



Preview text:
BÀI TẬP NGHIÊN CỨU 
MÔN TÂM LÝ SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT 
Nhóm sinh viên: Nguyễn Mỹ Duyên, Vũ Thị Liên, Ngô Phương Thảo, Đào Đức Tín, Nguyễn  Thị Loan Trang.  Lớp: DH21A7 
Câu 1: Các quan điểm tiếp cận tâm lý học nghệ thuật 
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về hoạt động sáng tạo nghệ thuật của nguời nghệ sĩ, 
dưới đây là những quan điểm cơ bàn nhất của các nhà tâm lý học khi nghiên cứu về hoạt động 
sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ. 
1.1. Các quan điểm tâm lý học phi mácxit về hoạt động sáng tạo nghệ thuật 
- Quan điểm coi nghệ thuật như là một quá trình nhận thức. 
 V. Humbôn - nhà tâm lý học người Đức là người đề xướng ra quan điểm này. Ông cho 
rằng: Toàn bộ quá trình sáng tạo nghệ thuật thực chất là quá trình người nghệ sĩ nhận thức thể 
giới khách quan và thông qua cảm xúc của mình phản ánh vào các hình tượng nghệ thuật. 
Quá trình sáng tạo nghệ thuật là quá trình người nghệ sĩ bộc lộ thái độ của mình đối với 
các sự vật, hiện tượng, trong quá trình đó người nghệ sĩ gửi gắm nhữmg mong muốn, những 
suy tư, những khát vọng, trăn trở của mình vào thế giới đối tượng. 
- Quan điểm coi nghệ thuật là những thủ pháp sáng tạo. 
Đại diện những người theo trường phái này là Xtanilápxki, nhà đạo diễn sân khấu nổi 
tiếng Nga thuộc trường phái nghệ thuật biểu diễn hiện thực tâm lý và Ribót - nhà tâm lý học  người Pháp. 
Quan điểm của những nhà nghiên cứu coi nghệ thuật như là thủ pháp sáng tạo đều thống 
nhất cho rằng, trong quá trình sáng tạo người nghệ sĩ cần nắm vững những thủ pháp sáng tạo 
kỹ thuật tương ứng với từng loại hình nghệ thuật khác nhau thì sẽ có khả năng sáng tạo được 
những tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao. Những người theo quan điểm này thậm chí còn cho 
rằng người nghệ sĩ sáng tạo không nhất thiết phải có nền học vấn sâu và rộng trong các lĩnh vực 
khác nhau mà chỉ cần có những kỹ năng sáng tạo tốt là có thể tạo nên tác phấm tốt. 
- Quan điểm của phân tâm học với sáng tạo nghệ thuật. 
Phân tâm học mà người sáng lập là S. Phrớt (1856 - 1939), người Áo. Học thuyết này 
có ảnh hưởng to lớn trong các lĩnh vực đời sông xã hội phương Tây. Phân tâm học có nghĩa là 
môn học phân tích tâm lý. Những người theo thuyết của ông dùng để chữa bệnh tâm thần, sau 
phát triển thành một trường phái tâm lý học và trở thành một trào lưu triết học. 
S. Phrớt cho rằng, đời sống tâm lý của con người chủ yếu bao gồm hai tầng: ý thức và 
vô thức. Cuộc sống hàng ngày của con người luôn thể hiện ở tầng ý thức (hành vi, cử chi, ngôn 
ngữ). Còn trong tầng vô thức là nơi mà chứa đựng những khát vọng mà con người không thể 
thực hiện được ở tầng ý thức. Nghệ sĩ là người có khát vọng bản năng rất lớn nhưng trong thực 
tại cuộc sống (trong tầng ý thức) họ không được thoả mãn những khát vọng đó, họ đã dồn nén  vào trong tầng vô thức. 
Các quan điểm trên đều đã có những đóng góp nhất định cho sự hình thành và phát triển 
của Tâm lý học nghệ thuật. Những thành tựu của họ là không thể bác bỏ, nhưng vì những hạn 
chế lịch sử nhất định mà các quan điểm trên khi tiếp cận, nghiên cứu về nghệ thuật và hoạt động 
sáng tạo nghệ thuật vẫn chưa đạt tới cái đích mong muốn của mình xây dựng. Điểm hạn chế 
chung nhất và cơ bản nhất của họ chính là do quan niệm về con người và tâm lý người, quan 
điểm về nghệ thuật, khả năng sáng tạo nghệ thuật của nguời nghệ sĩ chưa thực sự đầy đủ và 
đúng đắn. Tâm lý học mácxít về hoạt động sáng tạo nghệ thuật ra đời đã góp phần to lớn trong 
việc khắc phục những hạn chế này. 
