lOMoARcPSD| 60794687
Trường Đại học Mỹ thuật Công Nghiệp
TÂM LÝ SÁNG TẠO
NGHỆ THUẬT
Các yếu tố ảnh hưởng đến tâm lý người làm nghệ thuật và sự ảnh hưởng như
thế của yếu tố đó đến sản phẩm mà anh (chị) sáng tạo ra.
lOMoARcPSD| 60794687
MỞ ĐẦU:
Khái quát về Tâm lý học:
- Tâm lý: là tất cả những hiện tượng tinh thần xảy ra trong đầu óc con người,
gắn liền với mọi hoạt động của con người.
- Tâm lý học: là khoa học nghiên cứu về các hiện tượng tâm lý. Một nhóm
ngành khoa học có lịch sử hình thành và phát triển nhất định. Tớc khi trở
thành một khoa học độc lập, các tư tưởng Tâm lý học đã được manh nha từ
rất sớm.
Đối tượng, nhiệm vụ của Tâm lý học:
Đối tượng của Tâm lý học là các hiện tượng tâm lý với tư cách là một hiên tượng
tinh thần do thế giới khách quan tác động vào não người sinh ra, gọi chung là các
hoạt động tâm lý.
Nhiệm vụ cơ bản của Tâm lý học là nghiên cứu bản chất hoạt động của tâm lý, các
quy luật nảy sinh và phát triển tâm lý, cơ chế diễn biến và thể hiện tâm lý, quy luật
về mối quan hệ giữa các hiện tượng tâm lý.
Tức là, tâm lý học có nhiệm vụ nghiên cứu những yếu tố khách quan, chủ quan làm
hình thành tâm lý của con người, bao gồm cơ chế hình thành, biểu hiện của hoạt
động tâm lý,cơ chế hoạt động của tâm lý (tâm lý con người hoạt động như thế
nào?) và chức năng, vai trò của tâm lý đối với hoạt động của con người.
Khái quát về khái niệm Sáng tạo:
Theo nghiên cứu của giáo trình: “Giáo trình Tâm lý học Sáng Tạo” của ông Huỳnh
Văn Sơn
:
Từ điển Triết học nêu lên luận định: "Sáng tạo quá trình hoạt động của con
người tạo ra những giá trị vật chất, tinh thần mới về chất. Các loại hình sáng tạo
được xác định bởi đặc trưng nghề nghiệp như khoa học thuật, tổ chức quân sự.
thể nói sáng tạo có mặt trong mọi lĩnh vực của thế giới vật chất và tinh thần".
Không thể không ghi nhận điểm chung gần như tất cả các khái niệm đều đồng
tình sáng tạo phải quá trình tạo ra hay hướng đến cái mới. Nói khác đi, có thể
hiểu sáng tạo quá trình bằng duy độc lập, con người đã phối hợp, biến đổi
lOMoARcPSD| 60794687
xây dựng nên những cái mới trên bình diện nhân hay xã hội từ những kinh nghiệm
sẵn của mình. Những khái niệm khác nhau về sáng tạo cho thấy quan niệm về
sáng tạo chưa thể thống nhất việc chọn lọc một khái niệm chuẩn cũng chưa thể
thực hiện những vấn đề bản trong sáng tạo chính việc tạo ra "cái mới", rằng,
cái mới này được nhìn nhận góc nhìn nào hay đặt đâu. vậy, việc tìm hiểu thêm
bản chất của sáng tạo là vô cùng cần thiết. Theo các nTâm lý học, 4 yếu tố có tác
động đến tâm lý của người sáng tạo nghệ thuật bao gồm: nhu cầu, nhận thức, tưởng
tượng và cảm xúc.
Tại sao phải về nghiên cứu tâm lý học sáng tạo?
Sáng tạo vốn dĩ là một "địa hạt" hết sức đặc biệt nên đã thu hút sự quan tâm của
khá nhiều lĩnh vực nghiên cứu giao thoa. Nếu cho rằng Tâm lý học là một khoa học
chuyên nghiên cứu về con người thì. Tâm lý học sáng tạo dần dần trở thành một
trong những khoa học chuyên nghiên cứu về sáng tạo của con người. Tâm lý học
sáng tạo đã phát triển mạnh mẽ không chỉ vì đó là khoa học tiếp cận và nghiên cứu
về một trong những hiện tượng tâm lí của con người mà vì những nguyên tắc và
phương pháp luận nghiên cứu Tâm lý học trở thành những nguyên tắc và phương
pháp luận nghiên cứu sáng tạo, và tất nhiên, nó đã ảnh hưởng đến tư duy sáng tạo
của con người một cách sắc nét nhất và hiệu quả nhất
.
Tâm lý học sáng tạo ở Việt Nam bước đầu được nghiên cứu và thể hiện "hình
dạng" của mình bắt đầu rõ nét. Những vấn đề cơ bản của sáng tạo được tiếp cận
dần dần dưới góc độ Tâm lý học như cơ chế tâm lý của hoạt động sáng tạo, thủ
thuật sáng tạo dưới góc độ tâm lý, đo lường sáng tạo trong m lý học,... là những
nội dung cơ bản và đầy tính hấp dẫn khi tiếp cận Tâm lý học sáng tạo trong góc
nhìn nghiên cứu và ứng dụng. Cũng chính từ đây, Tâm lý học sáng tạo đã trở thành
mối quan tâm của nhiều người và trở thành một trong những chuyên ngành khá lý
thú của Tâm lý học.
I. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÂM LÝ NGƯỜI LÀM SÁNG TẠO
NGHỆ THUẬT
1. Nhu cầu
Nhu cầu một hiện tượng tâm của con người; đòi hỏi, mong muốn, nguyện
vọng của con người về vật chất và tinh thần để tồn tại phát triển. Tùy theo trình
lOMoARcPSD| 60794687
độ nhận thức, môi trường sống, những đặc điểm tâm sinh lý, mỗi người những
nhu cầu khác nhau.
thể phân ra 2 loại nhu cầu ảnh hưởng đến người sáng tác nghệ thuật: nhu cầu của
khán giả/khách hàng và nhu cầu cá nhân của người nghệ sĩ.
- Nhu cầu khán giả/khách hàng: Khác với nghệ thuật mang tính hàn lâm, nghệ
thuật phục vụ mục đích thương mại chịu ảnh hưởng rất lớn từ nhu cầu của
khán giả khách hàng. Khách hàng đặt sản phẩm sẽ cách hình dung
tả riêng biệt về tác phẩm mình muốn, qua đó tác giả phỏng lại dưới
phong cách nhân. Còn đối tượng khán giả tác giả muốn hướng đến sẽ
ảnh hưởng đến cách truyền đạt của tác giả chứ không giới hạn tác giả trong
vấn đề hình ảnh mà tác giả sử dụng.
- Nhu cầu nhân: thiên về nhu cầu về tinh thần, một số loại thường thấy bao
gồm: nhu cầu thẩm mỹ (với đối tượng hướng tới cái đẹp, cái cao cả), nhu
cầu cải tiến, sáng tạo (Nếu bằng lòng với thực tại, bằng lòng với cách giải
quyết vấn đề hiện thì ắt hẳn không thể sáng tạo. Chính lòng mong muốn,
ham thích khám phá và tự đặt câu hỏi sẽ làm cho sự tư duy sáng tạo nảy sinh
phát triển), nhu cầu nâng cao năng lực (mong muốn cải thiện các năng
sẽ tạo động lực đngười nghệ luyện tập dần dần sản xuất ra nhiều tác
phẩm), nhu cầu bày tquan điểm, cảm xúc (tác phẩm nghệ thuật chính là
phương tiện để người nghệ thể hiện bản thân, truyền đi những thông điệp
và thay nghệ sĩ tác động lên những người thưởng thức).
2. Nhận thức
Trong tâm lý học, nhận thức là quá trình xửthông tin của tâm trí người tham gia
hay người điều hành hoặc của bộ não.
Cụ thể hơn, nhận thức hành động hay quá trình tiếp thu kiến thức những am
hiểu thông qua suy nghĩ, kinh nghiệm giác quan, bao gồm các quy trình như tri
thức, schú ý, tnhớ, sự đánh giá, ước lượng, sự luận, sự tính toán, việc giải
quyết vấn đề, việc đưa ra quyết định, sự lĩnh hội và việc sử dụng ngôn ngữ.
Nhận thức trong sáng tạo nghệ thuật là một quá trình tâm lý tích cực nhằm phân
tích các thuộc tính của đối tượng được miêu tả tổng hợp chúng thành hình ảnh
thẩm mỹ trọn vẹn trên cơ sở xúc cảm thẩm mỹ.
lOMoARcPSD| 60794687
Theo Lev Semyonovich Vygotsky (nhà tâm học người Liên Xô), quá trình sáng
tạo nghệ thuật là quá trình người nghệ sĩ phản hồi lại một cách nhạy cảm và tinh tế
những tác động của thế giới hiện thực. Nghệ quan sát, tiếp xúc với những sự vật
hiện tượng xung quanh, rút ra được những nhận xét, cảm nhận tinh tế, và từ đó hình
thành nên những chất liệu cho quá trình sáng tạo.
