Bài tập môn Pháp luật đại cương | Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Sau 20 năm thi hành Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và 25 năm  thực hiện chính sách đổi mới, đất nước đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về kinh  tế - xã hội. Tuy nhiên, về mặt chính trị, tổ chức bộ máy nhà nước chưa có nhiều đổi mới tương xứng với tầm, mức đổi mới về kinh tế, bộ máy hành chính nhà nước còn cồng kềnh. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Thông tin:
20 trang 6 ngày trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Bài tập môn Pháp luật đại cương | Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Sau 20 năm thi hành Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và 25 năm  thực hiện chính sách đổi mới, đất nước đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về kinh  tế - xã hội. Tuy nhiên, về mặt chính trị, tổ chức bộ máy nhà nước chưa có nhiều đổi mới tương xứng với tầm, mức đổi mới về kinh tế, bộ máy hành chính nhà nước còn cồng kềnh. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

20 10 lượt tải Tải xuống
Bài tập môn Pháp luật đại cương
TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Chào mừng các bạn đến với phần thuyết trình của nhóm 4 xuba điện tử,
nhóm chúng em gồm có 3 thành viên.
Hôm nay, chúng em mang đến cho các bạn những kiến thức sự hiểu
biết về bộ máy hành chính nhà nước Cộng hoà hội chủ nghĩa Việt Nam theo
Hiến pháp năm 2013.
Cụ thể là gì, mời cô và các bạn theo chân mình để chúng ta cùng tìm hiểu nhé!
Sau 20 năm thi hành Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)
25 năm thực hiện chính sách đổi mới, đất nước đã đạt được nhiều thành tựu
to lớn về kinh tế - hội. Tuy nhiên, về mặt chính trị, tổ chức bộ máy nhà
nước chưa có nhiều đổi mới tương xứng với tầm, mức đổi mới về kinh tế, bộ
máy hành chính nhà nước còn cồng kềnh; phối hợp trong việc thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp còn chưa rõ ràng; Bên cạnh đó, tình hình
quan hệ đối ngoại cũng nhiều điểm mới. Việt Nam ngày càng hội nhập
sâu hơn vào đời sống quốc tế khu vực, do đó, ngày càng phải quan tâm
nhiều hơn tới các vấn đề như dân chủ, bảo đảm, bảo vệ quyền con người…
Trong bối cảnh đó, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI diễn ra tạiNội tháng
01/2011 đã quyết định tổng kết thi hành để tiến tới sửa đổi Hiến pháp năm 1992
(sửa đổi bổ sung năm 2001) nhằm phù hợp với tình hình mới. Ngày 28/11/2013,
Hiến pháp mới đã được Quốc hội khoá 13 thông qua với nhiều quy định mới về
bộ máy nhà nước.
Bộ máy nhà nước gồm có:
- quan quyền lực Nhà nước bao gồm: Quốc hội Hội đồng nhân dân
các cấp.
- Chủ tịch nước
- quan hành chính Nhà nước gồm có: Chính phủ và, các Bộ, các
quan ngang Bộ, và Uỷ ban nhân dân các cấp.
- Cơ quan kiểm sát
- Cơ quan toà án
- Cơ quan kiểm toán
- Và cuối cùng là Hội đồng bầu cử quốc gia.
Đầu tiên chúng ta sẽ cùng tìm hiểu Cơ quan quyền lực Nhà nước để hiểu nó là gì
nhé.
1. Cơ quan quyền lực Nhà nước:
Cơ quan quyền lực nhà nước là Cơ quan do nhân dân trực tiếp bầu ra để thay
mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước.
Việt Nam, Quốc hội Hội đồng nhân dân các cấp được gọi quan
quyền lực nhà nước.
Quốc hội:
Ngày 16 17/8/1945, tại Tân Trào, Quốc dân đại hội đã được triệu tập, lập ra
Uỷ ban dân tộc giải phóng trung ương (tức Chính phủ lâm thời). vậy, Quốc
dân đại hội được coi là tiền thân của Quốc hội nước ta.
Ngày 06/01/1946, nhân dân ta trong cả nước bầu ra Quốc hội nước Việt Nam
Dân chủ cộng hoà, đó là Quốc hội đầu tiên, Quốc hội khoá I của nước ta.
Trải qua 14 nhiệm kỳ bây giờ đang nhiệm kỳ thứ 15 (2021 – 2026) , Quốc
hội khoá XV của nước Cộng hoà xã hội Việt Nam đang không ngừng hoàn thiện
và vững mạnh.
Hội đồng nhân dân các cấp:
(Ở Việt Nam, Hội đồng nhân dân xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1946, cùng với
sự ra đời của Quốc hội khoá I)
Hội đồng nhân dân do nhân dân địa phương bầu ra theo con đường bầu cử,
giống như Quốc hội do nhân dân cả nước bầu ra.vậy, tính chất đại diện của
Hội đồng nhân dân cũng giống tính chất đại diện của Quốc hội, chỉ khác quy
đại diện thôi. Nếu Quốc hội quan đại diện cao nhất thì Hội đồng
nhân dân là cơ quan đại diện của nhân dân ở đơn vị hành chính bầu ra mình.
quan đại diện của người dân địa phương, Hội đồng nhân dân được trao
chức năng đầu tiên là "quyết định các vấn đề của địa phương do luật định”. Như
vậy, Hội đồng nhân dân chính là biểu hiện của sự tự quản địa phương và chức
năng thứ nhất cũng thể được gọi chức năng tự quản của Hội đồng nhân
dân. Khi một phạm vi thẩm quyền đã được phân quyền hoặc phân cấp cho chính
quyền địa phương thì Hội đồng nhân dân chính quan của chính quyền địa
phương đưa ra các quyết định thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được phân
quyền.
dụ, nếu luật phân quyền cho chính quyền địa phương cấp tỉnh thẩm quyền
ban bành các biện pháp bảo đảm trật tự, an toàn trong các khu đô thị thì trong
phạm vi chức năng tự quản của mình Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyền ban
hành các quy định về trật tự, an toàn trong các khu đô thị trên địa bàn của mình.
Tuy nhiên,Hội đồng nhân dân quan hội đồng mang tính chất đại diện
nên bản thân không thể vừa quan ra quyết định vừa quan chấp
hành (hiện thực hóa) các quyết định của chính trong thực tiễn. Chấp hành
quyết định của Hội đồng nhân dân là ủy ban nhân dân. Để bảo đảm ủy ban nhân
dân chấp hành chính xác các nghị quyết của Hội đồng nhân dân thì Hội đồng
nhân dân chức năng giám sát đối với ủy ban nhân dân. Bên cạnh đó, với
cách quan đạị diện của nhân dân địa phương, Hội đồng nhân dân không
những quyền giám sát đối với ủy ban nhân dân còn giám sát chung đối
với việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trong phạm vi đơn vị hành chính tương
ứng.
II. Chủ tịch nước.
Trong bộ máy nhà nước có một thiết chế với những tên gọi khác nhau như: Vua,
Hoàng đế, Quốc vương, Nữ hoàng, Tổng thống, Chủ tịch nước…, thiết chế này
còn được gọi nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu nhà nước, đại diện cho
nhà nước về đối nội và đối ngoại.
Vua, Hoàng đế, Quốc vương, Quốc trưởng, Nữ hoàng nguyên thủ quốc gia
các nước theo chính thể quân chủ hoặc quân lập hiến.
Tổng thốngnguyên thủ quốc gia ở các quốc gia theo chính thể cộng hoà tổng
thống hoặc cộng hoà đại nghị.
Theo hiến pháp hiện hành, nguyên thủ của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam
Chủ tịch nước.
(Như vậy Chủ tịch nước không chỉ một chức vụ còn một quan nhà
nước, một quan đặc biệt, thực hiện những hoạt động của quản nhà nước,
hoạt động lập pháp và tư pháp.)
Chủ tịch nước nguyên thủ quốc gia, một nhà chính trị, không đứng đầu
quan hành pháp, nhưng có thẩm quyền đối với cơ quan này
Hiến pháp 2013 bổ sung quy định, người được bầu làm Chủ tịch nước phải
tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, nhân dân và hiến pháp.)
