Bài tập nhỏ số 1 - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

Là một loại hình nhận thức đặc thù của con người, triết học ra đời ở cảphương Đông và phương Tây gần như cùng một thời gian (khoảng từthế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước Công nguyên) tại các trung tâm vănminh lớn của nhân loại thời cổ đại. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Đỗ Thị Thảo Hiền- 722H0011
Nhóm 3.
Câu 1: Nguồn gốc ra đời của Trết học?
Là một loại hình nhận thức đặc thù của con người, triết học ra đời cả
phương Đông phương Tây gần như cùng một thời gian (khoảng từ
thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước Công nguyên) tại các trung tâm văn
minh lớn của nhân loại thời cổ đại. Ý thức triết học xuất hiện không
ngẫu nhiên,nguồn gốc thực tế từ tồn tại xã hội với một trình độ
nhất định của sự phát triển văn minh, văn hóa và khoa học. Con người,
với kỳ vọng được đáp ứng nhu cầu về nhận thức và hoạt động thực tiễn
của mình đã sáng tạo ra những luận thuyết chung nhất, tính hệ
thống, phản ánh thế giới xung quanh thế giới của chính con người.
Triết học dạng tri thức luận xuất hiện sớm nhất trong lịch sử các
loại hình lý luận của nhân loại.
Với tư cách một hình thái ý thứchội, triết học nguồn gốc nhận
thức và nguồn gốc xã hội.
Nguồn gốc nhận thức: ra đời khi tư duy con người đạt đến trình độ nhất
định một cách khái quát hóa trừu tượng hóa (điều này được thấy
thời kì chiếm hữu nô lệ).
Nguồn góc hội: khi hội sự phân công dẫn đến phân chia lao
động. Từ đó xuất hiện chế độ hữu, tạo khoảng cách giữa lao động
chân tay lao động tri thức, tầng lớp tri thức được hình thành. Tầng
lớp tri thức được theo học tại các trường giáo dục, trong đó một bộ
phận tri thức theo đuổi và nghiên cứu Triết học được gọi là tri thức triết
học.
Câu 2: Triết học theo quan điểm của Trung Quốc, Ấn Độ, Phương Tây,
Heghen, Mác-Lênin gì? Sự khác biệt giữa tri thức triết học với tri
thức của các khoa học khác thể hiện như thế nào?
Trung Quốc, triết được coi tương đương với thuật ngữ philosophia
của Hy Lạp, với ý nghĩa sự truy tìm bản chất của đối tượng nhận
thức, thường con người, hội, trụ tưởng. Triết học biểu
hiện cao của trí tuệ, sự hiểu biết sâu sắc của con người về toàn bộ
thế giới thiên - địa - nhân và định hướng nhân sinh quan cho con người.
Ấn Độ, thuật ngữ Dar’sana (triết học) nghĩa gốc chiêm ngưỡng,
hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con
người đến với lẽ phải. phương Tây, thuật ngữ “triết học” như đang
được sử dụng phổ biến hiện nay, cũng như trong tất cả các hệ thống
nhà trường, chính φιλοσοφία (tiếng Hy Lạp; được sử dụng nghĩa gốc
sang các ngôn ngữ khác: philosophy, philosophie, философия). Triết
học, philosophia, xuất hiện Hy Lạp cổ đại, với nghĩa yêu mến sự
thông thái. Người Hy Lạp cổ đại quan niệm, philosophia vừa mang
nghĩa giải thích trụ, định hướng nhận thức hành vi, vừa nhấn
mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của con người.
Với sự ra đời của triết học Mác - Lênin, triết họchệ thống quan điểm
luận chung nhất về thế giới vị trí con người trong thế giới đó,
khoa học về những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự
nhiên, hội duy. Triết học Hegel học thuyết triết học cuối
cùng thể hiện tham vọng đó. Hêghen tự coi triết học của mình một
hệ thống nhận thức phổ biến, trong đó những ngành khoa học riêng
biệt chỉ những mắt khâu phụ thuộc vào triết học, lôgích học ứng
dụng.
