
Trong trường hợp cụ Quý chết trước mà có để lại di chúc định đoạt
một phần di sản ½ nhà đất cho cụ Hương thì:
Theo điểm a khoản 1 Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015 về Người thừa
kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc thì cụ Hương vẫn được hưởng
phần di sản bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật.
“1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai
phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia
theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho
hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.”
Khi đó, phần tài sản của cụ Hương sẽ bao gồm 2/3 phần di sản của
cụ Quý và ½ nhà đất là tài sản chung của 2 vợ chồng cụ. Vò vậy, phần di
chúc của cụ Hương vẫn sẽ chỉ có giá trị pháp lý một phần ứng với tài sản nêu trên - Trường hợp 3:
Trong trường hợp cụ Quý chết trước mà để lại di chúc định đoạt
toàn bộ phần tài sản trong khối tài sản chung của 2 vợ chồng cho cụ Hương thì:
Nếu không có bất kỳ người nào thuộc những trường hợp quy định
tại khoản 1 Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015 thì toàn bộ căn nhà sẽ thuộc
quyền sở hữu của cụ Hương. 14
“1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai
phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia
theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho
hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.”
Theo đó, trong bản án không hề đề cập đến việc các con cái của 2
cụ chưa thành niên hoặc thành niên nhưng không có khả năng lao động.
Vì vậy, toàn bộ căn nhà sẽ thuộc quyền sở hữu của cụ Hương.
Khi đó, di chúc của cụ Hương sẽ có giá trị pháp lý toàn bộ căn cứ
theo Điều 609 Bộ luật Dân sự 2015 về cá nhân có quyền định đoạt tài sản của mình.
“Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại
tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di
chúc hoặc theo pháp luật.
Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc.”
2.6. Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu
của cụ Hương vào đầu
tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý không? Vì sao?
Trong trường hợp tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ
Hương vào đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lí.
Về hình thức, bản di chúc này có công chứng số 4, thành phố Hồ Chí Minh. Tại thời
điểm lập di chúc, cụ Hương có giấy chứng nhận sức khỏe của bệnh viện Phú Nhuận, xác
nhận cụ Hương minh mẫn.
Về nội dung, toàn bộ phần di chúc đều có giá trị pháp lí vì tài sản lúc này chỉ thuộc
sở hữu của cụ Hương vào đầu tháng 4/2009 nên cụ Hương có quyền định đoạt theo quy định
tại Điều 609 Bộ luật Dân sự 2015 về Quyền thừa kế:
“Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của
mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”. 15
Nếu tài sản là sở hữu chung với cụ Quý thì di chúc chỉ có giá trị pháp lí một phần.
Đó là phần tài sản thuộc sở hữu của cụ Hương.
Vì vậy, căn cứ vào Khoản 1 Điều 630 và Điều 609 Bộ luật Dân sự 2015 thì di chúc
của cụ Hương lúc này hoàn toàn có giá trị pháp lí.
2.7. Quyết định số 58, đoạn nào cho thấy quyền sử dụng đất của
cụ C và cụ D đã bị thu hồi trước khi hai cụ chết?
Đoạn của Quyết định số 58 thể hiện quyền sử dụng đất của cụ C và cụ
D đã bị thu hồi trước khi hai cụ chết:
“... di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số
38, Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND
ngày 21-7-2010 của Ủy ban nhân dân thành phố Vĩnh Yên...”13
“... Ngày 07-9-2010, cụ C chết. Ngày 21-01-2011, cụ D chết...”14
Như vậy, quyền sử dụng đất của cụ C và cụ D đã bị thu hồi (21-7-
2010) trước khi hai cụ chết (07-9-2010 và 21-01-2011).
2.8. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm
xác định di sản của
cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất? Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định vừa nêu
của Tòa giám đốc thẩm?