1. Thẩm quyền:
Hầu hết hiến pháp các nước đều quy định nguyên thủ quốc gia người đứng
đầu nhà nước, đại diện cho đấtớc đó trong các quan hệ đối nội đối ngoại.
Cũng như nguyên thủ quốc gia ở các nước khác, Hiến pháp năm 2013 quy định,
Chủ tịch nước Việt nam người đứng đầu nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam về đối nội đối ngoại. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch
nước được quy định tại Điều 84, Điều 88, Điều 90, Điều 91. Theo tiêu chí và nội
dung nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước thành hai nhóm lĩnh vực sau:
- Thứ nhất, Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan dến chức năng đại
diện, thay mặt nước về đối nội và đối ngoại của Chủ tịch nước.
- Thứ hai, nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến việc phối hợp với
các thiết chế quyền lực nhà nước trong các lĩnh vực lập pháp, hành pháp,
tư pháp của Chủ tịch nước.
III. Cơ quan hành chính nhà nước
1. Cơ quan hành chính nhà nước:
Cơ quan hành
chính nhà
nước
Thuyết trình
Chính phủ (*) Thủ tướng Chính phủ nhiều quyền hạn quan trọng
với hai vai trò vừa người đứng đầu Chính phủ vừa
người đứng đầu hệ thống hành chính nhà nước:
- Lãnh đạo công tác của Chính phủ; lãnh đạo việc xây dựng
chính sách và tổ chức thi hành pháp luật.
- Lãnh đạo chịu trách nhiệm về hoạt động của hệ thống
hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương, bảo
đảm tính thống nhất và thông suốt của nền hành chính quốc
gia.
- Trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Thành
viên khác của Chính phủ; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức
Thứ trưởng, chức vụ tương đương thuộc bộ, cơ quan ngang
bộ; phê chuẩn việc bầu, miễn nhiệm quyết định điều
động, cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
- Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ văn bản của Bộ trưởng,
Thủ trưởng quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân, Chủ tịch
Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái
với Hiến pháp, luật văn bản của quan nhà nước cấp
trên; đình chỉ việc thi hành nghị quyết của Hội đồng nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến
pháp, luật văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, đồng
thời đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ.
- Quyết định và chỉ đạo việc đàm phán, chỉ đạo việc ký, gia
nhập điều ước quốc tế thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của
Chính phủ; tổ chức thực hiện điều ước quốc tế Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
- Thực hiện chế độ báo cáo trước Nhân dân thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan
trọng thuộc thẩm quyền giải quyết của Chính phủ Thủ
tướng Chính phủ.
Sự thay đổi quyền lực chính phủ qua từng thời kỳ thay đổi của
HIẾN PHÁP
Năm Thuyết trình
1959 Hiến pháp năm 1959 ra đời, hình Chính phủ thay
đổi nhất định. Chính phủ được đổi tên thành Hội đồng
Chính phủ để nhấn mạnh tính tập thể của Chính phủ.
Thành phần Hội đồng Chính phủ bao gồm: Thủ tướng, các
Phó thủ tướng, bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban nhà nước
Tổng giám đốc Ngân hàng nhà nước.
1980 Hiến pháp năm 1980, Luật tổ chức Hội đồng bộ trưởng
cơ quan chấp hành và hành chính nhà nước cao nhất của cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất. Quy định này đã làm
hạn chế tính độc lập tương đối của Chính phủ với tính chất
vốn có của nó là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất.
1992 Hiến pháp năm 1992 đổi tên Hội đồng bộ trưởng thành
Chính phủ được quy định tại Chương VIII Hiến pháp
năm 1992. Vị trí của Chính phủ được xác định lại, quyền
hạn của Chính phủ Thủ tướng Chính phủ được tăng
cường.
2013 Hiến pháp năm 2013 mới khẳng định quyền hành pháp của
Chính phủ, đề cao hơn nữa vai trò Thủ tướng, Bộ trưởng
Thủ trưởng quan ngang bộ. Đồng thời bổ sung thêm
một số nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ Thủ tướng
Chính phủ.
3. So sánh quan hành chính nhà nước với quan
quyền lực nhà nước:
Giống nhau :
- Đều quan nhà ớc, mang tính quyền lực nhà nước, thay mặt nhà
nước thực thi quyền lực.
- Mục đích hướng tới bảo vệ lợi ích công, duy trì trật tự hội, bảo vệ
những quy định do nhà nước lập ra.
- Trong phạm vi thẩm quyền, các quan này quyền ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật hoặc văn bản áp dụng pháp luật giám sát thực
hiện các văn bản mà mình ban hành.
- quyền thực hiện các biện pháp cưỡng chế khi cần thiết. Khi các
quan nhận thấy các quy tắc, quy định trong văn bản pháp luật hoặc
nguyên tắc về quản lý nhà nước do mình thiết lập ra bị xâm hại thì các
quan này quyền xử phạt, đưa ra các biện pháp chế tài hợp để xử
các chủ thể có hành vi vi phạm.
Khác nhau :
Tiêu chí Cơ quan hành chính Cơ quan quyền lực
Nguồn gốc
hình thành
Do quan quyền lực nhà
nước tương ứng bầu ra hoặc
hình thành từ tuyển dụng.
Do nhân dân trực tiếp bầu
ra.
Đặc điểm
hoạt động chính hành
pháp, do Chính phủ đứng
đầu, thực hiện quyền lực
nhà nước.
hoạt động chính lập
pháp, hệ thống quan
quyền lực nhà nước thành
lập từ trung ương đến địa
phương do Quốc hội đứng
đầu thực hiện ý chí nhân
dân.
cấu tổ
chức
Bao gồm Chính phủ
quan hành chính cao nhất,
Bộ quan ngang bộ
thẩm quyền chuyên môn
trung ương, Ủy ban nhân
dân các cấp ở địa phương.
Bao gồm Quốc hội
quan quyền lực cao nhất,
Hội đồng nhân dân địa
phương.
Vị trí pháp lý Thấp hơn Cao hơn
Chức năng
chính
Quản hành chính nhà
nước mọi mặt của đời sống
hội, thực hiện các hoạt
động được tiến hành trên
sở luật và để thi hành luật.
Ban hành Văn bản quy
phạm pháp luật đưa ra các
vấn đề quan trọng của đất
nước. Giám sát hoạt động
của các quan nhà nước
khác.
IV. CƠ QUAN XÉT XỬ
Tòa án nhân dân quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa XHCN
VN hệ thống quan riêng biệt trong bộ máy nhà nước, chức năng xét
xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, kinh tế, hành
chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật
Chức năng của Tòa án:
quan xét xử chuyên nghiệp của nhà nước. Phán quyết của tòa án mang
tính quyền lực nhà nước giá trị bắt buộc thi hành, ngay cả đối với các
quan nhà nước
Trong thực tiễn, vẫn còn hiện tượng người dân có thói quen đem tranh chấp của
mình tới “nhờ” các quan hành chính nhà nước giải quyết, dụ tranh chấp
giữa người mua căn hộ CC chủ đầu được đưa tới Thanh tra xây dựng,
tranh chấp về đất đai được đưa ra UBND xã…
Ngược lại, trong bộ máy nhà nước, một số quan hành chính nhà nước thực
hiện một số công việc tương tự hoạt động tư pháp, ví dụ cơ quan hành chính nhà
nước cấp trên giải quyết hành chính đối với cơ quan hành chính cấp dưới…Việc
trao các công việc mang tính pháp cho các quan hành chính nhàớc xử
lí, về mặt luận không thực sự phù hợp bởi quan hành chính nguyên
tắc vận hành khác với cơ quan tư pháp, có thể dẫn tới kết quả giải quyết tùy tiện,
không thực sự thuyết phục với người dân. vậy trong TH tiếp tục phát sinh
tranh chấp, tòa án có thẩm quyền giải quyết cuối cùng tranh chấp đó.
