









Preview text:
lOMoAR cPSD| 57855709
Câu 1: Ông Nguyễn Văn A sống độc thân cả đời và có nhận nuôi một bé trai là
Nguyễn Văn B từ năm 1995, có giấy tờ xác nhận của UBND phường. Năm 2010,
ông A được cấp Giấy CNQSDĐ đối với mảnh đất 150m² tại quận Bình Thạnh,
TP.HCM. Ông A mất năm 2020, không để lại di chúc. Nguyễn Văn B làm thủ tục
khai nhận thừa kế thì bị bà Nguyễn Thị C (chị ruột ông A) phản đối với lý do đất
do cha mẹ bà để lại, ông A chỉ là người ở nhờ. Bà C cho rằng B không có quyền
thừa kế vì là con nuôi, không phải huyết thống, yêu cầu chia tài sản theo hàng
thừa kế giữa bà và các anh chị em khác.
a. Xác định vấn đề pháp lí mấu chốt của vụ án nêu trên?
Vấn đề pháp lý mấu chốt là xác định quyền thừa kế của Nguyễn Văn B (con nuôi)
đối với di sản của ông Nguyễn Văn A (mảnh đất 150m² tại quận Bình Thạnh) và xác
định tính hợp pháp của quyền sử dụng đất của ông A, khi bà Nguyễn Thị C
(chị ruột ông A) cho rằng đất là tài sản chung của cha mẹ, không thuộc sở hữu riêng của ông A.
b. Xác định các văn bản pháp luật áp dụng để xử lý tình huống trên Các văn
bản pháp luật được áp dụng để xử lý tình huống gồm:
Bộ luật Dân sự năm 2015, đặc biệt các điều 613, 620, 621, 649, 651, 652 và 653
liên quan đến di sản thừa kế, người thừa kế, hàng thừa kế và quyền thừa kế của con nuôi.
Luật Đất đai năm 2003, quy định tại Điều 47,48, 50 về cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất và quyền lợi của người sử dụng đất.
(Luật Đất đai 2024, quy định tại điều 27 về căn cứ xác lập và bảo vệ quyền hợp
pháp của người sử dụng đất.) – tuỳ nghe.
Luật Nuôi con nuôi năm 2010, trong đó có Điều 24 quy định về quyền và nghĩa
vụ của con nuôi đối với cha mẹ nuôi như con đẻ.
Nghị định số 43/2014/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Đất đai, cụ thể về trình
tự xác lập GCNQSDĐ và xác định chủ sở hữu hợp pháp. c. Đặt 4 câu hỏi làm rõ vấn đề lOMoAR cPSD| 57855709 •
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) năm 2010 đứng tên ông Acó
được cấp không? Có tài liệu nào chứng minh đất là tài sản chung của cha mẹ bà C không? •
Giấy tờ xác nhận con nuôi được lập tại UBND xã, anh B có giữ bản gốc hoặcbản
sao không? Có ai làm chứng việc nuôi dưỡng không? •
Sau khi có giấy chứng nhận đứng tên ông A, có ai trong gia đình từng phản
đốihay yêu cầu chia phần chưa? •
Ngoài mảnh đất đó ra, ông A còn để lại tài sản nào khác sau khi mất
không?d.Định hướng giải quyết tình huống trên
Xét theo Điều 623 Bộ luật Dân sự 2015, thời hiệu khởi kiện về thừa kế là 30 năm kể
từ thời điểm mở thừa kế (2020). Đến năm 2025, bà C vẫn còn quyền khởi kiện.
Thứ nhất, cần xác định rõ mảnh đất 150m² là tài sản riêng của ông Nguyễn Văn
A. Theo hồ sơ tình huống, ông A đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm
2010 đứng tên cá nhân, không có tranh chấp tại thời điểm cấp. Vì vậy, có đủ căn cứ để
xác định đây là tài sản riêng hợp pháp của ông A, không phải tài sản thừa kế của cha mẹ ông A.
Thứ hai, về quan hệ giữa ông A và anh Nguyễn Văn B, có đủ căn cứ xác lập quan
hệ con nuôi theo quy định pháp luật. Việc nhận nuôi được thực hiện từ năm 1995 và có
giấy tờ xác nhận của Ủy ban nhân dân phường – là một trong các hình thức hợp pháp
theo quy định tại thời điểm đó. Theo Điều 653 Bộ luật Dân sự năm 2015, con nuôi và
cha mẹ nuôi có quyền thừa kế di sản của nhau như con đẻ và cha mẹ đẻ. Do đó, Nguyễn
Văn B thuộc hàng thừa kế thứ nhất và có quyền hợp pháp đối với toàn bộ di sản của
ông A nếu không có người thừa kế cùng hàng khác.