Đoạn của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định di sản của cụ C và
cụ D là quyền sử dụng đất:
“...Quá trình giái quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm chưa xem
xét, đánh giá các tài liệu, chứng cứ do ông Y cung cấp và đánh giá hợp đồng chuyển
nhượng giữa ông Y và cụ C để từ đó xác định ông Y có quyền, lợi ích đối với di sản là thửa
đất số 38, Tờ bản đồ số 18 và có quyền khởi kiện yêu cầu tuyên bố các văn bản công chứng
vô hiệu hay không mà chỉ xem xét nội dung, hình thức, thủ tục của các văn bản công chứng
và tuyên bố các văn bản này là vô hiệu là chưa đủ căn cứ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích
hợp pháp của ông Nguyễn Văn D1.
[5] Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38,
Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21-7-2010 của Ủy
13 Quyết định số 58/2018/DS-GĐT ngày 27-9-2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.
14 Quyết định số 58/2018/DS-GĐT ngày 27-9-2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội. 16
ban nhân dân thành phố Vĩnh Yên nhưng giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị thu
hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật đất đai nên hai cụ có quyền lập di
chúc định đoạt tài sản trên cho ông D1”.15
Theo nhóm, hướng xác định nêu trên của Tòa giám đốc thẩm là hợp lý. Vì bảo vệ
được quyền, lợi ích hợp pháp của anh D1 trong di sản thừa kế. Và theo quy định tại Nghị
quyết số 02/2004/NQ-HĐTP trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình về
việc xác định quyền sử dụng đất là di sản có quy định như sau:
"1. Xác định quyền sử dụng đất là di sản ...
1.2. Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại
giấy quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật đất đai năm 2003 thì kể từ ngày
01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế.”
Như vậy, do đã được công nhận là di sản thừa kế và một trong các hình thức lập di
chúc mà pháp luật công nhận là di chúc bằng văn bản có chứng thực. Do đó, việc hai cụ lập
di chúc để định đoạt đối với toàn bộ di sản trên có chứng thực của Phòng công chứng và
trong tình trạng minh mẫn, tự nguyện thì được xác định là di chúc hợp pháp. Theo đó, nếu
nội dung di chúc định đoạt để lại toàn bộ cho ông D1 là quyền sử dụng đất tại thửa đất số
38, Tờ bản đồ số 13 nhưng giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị thu hồi vẫn được
pháp luật bảo đảm là hợp lý.
2.9. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm
theo hướng cụ C và cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị
quyền sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi? Suy nghĩ của anh/chị về
hướng vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm.
Đoạn của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng
cụ C và cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi:
“... di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số
38, Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND
ngày 21-7-2010 của Ủy ban nhân dân thành phố Vĩnh Yên nhưng giá trị
15 Quyết định số 58/2018/DS-GĐT, trang 4. 17
quyền sử dụng đất của người có đất bị thu hồi vẫn được pháp luật đảm bảo
theo quy định của Luật Đất đai nên hai cụ có quyền lập di chúc định đoạt tài
sản trên cho ông D1.”16
Theo nhóm em, hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm là hoàn toàn hợp lý, vì:
Theo khoản 1 Điều 42 Luật Đất đai 2003 về Bồi thường, tái định cư cho
người có đất bị thu hồi:
“1. Nhà nước thu hồi đất của người sử dụng đất mà người bị thu hồi
đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đủ điều kiện để được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 50 của
Luật này thì người bị thu hồi đất được bồi thường, trừ các trường hợp quy
định tại các khoản 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11 và 12 Điều 38 và các điểm
b, c, d, đ và g khoản 1 Điều 43 của Luật này.”
Và khoản 1 Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015 cũng như khoản 3 Điều
643 Bộ luật Dân sự 2015:
“Điều 630. Di chúc hợp pháp
1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc;
không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không
trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.”
“Điều 643. Hiệu lực của di chúc
3. Di chúc không có hiệu lfic, nếu di sản để lại cho người thừa kế
không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế
chỉ còn một phần thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lfic.”