Tương tự, Johann Wolfgang von Goethe (nhà thơ, nhà viết kịch, tiểu thuyết gia, n
văn, nhà khoa học, họa người Đức) đã viết trong cuốn tự truyện của mình rằng,
tất cả những làm cho người nghệ khả năng sáng tạo các “ấn tượng quý
giá”. Những ấn tưởng này chính là kết tinh của những quan sát, cảm thụ của người
nghệ sĩ về thế giới.
Đối với những nghệ sĩ phải làm việc với hình ảnh như họa sĩ, nhà thiết kế, nhà làm
phim v.v, bên cạnh thính giác, khứu giác, xúc giác, vị giác, thì thị giác trong quan
sát đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Nhờ thị giác, nghệ nắm bắt được toàn diện
chi tiết đường nét, màu sắc, độ chìm nổi, mức sáng tối, sự hài hòa, cân xứng của đối
tượng. Để làm được điều này, người nghệ không chỉ cần các quan cảm giác
tinh vi, họ còn cần một trình độ thị hiếu thẩm mỹ cao để chọn lọc những thông tin
cần thiết. Từ đó, người nghệ sẽ phối hợp cảm xúc (bên trong) đối tượng thị giác
(bên ngoài) để xây dựng nên hình tượng nghệ thuật.
Nhận thức được coi cơ sban đầu, điều kiện của hoạt động sáng tạo nghệ thuật.
Nếu không nhận thức, các quá trình tưởng tượng, cảm xúc trong sáng tạo nghệ
thuật sẽ không đạt hiệu quả cao như mong muốn, thậm chí trường hợp các quá
trình này không hề diễn ra.
Để làm rõ hơn vai trò của nhận thức trong tâm lý người làm nghệ thuật, ta hãy nhìn
vào cách sử dụng u sắc miêu tả ánh sáng trong những bức tranh của Monet.
Trong hội họa Monet, ánh sáng màu sắc là hai thành tố chính hiện lên trên mặt
tranh. Ông vẽ mặt trời mọc trên mặt biển với cả những lớp sương chưa kịp tan
trong không khí lạnh ẩm, những hoa súng đang nở từ từ, những nóc nhà thờ hiện dần
trong thời tiết, tu ám sương đến nắng chiều. Tất cả những khung cảnh này được
họa nên, là nhờ con mắt rất tinh tường, có khả năng phân tích màu sắc và ánh sáng
cực kỳ tinh tế của Monet (nhận thức).
Một dụ khác chính những công trình kiến trúc lấy cảm hứng từ thiên nhiên như:
sân vận động quốc gia Bắc Kinh - tổ chim, Olympic Pavilion Barcelona - vàng,
tòa nhà The Gherkin London - dưa chuột, v.v. Nếu những nhà thiết kế không nhận
lOMoARcPSD| 60794687
thức, không quan sát nghiên cứu những nguồn cảm hứng, thì những thiết kế sẽ
không thể nào được hình thành.
3. Tưởng tượng:
Nghệ thuật là sự sáng tạo. Người nghệ sĩ sẽ sử dụng óc tưởng tượng phong phú của
mình, để biến những chất liệu không toàn vẹn, hoàn hảo của thực tế thành những
hình tượng nghệ thuật. Theo các nhà nghiên cứu, bên cạnh cảm xúc, tưởng tượng là
cấu trúc hạt nhân để tạo nên năng lực sáng tạo của người nghệ sĩ.
Theo Chu Quang Tiềm (nhà mĩ học, nluận văn học hiện đại, học giả nổi tiếng
người Trung Quốc), tưởng tượng trong sáng tạo nghệ thuật “căn cứ vào những ý
tưởng sẵn làm tài liệu, rồi cắt xén, gạt bỏ, chọn lọc, tổng hợp lại để thành một
hình tượng mới” . Như vậy, ông quan niệm “chỉ tưởng tượng sáng tạo mới sản
sinh ra nghệ thuật”, tưởng tượng không thể tách rời khỏi các biểu tượng, biểu
tượng là do kinh nghiệm thu thập được. Ông chia tưởng tượng ra làm hai loại:
- Tưởng tượng tái tạo: Đó quá trình người nghệ phục hồi, tái diễn lại
nhữngkinh nghiệm cũ trong ký ức của mình để tạo nên chất liệu, chuẩn bị cho việc
xây dựng hình tượng nghệ thuật. Tuy nhiên, đây chưa phải là quá trình sáng tạo mà
mới chỉ quá trình tích luỹ, chọn lựa trong thế giới hiện thực những skiện,
những con người, những vấn đphù hợp với xúc cảm, phù hợp với ý đồ sáng tạo
của người nghệ sĩ.
- Tưởng tượng sáng tạo: Theo Chu Quang Tiềm đây mới thực chất quá
trìnhsáng tạo nghệ thuật. Trong giai đoạn này, người nghệ sẽ tập hợp những yếu
tố, những hồi ức, những tài liệu đã được lựa chọn trong quá trình tái tạo, thiết lập
chúng theo một cấu mới, một cấu trúc nhất định để tạo nên hình tượng nghệ
thuật. Sự tổng hợp này thể được phát triển theo chiều hướng liên kết các đặc
điểm, các chi tiết của những đối tượng khác nhau hoặc theo hướng nhân cách hoá,
điển hình hoá, khái quát hoá, nhấn mạnh từng chi tiết trong bản thân sự vật, hiện
tượng để tạo nên những hình tượng nghệ thuật mới. Hình tượng nghệ thuật này càng
chứa đựng yếu tố mới lạ bao nhiêu thì khả năng sáng tạo của người nghệ càng
được đánh giá cao bấy nhiêu.
Để dụ, cùng nhìn vào logo LG. Đây thương hiệu nổi tiếng trong lĩnh vực điện
tử, điện lạnh. LG viết tắt cho tên gọi đầu tiên Lucky Goldstar cho slogan “Life’s
lOMoARcPSD| 60794687
Good”. Logo thương hiệu hình ảnh chiếc mặt cười, thể hiện đúng mong muốn
đem lại một “cuộc sống tốt đẹp” cho khách hàng.
Đây chính “tưởng tượng tái tạo” hành động “chọn lựa trong thế giới hiện thực
những sự kiện, những con người, những vấn đề phù hợp với xúc cảm, phù hợp với
ý đồ sáng tạo của người nghệ sĩ”. Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở đây, nhà thiết kế
đã thực hiện “tưởng tượng sáng tạo”, “tập hợp những yếu tố, những hồi ức, những
tài liệu đã được lựa chọn trong quá trình tái tạo, thiết lập chúng theo một cấu mới,
một cấu trúc nhất định để tạo nên hình tượng nghệ thuật”. Cụ thể, chữ L trong logo
đóng vai trò như một chiếc mũi, chữ G như một khuôn mặt, dấu chấm biểu tượng
cho mắt. Thiết kế vòng tròn mở, tạo nên hơi hướng hiện đại, thể hiện sự sáng tạo
mới mẻ, vượt giới hạn, không buộc trong bất kỳ không gian nào. Tổng thể logo
tạo nên một cảm giác dễ chịu, thoải mái.
Nhấn mạnh đặc điểm của quá trình tưởng tượng sáng tạo trong lĩnh vực nghệ thuật,
P.A.Rudich (nhà tâm lý học người Liên Xô) viết: “Đó là quá trình cao trào cảm
xúc đặc biệt mang lại cho hoạt động sáng tạo của con người một tích chất hứng
khởi, tức một trạng thái con người dường như thoát ly, thăng hoa khỏi xung
quanh”. Quan điểm này của Rudich hoàn toàn thống nhất với quan điểm của các nhà
Tâm lý học biện chứng, cho rằng không thể đem thứ tưởng tượng thông thường của
tất cả mọi người để sáng tạo nghệ thuật phải thứ tưởng tượng mang yếu tố cảm
xúc.
M.Ar.Naudop trong tác phẩm “Tâm học sáng tạo văn học” cũng đã chia tưởng
tượng sáng tạo của người nghệ sĩ thành 3 mức độ khác nhau:
- Tưởng tượng hoang đường: Đây thể coi giai đoạn thấp nhất trong hoạt
độngtưởng tượng của người nghệ sĩ. mức độ này, khi tưởng tượng người nghệ
thường thiên về những điều kỳ diệu, khác thường. Ông cho rằng, trong giai đoạn
này, người nghệ đã i vào chủ nghĩa duy tâm, ngây thơ, tức họ chỉ dựa vào những
mâu thuẫn mang tính chất bất thường, kỳ lạ giữa một bên thế giới hiện thực với
lOMoARcPSD| 60794687
một bên cuộc sống tưởng tượng bay bổng của người nghệ sĩ. cái đích cuối
cùng của họ được thoả mãn các tưởng đạo đức họ khát vọng vươn tới nhưng
không đạt được trong thế giới hiện thực, vậy họ phải gửi gắm vào những hình
tượng nghệ thuật hoang đường. Đây cũng cũng chính sự biểu hiện những ước
thầm kín về hạnh phúc và lòng khát khao tự do.