Trong vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động,
các chủ thể mang tính chất tư, thể nhân hoặc tổ chức tranh chấp với
một chủ thể tư khác đã xâm hại quyền hay lợi ích hợp pháp của mình
Trong vụ án hành chính, một chủ thể tư, có thể là người dân hoặc doanh nghiệp,
khởi kiện một quan hành chính nhà nước khi thực hiện các hành vi vi phạm
PL quản hành chính, làm ảnh hướng tới quyền lợi ích hợp pháp của mình.
Chỉ một số ít các tranh chấp không thuộc thẩm quyền xét xử của toàn án,
dụ như tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản QPPL.
Mở rộng:
Trong lịch sử Hiến pháp VN, Hiến pháp năm 2013 bản hiến pháp đầu
tiên quy định rõ tòa án có nhiệm vụ thi hành công lí. Với quy định này, HP2013
cũng đã lần đầu tiên quy đinh nhiệm vụ của TAND khác với nhiệm vụ của
VKSND, đó là TAND có nhiệm vụ nổi bật là bảo vệ công lí còn VKSND là bảo
vệ pháp luật
So sánh:
HP 1980 & 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), TAND VKSND được quy
định nhiệm vụ chung là bảo vệ pháp luật
HP 2013 quy định nhiệm vụ của TAND VKSND, không những thực sự
phù hợp với chức năng xét xử, thực hiện quyền pháp của tòa án còn góp
phần nâng cao một bước địa vị của tòa án trong tổ chức bộ máy nhà nước nói
chung và hệ thống tư pháp nói riêng.
Những hạn chế, bất cập trong thực tiễn:
- Các TAND cấp huyện vẫn được tổ chức theo địa giới hành chính mỗi huyện có
một TAND, như vậy không bảo đảm được chuyên môn hóa hoạt động xét xử
của Thẩm phán mặc theo quy định tại Điều 45 Luật Tổ chức TAND,
thì “Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương
có thể Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa gia đình và người chưa thành niên, Tòa
xử lý hành chính. Trường hợp cần thiết, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định
thành lập Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao. Căn cứ quy định tại khoản này và yêu cầu, thực tế xét xử ở mỗi Tòa án
nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh tương đương, Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao quyết định việc tổ chức Tòa chuyên trách”. So với tổ
chức của TAND cấp tỉnh, thì ở TAND cấp huyện không có Tòa kinh tế, Tòa lao
động Tòa hành chính nhưng lại thêm Tòa xử hành chính. Như vậy, về
cơ cấu tổ chức bên trong của TAND, thì chỉ TANDCC TAND cấp tỉnh
động bộ cùng Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa hành chính, Tòa kinh tế, Tòa
lao động, Tòa gia đình và người chưa thành niên.
- Việc thành lập TAND cấp huyện theo địa giới hành chính sẽ không bảo đảm
nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án, nhất là độc lập trong việc xét xử vụ án
hành chính. Đây là điều thật nhưng ít khi được thừa nhận công khai sẽ
rất buồn khi một vị lãnh đạo địa phương trả lời Đoàn giám sát của Ủy ban
pháp Quốc hội ông ta còn giữ vị trí lãnh đạo địa phương đó, thì không bao
giờ thi hành bản án hành chính (cụ thể được Đoàn giám sát nêu) Tòa án địa
phương đó đã xét xử (Chính quyền địa phương đó thua kiện)
- Đồng thời với việc thành lập TANDCC, thì pháp luật hiện hành đã bỏ quy định
TAND cấp tỉnh giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ án do TAND cấp huyện xét xử.
Do vậy, việc xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án của tất cả các TAND
cấp huyện dồn về 3 TANDCC (tại Nội, Đà Nẵng Tp. Hồ Chí Minh). Hệ
quả của quy định này các TANDCC bị quá tải các TAND cấp tỉnh thì làm
việc không hết công suất.
V. CƠ QUAN KIỂM SÁT
Là hệ thốngquan độc lập trong bộ máy nhà nước, VKSND hình thành
gắn liền với nhiệm vụ cách mạng của nhà nước trong mỗi giai đoạn, góp phần
đấu tranh chống mọi hành vi phạm tội nhằm bảo vệ lợi ích dân tộc, chế độ
hội, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân
So sánh: HP1946 chưa quy định thành lập quan kiểm sát một hệ
thống quan độc lập trong bộ máy nhà nước thuộc hệ thống quan
pháp. Tuy nhiên trong quá trình ptrien của cách mạng, nhà nước đã kịp thời ban
hành những văn bản pháp luật quy định về tổ chức hoạt động của quan
công tố
Trong xu hướng hội nhập, toàn cầu hóa thì hoạt động tương trợ pháp cần
thiết. Năm 2007, Quốc hội đã ban hành Luật tương trợ tư pháp, quy định nguyên
tắc, thẩm quyền, trình tựu, thủ tycj thực hiện tương trợ pháp về dân sự, hình
sự, dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành hình phạt từ giữa VN với nước
ngoài, trách nghiệm của các cơ quan nhà nước VN trong tương trợ tư pháp.
Mở rộng
Hiến pháp năm 2013 kế thừa và khẳng định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát thực hành quyền công tố kiểm sát hoạt động pháp như
Hiến pháp năm 1992. Đồng thời thể chế hóa yêu cầu về đổi mới hệ thống tổ
chức Viện kiểm sát để phù hợp với hình Tòa án nhân dân theo chủ trương
cải cách pháp, cụ thể: “Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân
tối cao và các Viện kiểm sát khác do luật định”.
Hiến pháp năm 2013, đã quy định một cách đầy đủ các quy định chung về Tòa
án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân trên sở kế thừa các quy định của Hiến
pháp năm 1992, vừa đảm bảo sự tinh gọn của hệ thống các cơ quan của tư pháp,
đảm bảo tính độc lập trong hoạt động pháp, phát huy vai trò xét xử của Tóa
án thực hiện quyền công tố, kiểm sát hoạt động pháp của Viện kiểm sát
nhằm bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa của
Nhân dân, do Nhân dân, Nhân dân; thể hiện quyền lực nhà nước thống
nhất, sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp
Từ năm 1976 đến năm 1986 giai đoạn cả nước tiến hành xây dựng chủ nghĩa
xã hội trong bối cảnh vừa hòa bình lại vừa có chiến tranh xảy ra ở biên giới Tây
Nam biên giới phía Bắc. Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, thời kỳ
này, ngành Kiểm sát được tổ chức hoạt động trên phạm vi toàn quốc,
nhiệm vụ chung là bảo vệ pháp chế thống nhất
Từ năm 1987 đến năm 2001: bổ sung, phát triển đường lối đổi mới, thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội, chiến
lược ổn định phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. Hiến pháp đã thể chế
hoá đường lối đổi mới của Đảng khẳng định chức năng, nhiệm vụ của
Viện kiểm sát nhân dân, sự đổi mới nhận thức về tổ chức bộ máy thực
hiện chức năng, nhiệm vụ.
Từ năm 2002 đến 2010: Thể chế hoá chủ trương, quan điểm của Đảng về cải
cách bộ máy nhà nước, cải cách pháp được nêu trong Nghị quyết Đại hội IX
của Đảng trên sở tổng kết 15 năm đồi mới, Quốc hội khoá X đã thông qua
Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, tiếp tục hiến định Viện kiểm sát nhân dân
chức năng thực hành quyền công tố kiểm sát việc tuân theo pháp luật
nhưng chỉ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động pháp. Cũng
từ giai đoạn này, Viện kiểm sát nhân dân không thực hiện công tác kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội (kiểm sát chung).