So sánh sự khác nhau về tri giữa giữa Triết họcKhoa học ta thấy: tri
thức của Triết học những kiến thức những vấn đề chung nhất bao
gồm sự khái quát hóa và trừu tượng hóa. Trong khi đó tri thức của khoa
học hay cụ thể là của một ngành khoa học bất kì nào đều có sự chuyên
môn hóa cho nên tri thức khoa học sẽ sự khác biệt nhau mỗi
ngành ddeeeuf có đặc trưng riêng.
Câu 3: Đối tượng của Triết học trong lịch sử?
Thời kì Đối tượng
Thời kỳ Hy Lạp cổ đại
Triết học tự nhiên: khoa học tự nhiên, thế
giới tự nhiên, đi nghiên cứu những thứ
trong tự nhiên như khởi nguyên của thế
giới này là gì.
Thời kỳ Trung cổ Tây Âu
Chân lý, trí, gắn liền với tưởng,giáo
hội, thần học, đây nên Triết học kinh
viện.
Phục Hưng cận đại
Chủ yếu là con người, truy tìm, phục dựng
những giá trị đã đánh mất, bên cạnh đó
xu hứng rẻ nhánh tạo thành các ngành
khoa học riêng biệt. Thời Triết học
quay lại và phát triển rực rỡ
Triết học cổ đại Đức
Tập trung vào khoa học, tạo ra các nhánh
nhỏ của triết học là các nghanh khoa học
Mác Tiếp tục đi vào giải quyết mối quan hệ
giữa tồn tại duy, những quy luật
chung nhất của tự nhiên xã hội và tư duy.
Câu 4: Thế giới quan:
- Thế giới quan là gì? Các loại thế giới quan? Tại sao nói Triết học là hạt
nhân lý luận của thế giới quan?
- Trước khi triết học ra đời, con người đã giải thích thế giới bằng các loại
hình triết lý nào? Thần thoại Hy Lạp là hình thức thế giới quan nào?
Thế giới quan khái niệm triết học chỉ hệ thống các tri thức, quan
điểm, tình cảm, niềm tin, tưởng xác định về thế giới về vị trí của
con người (bao hàm cả nhân, hội nhân loại) trong thế giới đó.
Thế giới quan quy định các nguyên tắc, thái độ, giá trị trong định
hướng nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
3 hình thức TGQ: thế giới quan tôn giáo, thế giới quan khoa học
thế giới quan triết học. Ngoài ba hình thức chủ yếu này, còn thể
thế giới quan huyền thoại.
Nói triết học là hạt nhân của thế giới quan, bởi: Thứ nhất, bản thân triết
học chính thế giới quan. Thứ hai, trong các thế giới quan khác như
thế giới quan của các khoa học cụ thể, thế giới quan của các dân tộc,
hay các thời đại... triết học bao giờ cũng thành phần quan trọng,
đóng vai trò nhân tố cốt lõi. Thứ ba, với các loại thế giới quan tôn
giáo, thế giới quan kinh nghiệm hay thế giới quan thông thường..., triết
học bao giờ cũng ảnh hưởng chi phối, thể không tự giác.
Thứ tư, thế giới quan triết học như thế nào sẽ quy định các thế giới
quan và các quan niệm khác như thế.
Trước khi Triết học ra đời con người giải quyết các vấn đề ẩn của
thế giới qua 2 hình thức khai duy huyền thoại tín ngưỡng
nguyên thủy. thần thoại Hy lạp một biểu trung cho thế giới quan
thần thoại.
Câu 5: Vấn đề bản của Triết học gì? mấy mặt? Đó những
mặt nào?
Vấn đề bản của Triết học mối quan hệ giữa duy tồn tại hay
nói cách khác ý thức vật chất. Trong đó con người đi đào sâu vào
việc trả lời cho 2 câu hỏi cũng như 2 mặt vấn đề trong mối quan hệ
trên. Đầu tiên là giữa vật và ý thức cái nào trước cái nào quyệt định
cacsi nào thứ hai nhận thức luận (con người nhận thức được
thế giới hay không).
| 1/3

Preview text:

Đỗ Thị Thảo Hiền- 722H0011 Nhóm 3.
Câu 1: Nguồn gốc ra đời của Trết học?
Là một loại hình nhận thức đặc thù của con người, triết học ra đời ở cả
phương Đông và phương Tây gần như cùng một thời gian (khoảng từ
thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước Công nguyên) tại các trung tâm văn
minh lớn của nhân loại thời cổ đại. Ý thức triết học xuất hiện không
ngẫu nhiên, mà có nguồn gốc thực tế từ tồn tại xã hội với một trình độ
nhất định của sự phát triển văn minh, văn hóa và khoa học. Con người,
với kỳ vọng được đáp ứng nhu cầu về nhận thức và hoạt động thực tiễn
của mình đã sáng tạo ra những luận thuyết chung nhất, có tính hệ
thống, phản ánh thế giới xung quanh và thế giới của chính con người.
Triết học là dạng tri thức lý luận xuất hiện sớm nhất trong lịch sử các
loại hình lý luận của nhân loại.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học có nguồn gốc nhận
thức và nguồn gốc xã hội.
Nguồn gốc nhận thức: ra đời khi tư duy con người đạt đến trình độ nhất
định một cách khái quát hóa và trừu tượng hóa (điều này được thấy ở
thời kì chiếm hữu nô lệ).
Nguồn góc xã hội: khi xã hội có sự phân công dẫn đến phân chia lao
động. Từ đó xuất hiện chế độ tư hữu, tạo khoảng cách giữa lao động
chân tay và lao động tri thức, tầng lớp tri thức được hình thành. Tầng
lớp tri thức được theo học tại các trường giáo dục, trong đó một bộ
phận tri thức theo đuổi và nghiên cứu Triết học được gọi là tri thức triết học.
Câu 2: Triết học theo quan điểm của Trung Quốc, Ấn Độ, Phương Tây,
Heghen, Mác-Lênin là gì? Sự khác biệt giữa tri thức triết học với tri
thức của các khoa học khác thể hiện như thế nào?
Ở Trung Quốc, triết được coi là tương đương với thuật ngữ philosophia
của Hy Lạp, với ý nghĩa là sự truy tìm bản chất của đối tượng nhận
thức, thường là con người, xã hội, vũ trụ và tư tưởng. Triết học là biểu
hiện cao của trí tuệ, là sự hiểu biết sâu sắc của con người về toàn bộ
thế giới thiên - địa - nhân và định hướng nhân sinh quan cho con người.
Ở Ấn Độ, thuật ngữ Dar’sana (triết học) nghĩa gốc là chiêm ngưỡng,
hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con
người đến với lẽ phải. Ở phương Tây, thuật ngữ “triết học” như đang
được sử dụng phổ biến hiện nay, cũng như trong tất cả các hệ thống
nhà trường, chính là φιλοσοφία (tiếng Hy Lạp; được sử dụng nghĩa gốc
sang các ngôn ngữ khác: philosophy, philosophie, философия). Triết
học, philosophia, xuất hiện ở Hy Lạp cổ đại, với nghĩa là yêu mến sự
thông thái. Người Hy Lạp cổ đại quan niệm, philosophia vừa mang
nghĩa là giải thích vũ trụ, định hướng nhận thức và hành vi, vừa nhấn
mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của con người.
Với sự ra đời của triết học Mác - Lênin, triết học là hệ thống quan điểm
lý luận chung nhất về thế giới và vị trí con người trong thế giới đó, là
khoa học về những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự
nhiên, xã hội và tư duy. Triết học Hegel là học thuyết triết học cuối
cùng thể hiện tham vọng đó. Hêghen tự coi triết học của mình là một
hệ thống nhận thức phổ biến, trong đó những ngành khoa học riêng
biệt chỉ là những mắt khâu phụ thuộc vào triết học, là lôgích học ứng dụng.
So sánh sự khác nhau về tri giữa giữa Triết học và Khoa học ta thấy: tri
thức của Triết học là những kiến thức là những vấn đề chung nhất bao
gồm sự khái quát hóa và trừu tượng hóa. Trong khi đó tri thức của khoa
học hay cụ thể là của một ngành khoa học bất kì nào đều có sự chuyên
môn hóa cho nên tri thức khoa học sẽ có sự khác biệt nhau và mỗi
ngành ddeeeuf có đặc trưng riêng.
Câu 3: Đối tượng của Triết học trong lịch sử? Thời kì Đối tượng
Triết học tự nhiên: khoa học tự nhiên, thế
Thời kỳ Hy Lạp cổ đại
giới tự nhiên, đi nghiên cứu những thứ có
trong tự nhiên như là khởi nguyên của thế giới này là gì.
Chân lý, lý trí, gắn liền với tư tưởng,giáo
Thời kỳ Trung cổ Tây Âu
hội, thần học, đây là nên Triết học kinh viện.
Chủ yếu là con người, truy tìm, phục dựng
những giá trị đã đánh mất, bên cạnh đó có
Phục Hưng cận đại
xu hứng rẻ nhánh tạo thành các ngành
khoa học riêng biệt. Thời kì Triết học
quay lại và phát triển rực rỡ
Tập trung vào khoa học, tạo ra các nhánh
Triết học cổ đại Đức
nhỏ của triết học là các nghanh khoa học Mác
Tiếp tục đi vào giải quyết mối quan hệ
giữa tồn tại và tư duy, những quy luật
chung nhất của tự nhiên xã hội và tư duy. Câu 4: Thế giới quan:
- Thế giới quan là gì? Các loại thế giới quan? Tại sao nói Triết học là hạt
nhân lý luận của thế giới quan?
- Trước khi triết học ra đời, con người đã giải thích thế giới bằng các loại
hình triết lý nào? Thần thoại Hy Lạp là hình thức thế giới quan nào?
Thế giới quan là khái niệm triết học chỉ hệ thống các tri thức, quan
điểm, tình cảm, niềm tin, lý tưởng xác định về thế giới và về vị trí của
con người (bao hàm cả cá nhân, xã hội và nhân loại) trong thế giới đó.
Thế giới quan quy định các nguyên tắc, thái độ, giá trị trong định
hướng nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Có 3 hình thức TGQ: thế giới quan tôn giáo, thế giới quan khoa học và
thế giới quan triết học. Ngoài ba hình thức chủ yếu này, còn có thể có
thế giới quan huyền thoại.
Nói triết học là hạt nhân của thế giới quan, bởi: Thứ nhất, bản thân triết
học chính là thế giới quan. Thứ hai, trong các thế giới quan khác như
thế giới quan của các khoa học cụ thể, thế giới quan của các dân tộc,
hay các thời đại... triết học bao giờ cũng là thành phần quan trọng,
đóng vai trò là nhân tố cốt lõi. Thứ ba, với các loại thế giới quan tôn
giáo, thế giới quan kinh nghiệm hay thế giới quan thông thường..., triết
học bao giờ cũng có ảnh hưởng và chi phối, dù có thể không tự giác.
Thứ tư, thế giới quan triết học như thế nào sẽ quy định các thế giới
quan và các quan niệm khác như thế.
Trước khi có Triết học ra đời con người giải quyết các vấn đề bí ẩn của
thế giới qua 2 hình thức sơ khai là tư duy huyền thoại và tín ngưỡng
nguyên thủy. thần thoại Hy lạp là một biểu trung cho thế giới quan thần thoại.
Câu 5: Vấn đề cơ bản của Triết học là gì? Có mấy mặt? Đó là những mặt nào?
Vấn đề cơ bản của Triết học là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại hay
nói cách khác là ý thức và vật chất. Trong đó con người đi đào sâu vào
việc trả lời cho 2 câu hỏi cũng như là 2 mặt vấn đề trong mối quan hệ
trên. Đầu tiên là giữa vật và ý thức cái nào có trước cái nào quyệt định
cacsi nào và thứ hai là nhận thức luận (con người có nhận thức được thế giới hay không).