Theo đó, tuy bị Nhà nước thu hồi đất nhưng cụ D và cụ C vẫn còn
giá trị quyền sử dụng đất, đó cũng là di sản của 2 cụ. Đồng thời, theo
khoản 1 Điều 630 và khoản 3 Điều 643 Bộ luật Dân sự 2015 thì di sản
của 2 cụ vẫn còn nằm trong thời điểm mở thừa kế và di chúc của 2 cụ là hợp
pháp nên vẫn còn hiệu lực.
16 Quyết định số 58/2018/DS-GĐT ngày 27-9-2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội. 18
3. DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ CHỒNG.
*Tóm tắt Bản án số 14/2017/DSST ngày 28/9/2017 của Tòa án
nhân dân huyện C tỉnh Phú Thọ.
- Nguyên đơn: Bà Hoàng Thị H
- Bị đơn: Anh Hoàng Tuyết H
- Nội dung: Bà Hoàng Thị H khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận di chúc của ông X (chồng
của bà) là hợp pháp, đó là bản di chúc chung của vợ chồng bà nhưng không được các con
công nhận là bản di chúc hợp pháp.
- Quyết định của Tòa án: Công nhận di chúc chung của ông Hoàng Minh X và bà Hoàng Thị
H là hợp pháp, không chấp nhận yêu cầu của bị đơn.
Đoạn nào của bản án số 14/2017/DSST cho thấy di chúc có
tranh chấp là di chúc chung của vợ chồng?
Trong Bản án số 14/2017/DSST cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc chung của
vợ chồng ông X bà H, qua đoạn:
“Ông Hoàng Minh X (chết tháng 1/2016) và bà Hoàng Thị H có 04 người con đẻ… Ngày
10/8/2015 ông X viết di chúc chung của vợ chồng, bà H cùng ký với nội dung:
“Nay hay chúng tôi nhất trí… Vậy mong UBND Thị trấn xác nhận.”17
Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi
áp dụng BLDS 2015 không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời.
Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng bà H có giá trị pháp lý khi áp dụng Điều
630 Bộ luật Dân sự 2015, được đề cập trong bản án:
“Xét tính hợp pháp của bản di chúc không có chứng thực:
Tại Điều 630 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định di chúc hợp pháp:
1. Di chúc hợp pháp phải đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe
dọa, cưỡng ép;
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trai đạo đức xã hội;
hình thức di chúc không trai quy định của pháp luật.
17 Bản án số 14/2017/DSST ngày 28/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện C tỉnh Phú Thọ, trang 4. 19 …
4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp,
nếu đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.”18
3.3. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của tòa án về di
chúc chung của vợ chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015.
Theo nhóm em, hướng giải quyết của tòa án về di chúc chung của vợ chồng trông
mối quan hệ với Bộ luật Dân sự 2015 là hợp lý vì:
- Tòa án đã xét đầy đủ chứng cứ, tính xác thực trong lời khai của nguyên đơn và bị đơn,
cũng như độ chính xác của người viết ra di chúc là ông X.
- Tòa án cũng căn cứ đứng Điều luật trong Bộ luật dân sự để giải quyết vụ án, thể hiện tính
công bằng của Luật pháp Việt Nam.
- Mặc dù Điều 663 Bộ luật Dân sự 2005 có nêu về việc vợ chồng có thể lập di chúc chung,
nhưng không nêu rõ được điều kiện để bản di chúc này được công nhận hợp pháp nếu như
chưa được công chứng19, Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015 đã được bao gồm cả hai yếu tố này.20
4. DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG.
18 Bản án số 14/2017/DSST ngày 28/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện C tỉnh Phú Thọ, trang 5.
19 Điều 663 Bộ luật dân sự 2005. Di chúc chung của vợ, chồng.
“Vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung.”
20 Điều 630 Bộ luật dân sự 2015. Di chúc hợp pháp.