Từ năm 2011 đến 2015: ngành Kiểm sát nhân dân đã đề ra quán triệt thực
hiện nghiêm túc chủ trương ,“Đổi mới, chất lượng, kỷ cương, hướng về sở”
triển khai đồng bộ nhiều giải pháp đột phá, nỗ lực phấn đấu đạt được nhiều
thành tựu nổi bật, tạo sự chuyển biến thật sự trên các mặt công tác, phục vụ tốt
nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước của Ngành. Viện kiểm sát nhân dân
tối cao Viện kiểm sát các cấp tiếp tục hoàn thiện hệ thống quy chế tổ chức
hoạt động quy chế nghiệp vụ theo hướng đề cao trách nhiệm của lãnh đạo,
Kiểm sát viên Viện kiểm sát các cấp; xây dựng, ban hành nhiều quy chế nghiệp
vụ
Từ năm 2016 đến nay: Trong giai đoạn này, công tác cải cách pháp nói
chung, tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nói riêng có bước phát
triển mới cao hơn về chất. Đáng chú ý là, hệ thống Viện kiểm sát nhân dân từ ba
cấp được tổ chức thành bốn cấp (Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Viện kiểm sát
nhân dân cấp cao; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương; Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
tương đương và Viện kiểm sát quân sự các cấp). Thông qua nhiều biện pháp đổi
mới để tổ chức thực hiê n tốt các nhiê m vụ công tác, toàn ngành Kiểm sát nhân
dân đạt được kết quả công tác toàn diện, chất lượng cao hơn, nhiều mặt đạt kết
quả nổi bật.
VI. Cơ quan kiểm toán, Hội đồng bầu cử quốc gia
Chương X Hiến pháp sửa đổi 2013 một chương hoàn toàn mới trong lịch sử
Hiến pháp Việt Nam, quy định về hai thiết chế hiến định độc lập là:
Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước.
Hội đồng bầu cử quốc gia
- Hiến pháp 2013 nâng tầm hiến định đối với Hội đồng bầu cử quốc gia với
cách là một thiết chế hiến định độc lập, phù hợp với xu thế của nhân loại.
Mở rộng: hội đồng bầu cử quốc gia là một mô hình độc lập
Mô hình độc lập: cơ quan bầu cử không chịu trách nhiệm trước chính phủ nhưng
có thể chịu trách nhiệm trước cơ quan lập pháp, tư pháp. Cơ quan này thường có
ngân quỹ độc lập. Thành viên của quan bầu cử không phải là công chức của
chính phủ, thường là thành viên của các tổ chức xã hội, dân sự. Mô hình độc lập
được áp dụng ở các nước : Ôxtrâylia, Canađa, Ấn Độ, Inđônêxia, Ba Lan,…
hình chính phủ: hình tổ chức điều hành bầu cử thường do chính
phủ hệ thống quan hành pháp, hoặc thông qua một bộ, hoặc kết hợp với
chính quyền địa phương thực hiện. Ngân quỹ do nhà nước, hoặc chính quyền địa
phương tài trợ. Những nước áp dụng mô hình này bao gồm Đan Mạch, Hoa Kỳ,
Anh…
hình hỗn hợp, thông thường hai hệ thống: một hệ thống nhiệm vụ
kiểm tra, giám sát và một hệ thống trực tiếp tổ chức thực hiện do chính phủ hoặc
do chính quyền địa phương đảm trách. hình hỗn hợp được áp dụng Pháp,
Nhật Bản, Tây Ban Nha.
Khoản 1 Điều 117 Hiến pháp sửa đổi 2013 quy định: “Hội đồng bầu cử quốc gia
quan do Quốc hội thành lập, nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc
hội; chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp”.
Quy định này chứng tỏ Hội đồng bầu cử quốc gia theo Hiến pháp sửa đổi 2013
được xây dựng theo hình độc lập. hình này đảm bảo tính chính xác,
tư, khách quan, công bằng, không gian lận trong bầu cử.
Phản biện: Tuy nhiên, cũng quan điểm cho rằng để đáp ứng được tinh
thần độc lập, xác thực và không bị ảnh hưởng trong bầu cử thì Hội đồng bầu cử
quốc gia không nên một quan do Quốc hội thành lập suy cho cùng
quan này vẫn là một tổ chức thuộc Quốc hội.
Việc quy định Hội đồng bầu cử quốc gia quan do Quốc hội thành lập t
không ảnh hưởng nhiều đến tính độc lập của quan này, bởi Hội đồng bầu cử
quốc gia quan do Quốc hội đương nhiệm thành lập để tổ chức bầu cử đại
biểu Quốc hội khóa mới. vậy, chỉ cần bổ sung vào Hiến pháp hoặc Luật:
“Thành viên của Hội đồng bầu cử quốc gia không thể tham gia ứng cử đại biểu
Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp” nhằm mục đích đảm bảo tính
khách quan và hiệu quả của Hội đồng bầu cử quốc gia.
GS. Tiến sĩ: Vương Đình Huệ 31/03/2021 (đương nhiệm)
Cơ quan kiểm toán
Kiểm toán Nhà nước là cơ quan thuộc Chính phủ
Điều 118 quy định về địa vị pháp của Kiểm toán Nhà nước “là quan do
Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm
toán việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công”, kèm theo đó những
quy định về vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu Kiểm toán Nhà nước.
Điều đó khẳng định, sự hình thành phát triển Kiểm toán Nhà nước Việt Nam
không chỉ là sự hoàn thiện hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước mà còn là nhu
cầu tự thân của nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa phù hợp
nhu cầu của nhân dân về việc công khai, minh bạch nền tài chính quốc gia.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đã nhấn mạnh: “Sứ mệnh của Kiểm toán
Nhà nước không chỉ góp phần vào sự minh bạch bền vững của nền tài chính
quốc gia còn góp phần bảo vệ giữ gìn niềm tin của nhân dân đối với
Đảng, Chính phủ và cả hệ thống chính trị…”.
1. Cơ cấu
Kiểm toán Nhà nước được tổ chức và quản lý tập trung, thống nhất.
So sánh 3 nước Việt Nam – Mỹ - Nhật Bản
Tiêu chí Việt Nam Mỹ Nhật
Hình thức chính
thể
- hội chủ
nghĩa.
- Dân chủ đại
diện dân chủ
trực tiếp: biểu
quyết khi nhà
nước trưng cầu
dân ý.
- Quyền lực Nhà
nước thuộc về
nhân dân. Tổ
chức phân công,
phối hợp kiểm
soát.
- Cộng hòa Tổng
thống.
- Thừa nhận hai
đảng phái chính
trị hoạt động chủ
yếu Đảng dân
chủ Đảng
Cộng hòa.
- Quân chủ đại
nghị.
- Thủ tướng đứng
đầu nhà nước
chính đảng đa số.
Tổ chức bộ máy
nhà nước
- Nguyên tắc
phân công, phối
hợp, kiểm soát
quyền lực nhà
nước.
Gồm 3 quan
thực hiện các
quyền lập pháp,
hành pháp,
pháp:
- Quốc hội
quan đại biểu cao
nhất của nhân
- Nguyên tắc tam
quyền phân lập.
- Quốc hội gồm
Hạ viện
Thượng viện.
- Hành pháp gồm
Tổng thống,
nguyên thủ quốc
gia.
- Đứng đầu lập
pháp Tối cao
pháp viện Hoa
Kỳ.
- Cũng 3
nhánh, tuy nhiên
Nghị viện
quan quyền lực
nhất
- Nghị viện sẽ
giới thiệu cho
Nhật hoàng để chỉ
định người đứng
đầu hành pháp
tư pháp
- Đứng đầu Nội
các Thủ tướng,
dân. địa
phương Hội
đồng nhân dân.
- Chính phủ
quan chấp hành
quan
hành chính cao
nhất của nước
Cộng hòa hội
chủ nghĩa Việt
Nam. địa
phương ủy ban
nhân dân các cấp.
- Tòa án nhân dân
Viện kiểm sát
nhân dân thực
hiện xét xử
kiểm sát hoạt
động tư pháp.
được chỉ định bởi
Hoàng đế về hình
thức dưới sự giới
thiệu của Quốc
hội.
- pháp Nhật
Bản độc lập với 2
nhánh hành pháp
lập pháp.
Thẩm phán tối
cao sẽ được chỉ
định bởi Nhật
hoàng theo giới
thiệu của Quốc
hội
. Cơ cấu tổ chức:
Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh có từ 9 đến 11 thành. Uỷ ban Nhân dân cấp huyện có
từ 7 đến 9 thành viên. Uỷ ban Nhân dân cấp xã có từ 3 đến 5 thành viên.