1.2. Quan điểm tâm lý học mácxit về hoạt động sáng tạo nghệ thuật 
Tâm lý học mácxit lấy phương pháp luận triết học làm cơ sở lý luận và phương pháp 
luận coi tâm lý là sự phản ánh thế giới khách quan vào não thông qua hoạt động. 
Trong lĩnh vực tâm lý học nghệ thuật L.X. Vưgotxki và M.AR. Nauđốp là nhứng người 
đại diện cho trường phái này các ông đã kế thừa quan điểm của Mác-Lênin về con người, tâm 
con người, về nghệ thuật... 
- Quan điểm của L.X. Vưgotxki. 
L.X . Vưgotxki (1896-1934) là người theo chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đây là 1 trong 
những nhà tâm lý học có công lớn trong nghiên cứu tâm lý học nghệ thuật đặt nền móng nghiên 
cứu lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật. Quan điểm của L.X . Vưgotxki về các vấn đề tâm lý học trong 
sáng tạo nghệ thuật được thể hiện trong cuốn “Tâm lý học nghệ thuật” mà ông viết năm 1925. 
L.X. Vưgotxki đưa ra quan điểm quá trình sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ được 
hình thành và phát triển trong đời sống ý thức xã hội của nó. Đây là quan điểm đối lập với tâm 
lý học duy tâm và phân tâm học , ông cho rằng quá trình sáng tạo nghệ thuật phải bắt nguồn từ  hiện thực cuộc sống. 
L.X. Vưgotxki đưa ra quan điểm quá trình sáng tạo của người nghệ sĩ tuân theo quy 
luật: năng khiếu sự tích lũy về kinh nghiệm sống và sự cảm nhận thế giới khách quan cùng với 
sự khổ luyện của bản thân người nghệ sĩ sẽ tạo nên tài năng của họ. 
- Quan điểm của M.AR. Nauđốp. 
“Tâm lý học sáng tạo văn học” là công trình cơ bản tổng kết công việc lâu năm của 
M.AR. Nauđốp về các vấn đề tâm lý học trong sáng tạo văn học nghệ thuật. Để chứng minh 
các luận điểm của mình M.AR. Nauđốp đã sử dụng rất nhiều kinh nghiệm sáng tác, những quan 
sát, ý kiến, ghi chép, hồi tự, tự thuật của các tác giả cổ điển nền văn học thế giới. 
Thông qua “tâm lý học sáng tạo văn học” tác giả chú trọng đến quá trình bên trong của 
sáng tạo nghệ thuật, một quá trình tâm lý thẩm mỹ xã hội rất tinh vi và đầy tính phức tạp. Trong 
đó, các nhân tố của hoạt động sáng tạo không tách rời cái nọ khỏi cái kia, qua đó phát hiện thực 
chất của hoạt động sáng tạo như một sự toàn vẹn; các yếu tố và chức năng của tinh thần hình 
thành một quá trình hữu cơ mà kết quả của nó là những tác phẩm hoàn chỉnh về các thể loại  văn học nghệ thuật. 
- Quan điểm tâm lý học mácxit về hoạt động sáng tạo nghệ thuật. 
C.Mác và Ph. Ănghen quan niệm: “Tác phẩm nghệ thuật là sản phẩm đặc biệt của sự 
sáng tạo của tư tưởng con người”. 
Các tâm lý học theo quan điểm của tâm lý học Mácxit cũng luôn quan tâm đến nhân 
cách sáng tạo của người nghệ sĩ. Bởi vì trong quá trình sáng tác cảm xúc đóng vai trò chủ đạo 
có những tác phẩm có dấu ấn riêng về nhân sinh quan thế giới quan của họ. Nó tạo nên một 
nhân cách sáng tạo của mỗi tác giả khác nhau. Người nghệ sĩ sáng tạo ra các tác phẩm tài năng 
trí tuệ và nhân cách của chình mình. Mỗi tác phẩm là tâm huyết, là đứa con tinh thần, là bức 
thông điệp của người nghệ sĩ muốn trao gửi đến công chúng. 
Quan điểm này cũng không phủ nhận vai trò của linh cảm, trực giác trong sáng tạo nghệ 
thuật. Song họ cho rằng, linh cảm, trực giác không phải là yếu tố thần linh do thượng đế ban 
tặng như quan niệm của các nhà tâm lý học duy tâm, mà thực chất do linh cảm, trực giác là sự 
tích lũy kinh nghiệm sống những tri thức, những cảm xúc-tình cảm, những điều mà họ quan sát 
được trong hiện thực khách quan. Trong vô thức mà trước đó người nghệ sĩ không ý thức được 
sự tích lũy này, đến một lúc nào đó nó sẽ được bộc lộ và chi phối quá trình sáng tạo của người  nghệ sĩ. 