Thứ ba, ông A không để lại di chúc. Do vậy, di sản được chia theo quy định của
pháp luật, tức chia theo hàng thừa kế. Hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: cha mẹ đẻ,
vợ/chồng, con ruột và con nuôi. Trong trường hợp này, ông A không có cha mẹ còn
sống, không có vợ hoặc con ruột, nên người con nuôi hợp pháp là anh B là người duy
nhất thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Bà Nguyễn Thị C là chị ruột, thuộc hàng thừa kế thứ
hai, nên chỉ được hưởng di sản nếu không có ai thuộc hàng thừa kế thứ nhất. lOMoAR cPSD| 57855709
Thứ tư, việc bà C cho rằng anh B không phải con ruột nên không có quyền thừa
kế là hoàn toàn không có cơ sở pháp lý. Pháp luật không phân biệt con đẻ hay con nuôi
trong quyền thừa kế nếu mối quan hệ con nuôi được xác lập hợp pháp.
Đề xuất hòa giải để giảm chi phí và thời gian, nếu không thành thì giải quyết tại
tòa án có thẩm quyền (Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh).
Câu 2: Ông Lê Văn H nhận nuôi cháu Lê Thị K (con của bạn thân đã mất) từ năm
2000, có giấy chứng nhận con nuôi do UBND cấp xã xác nhận. Ông H sống trong
ngôi nhà do cha mẹ ông để lại, nhưng chưa từng làm thủ tục thừa kế. Năm 2010,
ông H được cấp GCNQSDĐ đứng tên cá nhân. Năm 2018, ông mất, không để lại
di chúc. Chị K làm thủ tục khai nhận thừa kế thì ông Lê Văn M (anh trai ông H)
ngăn cản, cho rằng đất do cha mẹ để lại nên ông H
không có toàn quyền sở hữu, chị K chỉ được hưởng ½ hoặc không được hưởng.
Vụ việc được đưa ra tòa để phân xử.
a. Xác định vấn đề pháp lí mấu chốt của vụ án nêu trên?
Vấn đề pháp lý mấu chốt là xác định quyền thừa kế của Lê Thị K (con nuôi) đối
với di sản của ông Lê Văn H (mảnh đất được cấp GCNQSDĐ năm 2010) và xác định
tính hợp pháp của quyền sử dụng đất của ông H, khi ông Lê Văn M (anh trai ông H)
cho rằng đất là tài sản chung của cha mẹ, không thuộc sở hữu riêng của ông H.
b. Xác định các văn bản pháp luật áp dụng để xử lý tình huống trênCác văn
bản pháp luật được áp dụng để xử lý tình huống gồm:
Bộ luật Dân sự năm 2015, đặc biệt các điều 613, 620, 621, 649, 651, 652 và 653
liên quan đến di sản thừa kế, người thừa kế, hàng thừa kế và quyền thừa kế của con nuôi.
Luật Đất đai năm 2003, quy định tại Điều 47,48, 50 về cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất và quyền lợi của người sử dụng đất.
(Luật Đất đai 2024, quy định tại điều 27 về căn cứ xác lập và bảo vệ quyền hợp pháp
của người sử dụng đất.) – tuỳ nghe.
Luật Nuôi con nuôi năm 2010, trong đó có Điều 24 quy định về quyền và nghĩa
vụ của con nuôi đối với cha mẹ nuôi như con đẻ. lOMoAR cPSD| 57855709
Nghị định số 43/2014/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Đất đai, cụ thể về trình
tự xác lập GCNQSDĐ và xác định chủ sở hữu hợp pháp. c. Đặt 4 câu hỏi làm rõ vấn đề
- Giấy tờ xác nhận con nuôi được lập tại UBND xã, chị có giữ bản gốc hoặc bảnsao
không? Có ai làm chứng việc nuôi dưỡng không?
- Sau khi có giấy chứng nhận đứng tên chú H, có ai trong gia đình từng phản đốihay yêu cầu chia phần chưa?
- Ông M có từng sống ở ngôi nhà đó không? Nếu có thì từ năm nào đến năm nào?