Thành viên Uỷ ban Nhân dân:
- Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân do Hội đồng Nhân dân cùng cấp bầu, miễn nhiệm,
bãi nhiệm. Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân có quyền ban hành quyết định và chỉ thị.
- Các Phó Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân do Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân đề nghị Hội
đồng Nhân dân cùng cấp bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm.
- Các Uỷ viên Uỷ ban Nhân dân do Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân đề nghị Hội đồng
Nhân dân cùng cấp bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm.
| 1/20

Preview text:

Bài tập môn Pháp luật đại cương
TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Chào mừng cô và các bạn đến với phần thuyết trình của nhóm 4 xuba điện tử,
nhóm chúng em gồm có 3 thành viên.
Hôm nay, chúng em mang đến cho cô và các bạn những kiến thức và sự hiểu
biết về bộ máy hành chính nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Hiến pháp năm 2013.
Cụ thể là gì, mời cô và các bạn theo chân mình để chúng ta cùng tìm hiểu nhé!
Sau 20 năm thi hành Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và
25 năm thực hiện chính sách đổi mới, đất nước đã đạt được nhiều thành tựu
to lớn về kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, về mặt chính trị, tổ chức bộ máy nhà
nước chưa có nhiều đổi mới tương xứng với tầm, mức đổi mới về kinh tế, bộ
máy hành chính nhà nước còn cồng kềnh; phối hợp trong việc thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp còn chưa rõ ràng; Bên cạnh đó, tình hình
quan hệ đối ngoại cũng có nhiều điểm mới. Việt Nam ngày càng hội nhập
sâu hơn vào đời sống quốc tế và khu vực, do đó, ngày càng phải quan tâm
nhiều hơn tới các vấn đề như dân chủ, bảo đảm, bảo vệ quyền con người…
Trong bối cảnh đó, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI diễn ra tại Hà Nội tháng
01/2011 đã quyết định tổng kết thi hành để tiến tới sửa đổi Hiến pháp năm 1992
(sửa đổi bổ sung năm 2001) nhằm phù hợp với tình hình mới. Ngày 28/11/2013,
Hiến pháp mới đã được Quốc hội khoá 13 thông qua với nhiều quy định mới về bộ máy nhà nước.
Bộ máy nhà nước gồm có:
- Cơ quan quyền lực Nhà nước bao gồm: Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. - Chủ tịch nước
- Cơ quan hành chính Nhà nước gồm có: Chính phủ và, các Bộ, các cơ
quan ngang Bộ, và Uỷ ban nhân dân các cấp. - Cơ quan kiểm sát - Cơ quan toà án - Cơ quan kiểm toán
- Và cuối cùng là Hội đồng bầu cử quốc gia.
Đầu tiên chúng ta sẽ cùng tìm hiểu Cơ quan quyền lực Nhà nước để hiểu nó là gì nhé.
1. Cơ quan quyền lực Nhà nước:
Cơ quan quyền lực nhà nước là Cơ quan do nhân dân trực tiếp bầu ra để thay
mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước.
Ở Việt Nam, Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp được gọi là cơ quan quyền lực nhà nước. Quốc hội:
Ngày 16 và 17/8/1945, tại Tân Trào, Quốc dân đại hội đã được triệu tập, lập ra
Uỷ ban dân tộc giải phóng trung ương (tức Chính phủ lâm thời). Vì vậy, Quốc
dân đại hội được coi là tiền thân của Quốc hội nước ta.
Ngày 06/01/1946, nhân dân ta trong cả nước bầu ra Quốc hội nước Việt Nam
Dân chủ cộng hoà, đó là Quốc hội đầu tiên, Quốc hội khoá I của nước ta.
Trải qua 14 nhiệm kỳ và bây giờ đang ở nhiệm kỳ thứ 15 (2021 – 2026) , Quốc
hội khoá XV của nước Cộng hoà xã hội Việt Nam đang không ngừng hoàn thiện và vững mạnh.
Hội đồng nhân dân các cấp:
(Ở Việt Nam, Hội đồng nhân dân xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1946, cùng với
sự ra đời của Quốc hội khoá I)
Hội đồng nhân dân do nhân dân địa phương bầu ra theo con đường bầu cử,
giống như Quốc hội do nhân dân cả nước bầu ra. Vì vậy, tính chất đại diện của
Hội đồng nhân dân cũng giống tính chất đại diện của Quốc hội, chỉ khác ở quy
mô đại diện mà thôi. Nếu Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất thì Hội đồng
nhân dân là cơ quan đại diện của nhân dân ở đơn vị hành chính bầu ra mình.
Là cơ quan đại diện của người dân địa phương, Hội đồng nhân dân được trao
chức năng đầu tiên là "quyết định các vấn đề của địa phương do luật định”. Như
vậy, Hội đồng nhân dân chính là biểu hiện của sự tự quản ở địa phương và chức
năng thứ nhất cũng có thể được gọi là chức năng tự quản của Hội đồng nhân
dân. Khi một phạm vi thẩm quyền đã được phân quyền hoặc phân cấp cho chính
quyền địa phương thì Hội đồng nhân dân chính là cơ quan của chính quyền địa
phương đưa ra các quyết định thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền.
Ví dụ, nếu luật phân quyền cho chính quyền địa phương cấp tỉnh thẩm quyền
ban bành các biện pháp bảo đảm trật tự, an toàn trong các khu đô thị thì trong
phạm vi chức năng tự quản của mình Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có quyền ban
hành các quy định về trật tự, an toàn trong các khu đô thị trên địa bàn của mình.
Tuy nhiên, vì Hội đồng nhân dân là cơ quan hội đồng mang tính chất đại diện
nên bản thân nó không thể vừa là cơ quan ra quyết định vừa là cơ quan chấp
hành (hiện thực hóa) các quyết định của chính nó trong thực tiễn. Chấp hành
quyết định của Hội đồng nhân dân là ủy ban nhân dân. Để bảo đảm ủy ban nhân
dân chấp hành chính xác các nghị quyết của Hội đồng nhân dân thì Hội đồng
nhân dân có chức năng giám sát đối với ủy ban nhân dân. Bên cạnh đó, với tư
cách là cơ quan đạị diện của nhân dân địa phương, Hội đồng nhân dân không
những có quyền giám sát đối với ủy ban nhân dân mà còn giám sát chung đối
với việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trong phạm vi đơn vị hành chính tương ứng.
II. Chủ tịch nước.
Trong bộ máy nhà nước có một thiết chế với những tên gọi khác nhau như: Vua,
Hoàng đế, Quốc vương, Nữ hoàng, Tổng thống, Chủ tịch nước…, thiết chế này
còn được gọi là nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu nhà nước, đại diện cho
nhà nước về đối nội và đối ngoại.
Vua, Hoàng đế, Quốc vương, Quốc trưởng, Nữ hoàng là nguyên thủ quốc gia
các nước theo chính thể quân chủ hoặc quân lập hiến.
Tổng thống là nguyên thủ quốc gia ở các quốc gia theo chính thể cộng hoà tổng
thống hoặc cộng hoà đại nghị.
Theo hiến pháp hiện hành, nguyên thủ của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là Chủ tịch nước.
(Như vậy Chủ tịch nước không chỉ là một chức vụ mà còn là một cơ quan nhà
nước, một cơ quan đặc biệt, thực hiện những hoạt động của quản lý nhà nước,
hoạt động lập pháp và tư pháp.)
Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia, là một nhà chính trị, không đứng đầu cơ
quan hành pháp, nhưng có thẩm quyền đối với cơ quan này
Hiến pháp 2013 có bổ sung quy định, người được bầu làm Chủ tịch nước phải
tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, nhân dân và hiến pháp.) 1. Thẩm quyền:
Hầu hết hiến pháp các nước đều quy định nguyên thủ quốc gia là người đứng
đầu nhà nước, đại diện cho đất nước đó trong các quan hệ đối nội và đối ngoại.