Câu 2: Ý nghĩa của hình tượng con người trong nghệ thuật điêu khắc tượng. 
Khái niệm hình tượng nghệ thuật là sản phẩm của phương thức chiếm lĩnh, thể hiện và 
tái tạo hiện thực theo quy luật của tưởng tượng, hư cấu nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật chính 
là các khách thể đời sống được nghệ sĩ tái hiện bằng tưởng tượng sáng tạo trong những tác 
phẩm nghệ thuật. Giá trị trực quan độc lập là đặc điểm quan trọng của hình tượng nghệ thuật. 
Bằng chất liệu cụ thể, nó làm cho người ta có thể ngấm nghía, thưởng ngoạn, tưởng tượng.  Về ý nghĩa: 
Con người là “nguồn cảm hứng của tượng điêu khắc nghệ thuật”. Những bức tượng điêu 
khắc nghệ thuật lấy chủ đề con người là minh họa hoàn hảo cho các nền văn minh đã qua. Bằng 
cách tôn vinh con người, nhà điêu khắc còn qua đó tôn vinh niềm tin tôn giáo, vinh danh những 
nhân vật đặc biệt và thể hiện sự trân trọng dành cho thời đại mình đang sống. Cấu trúc cơ thể 
con người cho phép người nghệ sĩ thể hiện tài năng của mình. Không dễ để mô tả chính xác 
những chuyển động của cơ thể trên những bức tượng điêu khắc nếu người nghệ sĩ không có đủ 
kiến thức về giải phẫu cùng sự chú ý, tỉ mỉ đến từng chi tiết như mái tóc, quần áo, cảm xúc 
khuôn mặt. Các nhà điêu khắc cổ xưa vốn đã xem cơ thể con người là hiện thân của những giá 
trị chân thiện mỹ. Khao khát đạt đến sự hoàn hảo đã thúc đẩy họ phá vỡ giới hạn của bản thân, 
nhằm đạt đến sự vẹn toàn. Theo thời gian, các kiểu dáng cứng nhắc, cũ kỹ bắt đầu tinh xảo và 
sống động dưới đôi tay của những nghệ nhân tài năng, hiện ra trước mắt ta như những con 
người thật. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực, hy sinh và niềm đam mê mãnh liệt. 
Hình tượng con người là “yếu tố văn hóa trong tượng điêu khắc nghệ thuật”: Trong 
ngôn ngữ Ai Cập, từ “thợ điêu khắc” có nghĩa là “người giữ cho sống mãi”. Người Ai Cập tin 
rằng khi một nhân vật cao quý qua đời, việc bảo tồn thân xác của họ là chưa đủ. Nếu chân dung 
của nhà vua cũng được gìn giữ cẩn thận, người ta chắc chắn rằng ngài sẽ tiếp tục tồn tại mãi 
mãi. Tại Hy Lạp, mỗi tác phẩm tượng điêu khắc nghệ thuật đều bộc lộ sự uyên thâm và khéo 
léo trong việc thể hiện các nhân vật, đặc biệt là cảm xúc nội tâm. Các bức tượng điêu khắc nghệ 
thuật Hy Lạp luôn mang dấu ấn trí tuệ của người đã sáng tạo ra chúng. Ngay ở Ấn Độ và các 
nước phương Đông, phong cách điêu khắc của người La Mã được các nghệ nhân học hỏi, nổi 
bật là trong những tác phẩm mô tả về Đức Phật, cũng thể hiện rõ niềm tiên tôn giáo của con  người nơi đây. 
- Hình tượng con người trong hội họa: 
Thời gian xuất hiện : Cùng với việc họa hình các loài động vật khác, các nghệ sĩ từ 
những thời đại cổ xưa nhất đã từng ký họa, vẽ tranh, chạm trổ và nhào nặn nên những hình ảnh 
về hình tượng con người. 
Mục đích xuất hiện và ý nghĩa: Rất nhiều nền văn hóa đã nhân cách hóa các vị thần 
thánh của mình thành hình dạng con người, và ở những nơi nghệ thuật hình tượng được chấp 
nhận, hình tượng con người thường được sử dụng để kể những câu chuyện trong tôn giáo. 