- Mức độ nhân cách hóa: Đây giai đoạn người nghệ sĩ chuyển các đặc điểm
liênquan đến tinh thần tâm trạng, chuyển tất cả những khát vọng hoang đường
hđã thực hiện giai đoạn trước vào các vật thể vật chất (các loại hình nghệ
thuật khác nhau: âm nhạc, hội hoạ, văn học...). Đây một sự liên tưởng không lường
trước và nhiều lúc bản thân người nghệ sĩ cũng không ý thức được do các mối liên
tưởng nào tạo nên. khả năng chuyển từ tưởng tượng sang tác phẩm nghệ thuật
thì chỉ có ở người nghệ sĩ mà thôi.
- Mức độ nhập thân: Tiền đề của sự nhập thân được tạo nên bởi các biểu tượng
rõràng về những con người, những hoàn cảnh xuất thân... Đây chính quá trình
người nghệ tưởng tượng ra toàn bộ cuộc sống thực tại trong thế giới ảo về các
hình tượng nhân vật mà họ sáng tạo nên. Khi nhập thân, người nghệ sẽ đặt mình
vào chính đời sống của nhân vật, họ suy nghĩ, biểu cảm như nhân vật trong từng
điều kiện, trường hợp cụ thể. Sự hoá thân càng cao, mức độ thành công của tác phẩm
càng lớn. Điều kiện để tạo nên trạng thái nhập thân của người nghệ không nhất
thiết những cái họ đã trải qua trong cuộc sống đây thực chất là quá trình người
nghệ sĩ tiếp nhận những tác động từ bên ngoài, dựa trên những kinh nghiệm đã có,
họ sẽ suy nghĩ một cách sâu sắc, đầy đủ về nhân vật, chú ý tới những đặc điểm ngoại
hình nội tâm của nhân vật. Khi đủ ba điều kiện này, trí tưởng tượng bắt đầu
hoạt động và người hoạ sĩ sẽ hóa thân vào nhân vật của mình để sáng tạo.
Như vậy, cái đích cuối cùng trong tưởng tượng sáng tạo của người nghệ là tạo ra
các hình tượng nghệ thuật. Đó chính là hệ thống các lớp cảm xúc tiêu biểu trong xã
hội, là nơi lưu giữ các xúc cảm thẩm mỹ cũng nơi truyền đạt những thông điệp
thẩm mỹ. Chính nhờ có tưởng tượng thông qua tưởng tượng mà toàn bộ các hình
tượng nghệ thuật tồn tại trong các tác phẩm đã đạt đến trình độ của sự tưởng tượng
khái quát, tạo nên cái riêng, cái độc đáo của từng nhân cách sáng tạo mang tính
khác lạ so với thế giới hiện thực.
4. Cảm xúc/Tình cảm:
lOMoARcPSD| 60794687
Xúc cảm là nhân tố làm nền, liên kết, huy động các quá trình tâm lý, là nhân tố thúc
đẩy hoạt động của tri giác và tưởng tượng.
Trong tâm học, cảm xúc một trạng thái cảm nhận liên quan đến suy nghĩ, sự
thay đổi về sinh một biểu hiện (hoặc hành vi) ra bên ngoài. Cảm xúc còn
một hình thức trải nghiệm cơ bản của con người về thái độ của chính mình đối với
sự vật, hiện tượng của hiện thực khách quan, với người khác với bản thân. Sự
hình thành cảm xúc là một điều kiện tất yếu của sự phát triển con người như là một
nhân cách.
Trong nghệ thuật, cảm xúc là trạng thái rung động của con người đối với nghệ thuật,
scảm nhận cái đẹp khách quan với cái đẹp chủ quan, qua đó làm nảy sinh nhu
cầu biểu đạt cái đẹp. Cảm xúc một cấu tạo tâm thường xuyên xuất hiện trong
cuộc sống của người nghệ sĩ. thể nói, khi tiếp xúc với thế giới hiện thực, bên
cạnh các hoạt động của tri giác thi cảm xúc của người nghệ cũng được hình thành.
Nhờ những cảm xúc này, bên trong người nghệ sĩ sinh ra những đam mê, khát
vọng, tạo động lực, thôi thúc họ thể hiện vào tác phẩm của mình. Cảm xúc trong
nghệ thuật chỉ có thể tồn tại trong một số hình thức xác định, và ngược lại, tác phẩm
nghệ thuật thể hiện cảm xúc một cách biểu ợng. vậy, tác phẩm nghệ thuật không
thể tồn tại nếu thiếu cảm xúc và ngược lại.
Khi người nghệ nhìn nhận, đánh giá các sự vật hiện tượng của thế giới khách quan,
cảm xúc của họ được phân định thành các cặp phạm trù đối nghịch: yêu ghét, kính
trọng - khinh bỉ,... Những cặp phạm trù này đã tạo ra những cấu trúc đối nghịch của
hình tượng nghệ thuật như:
+ Đối nghịch giữa nội dung và hình thức biểu hiện của hình tượng
dụ: Tranh biếm họa, với những hình nh hài hước vui nhộn nhưng nội dung
lại mang tính phê phán, châm biếm.
+ Đối nghịch giữa chất liệu sáng tạo và sản phẩm sáng tạo
dụ: Một số tác phẩm nghệ thuật như tranh hay những bộ cánh thời trang
được tạo ra bởi “rác”.
+ Đối nghịch giữa những nội dung phản ánh trong chính bản thân hình tượng
dụ: Lửa sức nóng của như chính những xúc cảm yêu thương khi
nhớ nhung xa cách. Tuy nhiên, ý nghĩa của ngọn lửa còn gắn với stàn phá
lOMoARcPSD| 60794687
hủy diệt. Lửa gây bỏng da, gây hỏa hoạn, cháy rừng, thiêu rụi tài sản lẫn
con người.
Cảm xúc sáng tạo nghệ thuật của người nghệ cảm xúc được hòa nhập với óc
tưởng tượng sáng tạo, trong cảm xúc tưởng tượng, trong tưởng tượng cảm xúc.
Chính vậy, Cảm xúc trong hình tượng nghệ thuật bao giờ cũng vượt lên những
xúc cảm của đời thường, sự mãnh liệt hay u uất của nó cũng được bộc lộ ở các cung
bậc cảm xúc khác với cung bậc của người thường.
Điều này có thể nhận thấy khi ngắm nhìn những bức tranh của Van Gogh. Nhiều bức
tranh của ông skết hợp giữa hai màu sắc xanh vàng, của lạnh lẽo ấm áp,
của u ám rực rỡ. Những cặp trạng thái ấy cộng thêm thủ pháp của những nét c
tạo cho mỗi khán giả một cảm xúc mãnh liệt khác nhau. Bên cạnh đó, qua cách Van
Gogh xây dựng bố cục điểm nhìn cho thấy ông đã thể hiện nỗi cô đơn một cách
đầy dữ dội trực tiếp. Các tác phẩm nếu được Van Gogh vẽ ở cỡ cảnh rộng thì sẽ
rất ít người hoặc thậm chí không người. Ngược lại, những bức vẽ cận cảnh thì
chủ thể chiếm phần diện tích rất lớn. “Con người” trong những bức họa của Van
Gogh hoặc bị đặt trong sự lạc lõng giữa một không gian bao la, hoặc phải chen chúc
nhau dưới sự đè nén của khung hình.
Trong các điều kiện ảnh hưởng đến quá trình sáng tác của người nghệ sĩ, cảm xúc
được đánh giá là yếu tố cốt lõi, là nhân tố trung tâm quan trọng hơn cả tri giác. Theo
Théodule-Armand Ribot, nhà Tâm học người Pháp: Cảm xúc của người nghệ
luôn tuôn trào khi họ đứng trước một sự vật, một con người, một sự kiện tồn tại trong
thế giới hiện thực và có liên quan ít nhiều đến họ. chất đầu tiên và cơ bản đòi hỏi
phải người sáng tác một tâm hồn giàu xúc động, đã người ai cũng những
yêu, ghét, hờn giận, vui buồn… nhưng ở người nghệ sĩ điều này trở nên đặc biệt, dễ
xúc động, dễ nhạy cảm. Như vậy, muốn nghệ thuật, người sáng tác trước tiên phải
có tình cảm nồng nàn, cảm xúc mãnh liệt. Đại thi hào Puskin cũng cho rằng: Ý chí,
tính sẽ bất lực nếu người nghệ thiếu cảm xúc ngập tràn tâm hồn. Thậm chí
H.Ibsen, nvăn Na Uy còn khẳng định: Khả năng biết đau khổ phẩm chất cần
của nghệ thiên tài. Cảm xúc mãnh liệt góp phần tạo nên cảm hứng sáng tác giúp
các nghệ sĩ có khả năng tập trung cao độ, tưởng tượng sáng tạo có hiệu quả.