Cũng như nguyên thủ quốc gia ở các nước khác, Hiến pháp năm 2013 quy định,
Chủ tịch nước Việt nam là người đứng đầu nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch
nước được quy định tại Điều 84, Điều 88, Điều 90, Điều 91. Theo tiêu chí và nội
dung nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước thành hai nhóm lĩnh vực sau:
- Thứ nhất, Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan dến chức năng đại
diện, thay mặt nước về đối nội và đối ngoại của Chủ tịch nước.
- Thứ hai, nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến việc phối hợp với
các thiết chế quyền lực nhà nước trong các lĩnh vực lập pháp, hành pháp,
tư pháp của Chủ tịch nước.
III. Cơ quan hành chính nhà nước
1. Cơ quan hành chính nhà nước: Cơ quan hành chính nhà Thuyết trình nước Chính phủ
(*) Thủ tướng Chính phủ có nhiều quyền hạn quan trọng
với hai vai trò vừa là người đứng đầu Chính phủ vừa là
người đứng đầu hệ thống hành chính nhà nước:
- Lãnh đạo công tác của Chính phủ; lãnh đạo việc xây dựng
chính sách và tổ chức thi hành pháp luật.
- Lãnh đạo và chịu trách nhiệm về hoạt động của hệ thống
hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương, bảo
đảm tính thống nhất và thông suốt của nền hành chính quốc gia.
- Trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và Thành
viên khác của Chính phủ; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức
Thứ trưởng, chức vụ tương đương thuộc bộ, cơ quan ngang
bộ; phê chuẩn việc bầu, miễn nhiệm và quyết định điều
động, cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
- Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ văn bản của Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân, Chủ tịch
Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái
với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp
trên; đình chỉ việc thi hành nghị quyết của Hội đồng nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến
pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, đồng
thời đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ.
- Quyết định và chỉ đạo việc đàm phán, chỉ đạo việc ký, gia
nhập điều ước quốc tế thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của
Chính phủ; tổ chức thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
- Thực hiện chế độ báo cáo trước Nhân dân thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan
trọng thuộc thẩm quyền giải quyết của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ.
Sự thay đổi quyền lực chính phủ qua từng thời kỳ thay đổi của HIẾN PHÁP Năm Thuyết trình 1959
Hiến pháp năm 1959 ra đời, mô hình Chính phủ có thay
đổi nhất định. Chính phủ được đổi tên thành Hội đồng
Chính phủ để nhấn mạnh tính tập thể của Chính phủ.
Thành phần Hội đồng Chính phủ bao gồm: Thủ tướng, các
Phó thủ tướng, bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban nhà nước và
Tổng giám đốc Ngân hàng nhà nước. 1980
Hiến pháp năm 1980, Luật tổ chức Hội đồng bộ trưởng là
cơ quan chấp hành và hành chính nhà nước cao nhất của cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất. Quy định này đã làm
hạn chế tính độc lập tương đối của Chính phủ với tính chất
vốn có của nó là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất. 1992
Hiến pháp năm 1992 đổi tên Hội đồng bộ trưởng thành
Chính phủ và được quy định tại Chương VIII Hiến pháp
năm 1992. Vị trí của Chính phủ được xác định lại, quyền
hạn của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ được tăng cường. 2013
Hiến pháp năm 2013 mới khẳng định quyền hành pháp của
Chính phủ, đề cao hơn nữa vai trò Thủ tướng, Bộ trưởng
và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Đồng thời bổ sung thêm
một số nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ.
3. So sánh Cơ quan hành chính nhà nước với Cơ quan
quyền lực nhà nước:Giống nhau :
- Đều là cơ quan nhà nước, mang tính quyền lực nhà nước, thay mặt nhà
nước thực thi quyền lực.
- Mục đích hướng tới bảo vệ lợi ích công, duy trì trật tự xã hội, bảo vệ
những quy định do nhà nước lập ra.
- Trong phạm vi thẩm quyền, các cơ quan này có quyền ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật hoặc văn bản áp dụng pháp luật và giám sát thực
hiện các văn bản mà mình ban hành.
- Có quyền thực hiện các biện pháp cưỡng chế khi cần thiết. Khi các cơ
quan nhận thấy các quy tắc, quy định trong văn bản pháp luật hoặc
nguyên tắc về quản lý nhà nước do mình thiết lập ra bị xâm hại thì các cơ
quan này có quyền xử phạt, đưa ra các biện pháp chế tài hợp lý để xử lý
các chủ thể có hành vi vi phạm. Khác nhau : Tiêu chí Cơ quan hành chính Cơ quan quyền lực Do cơ quan quyền lực nhà Nguồn gốc
Do nhân dân trực tiếp bầu
nước tương ứng bầu ra hoặc hình thành ra.
hình thành từ tuyển dụng.
Có hoạt động chính là lập pháp, hệ thống cơ quan
Có hoạt động chính là hành quyền lực nhà nước thành pháp, do Chính phủ đứng Đặc điểm
lập từ trung ương đến địa
đầu, thực hiện quyền lực phương do Quốc hội đứng nhà nước.
đầu thực hiện ý chí nhân dân. Bao gồm Chính phủ là cơ
quan hành chính cao nhất, Bao gồm Quốc hội là cơ
Cơ cấu tổ Bộ và Cơ quan ngang bộ có quan quyền lực cao nhất, chức
thẩm quyền chuyên môn ở Hội đồng nhân dân ở địa
trung ương, Ủy ban nhân phương.
dân các cấp ở địa phương.
Vị trí pháp lý Thấp hơn Cao hơn Ban hành Văn bản quy
Quản lý hành chính nhà phạm pháp luật đưa ra các
nước mọi mặt của đời sống Chức năng
vấn đề quan trọng của đất
xã hội, thực hiện các hoạt chính
nước. Giám sát hoạt động
động được tiến hành trên cơ của các cơ quan nhà nước
sở luật và để thi hành luật. khác. IV. CƠ QUAN XÉT XỬ
Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa XHCN
VN và là hệ thống cơ quan riêng biệt trong bộ máy nhà nước, có chức năng xét
xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành
chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật
Chức năng của Tòa án:
Là cơ quan xét xử chuyên nghiệp của nhà nước. Phán quyết của tòa án mang
tính quyền lực nhà nước và có giá trị bắt buộc thi hành, ngay cả đối với các cơ quan nhà nước
Trong thực tiễn, vẫn còn hiện tượng người dân có thói quen đem tranh chấp của
mình tới “nhờ” các cơ quan hành chính nhà nước giải quyết, ví dụ tranh chấp
giữa người mua căn hộ CC và chủ đầu tư được đưa tới Thanh tra xây dựng,
tranh chấp về đất đai được đưa ra UBND xã…
Ngược lại, trong bộ máy nhà nước, một số cơ quan hành chính nhà nước thực
hiện một số công việc tương tự hoạt động tư pháp, ví dụ cơ quan hành chính nhà
nước cấp trên giải quyết hành chính đối với cơ quan hành chính cấp dưới…Việc
trao các công việc mang tính tư pháp cho các cơ quan hành chính nhà nước xử
lí, về mặt lí luận là không thực sự phù hợp bởi cơ quan hành chính có nguyên
tắc vận hành khác với cơ quan tư pháp, có thể dẫn tới kết quả giải quyết tùy tiện,
không thực sự thuyết phục với người dân. Vì vậy trong TH tiếp tục phát sinh
tranh chấp, tòa án có thẩm quyền giải quyết cuối cùng tranh chấp đó.