“1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy
định của luật.
2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha,
mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.
3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn
bản và có công chứng hoặc chứng thực.
4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy
định tại khoản 1 Điều này.
5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai
người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký
tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc
phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng” 20
*Tóm tắt Bản án số 211/2009/DSST ngày 16/9/2009 của Tòa án
nhân dân Huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai:
- Nguyên đơn: Anh Phan Văn Được.
- Bị đơn: Anh Phan Văn Tân và chị Phan Thị Hương.
- Nội dung: Vụ án về việc tranh chấp chia di sản. Mẹ của nguyên đơn và bị đơn lập di chúc
để lại nhà đất cho 7 anh chị em, nguyên đơn quản lý nhà đất. Sau đó, các anh chị em hợp lại
chia di sản của mẹ anh, nhưng bị đơn không đồng ý.
- Quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Giao cho nguyên đơn được
quyền sở hữu, sử dụng căn nhà. Đồng thời, phải có trách nhiệm thanh toán giá trị di sản thừa
kế cho bị đơn theo quyết định của Tòa án.
4.1. Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị
pháp lý? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý được nêu tại Điều 670 của Bộ luật Dân sự năm 2005:
“1. Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ
cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một người đã được chỉ
định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực
hiện đúng di chúc hoặc không theo thoả thuận của những người thừa kế thì những người
thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.
Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì
những người thừa kế cử một người quản lý di sản thờ cúng.
Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản dùng
để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc
diện thừa kế theo pháp luật.
2. Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ
tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.”
4.2. Đoạn nào của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di
chúc dùng vào việc thờ cúng? 21
Di sản có tranh chấp được di chúc dùng vào việc thờ cúng được thể hiện trong đoạn:
“Về nội dung: ... Tại tờ di chúc ngày 08 tháng 7 năm 2004 bà Lùng để lại nhà cho 7
người con đồng thừa hưởng để thờ cúng cha mẹ, anh Được là người quản lý di sản, ...”.21
4.3. Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp
pháp có được thỏa mãn trong vụ việc đang nghiên cứu không?
Các điều kiện để lại di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp được nêu tại
Điều 670 Bộ luật Dân sự năm 2005 không được thỏa mãn trong vụ việc đang nghiên cứu vì:
- Bản di chúc không chỉ định ai trong 7 người con là người được thừa kế di sản dùng
vào việc thờ cúng, di sản được để lại cho cả 7 người đồng thừa hưởng.
- Tất cả những người đồng thừa hưởng không cử ra được một người để quản lý di sản
thờ cúng, chỉ có 5/7 người đồng ý để anh Được quản lý di sản.
- Anh Được là người đang quản lý di sản, thuộc diện thừa kế theo pháp luật, nhưng
những người đồng thừa kế vẫn còn sống nên điều kiện này cũng không được thỏa.
4.4. Ai đồng ý và ai không đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ
cúng trong vụ tranh chấp này? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Trong vụ tranh chấp này, có 5/7 người con (tức người thừa kế theo di chúc của bà
Lùng để lại) đồng ý chia di sản dùng vào việc thừa cúng. Còn lại 2/7 người con không đồng
ý chia di sản. Cụ thể là anh Thảo, anh Xuân, anh Nhành, anh Được, chị Hoa đồng ý chia di
sản. Còn lại anh Tân và chị Hương không đồng ý.
Điều này được thể hiện ở đoạn trong bản án như sau: “Ngày 08 tháng 7 năm 2004 mẹ
anh lập di chúc để lại nhà đất cho 07 anh chị em, hiện tại anh quản lý nhà đất, năm 2005
năm anh chị em hợp lại chia di sản, nhưng anh Tân và chị Hương không đồng ý”.22
21 Trích Bản án số 211/2009/DSPT ngày 16/9/2009 của Tòa án nhân dân Huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.