Những hình tượng cũng được thể hiện trong rất nhiều xã hội khác nhau nhằm khai thác các vấn 
đề như nhân dạng, giới tính, chủng tộc và địa vị xã hội, hoặc về những yếu tố vô hình khác như 
tình yêu hay trách nhiệm. Sự xuất hiện của hình dạng con người thường mang ý nghĩa siêu 
nhiên, nhằm gợi nên hoặc nhằm đại diện cho các vị thánh hay thần linh. Về sau, mục đích của 
việc thể hiện loài người đã được mở rộng ra hơn nhằm đáp ứng những nhu cầu đa dạng của các  nền văn hóa khác nhau. 
Sự phát triển: Khi đức tin, tiến trình phát triển và hình thức biểu đạt nghệ thuật của con 
người ngày càng mở mang tiến bộ, cách thể hiện hình tượng cũng thay đổi từ các hình tượng 
trưng, chẳng hạn như những bức tượng Vệ nữ nhỏ thời Kỉ Băng hà ở châu Âu, các nhân vật 
được cách điệu một cách ước lệ trong nghệ thuật Ai Cập hay Byzantine, trở thành những hình 
ảnh con người vô cùng ấn tượng và sống động giống người thật như trong nghệ thuật Hy Lạp 
và La Mã cổ đại, nghệ thuật thời kỳ Phục hưng và nghệ thuật Baroque. Với nỗ lực tạo nên vẻ 
chân thực ngoạn mục khi thể hiện hình tượng con người, từ thời sơ kì Phục Hưng, những nghiên 
cứu về giải phẫu học đã trở thành một bộ phận thiết yếu trong mọi chương trình đào tạo nghệ 
sĩ, và từ đó hầu hết những phát triển trong lĩnh vực nghệ thuật đều đi sâu vào diễn giải hình 
dạng con người, từ những sự vui tươi của nghệ thuật Rococo cho đến cách kéo dài cơ thể trường 
phái Kiểu cách, và từ sự chân thực không bị chi phối bởi xúc cảm của trường phái Hiện thực 
cho đến những hình ảnh ngập tràn ánh sáng của trường phái Hậu ấn tượng hay những bức tranh 
méo mó đầy hoang mang của các nghệ sĩ Biểu hiện và Siêu thực. 
- Đặc điểm chung của hình tượng nghệ thuật: 
Hình tượng nghệ thuật gắn liền với đời sống: Nghệ thuật luôn bám sát vào cuộc sống để 
nảy sinh, tồn tại và trường tồn cùng thời gian. Nghệ thuật tái hiện một cách có chọn lọc, sáng 
tạo thông qua tài năng và trí tưởng tượng của nghệ sĩ. 
Hình tượng nghệ thuật là sự thống nhất của cái cụ thể, cá biệt, với cái khái quát: Mọi 
sự vật, hiện tượng trong thể giới khách quan đều tồn tại ở dạng riêng biệt nhưng không tách 
rời nhau. Nghĩa là, nó mang những đặc điểm riêng, không lặp lại ở những hiện tượng khác, và 
mang cả những đặc điểm bản chất đại diện cho những hình tượng cùng loại, điển hình cho  loại của mình. 
Hình tượng nghệ thuật là sự thống nhất giữa hai mặt khách quan và chủ quan: Nghệ 
thuật là hình ảnh của cuộc sống khách quan được phản ánh qua cái nhìn chủ quan của người 
nghệ sĩ. Trong một tác phẩm nghệ thuật luôn có sự hòa quyện không thể tách rời của hai yếu 
tố này. Hình tượng nghệ thuật là sự thống nhất giữa lí trí và tình cảm: Nghệ thuật có sức tác 
động kỳ diệu đến tư tưởng, tình cảm của con người. Tình cảm được kiểm định bằng lí trí, lí trí 
mượn tình cảm để đi vào lòng người. Lí trí và tình cảm kết hợp hoàn hảo trong một chỉnh thể  nghệ thuật. 
Hình tượng nghệ thuật mang tính ước lệ: Không có tính ước lệ, nghệ thuật sẽ chỉ là 
một bản sao đơn điệu của cuộc sống. Dù phản chiếu cuộc sống chân thực đến đâu nghệ thuật 
cũng không thể mất đi yếu tố sáng tạo, tưởng tượng, tất cả những yếu tố ấy gọi chung là tính 
ước lệ của hình tượng. 
Hình tượng nghệ thuật mang tính đa nghĩa: Một hình tượng nghệ thuật có khả năng 
chứa đựng, bao hàm nhiều tầng nghĩa; đem đến cho người thưởng thức những cách nhìn nhiều 
chiều, những cách lí giải ở nhiều góc độ khác nhau.