Trong vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động,
các chủ thể mang tính chất tư, có thể là cá nhân hoặc tổ chức có tranh chấp với
một chủ thể tư khác đã xâm hại quyền hay lợi ích hợp pháp của mình
Trong vụ án hành chính, một chủ thể tư, có thể là người dân hoặc doanh nghiệp,
khởi kiện một cơ quan hành chính nhà nước khi thực hiện các hành vi vi phạm
PL quản lí hành chính, làm ảnh hướng tới quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Chỉ có một số ít các tranh chấp không thuộc thẩm quyền xét xử của toàn án, ví
dụ như tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản QPPL. Mở rộng:
Trong lịch sử Hiến pháp VN, Hiến pháp năm 2013 là bản hiến pháp đầu
tiên quy định rõ tòa án có nhiệm vụ thi hành công lí. Với quy định này, HP2013
cũng đã lần đầu tiên quy đinh nhiệm vụ của TAND khác với nhiệm vụ của
VKSND, đó là TAND có nhiệm vụ nổi bật là bảo vệ công lí còn VKSND là bảo vệ pháp luật So sánh:
HP 1980 & 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), TAND và VKSND được quy
định nhiệm vụ chung là bảo vệ pháp luật
HP 2013 quy định rõ nhiệm vụ của TAND và VKSND, không những thực sự
phù hợp với chức năng xét xử, thực hiện quyền tư pháp của tòa án mà còn góp
phần nâng cao một bước địa vị của tòa án trong tổ chức bộ máy nhà nước nói
chung và hệ thống tư pháp nói riêng.
Những hạn chế, bất cập trong thực tiễn:
- Các TAND cấp huyện vẫn được tổ chức theo địa giới hành chính mỗi huyện có
một TAND, như vậy không bảo đảm được chuyên môn hóa hoạt động xét xử
của Thẩm phán mặc dù theo quy định tại Điều 45 Luật Tổ chức TAND,
thì “Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương
có thể có Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa gia đình và người chưa thành niên, Tòa
xử lý hành chính. Trường hợp cần thiết, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định
thành lập Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao. Căn cứ quy định tại khoản này và yêu cầu, thực tế xét xử ở mỗi Tòa án
nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương, Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao quyết định việc tổ chức Tòa chuyên trách”. So với tổ
chức của TAND cấp tỉnh, thì ở TAND cấp huyện không có Tòa kinh tế, Tòa lao
động và Tòa hành chính nhưng lại có thêm Tòa xử lý hành chính. Như vậy, về
cơ cấu tổ chức bên trong của TAND, thì chỉ có TANDCC và TAND cấp tỉnh là
động bộ và cùng có Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa hành chính, Tòa kinh tế, Tòa
lao động, Tòa gia đình và người chưa thành niên.
- Việc thành lập TAND cấp huyện theo địa giới hành chính sẽ không bảo đảm
nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án, nhất là độc lập trong việc xét xử vụ án
hành chính. Đây là điều có thật nhưng ít khi được thừa nhận công khai và sẽ là
rất buồn khi một vị lãnh đạo địa phương trả lời Đoàn giám sát của Ủy ban tư
pháp Quốc hội là ông ta còn giữ vị trí lãnh đạo ở địa phương đó, thì không bao
giờ thi hành bản án hành chính (cụ thể được Đoàn giám sát nêu) mà Tòa án địa
phương đó đã xét xử (Chính quyền địa phương đó thua kiện)
- Đồng thời với việc thành lập TANDCC, thì pháp luật hiện hành đã bỏ quy định
TAND cấp tỉnh giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ án do TAND cấp huyện xét xử.
Do vậy, việc xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án của tất cả các TAND
cấp huyện dồn về 3 TANDCC (tại Hà Nội, Đà Nẵng và Tp. Hồ Chí Minh). Hệ
quả của quy định này là các TANDCC bị quá tải và các TAND cấp tỉnh thì làm
việc không hết công suất. V. CƠ QUAN KIỂM SÁT
Là hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy nhà nước, VKSND hình thành
gắn liền với nhiệm vụ cách mạng của nhà nước trong mỗi giai đoạn, góp phần
đấu tranh chống mọi hành vi phạm tội nhằm bảo vệ lợi ích dân tộc, chế độ xã
hội, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân
So sánh: HP1946 chưa quy định thành lập cơ quan kiểm sát là một hệ
thống cơ quan độc lập trong bộ máy nhà nước mà thuộc hệ thống cơ quan tư
pháp. Tuy nhiên trong quá trình ptrien của cách mạng, nhà nước đã kịp thời ban
hành những văn bản pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố
Trong xu hướng hội nhập, toàn cầu hóa thì hoạt động tương trợ tư pháp là cần
thiết. Năm 2007, Quốc hội đã ban hành Luật tương trợ tư pháp, quy định nguyên
tắc, thẩm quyền, trình tựu, thủ tycj thực hiện tương trợ tư pháp về dân sự, hình
sự, dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành hình phạt từ giữa VN với nước
ngoài, trách nghiệm của các cơ quan nhà nước VN trong tương trợ tư pháp. Mở rộng
Hiến pháp năm 2013 kế thừa và khẳng định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp như
Hiến pháp năm 1992. Đồng thời thể chế hóa yêu cầu về đổi mới hệ thống tổ
chức Viện kiểm sát để phù hợp với mô hình Tòa án nhân dân theo chủ trương
cải cách tư pháp, cụ thể: “Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân
tối cao và các Viện kiểm sát khác do luật định”.
Hiến pháp năm 2013, đã quy định một cách đầy đủ các quy định chung về Tòa
án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân trên cơ sở kế thừa các quy định của Hiến
pháp năm 1992, vừa đảm bảo sự tinh gọn của hệ thống các cơ quan của tư pháp,
đảm bảo tính độc lập trong hoạt động tư pháp, phát huy vai trò xét xử của Tóa
án và thực hiện quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát
nhằm bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân vì mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; thể hiện rõ quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp
Từ năm 1976 đến năm 1986 là giai đoạn cả nước tiến hành xây dựng chủ nghĩa
xã hội trong bối cảnh vừa hòa bình lại vừa có chiến tranh xảy ra ở biên giới Tây
Nam và biên giới phía Bắc. Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, thời kỳ
này, ngành Kiểm sát được tổ chức và hoạt động trên phạm vi toàn quốc, có
nhiệm vụ chung là bảo vệ pháp chế thống nhất
Từ năm 1987 đến năm 2001: bổ sung, phát triển đường lối đổi mới, thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chiến
lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. Hiến pháp đã thể chế
hoá đường lối đổi mới của Đảng và khẳng định rõ chức năng, nhiệm vụ của
Viện kiểm sát nhân dân, có sự đổi mới nhận thức về tổ chức bộ máy và thực
hiện chức năng, nhiệm vụ.
Từ năm 2002 đến 2010: Thể chế hoá chủ trương, quan điểm của Đảng về cải
cách bộ máy nhà nước, cải cách tư pháp được nêu trong Nghị quyết Đại hội IX
của Đảng trên cơ sở tổng kết 15 năm đồi mới, Quốc hội khoá X đã thông qua
Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, tiếp tục hiến định Viện kiểm sát nhân dân
có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
nhưng chỉ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động tư pháp. Cũng
từ giai đoạn này, Viện kiểm sát nhân dân không thực hiện công tác kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội (kiểm sát chung).
Từ năm 2011 đến 2015: ngành Kiểm sát nhân dân đã đề ra và quán triệt thực
hiện nghiêm túc chủ trương “Đổi mới, chất lượng, kỷ cương, hướng về cơ sở”,
triển khai đồng bộ nhiều giải pháp đột phá, nỗ lực phấn đấu và đạt được nhiều
thành tựu nổi bật, tạo sự chuyển biến thật sự trên các mặt công tác, phục vụ tốt
nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước và của Ngành. Viện kiểm sát nhân dân
tối cao và Viện kiểm sát các cấp tiếp tục hoàn thiện hệ thống quy chế tổ chức
hoạt động và quy chế nghiệp vụ theo hướng đề cao trách nhiệm của lãnh đạo,
Kiểm sát viên Viện kiểm sát các cấp; xây dựng, ban hành nhiều quy chế nghiệp vụ
Từ năm 2016 đến nay: Trong giai đoạn này, công tác cải cách tư pháp nói
chung, tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nói riêng có bước phát
triển mới cao hơn về chất. Đáng chú ý là, hệ thống Viện kiểm sát nhân dân từ ba
cấp được tổ chức thành bốn cấp (Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Viện kiểm sát
nhân dân cấp cao; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương; Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và
tương đương và Viện kiểm sát quân sự các cấp). Thông qua nhiều biện pháp đổi
mới để tổ chức thực hiê „n tốt các nhiê „m vụ công tác, toàn ngành Kiểm sát nhân
dân đạt được kết quả công tác toàn diện, chất lượng cao hơn, nhiều mặt đạt kết quả nổi bật.