22 Trích Bản án số 211/2009/DSPT ngày 16/9/2009 của Tòa án nhân dân Huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. 22
4.5. Cuối cùng Tòa án có chấp nhận di sản đã được di chúc dùng vào việc thờ cúng
không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Cuối cùng, Tòa án chấp nhận di sản đã được di chúc dùng vào việc thờ cúng. Nguyên
đơn kiện bị đơn yêu cầu Tòa án xử vụ án, yêu cầu chia di sản thừa kế của mẹ anh cho 07
anh chị em, anh được sở hữu sử dụng nhà đất và chia bằng tiền cho 6 anh chị em giá trị
tương ứng với phần di sản được hưởng. Theo đó, sau quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án, Hội
đồng xét xử nhận định và đưa ra quyết định ở đoạn:
“Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Phan Văn Được đối với Phan Văn
Tân, chị Phan Thị Hương và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Phan Văn Thảo,
anh Phan Văn Xuân, anh Phan Văn Nhành, chị Phan Thị Hoa về việc “Tranh chấp di sản thừa kế”.
Giao cho anh Được được quyền sở hữu, sử dụng căn nhà diện tích 57,25m2 kết cấu
móng cột xây gạch, tường xây gạch, mái lợp tole xi măng, xà gồ gỗ, nền lát gạch ceranic,
cửa sắt trên diện tích 86m đất thừa số 27-tờ bản đồ số 25 - Thị trấn Long Thành - Huyện
Long Thành - Tỉnh Đồng Nai giới hạn bởi các điểm 1, 2 ...8, 1 có tứ cận:
- Đông giáp đường nhựa và mương thoát nước: 4,98m.
- Tây giáp thừa số 4: 4,60m.
- Nam giáp thửa số 28: 18,76m.
- Bắc giáp thừa số 10: 17,66m.
Theo trích lục và đo tách thửa đất bản đồ địa chính số 3027/2009 ngày 29 tháng 55
năm 2009 của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện Long Thành.
Anh Được phải có trách nhiệm thanh toán giá trị di sản thừa kế cho anh Tân và chị
Hương mỗi người số tiền là 37.424.000đ (bằng chữ: ba mươi bảy triệu bốn trăm hai mươi
bốn ngàn đồng)”.23
4.6. Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ
cúng trong BLDS và giải pháp của Tòa án trong vụ việc đang
được nghiên cứu.
23 Trích Bản án số 211/2009/DSPT ngày 16/9/2009 của Tòa án nhân dân Huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. 23
Người Việt Nam vốn coi trọng việc thờ cúng tổ tiên, luôn xem đây là trách nhiệm hệ
trọng, thiêng liêng của con cháu để thể hiện sự thành kính, biết ơn đối đối với những người
đã có công sinh thành, dưỡng dục, mang tính chất đạo đức và văn hóa. Cũng chính vì lẽ đó,
đối với những di sản dùng vào việc thờ cúng có những quy ước chặt chẽ của gia đình, dòng
tộc. Từ ngày xưa vấn đề này đã được ghi nhận ở Điều 390 Quốc triều hình luật24. Đến
những năm 90 thì pháp luật quy định cho phép cá nhân lập di chúc dành một phần tài sản
của mình dùng vào việc thờ cúng. Lúc này vấn đề cũng được cụ thể hóa tại Điều 21 Pháp
lệnh thừa kế năm 199025. Nhà nước ta hiện nay rất tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của
nhân dân. Vì thế, pháp luật Việt Nam Nam quy định tại Điều 645 Bộ luật Dân sự 2015 đã
cho phép người lập di chúc có quyền dành một phần di sản trong khối di sản để thờ cúng.
Để phục vụ cho việc thờ cúng, di sản thường được để lại nhà ở gắn liền với với quyền sử
dụng đất. Những quy định này cụ thể vấn đề hơn những bộ luật trước đó. Tuy nhiên, những
quy định này còn khá ít và sơ lược, chỉ được dự liệu tại một Điều 645 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Thứ nhất, theo quy định tại khoản 1 Điều 645 Bộ luật Dân sự năm 2015 như sau:
“Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì
phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định trong di
chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di
chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có
quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng”.
Khi tài sản trở thành di sản dùng vào việc thờ cúng theo di chúc của người để lại di
sản thì tài sản này không được chia thừa kế mà được giao cho người đã được chỉ định trong
di chúc quản lý hoặc giao cho người được những người thừa kế cử ra để thực hiện việc thờ
cúng. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự năm 2015 và các luật khác có liên quan đều không đề cập
đến việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với các loại tài sản phải đăng ký trong di
24 Điều 390 quy định "người làm cha mẹ phải liệu tuổi già mà lập sẵn chúc thư".
25 Điều 21: Di sản dùng vào việc thờ cúng
“Nếu người lập di chúc có để di sản dùng vào việc thờ cúng thì di sản đó được coi như di sản
chưa chia. Khi việc thờ cúng không được thfic hiện theo di chúc thì những người thừa kế của
người để lại di sản dùng vào việc thờ cúng có quyền hưởng di sản đó. Nếu những người thừa kế
đó đều đã chết, thì di sản thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những
người thừa kế theo pháp luật quy định tại Điều 25 và Điều 26 của Pháp lệnh này”. 24
sản này (trừ quy định tại khoản 5 Điều 100 Luật Đất đai năm 201326 về cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho cộng đồng
dân cư đang sử dụng đất có công trình là đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ trong
trường hợp không có tranh chấp). Điều này là quan trọng, vì theo pháp luật hiện hành, một
khi được pháp luật công nhận là người sở hữu hợp pháp thì chủ thể có thể thực hiện quyền
định đoạt đối với tài sản (một cách thuận lợi trong trường hợp không có người tranh chấp
hoặc trong trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền không biết về nội dung di chúc về
việc dùng tài sản làm di sản thờ cúng), bao gồm cả việc chuyển nhượng cho chủ thể khác
với mục tiêu không phải để phục vụ công việc thờ cúng. Nếu loại tài sản phải đăng ký vẫn
có tên chủ sở hữu là người để lại di sản thì bất hợp lý. Bởi lẽ, theo quy định của pháp luật
hiện hành, sản nghiệp của một người sẽ không còn một khi người này không còn hiện hữu.
Tuy nhiên, nếu cho phép di sản thờ cúng được chuyển tên sang cho người quản lý hoặc
người thừa kế, nếu không có sự giám sát từ những người có quyền và lợi ích liên quan,
không ai có thể đảm bảo di nguyện của người để lại di sản sẽ được nghiêm túc thực hiện vì
khái niệm về hạn chế quyền sở hữu còn chưa phổ biến tại Việt Nam.
Thứ hai, quy định của pháp luật hiện hành không đảm bảo di sản sẽ trường tồn và di
nguyện của người quá cố sẽ được tuân thủ sau khoản thời gian nêu trên. Theo khoản 1, Điều
645 Bộ luật Dân sự 2015, “… trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đã chết
thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số
những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật”. Vì không có quy định về nghĩa vụ phải sử
dụng di sản để thực hiện hoạt động thờ cúng, di sản dùng cho thờ cúng có thể trở thành tài
sản thuộc quyền sở hữu riêng của người được xác lập quyền sở hữu theo nội dung điều luật
nêu trên. Kết quả là người chủ sở hữu di sản có quyền định đoạt di sản theo ý chí của mình
và không loại trừ trường hợp chỉ qua vài năm, hoạt động thờ cúng sẽ không còn được thực
hiện. Điều này hoàn toàn trái với di nguyện của người để lại di sản. Pháp luật cũng bỏ ngỏ
giải pháp xử lý di sản trong trường hợp tất cả những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật
26 Điều 100. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có giấy tờ về quyền
sử dụng đất “5. Cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có công trình là đình, đền, miếu, am, từ
đường, nhà thờ họ; đất nông nghiệp quy định tại khoản 3 Điều 131 của Luật này và đất đó
không có tranh chấp, được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận là đất sử dụng chung cho
cộng đồng thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất”. 25
chết. Nguyện vọng để lại tài sản cho mục đích cá nhân nhiều đời (ví dụ: thờ cúng tổ tiên)
của các chủ thể là chính đáng cần được pháp luật bảo vệ.