- Sau khi chú H mất, ai là người quản lý căn nhà và đất đó?d.Định hướng giải quyết tình huống trên
Xét Điều 623 Bộ luật Dân sự 2015, thời hiệu khởi kiện là 30 năm kể từ thời điểm mở
thừa kế - 2018 (khi ông H mất). Đến 2025, ông M vẫn có quyền khởi kiện.
1. Xác định tính chất pháp lý của tài sản đang tranh chấp
Theo dữ kiện, ngôi nhà và quyền sử dụng đất do ông H đứng tên Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) từ năm 2010. Mặc dù có nguồn gốc từ cha mẹ
ruột ông H để lại, nhưng thời điểm cấp GCNQSDĐ không có thông tin tranh chấp,
khiếu nại hay kê khai quyền đồng sở hữu của ông M. Điều này cho thấy ông H đã xác
lập quyền sử dụng hợp pháp đối với mảnh đất theo quy định tại Điều 48 Luật Đất đai năm 2003.
Do đó, có đủ căn cứ để xác định đây là tài sản riêng của ông H, không phải là di
sản thừa kế chung chưa chia của cha mẹ ông. Tài sản này sẽ được xem là di sản thừa
kế của ông H khi ông mất.
2. Xác định người thừa kế theo quy định pháp luật
Ông H mất năm 2018, không để lại di chúc. Vì vậy, di sản được chia theo quy
định của pháp luật tại Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Theo hồ sơ, ông H có một người con nuôi là chị Lê Thị K (được UBND cấp xã
xác nhận từ năm 2000). Căn cứ Điều 653 Bộ luật Dân sự năm 2015, con nuôi có quyền
thừa kế như con ruột. Như vậy, chị K thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông H.
Ông M là anh ruột ông H nên thuộc hàng thừa kế thứ hai (theo điểm b khoản 1
Điều 651), chỉ được hưởng thừa kế nếu không còn ai ở hàng thứ nhất. lOMoAR cPSD| 57855709
Do đó, chị K là người duy nhất thuộc hàng thừa kế thứ nhất, có toàn quyền nhận
toàn bộ di sản của ông H để lại, bao gồm cả nhà và đất.
Câu 3: Ông Nguyễn Văn A và bà Trần Thị B chết năm 2018, không để lại di chúc.
Di sản là một căn nhà tại quận Tân Bình, TP.HCM. Hai người có 4 người con:
Nguyễn Văn C, Nguyễn Thị D, Nguyễn Văn E (đang định cư tại Pháp), Nguyễn
Thị F. Năm 2019, C, D và F lập văn bản thỏa thuận phân chia di sản để C đứng
tên toàn bộ nhà đất. Năm 2021, E về nước và phát hiện sự việc, yêu cầu Tòa án
tuyên văn bản thỏa thuận trên vô hiệu và yêu cầu hủy GCNQSDĐ đã cấp cho C,
với lý do mình là người thừa kế hợp pháp nhưng không được tham gia thỏa thuận.
a. Xác định vấn đề pháp lí mấu chốt của vụ án nêu trên?
Vấn đề pháp lý mấu chốt trong tình huống này là xác định hiệu lực pháp lý của
văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế giữa ba người con mà không có sự tham
gia của người thừa kế còn lại là ông Nguyễn Văn E. Đồng thời, cần làm rõ việc cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông C có hợp pháp không khi một trong những
người thừa kế hàng thứ nhất bị loại trừ khỏi quá trình phân chia di sản.
b. Xác định các văn bản pháp luật áp dụng để xử lý tình huống trên Bộ luật Dân sự 2015:
o Điều 613, 620, 621, 649, 651, 652 và 653 liên quan đến di sản thừa kế,
người thừa kế, hàng thừa kế và quyền thừa kế của con nuôi.
o Điều 122: Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật. •
Luật Đất đai 2013:
o Điều 167: Quyền để lại thừa kế quyền sử dụng đất.
o Điều 203: Giải quyết tranh chấp đất đai tại tòa án. •
Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015: o Điều 26: Thẩm quyền giải quyết tranh chấp thừa kế.