II. PHÂN TÍCH SẢN PHẨM CÁ NHÂN
Ở trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng những hình ảnh có liên quan đến bài tập
chuyên ngành sáng tác tranh in độc bản thuộc học phần năm 2 - chuyên ngành Thiết
lOMoARcPSD| 60794687
kế Đồ họa của một thành viên trong nhóm để làm công cụ trực quan trong quá trình
phân tích những ảnh hưởng của các yếu tố trên đến các sản phẩm.
Trước hết, với yếu tố nhu cầu, gồm 2 loại: nhu cầu khách hàng và nhu cầu cá nhân,
ta đánh giá mức độ ảnh hưởng qua 2 tác phẩm dưới đây:
lOMoARcPSD| 60794687
lOMoARcPSD| 60794687
Với tác phẩm đầu tiên thuộc bài chuyên ngành in độc bản, tác phẩm thứ 2 tranh
vẽ tự do. Điểm đầu tiên dẫn đến sự khác nhau rệt trong hai tác phẩm đến từ nhu
cầu. Bức tranh đầu tiên bị ảnh hưởng khá nhiều từ yếu tố khách quan, nói chính xác
hơn yêu cầu của giáo viên đề bài, đó phải làm được đây tranh in độc
bản. Tranh in độc bản có yêu cầu phải tạo nên được những cách thể hiện mang tính
độc bản (tính duy nhất), nói cách khác là không thể để người khác bắt chước được,
vậy nên khá dễ hiểu khi nhìn vào tác phẩm đầu tiên, ta thấy được phần từ cổ đến
lông con cừu được thay thế bằng những giọt nước với màu sắc, hình dạng, kích thước
ngẫu nhiên nhưng vẫn thể hiện được đó một phần thể của con vật. Ngoài ra,
yếu tố khách quan vẫn có ảnh hưởng đến tác phẩm này, đó là từ nhu cầu cá nhân, ở
đây ràng hơn từ nhu cầu thẩm mỹ. Tác giả của tác phẩm sử dụng hiệu
ứng nào cho tranh đi nữa vẫn hướng tới mục tiêu cái đẹp trong tác phẩm, s
ràng khắc họa hình ảnh con cừu khá chân thực.
So sánh với hình ảnh thứ 2, một tác phẩm tự do về con cừu. Ta dễ thấy được cách
thể hiện đây giống với tả thực, nghĩa vẽ con vật giống thật như trong thực tế,
lOMoARcPSD| 60794687
không sử dụng các thpháp độc bản như bức tranh trên. Lý do đơn giản đây bởi
đây là bức tranh được sáng tác bởi tác giả nhưng không chịu ảnh hưởng từ yêu cầu
ràng buộc từ bất cứ phía nào, hay nói cách khác không ai yêu cầu tác giả
phải vẽ bức tranh này dựa trên một yêu cầu nhất định, vậy nên cách thể hiện ra sao
thì đều phụ thuộc vào cá nhân tác giả, với mục đích cuối cùng vẫn là hướng đến cái
đẹp trong mỹ thuật.
-----------------------------------------------------
Ở yếu tố thứ 2, ta phân tích ảnh hưởng nhận thức của chính tác giả đến tác phẩm in
độc bản.
lOMoARcPSD| 60794687
lOMoARcPSD| 60794687
lOMoARcPSD| 60794687
Khi so sánh 2 bức tranh trên, mặc cùng 2 tác phẩm in độc bản của cùng 1
người, cùng 1 đề bài, nhưng lại phân cấp được 2 mức độ nhận thức khác nhau. Tương
tự về sphân tích những bức tranh của Monet trước đây, đây ta cũng nhìn ra
được nhận thức của tác giả về ánh sáng và màu sắc. Ở bức tranh đầu tiên, ta dễ dàng
nhận thấy được các đường nét trên khuôn mặt con vật đâu phần sáng, đâu
phần tối, trong khi ở bức tranh thứ 2 thì khó định hình hơn nhiều. Thậm chí, bức
tranh đầu tiên ta còn nhìn ra được hướng ánh sáng hướng chiếu từ trái qua phải
từ bên trên xuống.
Màu sắc cả 2 bức tranh đều sự kết hợp của rất nhiều màu sắc thuộc hai tông
nóng lạnh, tuy nhiên bức tranh đầu lại có một điểm nổi bật hơn cả đó là đã lợi dụng
những sự phân chia mảng màu này để tôn lên yếu tố “gần tỏ xa mờ” - một yếu tố
quan trọng cho một tác phẩm đẹp tinh tế. Những phần nào của con vật đằng
trước, đóng vai trò chính thì được miêu tả rất rõ, rất kỹ, còn những phần xa, ở phía
sau và đóng vai trò phụ thì được thể hiện mờ nhạt hơn, có những chỗ gần như nhập
vào với mảng màu nền phía sau con vật.
Qua 2 yếu tố màu sắc ánh sáng ở cả 2 tác phẩm, ta ít nhiều phải công nhận mức
độ quan sát cảm nhận đối tượng thực tế dựa trên các giác quan, quan trọng
nhất ở đây là thị giác bức tranh đầu tiên cao hơn hẳn ở bức tranh số 2, điều này đã
dẫn đến sự khác nhau rõ rệt trong phương pháp thể hiện của cùng một tác giả.
--------------------------------------------------------------------
Với yếu tố thứ ba - tưởng tượng, chúng tôi chọn ra một bức tranh với cách thể hiện
đặc biệt nhất trong bộ bài của tác giả.
lOMoARcPSD| 60794687
lOMoARcPSD| 60794687
Về phần màu sắc, chúng tôi không bàn cãi nhiều màu nền màu đối tượng chính
chỉ tông màu nóng đơn thuần với độ tương phản mạnh để nhìn chính phụ.
Nhưng điều đáng nói đến ở đây là cách khắc họa hình tượng con cừu của tác giả, đó
là thông qua những nét bút thẳng có độ dài khác nhau.
Để hình dung hơn, khi bạn đặt mắt sát với tác phẩm, dường như rất khó thể
quan sát được nhận ra đối tượng trong bức tranh. Điều kỳ diệu sẽ xảy ra khi bạn
nheo mắt lại hoặc đặt bức tranh ra xa, khi đó đôi mắt của bạn sẽ chỉ quan sát được
tổng thể chứ không còn nhìn rõ được chi tiết như khi mở mắt to và đặt sát vào tranh,
lúc này bạn sẽ càng lúc càng nhìn rõ hình ảnh chân dung của con cừu với đầy đủ các
bộ phận từ mắt. mũi, miệng cho đến tai và sừng.
Câu hỏi đặt ra là trong thực tế hình ảnh mẫu nào giống hệt như vậy để tác giả mô
phỏng theo hay không?
Đương nhiên câu trả lời không, và điều này đồng nghĩa với việc tác giả buộc phải
tưởng tượng ra hình ảnh này trước khi chuyển hóa nó lên tranh bằng những nét bút.
Đơn giản hơn nữa, ta thể coi đây biểu hiện bản của “tưởng tượng hoang
đường” “tưởng tượng sáng tạo”. Nói “tưởng tượng hoang đường” bởi tưởng
tượng của tác giả thiên vnhững điều kỳ diệu, khác thường. Tác gichỉ dựa vào
những mâu thuẫn mang tính chất bất thường, kỳ lgiữa một bên thế giới hiện thực
với một bên là cuộc sống tưởng tượng bay bổng của người nghệ . Và cái đích cuối
cùng của họ được thoả mãn các tưởng đạo đức họ khát vọng vươn tới nhưng
không đạt được trong thế giới hiện thực, vậy họ phải gửi gắm vào những hình
tượng nghệ thuật hoang đường. Đây cũng cũng chính là sự biểu hiện những ước
thầm kín về hạnh phúc và lòng khát khao tự do.
Còn nói đây cũng là “tưởng tượng sáng tạo” bởi tác giả đã tập hợp những yếu tố,
những hồi ức, những tài liệu đã được lựa chọn trong quá trình tái tạo, thiết lập chúng
theo một cấu mới, một cấu trúc nhất định để tạo nên hình tượng nghệ thuật,
cấu trúc mới, cấu trúc nhất định đây chính những đường nét sổ dọc đặt sát
nhau với độ dài bất kì.
-----------------------------------------------------------------------------
Cuối cùng và cũng đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong mỹ thuật, đó là yếu tố cảm
xúc.
lOMoARcPSD| 60794687

Preview text:

lOMoAR cPSD| 60794687
Trường Đại học Mỹ thuật Công Nghiệp TÂM LÝ SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT
Các yếu tố ảnh hưởng đến tâm lý người làm nghệ thuật và sự ảnh hưởng như
thế của yếu tố đó đến sản phẩm mà anh (chị) sáng tạo ra. lOMoAR cPSD| 60794687 MỞ ĐẦU:
Khái quát về Tâm lý học:
- Tâm lý: là tất cả những hiện tượng tinh thần xảy ra trong đầu óc con người,
gắn liền với mọi hoạt động của con người.
- Tâm lý học: là khoa học nghiên cứu về các hiện tượng tâm lý. Một nhóm
ngành khoa học có lịch sử hình thành và phát triển nhất định. Trước khi trở
thành một khoa học độc lập, các tư tưởng Tâm lý học đã được manh nha từ rất sớm.
Đối tượng, nhiệm vụ của Tâm lý học:
Đối tượng của Tâm lý học là các hiện tượng tâm lý với tư cách là một hiên tượng
tinh thần do thế giới khách quan tác động vào não người sinh ra, gọi chung là các hoạt động tâm lý.
Nhiệm vụ cơ bản của Tâm lý học là nghiên cứu bản chất hoạt động của tâm lý, các
quy luật nảy sinh và phát triển tâm lý, cơ chế diễn biến và thể hiện tâm lý, quy luật
về mối quan hệ giữa các hiện tượng tâm lý.
Tức là, tâm lý học có nhiệm vụ nghiên cứu những yếu tố khách quan, chủ quan làm
hình thành tâm lý của con người, bao gồm cơ chế hình thành, biểu hiện của hoạt
động tâm lý,cơ chế hoạt động của tâm lý (tâm lý con người hoạt động như thế
nào?) và chức năng, vai trò của tâm lý đối với hoạt động của con người.
Khái quát về khái niệm Sáng tạo:
Theo nghiên cứu của giáo trình: “Giáo trình Tâm lý học Sáng Tạo” của ông Huỳnh Văn Sơn:
Từ điển Triết học có nêu lên luận định: "Sáng tạo là quá trình hoạt động của con
người tạo ra những giá trị vật chất, tinh thần mới về chất. Các loại hình sáng tạo
được xác định bởi đặc trưng nghề nghiệp như khoa học kĩ thuật, tổ chức quân sự. Có
thể nói sáng tạo có mặt trong mọi lĩnh vực của thế giới vật chất và tinh thần".
Không thể không ghi nhận điểm chung mà gần như tất cả các khái niệm đều đồng
tình là sáng tạo phải là quá trình tạo ra hay hướng đến cái mới. Nói khác đi, có thể
hiểu sáng tạo là quá trình bằng tư duy độc lập, con người đã phối hợp, biến đổi và lOMoAR cPSD| 60794687
xây dựng nên những cái mới trên bình diện cá nhân hay xã hội từ những kinh nghiệm
sẵn có của mình. Những khái niệm khác nhau về sáng tạo cho thấy quan niệm về
sáng tạo chưa thể thống nhất và việc chọn lọc một khái niệm chuẩn cũng chưa thể
thực hiện những vấn đề cơ bản trong sáng tạo chính là việc tạo ra "cái mới", dù rằng,
cái mới này được nhìn nhận ở góc nhìn nào hay đặt ở đâu. Vì vậy, việc tìm hiểu thêm
bản chất của sáng tạo là vô cùng cần thiết. Theo các nhà Tâm lý học, 4 yếu tố có tác
động đến tâm lý của người sáng tạo nghệ thuật bao gồm: nhu cầu, nhận thức, tưởng tượng và cảm xúc.
Tại sao phải về nghiên cứu tâm lý học sáng tạo?
Sáng tạo vốn dĩ là một "địa hạt" hết sức đặc biệt nên đã thu hút sự quan tâm của
khá nhiều lĩnh vực nghiên cứu giao thoa. Nếu cho rằng Tâm lý học là một khoa học
chuyên nghiên cứu về con người thì. Tâm lý học sáng tạo dần dần trở thành một
trong những khoa học chuyên nghiên cứu về sáng tạo của con người. Tâm lý học
sáng tạo đã phát triển mạnh mẽ không chỉ vì đó là khoa học tiếp cận và nghiên cứu
về một trong những hiện tượng tâm lí của con người mà vì những nguyên tắc và
phương pháp luận nghiên cứu Tâm lý học trở thành những nguyên tắc và phương
pháp luận nghiên cứu sáng tạo, và tất nhiên, nó đã ảnh hưởng đến tư duy sáng tạo
của con người một cách sắc nét nhất và hiệu quả nhất.
Tâm lý học sáng tạo ở Việt Nam bước đầu được nghiên cứu và thể hiện "hình
dạng" của mình bắt đầu rõ nét. Những vấn đề cơ bản của sáng tạo được tiếp cận
dần dần dưới góc độ Tâm lý học như cơ chế tâm lý của hoạt động sáng tạo, thủ
thuật sáng tạo dưới góc độ tâm lý, đo lường sáng tạo trong Tâm lý học,... là những
nội dung cơ bản và đầy tính hấp dẫn khi tiếp cận Tâm lý học sáng tạo trong góc
nhìn nghiên cứu và ứng dụng. Cũng chính từ đây, Tâm lý học sáng tạo đã trở thành
mối quan tâm của nhiều người và trở thành một trong những chuyên ngành khá lý thú của Tâm lý học.
I. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÂM LÝ NGƯỜI LÀM SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT 1. Nhu cầu
Nhu cầu là một hiện tượng tâm lý của con người; là đòi hỏi, mong muốn, nguyện
vọng của con người về vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển. Tùy theo trình lOMoAR cPSD| 60794687
độ nhận thức, môi trường sống, những đặc điểm tâm sinh lý, mỗi người có những nhu cầu khác nhau.
Có thể phân ra 2 loại nhu cầu ảnh hưởng đến người sáng tác nghệ thuật: nhu cầu của
khán giả/khách hàng và nhu cầu cá nhân của người nghệ sĩ.
- Nhu cầu khán giả/khách hàng: Khác với nghệ thuật mang tính hàn lâm, nghệ
thuật phục vụ mục đích thương mại chịu ảnh hưởng rất lớn từ nhu cầu của
khán giả và khách hàng. Khách hàng đặt sản phẩm sẽ có cách hình dung và
mô tả riêng biệt về tác phẩm mà mình muốn, qua đó tác giả mô phỏng lại dưới
phong cách cá nhân. Còn đối tượng khán giả mà tác giả muốn hướng đến sẽ
ảnh hưởng đến cách truyền đạt của tác giả chứ không giới hạn tác giả trong
vấn đề hình ảnh mà tác giả sử dụng.
- Nhu cầu cá nhân: thiên về nhu cầu về tinh thần, một số loại thường thấy bao
gồm: nhu cầu thẩm mỹ (với đối tượng hướng tới là cái đẹp, cái cao cả), nhu
cầu cải tiến, sáng tạo (Nếu bằng lòng với thực tại, bằng lòng với cách giải
quyết vấn đề hiện có thì ắt hẳn không thể có sáng tạo. Chính lòng mong muốn,
ham thích khám phá và tự đặt câu hỏi sẽ làm cho sự tư duy sáng tạo nảy sinh
và phát triển), nhu cầu nâng cao năng lực (mong muốn cải thiện các kĩ năng
sẽ tạo động lực để người nghệ sĩ luyện tập và dần dần sản xuất ra nhiều tác
phẩm), nhu cầu bày tỏ quan điểm, cảm xúc (tác phẩm nghệ thuật chính là
phương tiện để người nghệ sĩ thể hiện bản thân, truyền đi những thông điệp
và thay nghệ sĩ tác động lên những người thưởng thức). 2. Nhận thức
Trong tâm lý học, nhận thức là quá trình xử lý thông tin của tâm trí người tham gia
hay người điều hành hoặc của bộ não.
Cụ thể hơn, nhận thức là hành động hay quá trình tiếp thu kiến thức và những am
hiểu thông qua suy nghĩ, kinh nghiệm và giác quan, bao gồm các quy trình như tri
thức, sự chú ý, trí nhớ, sự đánh giá, ước lượng, sự lí luận, sự tính toán, việc giải
quyết vấn đề, việc đưa ra quyết định, sự lĩnh hội và việc sử dụng ngôn ngữ.
Nhận thức trong sáng tạo nghệ thuật là một quá trình tâm lý tích cực nhằm phân
tích các thuộc tính của đối tượng được miêu tả và tổng hợp chúng thành hình ảnh
thẩm mỹ trọn vẹn trên cơ sở xúc cảm thẩm mỹ. lOMoAR cPSD| 60794687
Theo Lev Semyonovich Vygotsky (nhà tâm lý học người Liên Xô), quá trình sáng
tạo nghệ thuật là quá trình người nghệ sĩ phản hồi lại một cách nhạy cảm và tinh tế
những tác động của thế giới hiện thực. Nghệ sĩ quan sát, tiếp xúc với những sự vật
hiện tượng xung quanh, rút ra được những nhận xét, cảm nhận tinh tế, và từ đó hình
thành nên những chất liệu cho quá trình sáng tạo.
Tương tự, Johann Wolfgang von Goethe (nhà thơ, nhà viết kịch, tiểu thuyết gia, nhà
văn, nhà khoa học, họa sĩ người Đức) đã viết trong cuốn tự truyện của mình rằng,
tất cả những gì làm cho người nghệ sĩ có khả năng sáng tạo là các “ấn tượng quý
giá”. Những ấn tưởng này chính là kết tinh của những quan sát, cảm thụ của người nghệ sĩ về thế giới.
Đối với những nghệ sĩ phải làm việc với hình ảnh như họa sĩ, nhà thiết kế, nhà làm
phim v.v, bên cạnh thính giác, khứu giác, xúc giác, vị giác, thì thị giác trong quan
sát đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Nhờ thị giác, nghệ sĩ nắm bắt được toàn diện và
chi tiết đường nét, màu sắc, độ chìm nổi, mức sáng tối, sự hài hòa, cân xứng của đối
tượng. Để làm được điều này, người nghệ sĩ không chỉ cần các cơ quan cảm giác
tinh vi, họ còn cần một trình độ thị hiếu thẩm mỹ cao để chọn lọc những thông tin
cần thiết. Từ đó, người nghệ sĩ sẽ phối hợp cảm xúc (bên trong) và đối tượng thị giác
(bên ngoài) để xây dựng nên hình tượng nghệ thuật.
Nhận thức được coi là cơ sở ban đầu, là điều kiện của hoạt động sáng tạo nghệ thuật.
Nếu không có nhận thức, các quá trình tưởng tượng, cảm xúc trong sáng tạo nghệ
thuật sẽ không đạt hiệu quả cao như mong muốn, thậm chí có trường hợp các quá
trình này không hề diễn ra.
Để làm rõ hơn vai trò của nhận thức trong tâm lý người làm nghệ thuật, ta hãy nhìn
vào cách sử dụng màu sắc và miêu tả ánh sáng trong những bức tranh của Monet.
Trong hội họa Monet, ánh sáng và màu sắc là hai thành tố chính hiện lên trên mặt
tranh. Ông vẽ mặt trời mọc trên mặt biển với cả những lớp sương mù chưa kịp tan
trong không khí lạnh ẩm, những hoa súng đang nở từ từ, những nóc nhà thờ hiện dần
trong thời tiết, từ u ám sương mù đến nắng chiều. Tất cả những khung cảnh này được
họa nên, là nhờ con mắt rất tinh tường, có khả năng phân tích màu sắc và ánh sáng
cực kỳ tinh tế của Monet (nhận thức).
Một ví dụ khác chính là những công trình kiến trúc lấy cảm hứng từ thiên nhiên như:
sân vận động quốc gia Bắc Kinh - tổ chim, Olympic Pavilion Barcelona - cá vàng,
tòa nhà The Gherkin London - dưa chuột, v.v. Nếu những nhà thiết kế không nhận lOMoAR cPSD| 60794687
thức, không quan sát và nghiên cứu những nguồn cảm hứng, thì những thiết kế sẽ
không thể nào được hình thành. 3. Tưởng tượng:
Nghệ thuật là sự sáng tạo. Người nghệ sĩ sẽ sử dụng óc tưởng tượng phong phú của
mình, để biến những chất liệu không toàn vẹn, hoàn hảo của thực tế thành những
hình tượng nghệ thuật. Theo các nhà nghiên cứu, bên cạnh cảm xúc, tưởng tượng là
cấu trúc hạt nhân để tạo nên năng lực sáng tạo của người nghệ sĩ.
Theo Chu Quang Tiềm (nhà mĩ học, nhà lí luận văn học hiện đại, học giả nổi tiếng
người Trung Quốc), tưởng tượng trong sáng tạo nghệ thuật là “căn cứ vào những ý
tưởng có sẵn làm tài liệu, rồi cắt xén, gạt bỏ, chọn lọc, tổng hợp lại để thành một
hình tượng mới” . Như vậy, ông quan niệm “chỉ có tưởng tượng sáng tạo mới sản
sinh ra nghệ thuật”, tưởng tượng không thể tách rời khỏi các biểu tượng, mà biểu
tượng là do kinh nghiệm thu thập được. Ông chia tưởng tượng ra làm hai loại: -
Tưởng tượng tái tạo: Đó là quá trình người nghệ sĩ phục hồi, tái diễn lại
nhữngkinh nghiệm cũ trong ký ức của mình để tạo nên chất liệu, chuẩn bị cho việc
xây dựng hình tượng nghệ thuật. Tuy nhiên, đây chưa phải là quá trình sáng tạo mà
nó mới chỉ là quá trình tích luỹ, chọn lựa trong thế giới hiện thực những sự kiện,
những con người, những vấn đề phù hợp với xúc cảm, phù hợp với ý đồ sáng tạo của người nghệ sĩ. -
Tưởng tượng sáng tạo: Theo Chu Quang Tiềm đây mới thực chất là quá
trìnhsáng tạo nghệ thuật. Trong giai đoạn này, người nghệ sĩ sẽ tập hợp những yếu
tố, những hồi ức, những tài liệu đã được lựa chọn trong quá trình tái tạo, thiết lập
chúng theo một cơ cấu mới, một cấu trúc nhất định để tạo nên hình tượng nghệ
thuật. Sự tổng hợp này có thể được phát triển theo chiều hướng liên kết các đặc
điểm, các chi tiết của những đối tượng khác nhau hoặc theo hướng nhân cách hoá,
điển hình hoá, khái quát hoá, nhấn mạnh từng chi tiết trong bản thân sự vật, hiện
tượng để tạo nên những hình tượng nghệ thuật mới. Hình tượng nghệ thuật này càng
chứa đựng yếu tố mới lạ bao nhiêu thì khả năng sáng tạo của người nghệ sĩ càng
được đánh giá cao bấy nhiêu.
Để ví dụ, cùng nhìn vào logo LG. Đây là thương hiệu nổi tiếng trong lĩnh vực điện
tử, điện lạnh. LG là viết tắt cho tên gọi đầu tiên Lucky Goldstar và cho slogan “Life’s lOMoAR cPSD| 60794687
Good”. Logo thương hiệu là hình ảnh chiếc mặt cười, thể hiện đúng mong muốn
đem lại một “cuộc sống tốt đẹp” cho khách hàng.
Đây chính là “tưởng tượng tái tạo” là hành động “chọn lựa trong thế giới hiện thực
những sự kiện, những con người, những vấn đề phù hợp với xúc cảm, phù hợp với
ý đồ sáng tạo của người nghệ sĩ”. Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở đây, nhà thiết kế
đã thực hiện “tưởng tượng sáng tạo”, “tập hợp những yếu tố, những hồi ức, những
tài liệu đã được lựa chọn trong quá trình tái tạo, thiết lập chúng theo một cơ cấu mới,
một cấu trúc nhất định để tạo nên hình tượng nghệ thuật”. Cụ thể, chữ L trong logo
đóng vai trò như một chiếc mũi, chữ G như một khuôn mặt, dấu chấm biểu tượng
cho mắt. Thiết kế vòng tròn mở, tạo nên hơi hướng hiện đại, thể hiện sự sáng tạo
mới mẻ, vượt giới hạn, không bó buộc trong bất kỳ không gian nào. Tổng thể logo
tạo nên một cảm giác dễ chịu, thoải mái.
Nhấn mạnh đặc điểm của quá trình tưởng tượng sáng tạo trong lĩnh vực nghệ thuật,
P.A.Rudich (nhà tâm lý học người Liên Xô) viết: “Đó là quá trình có cao trào cảm
xúc đặc biệt và nó mang lại cho hoạt động sáng tạo của con người một tích chất hứng
khởi, tức là một trạng thái mà con người dường như thoát ly, thăng hoa khỏi xung
quanh”. Quan điểm này của Rudich hoàn toàn thống nhất với quan điểm của các nhà
Tâm lý học biện chứng, cho rằng không thể đem thứ tưởng tượng thông thường của
tất cả mọi người để sáng tạo nghệ thuật mà phải là thứ tưởng tượng mang yếu tố cảm xúc.
M.Ar.Naudop trong tác phẩm “Tâm lý học sáng tạo văn học” cũng đã chia tưởng
tượng sáng tạo của người nghệ sĩ thành 3 mức độ khác nhau: -
Tưởng tượng hoang đường: Đây có thể coi là giai đoạn thấp nhất trong hoạt
độngtưởng tượng của người nghệ sĩ. ở mức độ này, khi tưởng tượng người nghệ sĩ
thường thiên về những điều kỳ diệu, khác thường. Ông cho rằng, trong giai đoạn
này, người nghệ sĩ đã rơi vào chủ nghĩa duy tâm, ngây thơ, tức họ chỉ dựa vào những
mâu thuẫn mang tính chất bất thường, kỳ lạ giữa một bên là thế giới hiện thực với lOMoAR cPSD| 60794687
một bên là cuộc sống tưởng tượng bay bổng của người nghệ sĩ. Và cái đích cuối
cùng của họ là được thoả mãn các lý tưởng đạo đức mà họ khát vọng vươn tới nhưng
không đạt được trong thế giới hiện thực, vì vậy họ phải gửi gắm vào những hình
tượng nghệ thuật hoang đường. Đây cũng cũng chính là sự biểu hiện những ước mơ
thầm kín về hạnh phúc và lòng khát khao tự do. -
Mức độ nhân cách hóa: Đây là giai đoạn người nghệ sĩ chuyển các đặc điểm
liênquan đến tinh thần và tâm trạng, chuyển tất cả những khát vọng hoang đường
mà họ đã thực hiện ở giai đoạn trước vào các vật thể vật chất (các loại hình nghệ
thuật khác nhau: âm nhạc, hội hoạ, văn học...). Đây là một sự liên tưởng không lường
trước và nhiều lúc bản thân người nghệ sĩ cũng không ý thức được do các mối liên
tưởng nào tạo nên. Và khả năng chuyển từ tưởng tượng sang tác phẩm nghệ thuật
thì chỉ có ở người nghệ sĩ mà thôi. -
Mức độ nhập thân: Tiền đề của sự nhập thân được tạo nên bởi các biểu tượng
rõràng về những con người, những hoàn cảnh xuất thân... Đây chính là quá trình
người nghệ sĩ tưởng tượng ra toàn bộ cuộc sống thực tại trong thế giới ảo về các
hình tượng nhân vật mà họ sáng tạo nên. Khi nhập thân, người nghệ sĩ sẽ đặt mình
vào chính đời sống của nhân vật, họ suy nghĩ, biểu cảm như nhân vật trong từng
điều kiện, trường hợp cụ thể. Sự hoá thân càng cao, mức độ thành công của tác phẩm
càng lớn. Điều kiện để tạo nên trạng thái nhập thân của người nghệ sĩ không nhất
thiết là những cái họ đã trải qua trong cuộc sống mà đây thực chất là quá trình người
nghệ sĩ tiếp nhận những tác động từ bên ngoài, dựa trên những kinh nghiệm đã có,
họ sẽ suy nghĩ một cách sâu sắc, đầy đủ về nhân vật, chú ý tới những đặc điểm ngoại
hình và nội tâm của nhân vật. Khi có đủ ba điều kiện này, trí tưởng tượng bắt đầu
hoạt động và người hoạ sĩ sẽ hóa thân vào nhân vật của mình để sáng tạo.
Như vậy, cái đích cuối cùng trong tưởng tượng sáng tạo của người nghệ sĩ là tạo ra
các hình tượng nghệ thuật. Đó chính là hệ thống các lớp cảm xúc tiêu biểu trong xã
hội, là nơi lưu giữ các xúc cảm thẩm mỹ và cũng là nơi truyền đạt những thông điệp
thẩm mỹ. Chính nhờ có tưởng tượng và thông qua tưởng tượng mà toàn bộ các hình
tượng nghệ thuật tồn tại trong các tác phẩm đã đạt đến trình độ của sự tưởng tượng
khái quát, tạo nên cái riêng, cái độc đáo của từng nhân cách sáng tạo và mang tính
khác lạ so với thế giới hiện thực.
4. Cảm xúc/Tình cảm: lOMoAR cPSD| 60794687
Xúc cảm là nhân tố làm nền, liên kết, huy động các quá trình tâm lý, là nhân tố thúc
đẩy hoạt động của tri giác và tưởng tượng.
Trong tâm lý học, cảm xúc là một trạng thái cảm nhận liên quan đến suy nghĩ, sự
thay đổi về sinh lý và một biểu hiện (hoặc hành vi) ra bên ngoài. Cảm xúc còn là
một hình thức trải nghiệm cơ bản của con người về thái độ của chính mình đối với
sự vật, hiện tượng của hiện thực khách quan, với người khác và với bản thân. Sự
hình thành cảm xúc là một điều kiện tất yếu của sự phát triển con người như là một nhân cách.
Trong nghệ thuật, cảm xúc là trạng thái rung động của con người đối với nghệ thuật,
là sự cảm nhận cái đẹp khách quan với cái đẹp chủ quan, qua đó làm nảy sinh nhu
cầu biểu đạt cái đẹp. Cảm xúc là một cấu tạo tâm lý thường xuyên xuất hiện trong
cuộc sống của người nghệ sĩ. Có thể nói, khi tiếp xúc với thế giới hiện thực, bên
cạnh các hoạt động của tri giác thi cảm xúc của người nghệ sĩ cũng được hình thành.
Nhờ có những cảm xúc này, mà bên trong người nghệ sĩ sinh ra những đam mê, khát
vọng, tạo động lực, thôi thúc họ thể hiện vào tác phẩm của mình. Cảm xúc trong
nghệ thuật chỉ có thể tồn tại trong một số hình thức xác định, và ngược lại, tác phẩm
nghệ thuật thể hiện cảm xúc một cách biểu tượng. Vì vậy, tác phẩm nghệ thuật không
thể tồn tại nếu thiếu cảm xúc và ngược lại.
Khi người nghệ sĩ nhìn nhận, đánh giá các sự vật hiện tượng của thế giới khách quan,
cảm xúc của họ được phân định thành các cặp phạm trù đối nghịch: yêu ghét, kính
trọng - khinh bỉ,... Những cặp phạm trù này đã tạo ra những cấu trúc đối nghịch của
hình tượng nghệ thuật như:
+ Đối nghịch giữa nội dung và hình thức biểu hiện của hình tượng
Ví dụ: Tranh biếm họa, với những hình ảnh hài hước vui nhộn nhưng nội dung
lại mang tính phê phán, châm biếm.
+ Đối nghịch giữa chất liệu sáng tạo và sản phẩm sáng tạo
Ví dụ: Một số tác phẩm nghệ thuật như tranh hay những bộ cánh thời trang
được tạo ra bởi “rác”.
+ Đối nghịch giữa những nội dung phản ánh trong chính bản thân hình tượng
Ví dụ: Lửa và sức nóng của nó như chính những xúc cảm yêu thương khi
nhớ nhung xa cách. Tuy nhiên, ý nghĩa của ngọn lửa còn gắn với sự tàn phá lOMoAR cPSD| 60794687
và hủy diệt. Lửa gây bỏng da, gây hỏa hoạn, cháy rừng, thiêu rụi tài sản lẫn con người.
Cảm xúc sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ là cảm xúc được hòa nhập với óc
tưởng tượng sáng tạo, trong cảm xúc có tưởng tượng, trong tưởng tượng có cảm xúc.
Chính vì vậy, Cảm xúc trong hình tượng nghệ thuật bao giờ cũng vượt lên những
xúc cảm của đời thường, sự mãnh liệt hay u uất của nó cũng được bộc lộ ở các cung
bậc cảm xúc khác với cung bậc của người thường.
Điều này có thể nhận thấy khi ngắm nhìn những bức tranh của Van Gogh. Nhiều bức
tranh của ông là sự kết hợp giữa hai màu sắc xanh và vàng, của lạnh lẽo và ấm áp,
của u ám và rực rỡ. Những cặp trạng thái ấy cộng thêm thủ pháp của những nét cọ
tạo cho mỗi khán giả một cảm xúc mãnh liệt khác nhau. Bên cạnh đó, qua cách Van
Gogh xây dựng bố cục và điểm nhìn cho thấy ông đã thể hiện nỗi cô đơn một cách
đầy dữ dội và trực tiếp. Các tác phẩm nếu được Van Gogh vẽ ở cỡ cảnh rộng thì sẽ
rất ít người hoặc thậm chí không có người. Ngược lại, những bức vẽ cận cảnh thì
chủ thể chiếm phần diện tích rất lớn. “Con người” trong những bức họa của Van
Gogh hoặc bị đặt trong sự lạc lõng giữa một không gian bao la, hoặc phải chen chúc
nhau dưới sự đè nén của khung hình.
Trong các điều kiện ảnh hưởng đến quá trình sáng tác của người nghệ sĩ, cảm xúc
được đánh giá là yếu tố cốt lõi, là nhân tố trung tâm quan trọng hơn cả tri giác. Theo
Théodule-Armand Ribot, nhà Tâm lý học người Pháp: Cảm xúc của người nghệ sĩ
luôn tuôn trào khi họ đứng trước một sự vật, một con người, một sự kiện tồn tại trong
thế giới hiện thực và có liên quan ít nhiều đến họ. Tư chất đầu tiên và cơ bản đòi hỏi
phải có ở người sáng tác là một tâm hồn giàu xúc động, đã là người ai cũng có những
yêu, ghét, hờn giận, vui buồn… nhưng ở người nghệ sĩ điều này trở nên đặc biệt, dễ
xúc động, dễ nhạy cảm. Như vậy, muốn có nghệ thuật, người sáng tác trước tiên phải
có tình cảm nồng nàn, cảm xúc mãnh liệt. Đại thi hào Puskin cũng cho rằng: Ý chí,
lý tính sẽ bất lực nếu người nghệ sĩ thiếu cảm xúc ngập tràn tâm hồn. Thậm chí
H.Ibsen, nhà văn Na Uy còn khẳng định: Khả năng biết đau khổ là phẩm chất cần
có của nghệ sĩ thiên tài. Cảm xúc mãnh liệt góp phần tạo nên cảm hứng sáng tác giúp
các nghệ sĩ có khả năng tập trung cao độ, tưởng tượng sáng tạo có hiệu quả. II.
PHÂN TÍCH SẢN PHẨM CÁ NHÂN
Ở trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng những hình ảnh có liên quan đến bài tập
chuyên ngành sáng tác tranh in độc bản thuộc học phần năm 2 - chuyên ngành Thiết lOMoAR cPSD| 60794687
kế Đồ họa của một thành viên trong nhóm để làm công cụ trực quan trong quá trình
phân tích những ảnh hưởng của các yếu tố trên đến các sản phẩm.
Trước hết, với yếu tố nhu cầu, gồm 2 loại: nhu cầu khách hàng và nhu cầu cá nhân,
ta đánh giá mức độ ảnh hưởng qua 2 tác phẩm dưới đây: lOMoAR cPSD| 60794687 lOMoAR cPSD| 60794687
Với tác phẩm đầu tiên thuộc bài chuyên ngành in độc bản, và tác phẩm thứ 2 là tranh
vẽ tự do. Điểm đầu tiên dẫn đến sự khác nhau rõ rệt trong hai tác phẩm đến từ nhu
cầu. Bức tranh đầu tiên bị ảnh hưởng khá nhiều từ yếu tố khách quan, nói chính xác
hơn là yêu cầu của giáo viên và đề bài, đó là phải làm rõ được đây là tranh in độc
bản. Tranh in độc bản có yêu cầu phải tạo nên được những cách thể hiện mang tính
độc bản (tính duy nhất), nói cách khác là không thể để người khác bắt chước được,
vậy nên khá dễ hiểu khi nhìn vào tác phẩm đầu tiên, ta thấy được phần từ cổ đến
lông con cừu được thay thế bằng những giọt nước với màu sắc, hình dạng, kích thước
ngẫu nhiên nhưng vẫn thể hiện được đó là một phần cơ thể của con vật. Ngoài ra,
yếu tố khách quan vẫn có ảnh hưởng đến tác phẩm này, đó là từ nhu cầu cá nhân, ở
đây rõ ràng hơn là từ nhu cầu thẩm mỹ. Tác giả của tác phẩm dù có sử dụng hiệu
ứng nào cho tranh đi nữa vẫn hướng tới mục tiêu là cái đẹp trong tác phẩm, sự rõ
ràng khắc họa hình ảnh con cừu khá chân thực.
So sánh với hình ảnh thứ 2, một tác phẩm tự do về con cừu. Ta dễ thấy được cách
thể hiện ở đây giống với tả thực, nghĩa là vẽ con vật giống thật như trong thực tế, lOMoAR cPSD| 60794687
không sử dụng các thủ pháp độc bản như bức tranh trên. Lý do đơn giản ở đây là bởi
đây là bức tranh được sáng tác bởi tác giả nhưng không chịu ảnh hưởng từ yêu cầu
và ràng buộc từ bất cứ phía nào, hay nói cách khác là không có ai yêu cầu tác giả
phải vẽ bức tranh này dựa trên một yêu cầu nhất định, vậy nên cách thể hiện ra sao
thì đều phụ thuộc vào cá nhân tác giả, với mục đích cuối cùng vẫn là hướng đến cái đẹp trong mỹ thuật.
—-----------------------------------------------------
Ở yếu tố thứ 2, ta phân tích ảnh hưởng nhận thức của chính tác giả đến tác phẩm in độc bản. lOMoAR cPSD| 60794687 lOMoAR cPSD| 60794687 lOMoAR cPSD| 60794687
Khi so sánh 2 bức tranh ở trên, mặc dù cùng là 2 tác phẩm in độc bản của cùng 1
người, cùng 1 đề bài, nhưng lại phân cấp được 2 mức độ nhận thức khác nhau. Tương
tự về sự phân tích ở những bức tranh của Monet trước đây, ở đây ta cũng nhìn ra
được nhận thức của tác giả về ánh sáng và màu sắc. Ở bức tranh đầu tiên, ta dễ dàng
nhận thấy được các đường nét trên khuôn mặt con vật và đâu là phần sáng, đâu là
phần tối, trong khi ở bức tranh thứ 2 thì khó định hình hơn nhiều. Thậm chí, ở bức
tranh đầu tiên ta còn nhìn ra được hướng ánh sáng là hướng chiếu từ trái qua phải và từ bên trên xuống.
Màu sắc ở cả 2 bức tranh đều là sự kết hợp của rất nhiều màu sắc thuộc hai tông
nóng lạnh, tuy nhiên bức tranh đầu lại có một điểm nổi bật hơn cả đó là đã lợi dụng
những sự phân chia mảng màu này để tôn lên yếu tố “gần tỏ xa mờ” - một yếu tố
quan trọng cho một tác phẩm đẹp và tinh tế. Những phần nào của con vật ở đằng
trước, đóng vai trò chính thì được miêu tả rất rõ, rất kỹ, còn những phần ở xa, ở phía
sau và đóng vai trò phụ thì được thể hiện mờ nhạt hơn, có những chỗ gần như nhập
vào với mảng màu nền phía sau con vật.
Qua 2 yếu tố màu sắc và ánh sáng ở cả 2 tác phẩm, ta ít nhiều phải công nhận mức
độ quan sát và cảm nhận đối tượng thực tế dựa trên các giác quan, mà quan trọng
nhất ở đây là thị giác ở bức tranh đầu tiên cao hơn hẳn ở bức tranh số 2, điều này đã
dẫn đến sự khác nhau rõ rệt trong phương pháp thể hiện của cùng một tác giả.
—--------------------------------------------------------------------
Với yếu tố thứ ba - tưởng tượng, chúng tôi chọn ra một bức tranh với cách thể hiện
đặc biệt nhất trong bộ bài của tác giả. lOMoAR cPSD| 60794687 lOMoAR cPSD| 60794687
Về phần màu sắc, chúng tôi không bàn cãi nhiều vì màu nền và màu đối tượng chính
chỉ là tông màu nóng đơn thuần với độ tương phản mạnh để nhìn rõ chính phụ.
Nhưng điều đáng nói đến ở đây là cách khắc họa hình tượng con cừu của tác giả, đó
là thông qua những nét bút thẳng có độ dài khác nhau.
Để hình dung rõ hơn, khi bạn đặt mắt sát với tác phẩm, dường như rất khó có thể
quan sát được và nhận ra đối tượng ở trong bức tranh. Điều kỳ diệu sẽ xảy ra khi bạn
nheo mắt lại hoặc đặt bức tranh ra xa, khi đó đôi mắt của bạn sẽ chỉ quan sát được
tổng thể chứ không còn nhìn rõ được chi tiết như khi mở mắt to và đặt sát vào tranh,
lúc này bạn sẽ càng lúc càng nhìn rõ hình ảnh chân dung của con cừu với đầy đủ các
bộ phận từ mắt. mũi, miệng cho đến tai và sừng.
Câu hỏi đặt ra là trong thực tế có hình ảnh mẫu nào giống hệt như vậy để tác giả mô phỏng theo hay không?
Đương nhiên câu trả lời là không, và điều này đồng nghĩa với việc tác giả buộc phải
tưởng tượng ra hình ảnh này trước khi chuyển hóa nó lên tranh bằng những nét bút.
Đơn giản hơn nữa, ta có thể coi đây là biểu hiện cơ bản của “tưởng tượng hoang
đường” và “tưởng tượng sáng tạo”. Nói nó là “tưởng tượng hoang đường” bởi tưởng
tượng của tác giả thiên về những điều kỳ diệu, khác thường. Tác giả chỉ dựa vào
những mâu thuẫn mang tính chất bất thường, kỳ lạ giữa một bên là thế giới hiện thực
với một bên là cuộc sống tưởng tượng bay bổng của người nghệ sĩ. Và cái đích cuối
cùng của họ là được thoả mãn các lý tưởng đạo đức mà họ khát vọng vươn tới nhưng
không đạt được trong thế giới hiện thực, vì vậy họ phải gửi gắm vào những hình
tượng nghệ thuật hoang đường. Đây cũng cũng chính là sự biểu hiện những ước mơ
thầm kín về hạnh phúc và lòng khát khao tự do.
Còn nói đây cũng là “tưởng tượng sáng tạo” bởi tác giả đã tập hợp những yếu tố,
những hồi ức, những tài liệu đã được lựa chọn trong quá trình tái tạo, thiết lập chúng
theo một cơ cấu mới, một cấu trúc nhất định để tạo nên hình tượng nghệ thuật,
mà cấu trúc mới, cấu trúc nhất định ở đây chính là những đường nét sổ dọc đặt sát
nhau với độ dài bất kì.
—-----------------------------------------------------------------------------
Cuối cùng và cũng đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong mỹ thuật, đó là yếu tố cảm xúc. lOMoAR cPSD| 60794687