VI. Cơ quan kiểm toán, Hội đồng bầu cử quốc gia
Chương X Hiến pháp sửa đổi 2013 là một chương hoàn toàn mới trong lịch sử
Hiến pháp Việt Nam, quy định về hai thiết chế hiến định độc lập là:
Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước.
Hội đồng bầu cử quốc gia
- Hiến pháp 2013 nâng tầm hiến định đối với Hội đồng bầu cử quốc gia với tư
cách là một thiết chế hiến định độc lập, phù hợp với xu thế của nhân loại.
Mở rộng: hội đồng bầu cử quốc gia là một mô hình độc lập
Mô hình độc lập: cơ quan bầu cử không chịu trách nhiệm trước chính phủ nhưng
có thể chịu trách nhiệm trước cơ quan lập pháp, tư pháp. Cơ quan này thường có
ngân quỹ độc lập. Thành viên của cơ quan bầu cử không phải là công chức của
chính phủ, thường là thành viên của các tổ chức xã hội, dân sự. Mô hình độc lập
được áp dụng ở các nước : Ôxtrâylia, Canađa, Ấn Độ, Inđônêxia, Ba Lan,…
Mô hình chính phủ: là mô hình tổ chức và điều hành bầu cử thường do chính
phủ và hệ thống cơ quan hành pháp, hoặc thông qua một bộ, hoặc kết hợp với
chính quyền địa phương thực hiện. Ngân quỹ do nhà nước, hoặc chính quyền địa
phương tài trợ. Những nước áp dụng mô hình này bao gồm Đan Mạch, Hoa Kỳ, Anh…
Mô hình hỗn hợp, thông thường có hai hệ thống: một hệ thống có nhiệm vụ
kiểm tra, giám sát và một hệ thống trực tiếp tổ chức thực hiện do chính phủ hoặc
do chính quyền địa phương đảm trách. Mô hình hỗn hợp được áp dụng ở Pháp, Nhật Bản, Tây Ban Nha.
Khoản 1 Điều 117 Hiến pháp sửa đổi 2013 quy định: “Hội đồng bầu cử quốc gia
là cơ quan do Quốc hội thành lập, có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc
hội; chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp”.
Quy định này chứng tỏ Hội đồng bầu cử quốc gia theo Hiến pháp sửa đổi 2013
được xây dựng theo mô hình độc lập. Mô hình này đảm bảo tính chính xác, vô
tư, khách quan, công bằng, không gian lận trong bầu cử.
Phản biện: Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng để đáp ứng được tinh
thần độc lập, xác thực và không bị ảnh hưởng trong bầu cử thì Hội đồng bầu cử
quốc gia không nên là một cơ quan do Quốc hội thành lập vì suy cho cùng cơ
quan này vẫn là một tổ chức thuộc Quốc hội.
 Việc quy định Hội đồng bầu cử quốc gia là cơ quan do Quốc hội thành lập t
không ảnh hưởng nhiều đến tính độc lập của cơ quan này, bởi Hội đồng bầu cử
quốc gia là cơ quan do Quốc hội đương nhiệm thành lập để tổ chức bầu cử đại
biểu Quốc hội khóa mới. Vì vậy, chỉ cần bổ sung vào Hiến pháp hoặc Luật:
“Thành viên của Hội đồng bầu cử quốc gia không thể tham gia ứng cử đại biểu
Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp” nhằm mục đích đảm bảo tính
khách quan và hiệu quả của Hội đồng bầu cử quốc gia.
GS. Tiến sĩ: Vương Đình Huệ 31/03/2021 (đương nhiệm)
Cơ quan kiểm toán
Kiểm toán Nhà nước là cơ quan thuộc Chính phủ
Điều 118 quy định về địa vị pháp lý của Kiểm toán Nhà nước “là cơ quan do
Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm
toán việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công”, kèm theo đó là những
quy định về vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu Kiểm toán Nhà nước.
Điều đó khẳng định, sự hình thành và phát triển Kiểm toán Nhà nước Việt Nam
không chỉ là sự hoàn thiện hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước mà còn là nhu
cầu tự thân của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và phù hợp
nhu cầu của nhân dân về việc công khai, minh bạch nền tài chính quốc gia.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đã nhấn mạnh: “Sứ mệnh của Kiểm toán
Nhà nước không chỉ góp phần vào sự minh bạch và bền vững của nền tài chính
quốc gia mà còn góp phần bảo vệ và giữ gìn niềm tin của nhân dân đối với
Đảng, Chính phủ và cả hệ thống chính trị…”. 1. Cơ cấu
Kiểm toán Nhà nước được tổ chức và quản lý tập trung, thống nhất.
So sánh 3 nước Việt Nam – Mỹ - Nhật Bản Tiêu chí Việt Nam Mỹ Nhật
- Xã hội chủ - Cộng hòa Tổng - Quân chủ đại nghĩa. thống. nghị.
- Dân chủ đại - Thừa nhận hai - Thủ tướng đứng
diện và dân chủ đảng phái chính đầu nhà nước và
trực tiếp: biểu trị hoạt động chủ chính đảng đa số.
quyết khi nhà yếu là Đảng dân
Hình thức chính nước trưng cầu chủ và Đảng thể dân ý. Cộng hòa. - Quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Tổ chức phân công, phối hợp kiểm soát.
Tổ chức bộ máy - Nguyên tắc - Nguyên tắc tam - Cũng có 3 nhà nước
phân công, phối quyền phân lập. nhánh, tuy nhiên
hợp, kiểm soát - Quốc hội gồm Nghị viện là cơ
quyền lực nhà Hạ viện và quan quyền lực nước. Thượng viện. nhất
Gồm 3 cơ quan - Hành pháp gồm - Nghị viện sẽ
thực hiện các Tổng thống, là giới thiệu cho
quyền lập pháp, nguyên thủ quốc Nhật hoàng để chỉ hành pháp, tư gia. định người đứng pháp:
- Đứng đầu lập đầu hành pháp và
- Quốc hội là cơ pháp là Tối cao tư pháp
quan đại biểu cao pháp viện Hoa - Đứng đầu Nội nhất của nhân Kỳ. các là Thủ tướng, dân. Ở địa được chỉ định bởi phương có Hội Hoàng đế về hình đồng nhân dân. thức dưới sự giới - Chính phủ là cơ thiệu của Quốc quan chấp hành hội. và là cơ quan - Tư pháp Nhật hành chính cao Bản độc lập với 2 nhất của nước nhánh hành pháp Cộng hòa xã hội và lập pháp. chủ nghĩa Việt Thẩm phán tối Nam. Ở địa cao sẽ được chỉ phương có ủy ban định bởi Nhật nhân dân các cấp. hoàng theo giới - Tòa án nhân dân thiệu của Quốc và Viện kiểm sát hội nhân dân thực hiện xét xử và kiểm sát hoạt động tư pháp.
. Cơ cấu tổ chức:
Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh có từ 9 đến 11 thành. Uỷ ban Nhân dân cấp huyện có
từ 7 đến 9 thành viên. Uỷ ban Nhân dân cấp xã có từ 3 đến 5 thành viên.
Thành viên Uỷ ban Nhân dân:
- Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân do Hội đồng Nhân dân cùng cấp bầu, miễn nhiệm,
bãi nhiệm. Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân có quyền ban hành quyết định và chỉ thị.
- Các Phó Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân do Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân đề nghị Hội
đồng Nhân dân cùng cấp bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm.
- Các Uỷ viên Uỷ ban Nhân dân do Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân đề nghị Hội đồng
Nhân dân cùng cấp bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm.