
















Preview text:
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân BÀI TẬP NHÓM 2
Môn học: Pháp luật đại cương
Lớp học phần: Pháp luật đại cương 121_19 Thành viên nhóm: STT Mã sinh viên Họ và tên Chức vụ Đóng góp 1 11217370 Phạm Thị Huyền Trưởng nhóm 60% 2 11210688 Phạm Hồng Anh Thành viên 0% 3 11217382 Trần Thành Nam Thành viên 0% 4 11217398 Vũ Minh Tâm Thành viên 20% 5 11217408 Đào Thảo Vy Thành viên 20%
Câu 1: Phân tích năng lực chủ thể của cá nhân khi tham gia quan hệ pháp luật? Cho ví dụ minh họa
I. Quan hệ pháp luật 1. Khái niệm
Quan hệ pháp luật là các quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật khác nhau,
những quan hệ xã hội này xác lập, phát triển, tồn tại hay chấm dứt dựa trên quy định của pháp
luật, các bên tham gia vào quan hệ đó là những chủ thể có quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý
phát sinh được pháp luật quy định và Nhà nước sẽ bảo đảm thực hiện.
Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội mang tính chất ý chí – ý chí của Nhà nước thông qua các
quy phạm pháp luật mà nội dung của chúng được xác định bằng các điều kiện kinh tế, chính trị,
xã hội tôn tại trong xã hội đó vào thời điểm lịch sử nhất định. Ngoài ra, các quan hệ pháp luật
còn mang ý chí của các chủ thể tham gia vào quan hệ đó. Ý chí của các chủ thể phải phù hợp với
ý chí của Nhà nước và được thể hiện khác nhau trong từng quan hệ cụ thể, từng giai đoạn của nó
(phát sinh, thực hiện hoặc chấm dứt). Có thể chỉ thể hiện khi phát sinh, lúc thực hiện hay chấm
dứt một quan hệ cụ thể, song ý chí của các chủ thể tham gia vào các quan hệ này phải phù hợp
với ý chí của Nhà nước thể hiện qua các quy phạm pháp luật dân sự và các nguyên tắc chung của
luật dân sự được quy định. 1. Đặc điểm
+ Quan hệ này được phát sinh trên cơ sở quy phạm pháp luật. Trong đó, quy phạm pháp luật là
sự dự liệu tình huống nảy sinh quan hệ pháp luật, xác định được chủ thể tham gia, quyền lợi và nghĩa vụ pháp lý.
+ Quan hệ mang tính ý chí, đây là ý chí của Nhà nước sau đó mới là ý chí của các bên tham gia vào quan hệ đó.
+ Nhà nước đảm bảo cho việc thực hiện quan hệ pháp luật, thậm chí là bảo đảm bằng các biện
pháp cưỡng chế thi hành.
+ Khi tham gia quan hệ này, các bên bị ràng buộc bằng quyền chủ thể và nghĩa vụ mà pháp luật quy định.
+ Quan hệ pháp luật còn mang tính cụ về chủ thể tham gia là cá nhân, tổ chức hay cơ quan nhà
nước cũng như quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia.
II. Chủ thể cá nhân của quan hệ pháp luật
1. Khái niệm chủ thể của quan hệ pháp luật
Cá nhân hay tổ chức có năng lực pháp luật và năng lực hành vi pháp luật, tham gia vào các quan
hệ pháp luật, có quyền và nghĩa vụ pháp lí nhất định.
Nói một cách chung nhất, cá nhân, tổ chức có thể là chủ thể quan hệ pháp luật, nhưng đi vào cụ
thể thì có sự phân biệt giữa cá nhân và tổ chức với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật.
Cá nhân có thể là công dân, người nước ngoài, người không quốc tịch. Với tư cách là công dân,
cá nhân là chủ thể của quan hệ pháp luật ở những mức độ khác nhau. Mọi cá nhân - công dân từ
khi sinh ra được pháp luật công nhận là có năng lực pháp luật, khả năng có quyển và có nghĩa vụ
pháp lý. Cá nhân công dân từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự
đầy đủ. Cá nhân - công dân từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi khi xác lập, tham gia các quan hệ
pháp luật, xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự phải được sự đồng ý của người đại diện theo
pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày phù hợp với lứa tuổi. Cá
nhân - công dân từ khi sinh ra đến chưa đủ 6 tuổi chỉ có năng lực pháp luật mà chưa có năng lực
hành vi dân sự, mọi giao dịch dân sự đều phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực
hiện. Cá nhân - công dân mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự cũng
là chủ thể quan hệ pháp luật hạn chế theo quy định của pháp luật.