Thứ ba, về nghĩa vụ phải “quản lý để thực hiện việc thờ cúng” 27của người quản lý di
sản thờ cúng, mặc dù pháp luật không quy định cấm dùng tài sản thờ cúng để khai thác về
mặt thương mại hoặc sản xuất kinh doanh nhưng có thể hiểu, người quản lý cũng cần tuân
theo quy định chung về nghĩa vụ và quyền của người quản lý di sản28. Theo đó, người quản
lý di sản có nghĩa vụ “bảo quản di sản” và “không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế
chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng
ý bằng văn bản”. Trong trường hợp người quản lý di sản thờ cúng không phải là người thừa
kế duy nhất, nếu thiếu sự đồng ý của những người đồng thừa kế, người này khó có thể thực
hiện bất kỳ giao dịch nào đối với di sản cho dù là nhằm mục đích phục vụ cho việc thờ
cúng. Điều này gây khó khăn cho người quản lý khi nguồn thu không đủ để phục vụ nghĩa
vụ được giao; đồng thời, triệt tiêu khả năng phát sinh lợi nhuận của tài sản.
Thứ tư, di sản thờ cúng có thời điểm kết thúc hay không. Nếu sử dụng qua nhiều đời
sẽ không còn được nguyên trạng nữa thì cơ chế nào cho phép người quản lý di sản thờ cúng
tôn tạo, xây dựng mới nhà thờ cũng như tất cả các đồ thờ cúng và vấn đề sở hữu di sản thờ cúng sẽ xử lý ra sao.
Dựa vào những quy định của pháp luật hiện hành, giải pháp của Tòa án ở vụ việc nêu
trên có phần không đúng với quy định của Bộ luật Dân sự29. Nhưng xét về tình và tính thực
tiễn nguyện vọng của những người thừa kế thì cách xử của Tòa vẫn đưa đến được kết quả là
phần di sản vẫn dùng để thờ cúng. Bởi lẽ phần nhà đất được chia thừa kế là chia theo giá trị,
anh Nhành, anh Thảo, anh Xuân, chị Hoa không nhận di sản mà cho lại anh Được; căn nhà
vẫn được giữ nguyên và anh Được là người quản lý căn nhà và thực hiện nghĩa vụ thờ cúng
chính. Việc bất hợp lý ở đây đó là, di sản để thờ cúng nếu theo di chúc thì ta xác định là sở
hữu chung của những người thừa kế, vậy thì không được định đoạt, chia lẻ mà chỉ được
quản lý. Tuy nhiên, Tòa án lại xử chia di sản và anh Được phải thanh toán giá trị di sản phần
27 Khoản 1 Điều 645 Bộ luật Dân sự năm 2015.
28 Điều 617 và Điều 618 Bộ luật Dân sự năm 2015.
29 Bản án số 211/2009/DSPT ngày 16/9/2009 của Tòa án nhân dân Huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. 26
thừa kế cho hai người. Như vậy, tức là đã xé lẻ di sản ra, đánh mất bản chất chỉ quản lý để
thờ cúng mà không định đoạt. 27
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách.
- Đỗ Văn Đại, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế
của Đại học Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2018, Chương II.
2. Văn bản quy phạm pháp luật.
- Bộ luật Dân sự năm 2005.
- Bộ luật Dân sự năm 2015.
- Luật đất đai năm 2003.
- Luật đất đai năm 2013.
- Pháp lệnh thừa kế năm 1990. 28