c. Đặt 4 câu hỏi làm rõ vấn đề •
Khi ông bà A và B mất, toàn bộ căn nhà tại Tân Bình có đứng tên ai trong
Giấychứng nhận quyền sử dụng đất? •
Ông E có được thông báo về việc phân chia di sản vào năm 2019 không? Cógiấy
mời, thông báo hay chứng cứ gì thể hiện việc thông báo không? lOMoAR cPSD| 57855709 •
Việc cấp GCNQSDĐ đứng tên ông C được thực hiện theo thủ tục nào? Có
xácnhận đồng thuận của tất cả các đồng thừa kế không? •
Văn bản thỏa thuận phân chia di sản có phải là văn bản công chứng hay chỉ
làthỏa thuận viết tay nội bộ?
d.Định hướng giải quyết tình huống trên
Xét Điều 623 Bộ luật Dân sự 2015, thời hiệu khởi kiện là 10 năm kể từ thời điểm mở
thừa kế - 2018 (khi ông A và bà B mất). Đến 2021, yêu cầu của E vẫn hợp lệ.
Thứ nhất, về quyền thừa kế: Theo quy định tại Điều 651 Bộ luật Dân sự năm
2015, hàng thừa kế thứ nhất bao gồm các con của người để lại di sản. Trong tình huống
này, cả bốn người con: C, D, E và F đều là người thừa kế hợp pháp thuộc hàng thứ nhất
đối với di sản là căn nhà tại quận Tân Bình.
Thứ hai, về văn bản thỏa thuận phân chia di sản: Văn bản thỏa thuận giữa ba
người thừa kế là C, D và F không có sự tham gia của ông E, nên không đáp ứng điều
kiện đồng thuận của toàn bộ những người có quyền thừa kế. Căn cứ Điều 212 Bộ luật
Dân sự năm 2015, tài sản thuộc sở hữu chung theo phần của các đồng thừa kế chỉ có
thể được chia khi tất cả đồng thừa kế đều đồng ý. Việc ba người tự thỏa thuận mà không
có sự ủy quyền hoặc đồng ý từ ông E khiến giao dịch này không có hiệu lực đối với phần di sản của ông E.
Thứ ba, về yêu cầu tuyên vô hiệu và hủy GCNQSDĐ: Căn cứ Điều 117 và Điều
122 Bộ luật Dân sự 2015, một giao dịch dân sự sẽ bị vô hiệu nếu một bên tham gia
không có ý chí thực sự hoặc bị loại trừ trái pháp luật. Trong trường hợp này, ông E là
người có quyền thừa kế, nhưng bị loại khỏi quá trình phân chia, dẫn đến việc cấp
GCNQSDĐ cho ông C không đúng trình tự và có dấu hiệu xâm phạm quyền lợi hợp
pháp của người thừa kế khác.
Thứ tư, về trách nhiệm pháp lý: Tòa án có cơ sở để: •
Tuyên văn bản thỏa thuận phân chia di sản vô hiệu một phần – phần tài sản thuộc
quyền thừa kế của ông E; •
Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông C nếu được xác lập
trên cơ sở hồ sơ thiếu chữ ký của ông E; lOMoAR cPSD| 57855709 •
Buộc các đồng thừa kế chia lại di sản theo đúng quy định pháp luật, với mỗi
người con hưởng một phần bằng nhau, trừ khi có thỏa thuận mới được tất cả cùng ký.
Câu 4: Bà Lê Thị M chết năm 2016, để lại một thửa đất tại thị xã Quảng Trị, tỉnh
Quảng Trị. Bà có 3 người con: ông P, bà Q và ông R. Do ông R đi làm ăn xa, không
liên lạc được trong nhiều năm, nên ông P và bà Q đã tự lập văn bản khai nhận và
phân chia di sản, đứng tên ông P. Năm 2022, ông R trở về và yêu cầu hủy văn bản
thỏa thuận với lý do mình là người thừa kế hợp pháp, bị cố ý không thông báo,
không đưa vào phân chia di sản. Từ đó phát sinh tranh chấp.
a. Xác định vấn đề pháp lí mấu chốt của vụ án nêu trên?
Vấn đề pháp lý mấu chốt cần giải quyết là tính hợp pháp của văn bản phân chia di sản
giữa hai trong ba người thừa kế khi một người con hợp pháp (ông R) bị bỏ sót không
được thông báo hay tham gia. Đồng thời, cần xác định quyền yêu cầu chia thừa kế của
ông R trong bối cảnh đã có người khác đứng tên tài sản thừa kế từ năm 2016.
b. Xác định các văn bản pháp luật áp dụng để xử lý tình huống trên
c. Đặt 4 câu hỏi làm rõ vấn đề
• Ông R có được thông báo về việc mẹ mất và thủ tục phân chia di sản không?
Văn bản phân chia di sản có phải là văn bản công chứng không? Có ghi rõ những
ai là người thừa kế không?
• Việc ông P đứng tên quyền sử dụng đất đã được cấp giấy chứng nhận chưa?Nếu
có, có nộp đủ hồ sơ đồng thuận của các thừa kế không?
• Ông R có bằng chứng nào cho thấy ông là con ruột, thuộc hàng thừa kế và bịbỏ
sót trong quá trình phân chia?
d.Định hướng giải quyết tình huống trên
Điều 623 Bộ luật Dân sự 2015, thời hiệu khởi kiện về thừa kế là 30 năm kể - 2016.
Đến 2022, yêu cầu của R vẫn hợp lệ.
Đề xuất giải pháp:
• Đề xuất hòa giải để các bên thỏa thuận lại phân chia di sản. lOMoAR cPSD| 57855709
• Tư vấn ông R khởi kiện yêu cầu tuyên văn bản thỏa thuận vô hiệu và hủy GCNQSDĐ đứng tên P.
• Tòa án sẽ phân chia lại di sản (mỗi người con được 1/3 thửa đất).
Câu 5: Ông Trần Văn K cùng vợ là bà Lê Thị M sinh sống tại thửa đất số 22, tờ
bản đồ số 5 tại huyện Quảng Điền, tỉnh TT-Huế từ năm 1975, do hợp tác xã cấp.
Năm 1990, ông K mất, không để lại di chúc. Người con cả là ông N tiếp tục ở trên
đất, kê khai sử dụng đất và được cấp sổ đỏ năm 1999 đứng tên cá nhân. Năm
2005, ông N chết, vợ ông làm thủ tục nhận thừa kế và được cấp GCNQSDĐ đứng
tên. Năm 2023, bà T (em gái ông N) khởi kiện yêu cầu chia thừa kế đối với tài sản
của cha mẹ để lại, cho rằng đất là của chung cha mẹ nên mình có quyền thừa kế.
a. Xác định vấn đề pháp lí mấu chốt của vụ án nêu trên?
Vấn đề pháp lý mấu chốt là xác định quyền thừa kế của bà T đối với thửa đất do
hợp tác xã cấp cho ông K và bà M, khi ông N (con cả) được cấp GCNQSDĐ đứng tên
cá nhân năm 1999 và di sản đã được vợ ông N thừa kế năm 2005. b. Xác định các văn
bản pháp luật áp dụng để xử lý tình huống trên
c. Đặt 4 câu hỏi làm rõ vấn đề -
Thửa đất do hợp tác xã cấp năm 1975 là tài sản chung của ông K và bà M hay
tàisản của hộ gia đình? -
Khi ông K mất năm 1990, ai là người đang trực tiếp sử dụng đất? Việc quản
lýđất có được thống nhất giữa các đồng thừa kế không? -
GCNQSDĐ năm 1999 cấp cho ông N có căn cứ từ văn bản nào? Có sự đồng
ýbằng văn bản của mẹ và các anh chị em không? -
Bà T có biết việc ông N được cấp sổ đỏ năm 1999 không?d.Định hướng giải
quyết tình huống trên -
Điều 623 Bộ luật Dân sự 2015, thời hiệu khởi kiện về thừa kế là 30 năm - 1990
(khi ông K mất). Đến 2023, thời hiệu đã hết, trừ khi bà T chứng minh được có sự kiện
làm gián đoạn thời hiệu (Điều 156 Bộ luật Dân sự 2015).
Thứ nhất, cần xác định nguồn gốc và tính chất của quyền sử dụng đất. Thửa đất
do hợp tác xã cấp cho hộ gia đình ông K và bà M năm 1975. Tại thời điểm đó, quyền
sử dụng đất gắn với hộ gia đình, không cấp riêng cho cá nhân. Do đó, khi ông K mất lOMoAR cPSD| 57855709
năm 1990, quyền sử dụng đất này được xác định là tài sản chung của vợ chồng, thuộc
khối tài sản thừa kế của ông K để lại.
Theo quy định tại Điều 635 và 637 Bộ luật Dân sự 1995 (có hiệu lực tại thời
điểm ông K chết), hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, con. Do vậy, bà T (là con gái của
ông K) có quyền thừa kế ngang bằng với ông N và các con khác nếu có.
Thứ hai, việc cấp GCNQSDĐ cho ông N vào năm 1999 cần được xem xét kỹ.
Nếu GCNQSDĐ được cấp mà không có sự đồng ý, ký xác nhận của các đồng
thừa kế khác (trong đó có bà T), thì việc cấp giấy chứng nhận chỉ có thể làm phát sinh
quyền sở hữu hợp pháp đối với phần tài sản mà ông N được hưởng thừa kế, không có
giá trị loại trừ quyền của các đồng thừa kế chưa ký tên hoặc chưa được chia phần.
Nếu GCNQSDĐ được cấp mà không có sự đồng ý, ký xác nhận của các đồng
thừa kế khác (trong đó có bà T), thì việc cấp giấy chứng nhận chỉ có thể làm phát sinh
quyền sở hữu hợp pháp đối với phần tài sản mà ông N được hưởng thừa kế, không có
giá trị loại trừ quyền của các đồng thừa kế chưa ký tên hoặc chưa được chia phần.
Thứ ba, về hướng giải quyết cụ thể: •
Nếu chứng minh được thửa đất là tài sản cha mẹ để lại, và việc cấp sổ đỏ cho
ông N là không có sự đồng thuận, thì bà T vẫn có cơ sở yêu cầu chia phần thừa kế. •
Tuy nhiên, nếu bà T đã biết về việc cấp GCNQSDĐ cho ông N từ lâu mà không
phản đối, đồng thời đã hết thời hiệu, Tòa có thể không chấp nhận yêu cầu của bà. •
Nếu có cơ sở, Tòa có thể tuyên: GCNQSDĐ chỉ có hiệu lực đối với phần của
ông N, yêu cầu chia lại phần còn lại cho bà T theo quy định về thừa kế. Câu 6:
Từ năm 1968, ông Lê Văn A sống cùng vợ và các con tại thửa đất do hợp
tác xã cấp tại huyện Hương Thủy, TT-Huế. Ông mất năm 1990, không để
lại di chúc. Người con cả là ông B tiếp tục sử dụng đất và năm 1998 đã kê
khai, đăng ký sử dụng đất, sau đó được cấp GCNQSDĐ đứng tên cá nhân.
Sau khi ông B chết, vợ con ông làm thủ tục khai nhận di sản thừa kế. Năm
2024, ông D (em trai ông B) khởi kiện yêu cầu chia di sản do cha ông để lại, lOMoAR cPSD| 57855709
cho rằng đất là tài sản chung chưa chia. Gia đình ông B phản đối với lý do
ông B đã được cấp sổ đỏ hợp pháp, có quyền định đoạt.
a. Xác định vấn đề pháp lí mấu chốt của vụ án nêu trên?
b. Xác định các văn bản pháp luật áp dụng để xử lý tình huống trên
c. Đặt 4 câu hỏi làm rõ vấn đề
d.Định hướng giải quyết tình huống trên
Câu 7: Năm 1980, ông Nguyễn Văn H sống tại xã Phú Mậu, huyện Phú Vang trên
thửa đất do địa phương cấp cho hộ gia đình sử dụng. Gia đình có 3 người con: A,
B, C. Năm 1993, ông H chết, chưa được cấp sổ đỏ. Năm 1997, con trai là ông A kê
khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên cá nhân. Sau khi
ông A mất, vợ con ông A thực hiện thủ tục thừa kế toàn bộ mảnh đất. Năm 2025,
ông B (em ông A) nộp đơn yêu cầu Tòa án chia di sản của cha mẹ, vì cho rằng đất
là tài sản cha mẹ chưa chia, không thể được cấp cho một mình ông A.
a. Xác định vấn đề pháp lí mấu chốt của vụ án nêu trên?
b. Xác định các văn bản pháp luật áp dụng để xử lý tình huống trên
c. Đặt 4 câu hỏi làm rõ vấn đề
- Sau khi cha ông (ông H) mất, gia đình có ai họp lại để bàn bạc về việc chia đấtkhông?
- Sau khi ông H mất, ông có từng nói hoặc viết rằng mình không có nhu cầu chia đất không?
- Lúc ông A kê khai xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1997, ông Bcó
biết không? Có ai thông báo gì cho ông B không?
- Trong quá trình sử dụng đất, gia đình ông A có cho ông sử dụng phần nào không?
Có ngăn cản ông B đến ở hoặc canh tác không? d.Định
hướng giải quyết tình huống trên