Tổ chức chỉ khi là pháp nhân mới là chủ thể đầy đủ của quan hệ pháp luật, các tổ chức khác phụ
thuộc vào tư cách pháp lý khác nhau, cũng có thể là chủ thể của các quan hệ pháp luật, nhưng ở phạm vi nhất định.
Người nước ngoài, người không quốc tịch đều là chủ thể quan hệ pháp luật, trừ những quan hệ
pháp luật mà chỉ công dân mới được thực hiện.
2. Chủ thể cá nhân của quan hệ pháp luật
Cá nhân là cá thể người, bằng xương bằng thịt, được sinh ra theo quy luật sinh tồn của loài
người, có danh tính cụ thể. Cá nhân bao gồm: công dân, người nước ngoài, người không quốc tịch.
Công dân là cá nhân mang quốc tịch của một nước và có các quyền, nghĩa vụ pháp lý theo quy
định của pháp luật nước đó. Công dân là chủ thể phổ biến của quan hệ pháp luật. Quy chế pháp
lý để xác định tư cách công dân của một cá nhân dựa trên Hiến pháp và pháp luật quốc tịch của quốc gia
Người nước ngoài là cá nhân sinh sống tại một quốc gia nhưng lại mang quốc tịch của quốc gia
khác. Ở Việt Nam, người nước ngoài là người có quốc tịch của một quốc gia khác đang lao động,
học tập, công tác, sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam như: các quan chức ngoại giao, lãnh sự,
ngoại kiều, doanh nhân nước ngoài, lưu học sinh người nước ngoài
Người không quốc tịch là cá nhân không mang quốc tịch của bất kỳ quốc gia nào. Người không
quốc tịch là thực trạng pháp lý của một cá nhân có thể do nhiều nguyên nhân. Chẳng hạn, cá
nhân xin thôi quốc tịch nước này để gia nhập quốc tịch nước khác, trong thời gian chờ gia nhập
quốc tịch nước mới, họ là người không quốc tịch; cá nhân được sinh ra do sự xung đột pháp luật
quốc tịch giữa các quốc gia,…
Năng lực pháp luật của cá nhân xuất hiện từ khi cá nhân được công nhận về địa lý pháp lý và
chấm dứt khi cá nhân chết đi hoặc chấm dứt tư cách chủ thể (thay đổi quốc tịch, trừ trường hợp
bị pháp luật tước đoạt hoặc hạn chế)
Năng lực hành vi của cá nhân xuất hiện từ khi cá nhân được sinh ra, nhưng được chia thành
nhiều cấp độ, phụ thuộc vào các yếu tố: độ tuổi và khả năng nhận thức của cá nhân. Độ tuổi được
xác định là có đủ năng lực hành vi được quy định khác nhau cho từng loại quan hệ pháp luật, phụ
thuộc vào tính chất của quan hệ pháp luật đó.
Khi tham gia quan hệ pháp luật, cá nhân có thể tham gia với tư cách là chủ thể gián tiếp hoặc chủ thể trực tiếp
Cá nhân là chủ thể gián tiếp khi cá nhân chỉ có năng lực pháp luật, nhưng năng lực hành vi pháp
luật có thể chưa đầy đủ hoặc bị hạn chế hoặc bị mất năng lực hành vi pháp luật, phù hợp với quy
định pháp luật điều chỉnh quan hệ đó. Khi đó, việc tham gia quan hệ pháp luật của họ phải thông
qua hành vi của người khác – người đại diện cho họ (có thể là cá nhân hoặc pháp nhân)
Cá nhân là chủ thể trực tiếp của quan hệ pháp luật khi cá nhân có đủ năng lực pháp luật và năng
lực hành vi pháp luật, phù hợp với quy định pháp luật điều chỉnh quan hệ đó.
3. Năng lực chủ thể của cá nhân khi tham gia quan hệ pháp luật a. Khái niệm
Năng lực chủ thể của cá nhân là khả năng đề cá nhân có thể tham gia vào quan hệ pháp luật với
tư cách là một chủ thể và tự mình thực hiện các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ mối quan hệ pháp luật đã tham gia.
b. Các yếu tố cấu thành năng lực chủ thể của cá nhân
- Khả năng do pháp luật quy định (năng lực pháp luật dân sự) là khả năng xem xét chủ thể nào là
cá nhân, chủ thể nào không được thừa nhận trong từng quan hệ pháp luật cụ thể
- Khả năng tự có của chủ thể: căn cứ vào độ tuổi, mức độ nhận thức của cá nhân xem xét khả
năng tham gia các quan hệ pháp luật nào. c. Mối quan hệ
Hai yếu tố trên là cần và đủ để tạo nên năng lực chủ thể của cá nhân.
- Năng lực pháp luật là tiền đề pháp lý cho chủ thể thực hiện năng lực hành vi, được hiểu đây là
phạm vi các quyền do pháp luật quy định cho cá nhân, cá nhân chỉ được thực hiện các quyền
trong phạm vi đó. Cá nhân được phép thực hiện những hành vi nhất định (pháp luật cho phép hoặc không cấm).
- Năng lực hành vi dân sự là “phương tiện” hiện thực hóa năng lực pháp luật dân sự.
Hiểu là: pháp luật ghi nhận các quyền cho chủ thể, chỉ được thành hiện thực khi chủ thể thực
hiện bằng hành vi của mình.
- Năng lực pháp luật có khi sinh ra, Năng lực hành vi có khi đạt độ tuổi nhất định
- Năng lực pháp luật mọi cá nhân là như nhau, Năng lực hành vi không như nhau
- Năng lực pháp luật chấm dứt khi cá nhân chết, Năng lực hành vi chấm dứt ngay cả khi cá nhân
còn sống. Năng lực chủ thể của cá nhân bao gồm năng lực hành vi và năng lực pháp luật.
Câu 2: Phân tích các điều kiện của tổ chức có tư cách pháp nhân. Cho ví dụ minh họa
Điều kiện của tổ chức có tư cách pháp nhân:
Một tổ chức có tư cách pháp nhân, là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự phải thỏa mãn các
điều kiện theo quy định tại Điều 74 Bộ luật Dân sự năm 2015.
1. Được thành lập hợp pháp:
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 74 Bộ luật Dân sự năm 2015, một tổ chức được
công nhận là pháp nhân được thành lập theo quy định của Bộ luật Dân sự và các luật
khác có liên quan. Thành lập hợp pháp là thủ tục do luật định quy định dành riêng cho
từng loại hình pháp nhân khác nhau.
Những pháp nhân là cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị-xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp được thành lập theo một
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc được phê chuẩn.
Ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, pháp nhân được thành lập theo những quy định
riêng cho loại hình và mục đích hoạt động của pháp nhân, phụ thuộc vào cơ cấu tổ chức,
nhiệm vụ của pháp nhân và tính độc lập, chuyên biệt của pháp nhân thuộc các hình thức
sở hữu, thành phần kinh tế khác nhau theo đó trình tự thành lập pháp nhân khác nhau.
Ví dụ: Một người sinh ra phải có tên gọi, pháp nhân cũng thế. Việc đặt tên cho cá nhân thì không
có quy định, nhưng việc đặt tên cho một pháp nhân thì phải tuân theo quy định của pháp luật:
pháp nhân phải có tên gọi bằng tiếng việt thể hiện rõ loại hình tổ chức và có thể phân biệt rõ với
các pháp nhân khác trong cùng một lĩnh vực. Tên gọi của pháp nhân được luật pháp công nhận
và bảo vệ nên pháp nhân bắt buộc phải sử dụng tên đó trong các giao dịch nhân sự.
2. Có cơ quan điều hành và cơ quan khác theo quy định của pháp luật:
Tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan điều hành của pháp nhân được quy định
trong điều lệ của pháp nhân hoặc trong quyết định thành lập pháp nhân.
Các phòng, ban của pháp nhân thực hiện các nhiệm vụ và mục đích hoạt động của pháp
nhân với sự chỉ đạo chung của cơ quan điều hành pháp nhân.
Tùy theo loại hình pháp nhân, quy mô và mục đích hoạt động mà pháp nhân lập ra các cơ
quan của pháp nhân hoạt động nghiệp vụ dưới sự chỉ đạo của cơ quan điều hành pháp
nhân có tính đồng bộ, thống nhất. Thực hiện nhiệm vụ của pháp nhân trong các mối quan
hệ giữa các bộ phận, thành viên của pháp nhân và thực hiện nhiệm vụ của pháp nhân
trong các quan hệ với các chủ thể khác, ngoài pháp nhân khi pháp nhân là chủ thể của quan hệ dân sự.
Cơ cấu tổ chức của vinamilk
3. Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của chính mình:
Tài sản (thường là vốn) của pháp nhân phải phù hợp với ngành nghề, mục đích hoạt động
của pháp nhân theo quy định của pháp luật (vốn pháp định). Pháp nhân có thể có vốn
điều lệ nhưng vốn điều lệ không được thấp hơn vốn pháp định.
Tài sản của pháp nhân là điều kiện để đảm bảo chủ thể này thực hiện hoạt động sản xuất -
kinh doanh, làm dịch vụ, hoạt động hành chính sự nghiệp và hoạt động khác trong các
lĩnh vực kinh tế - xã hội được pháp luật thừa nhận.
Tài sản của pháp nhân cũng là điều kiện kinh tế để pháp nhân mở rộng sản xuất, mua
bán, cải tiến và thay đổi công nghệ, trả lương người lao động, thực hiện nghĩa vụ thuế
tương ứng với ngành nghề, lĩnh vực hoạt động của pháp nhân, là điều kiện vật chất để
thực hiện các hợp đồng dân sự, thương mại, ngoại thương... mà pháp nhân là chủ thể.
Ví dụ: 3 người A, B, C rủ nhau thành lập công ty TNHH 2 thành viên trở lên với vốn điều lệ là 2
tỷ đồng (trong đó A góp một ngôi nhà trị giá 1 tỷ, B góp một xe ô tô trị giá 500 triệu, C góp tiền
mặt trị giá 500 triệu) và lấy tên công ty là công ty TNHH ABC.
Sau 3 năm hoạt động thì số vốn sở hữu đã tăng lên 6 tỷ đồng. Để tiếp tục kinh doanh thì công ty
ABC phải vay vốn ngân hàng 10 tỷ đồng và nhập một lô sữa từ Nhật về Việt Nam nhưng do bảo
quản không tốt nên toàn bộ số sữa bị hỏng. Công ty TNHH ABC bị toà án tuyên bố phá sản.
Toàn bộ tài sản của công ty ABC được thanh lý quy ra 8 tỷ đồng. Số tiền này được đem trả cho
ngân hàng, ngân hàng bị mất 2 tỷ mà không thể đòi A, B, C vì công tỷ TNHH 2 thành viên có tư
cách pháp nhân nên A, B, C chỉ phải chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty,
còn tài sản riêng sẽ không liên quan.
4. Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập:
Pháp nhân tham gia các quan hệ dân sự, thương mại, lao động và các quan hệ khác với tư
cách là chủ thể độc lập.
Hành vi của pháp nhân thông qua hành vi của người đại diện cho pháp nhân. Cơ quan
điều hành của pháp nhân thực hiện các hành vi pháp lý trong phạm vi quyền hạn được
xác định trong điều lệ của pháp nhân hoặc theo quyết định thành lập pháp nhân của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
Các thành viên của pháp nhân không phải là chủ sở hữu tài sản của pháp nhân, không
chịu trách nhiệm bằng tài sản riêng của thành viên pháp nhân trong việc thực hiện nghĩa
vụ tài sản phát sinh từ quan hệ do pháp nhân là chủ thể.
Việc xác định tư cách chủ thể độc lập của pháp nhân trong quan hệ dân sự rất quan trọng,
để tránh tình trạng xác định không đúng trách nhiệm của chủ thể vì có sự nhầm lẫn giữa
trách nhiệm của thành viên pháp nhân với trách nhiệm của pháp nhân.
Ví dụ: Công ty cổ phần Mao Mặc DM ký kết hợp đồng mua 100 tấn vải từ công ty TNHH HL thì
chủ thể trong quan hệ này chính là 2 công ty. Và trong quá trình giao kết, thực hiện hợp đồng mà
2 bên không thể tự giải quyết được thì một trong 2 bên có thể khởi kiện ra Tòa án với tư cách là
nguyên đơn trong vụ kiện và bên còn lại tham gia phiên tòa với tư cách là bị đơn của vụ kiện.
Câu 3: Phân biệt cá nhân và người đại diện theo pháp luật của pháp nhân khi tham gia quan hệ pháp luật?
1. Cá nhân khi tham gia quan hệ pháp luật:
Cá nhân hay tổ chức có năng lực pháp luật và năng lực hành vi pháp luật, tham gia vào các quan
hệ pháp luật, có quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định.
Nói một cách chung nhất, cá nhân, tổ chức có thể là chủ thể quan hệ pháp luật, nhưng đi vào cụ
thể thì có sự phân biệt giữa cá nhân và tổ chức với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật.
Cá nhân có thể là công dân, người nước ngoài, người không quốc tịch. Với tư cách là công dân,
cá nhân là chủ thể của quan hệ pháp luật ở những mức độ khác nhau. Mọi cá nhân - công dân từ
khi sinh ra được pháp luật công nhận là có năng lực pháp luật, khả năng có quyển và có nghĩa vụ
pháp lý. Cá nhân công dân từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự
đầy đủ. Cá nhân - công dân từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi khi xác lập, tham gia các quan hệ
pháp luật, xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự phải được sự đồng ý của người đại diện theo
pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày phù hợp với lứa tuổi. Cá
nhân - công dân từ khi sinh ra đến chưa đủ 6 tuổi chỉ có năng lực pháp luật mà chưa có năng lực
hành vi dân sự, mọi giao dịch dân sự đều phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực
hiện. Cá nhân - công dân mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự cũng
là chủ thể quan hệ pháp luật hạn chế theo quy định của pháp luật.
Tổ chức chỉ khi là pháp nhân mới là chủ thể đầy đủ của quan hệ pháp luật, các tổ chức khác phụ
thuộc vào tư cách pháp lý khác nhau, cũng có thể là chủ thể của các quan hệ pháp luật, nhưng ở phạm vi nhất định.
Người nước ngoài, người không quốc tịch đều là chủ thể quan hệ pháp luật, trừ những quan hệ
pháp luật mà chỉ công dân mới được thực hiện.
2. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân khi tham gia quan hệ pháp luật
Pháp luật có quy định cụ thể về pháp nhân tại điều 74 Bộ luật dân sự 2015. Tuy không quy định
cụ thể về khái niệm, nhưng qua các điều kiện thì có thể đưa ra một khái niệm cơ bản của pháp
nhân. Pháp nhân được hiểu đó là một tổ chức (một chủ thể pháp luật) có tư cách pháp lý độc lập,
có thể tham gia vào các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội… theo quy định của pháp luật. Đây là
một khái niệm trong luật học dùng để phân biệt với thể nhân (cá nhân) và các tổ chức khác và
nếu một tổ chức có “tư cách pháp nhân” thì tổ chức đó có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của một
pháp nhân mà luật đã quy định.
Theo đó có thể hiểu đại diện của pháp nhân được pháp luật quy định, có các đặc điểm và tính
chất cụ thể của việc đại diện đối với các trường hợp khác nhau thì có thể là đại diện theo pháp
luật hoặc đại diện theo ủy quyền.
Theo quy định hiện hành tại Bộ luật dân sự 2015 thì đại diện theo pháp luật của pháp nhân được quy định như sau:
– Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bao gồm:
+ Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ;
+ Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật;
+ Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án.
Theo quy định của pháp luật đề ra thì một pháp nhân có thể có một người đại diện hoặc nhiều
người đại diện theo pháp luật và mỗi người đại diện có quyền đại diện cho pháp nhân theo quy
định tại Điều 140 và Điều 141 của Bộ luật dân sự 2015.
Theo đó có thể thấy pháp luật đã quy định cụ thể về các trường hợp đại diện theo pháp luật của
pháp nhân và ngoài ra theo quy định tại quy định Bộ luật Dân sự năm 2015 có dữ liệu trường
hợp pháp nhân có nhiều người đại diện theo pháp luật (khoản 2 Điều 137).
Bên cạnh đó tại Bộ luật dân sự 2015 có quy định mỗi người đại diện trong số những người đại
diện theo pháp luật của pháp nhân chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại
diện theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền hoặc theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo nội
dung ủy quyền hoặc theo quy định của pháp luật (khoản 1 Điều 141) và phải thông báo cho bên
giao dịch biết về phạm vi đại diện của mình (khoản 4 Điều 141).
Như vậy có thể thấy bộ luật dân sự 2015 không dự liệu phạm vi đại diện của người đại diện hoặc
các người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có tính cách tổng quát, có nghĩa là, không xác
định người đại diện hoặc các người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phải đại diện cho pháp
nhân đối với bất kỳ và tất cả các công việc của pháp nhân, mà chỉ chú ý tới thẩm quyền đại diện
của mỗi người đại diện trong số những người đại diện theo pháp luật của pháp nhân và dành toàn
bộ việc xác định phạm vi đại diện này cho văn bản trao quyền đại diện.
Theo đó chúng ta hoàn toàn có thể thấy một vấn đề rất đáng tiếc vì pháp nhân không thể hoạt
động được hoặc không thể hoạt động đầy đủ theo mục đích và chức năng nếu người đại diện hay
các người đại diện theo pháp luật của pháp nhân không có thẩm quyền đại diện đối với bất kỳ và
tất cả các công việc của pháp nhân bởi pháp nhân chỉ là con người giả tưởng. Bộ luật này cũng
như Luật Doanh nghiệp năm 2020 không dự liệu việc nại ra hay lạm dụng việc có nhiều người
đại diện theo pháp luật của pháp nhân mà thẩm quyền đại diện của từng người bị giới hạn để
chống lại người thứ ba ngay tình. Bộ luật Dân sự năm 2015 có khuynh hướng buộc người đại
diện theo pháp luật của pháp nhân đã giao kết hợp đồng vượt quá phạm vi của sự ủy quyền phải
thực hiện phần nghĩa vụ vượt quá theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, pháp nhân không có người thừa kế như cá nhân. Khi pháp nhân chấm dứt, tài sản của
pháp nhân được chuyển giao cho các chủ thể khác của quan hệ pháp luật tuỳ theo tính chất, đặc
điểm của từng loại pháp nhân.
Năng lực chủ thể của pháp nhân
Pháp nhân tham gia vào các quan hệ pháp luật như là một chủ thể bình đẳng, độc lập với các chủ
thể khác, cho nên pháp nhân có năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Khác với năng lực chủ
thể của cá nhân, năng lực pháp luật và năng lực hành vi của pháp nhân phát sinh đồng thời và tồn
tại tương ứng cùng với thời điểm thành lập và đình chỉ pháp nhân. Đối với các pháp nhân theo
quy định phải đăng ký hoạt động thì năng lực chủ thể phát sinh kể từ thời điểm đăng ký.
Mỗi một pháp nhân được thành lập đều có mục đích (lợi nhuận hoặc phi lợi nhuận) và nhiệm vụ
nhất định (sản xuất kinh doanh hay một nhiệm vụ xã hội khác). Bởi vậy, năng lực chủ thể của
pháp nhân phải phù hợp với mục đích hoạt động của pháp nhân đó. Mục đích của pháp nhân
được xác định bởi quyết định thành lập pháp nhân hoặc điều lệ của pháp nhân do cơ quan có
thẩm quyền đã thành lập pháp nhân đó chuẩn y. Việc thay đổi mục đích hoạt động dẫn đến thay
đổi năng lực chủ thể của pháp nhân. Năng lực chủ thể của pháp nhân là chuyên biệt, phù hợp với
mục đích và lĩnh vực hoạt động của nó. Bởi vậy, các pháp nhân khác nhau có năng lực chủ thể khác nhau.
So sánh năng lực chủ thể pháp nhân và năng lực chủ thể cá nhân Giống nhau:
– Cả năng lực chủ thể của pháp nhân và năng lực chủ thể của cá nhân đều có khả năng tham gia
vào quan hệ pháp luật với tư cách là một chủ thể và tự mình thực hiện các quyền, nghĩa vụ phát
sinh từ quan hệ pháp luật đã tham gia.
– Cả hai đều có năng lực chủ thể được tạo thành bởi hai yếu tố là năng lực pháp luật dân sự tức
là khả năng do pháp luật quy định và năng lực hành vi dân sự tức là khả năng tự có của chính
chủ thể đó. Năng lực pháp luật và năng lực hành vi là hai yếu tố cần và đủ tạo nên năng lực chủ
thể của cá nhân và pháp nhân, giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ, hợp nhất.
– Cả năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân và của cá nhân đều là tiền đề pháp lý để thực hiện
năng lực hành vi nghĩa là phạm vi các quyền do pháp luật quy định cho cá nhân, pháp nhân chỉ
có các quyền và thực hiện các quyền đã được pháp luật ghi nhận. Vì vậy, cá nhân và pháp nhân
chỉ được thực hiện những hành vi nhất định trong trường hợp pháp luật cho phép và không cấm.
– Cả năng lực hành vi dân sự của pháp nhân và năng lực hành vi dân sự của cá nhân đều là
“phương tiện” để hiện thực hóa năng lực pháp luật. Điều này được lý giải bởi các quyền của cá
nhân, pháp nhân được pháp luật ghi nhận chỉ trở thành hiện thực thành các quyền dân sự cụ thể
nếu đã được chính chủ thể đó bằng khả năng hành vi của mình thực hiện. Khác nhau: Vấn đề cần phân Pháp nhân Cá nhân biệt -Có từ khi thành lập -Có từ khi sinh ra
-Chấm dứt khi pháp nhân không còn
-Chấm dứt khi chết (chỉ hạn tồn tại
chế nếu pháp luật có quy Năng lực pháp luật
-Xác định trong quyết định thành lập. định)
điều lệ của pháp nhân đó
-Xác định trong các văn bản
-Phụ thuộc vào từng pháp nhân pháp luật
-Như nhau giữa các cá nhân -Khả năng hoạt động
-Khả năng thực hiện hành vi
-Phụ thuộc vào năng lực pháp luật của -Phụ thuộc vào mức độ nhận từng pháp nhân
thức, trưởng thành của cá Năng lực hình vi
-Có đồng thời với năng lực pháp luật nhân
-Chỉ không còn khi pháp nhân chấm -Chỉ có khi đạt độ tuổi nhất dứt tồn tại định -Có thể không còn khi cá nhân còn sống
Quy định về hoạt động của pháp nhân theo Bộ luật dân sự 2015
Trách nhiệm dân sự của pháp nhân được quy định tại Điều 87 Bộ luật dân sự 2015 như sau:
– Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại
diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân.
Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự về nghĩa vụ do sáng lập viên hoặc đại diện của sáng lập viên
xác lập, thực hiện để thành lập, đăng ký pháp nhân, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
– Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của mình; không chịu trách nhiệm thay cho
người của pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do người của pháp nhân xác lập, thực hiện không
nhân danh pháp nhân, trừ trường hợp luật có quy định khác.
So với Bộ luật dân sự, năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân không còn bị giới hạn trong nội
dung: “phù hợp với mục đích hoạt động của mình” mà hướng tới quy định mở rộng hơn “năng
lực pháp luật dân sự của pháp nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác liên
quan có liên quan”. Quy định này phù hợp với chính sách tạo điều kiện phát triển kinh tế của Nhà nước.
Bộ luật dân sự quy định chung chung về thời điểm pháp nhân bắt đầu có năng lực pháp luật dân
sự là khi pháp nhân được thành lập thì Bộ luật dân sự năm 2015 đã chỉ rõ những thời điểm, cụ
thể: (1) Thời điểm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập; (ii) Cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cho phép thành lập; (ii) Đối với pháp nhân phải đăng ký hoạt động thì năng lực pháp
luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm ghi vào sổ đăng ký. Từ thời điểm phát sinh
năng lực pháp luật dân sự, pháp nhân có các quyền và nghĩa vụ dân sự và có thể tham gia vào
các quan hệ dân sự nói chung và giao dịch dân sự nói riêng.
– Người của pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với nghĩa vụ dân
sự do pháp nhân xác lập, thực hiện, trừ trường hợp luật có quy định khác.
Khi pháp nhân giải thể, doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản thì chấm dứt tư cách chủ thể trong các
quan hệ pháp luật, cho nên năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân chấm dứt kể từ thời điểm
pháp nhân chấm dứt hoạt động.
Đại diện của pháp nhân được quy định BLDS 2015
Đại diện của pháp nhân có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền.
Pháp nhiên là sự cắn kết của một tập thể cá nhân hoặc pháp nhân khác nên không phải trong mọi
hoạt động của pháp nhân đều có sự tham gia của tất cả các thành viên pháp nhân Hoạt động của
pháp nhân thông qua vai trò của nhiều cá nhân khác nhau, trong đó cá nhân có vai trỏ trực tiếp
quan trọng nhất là người đại diện của pháp nhân. Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (là người
đại diện) nhân danh và Vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (là người được đại diện) xác
lập, thực hiện giao dịch dân sự. Người đại diện của pháp nhân bao gồm: người đại diện theo pháp luật
và đại diện theo ủy quyền Việc xác lập đại diện, phạm vi quyền và nghĩa vụ của người đại diện,
việc chấm dứt đại diện của pháp nhân áp dụng các quy định tại Chương IX Phần thứ nhất của Bộ luật dân sự năm 2015.
Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân được xác định dựa trên các căn cứ sau đây:
+ Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ (đối với những pháp nhân bắt buộc phải có điều lệ);
+ Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật;
+ Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án (Điều 37 BLDS năm 2015)
Một quy định đột phá trong Điều luật này so với Bộ luật dân sự là thừa nhận một pháp nhân có
thể có nhiều người đại diện theo pháp luật và mỗi người đại diện có quyền đại diện cho pháp
nhân theo ghi nhận trong điều lệ hay quyết định thành lập pháp nhân. Quy định này cũng tương
thích với Điều 13 Luật doanh nghiệp. Pháp luật quy định pháp nhân có nhiều người đại diện
nhằm tạo điều kiện cho pháp nhân thực hiện nhiệm vụ của pháp nhân được thuận lợi trong các
giao dịch. trong sản xuất, kinh doanh.
Đại diện theo ủy quyền là đại diện được xác lập giữa người đại diện theo pháp luật của pháp
nhân với cả nhân, pháp nhân khác. Người đại diện theo ủy quyền của pháp nhân cũng nhân danh
pháp nhân thực hiện những nhiệm vụ cụ thể do pháp nhân giao. Việc xác định quyền hạn, trách
nhiệm của người đại diện theo ủy quyền được xác định dựa trên văn bản ủy quyền đã được ký kết.
Như vậy, mọi hoạt động của pháp nhân được thực hiện thông qua hành vi của người đại diện của
pháp nhân. Đại diện của pháp nhân là người nhân danh pháp nhân tham gia các giao dịch vì lợi
ích của pháp nhân đó. Người đại diện của pháp nhân do pháp luật hoặc Điều lệ của pháp nhân
quy định và họ có thể ủy quyền lại cho người khác. Với tư cách là người đại diện của pháp nhân,
hành vi của người đại diện vì lợi ích của pháp nhân và trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được
pháp nhân giao là hành vi của pháp nhân mà người đó đại diện, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ
của pháp nhân chứ không phải của bản thân người đại diện. Ý chí của các thành viên pháp nhân
được thể hiện thống nhất thông qua người đại diện.
Chấm dứt pháp nhân
Các trường hợp chấm dứt pháp nhân. Theo BLDS Điều 99 khoản 1, pháp nhân chấm dứt trong
các trường hợp sau đây:
- Hợp nhất, sáp nhập, chia, giải thể pháp nhân theo quy định tại các điều 94, 95, 96 và 98 của Bộ luật dân sự.
- Bị tuyên bố phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản. Ta có hai lưu ý:
- Lưu ý thứ nhất: dù luật không quy định, pháp nhân cũng chấm dứt trong trường hợp
mục đích của pháp nhân đã đạt được, ngay nếu như thời hạn hoạt động của pháp nhân
chưa hết; ví dụ: công ty được thành lập nhằm mục đích khai thác khoáng sản tại một khu
vực có ranh giới được xác định rõ và nguồn khoáng sản đã cạn kiệt.
- Lưu ý thứ hai: pháp nhân chỉ chấm dứt kể từ ngày kết thúc việc thanh toán tài sản theo
quy định của pháp luật và (hoặc) theo điều lệ (nếu có). Thanh toán tài sản của pháp nhân.
Pháp nhân không có người thừa kế như cá nhân. Khi pháp nhân chấm dứt, tài sản của
pháp nhân được chuyển giao cho các chủ thể khác của quan hệ pháp luật tuỳ theo tính
chất, đặc điểm của từng loại pháp nhân.
- Các tài sản còn lại của pháp nhân công pháp và pháp nhân hỗn hợp được giao cho Nhà nước.
Cần lưu ý rằng giải pháp này được áp dụng cả đối với các pháp nhân hình thành từ việc kết nhóm
các cá nhân để xây dựng tổ chức thành viên của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa: một khi tổ
chức hoàn thành vai trò lịch sử của mình và chấm dứt, tài sản còn lại của tổ chức không được
chia cho các thành viên, mà trở thành tài sản thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước quản lý.
- Các tài sản còn lại của tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân được giao lại cho người đầu tư vốn
vào tổ chức kinh tế. Tài sản của doanh nghiệp Nhà nước được Nhà nước thu hồi; tài sản của các
công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần được phân chia giữa các thành viên theo điều lệ
hoặc, nếu điều lệ không có quy định, theo tỷ lệ vốn góp của các thành viên.
- Các tài sản còn lại của các tổ chức chính trị xã hội- nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội
- nghề nghiệp không được phân chia cho các thành viên mà phải được giải quyết theo quy định
của pháp luật (BLDS Ðiều 104 khoản 3). Các tài sản còn lại của quỹ xã hội, quỹ từ thiện cũng
được giải quyết theo quy định của pháp luật chứ không được giao lại cho các thành viên sáng lập
hoặc cho người thừa kế của họ (Ðiều 105 khoản 4).