lOMoARcPSD| 58591236
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN, CHẤT LƯỢNG CAO VÀ POHE
--------------
MÔN HỌC: TÂM LÝ HỌC HÀNH VI
Đề tài: Tâm lý của việc “nghiện” công nghệ:
Smartphone và mạng xã hội
Lớp học phần: NLXH1069(224)CLC_01-Tâm lý học hành vi Lớp:
Quan hệ công chúng CLC 66A Giảng viên: ThS Đặng Hồng Sơn
Nhóm: 03 Thành viên: Nguyễn Trúc An Phạm Hoài An Lê
Tuệ Anh Mai Thị Chúc Anh Nguyễn Vân Anh Nguyễn Ngô Mai
Hương Trần Thị Quỳnh Nhi
Hà Nội, ngày 23 tháng 05 năm 2025
MỤC LỤC
I. GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ
1. Giải thích vấn đề “nghiện” công nghệ 2.
do chọn đề tài
lOMoARcPSD| 58591236
II. PHÂN TÍCH CƠ CHẾ TÂM LÝ
1. Các lý thuyết, khái niệm tâm lý học hành vi liên quan
2. Cơ chế tác động đến hành vi con người
III. VÍ DỤ THỰC TIỄN
1. Ví dụ 1
2. Ví dụ 2
IV. SỐ LIỆU MINH HỌA V. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
VI. MẶT TÍCH CỰC CỦA TÂM LÝ HỌC CỦA VIỆC “NGHIỆN” CÔNG NGHỆ:
SMARTPHONE VÀ MẠNG XÃ HỘI
1. Cơ chế tâm lý
2. Ví dụ thực tiễn
3. Kết quả nghiên cứu liên quan
VII. KẾT LUẬN VÀ LIÊN HTHỰC TIỄN VIII. NGUỒN THAM KHẢO
TÂM LÝ HỌC CỦA VIỆC “NGHIỆN” CÔNG NGHỆ:
SMARTPHONE VÀ MẠNG XÃ HỘI
I. GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ
1. Giải thích vấn đề “nghiện” công nghệ
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), nghiện được định nghĩa là một trạng thái phụ thuộc định
kỳ hoặc mãn tính vào các chất hoặc hành vi. Trạng thái này đặc trưng bởi việc mất khả ng
kiểm soát hành vi lặp đi lặp lại, mặc người đó đã nhận thức được các hậu quả tiêu cực, nhằm
đạt được sự thỏa mãn tức thời hoặc làm giảm cảm giác khó chịu. Trong bối cảnh hiện đại,
nghiện mạng xã hội là một biểu hiện cụ thể của hành vi lệ thuộc, thể hiện qua việc người dùng
luôn bị ám nh bởi nhu cầu truy cập Internet, gia tăng thời lượng sử dụng, cảm thấy khó chịu
hoặc buồn bã khi không được kết nối, và sử dụng mạng như một phương tiện để trốn tránh các
vấn đề cá nhân.
Về bản chất, nghiện công nghệ bắt nguồn từ sự thiếu kiểm soát trong việc sử dụng các ng cụ
kỹ thuật số, thường xuất phát từ nhu cầu truy cập nhanh vào thông tin, duy trì kết nối hội
hoặc tìm kiếm hoạt động giải trí. Các yếu tố chính góp phần hình thành tình trạng nghiện này
bao gồm nhu cầu được hội công nhận, mong muốn đạt được sự thỏa mãn tức thời khả
năng tiếp cận dễ dàng đến các nội dung kỹ thuật số. Đặc biệt, trên các nền tảng truyền thông
xã hội, các phản hồi như lượt thích, bình luận và số lượng người theo dõi có ảnh hưởng mạnh
lOMoARcPSD| 58591236
đến cơ chế khen thưởng trong não bộ, dẫn đến sự giải phóng dopamine, tạo ra cảm giác khoái
cảm. Trạng thái này thường thúc đẩy người dùng tiếp tục tìm kiếm trải nghiệm tương tự, dẫn
đến việc kiểm tra thiết bị một cách liên tục. Về lâu dài, tình trạng lệ thuộc vào công nghệ
thể gây ra nhiều vấn đề về mặt tâm thể chất. Tuy nhiên, việc nhận diện dấu hiệu nghiện
công nghệ không hề đơn giản, bởi lẽ công nghệ đã trở thành một phần thiết yếu trong đời sống
đương đại. Dưới đây là một số chỉ báo phổ biến liên quan đến tình trạng này:
Thứ nhất là các triệu chứng tâm lý. Nhiều cá nhân có biểu hiện cáu gắt, lo lắng hoặc thất vọng
khi không thể tiếp cận với thiết bị kỹ thuật số. Trạng thái bất an này, đôi khi được gọi là “triệu
chứng thiếu vắng kỹ thuật số”, phản ánh sự lệ thuộc về mặt cảm xúc. Người nghiện công nghệ
thể bị ám ảnh bởi các suy nghĩ liên quan đến việc trực tuyến, hoặc thường xuyên lên kế
hoạch cho lần sử dụng tiếp theo, ngay cả khi điều này ảnh hưởng đến các nghĩa vụ học tập,
công việc hoặc gia đình.
Thứ hai là các triệu chứng hành vi. Những người gặp khó khăn trong việc kiểm soát thời gian
sử dụng thiết bị thường dành nhiều giờ liên tục để trực tuyến, bỏ các trách nhiệm cá nhân,
học tập hoặc nghề nghiệp. Việc sử dụng thiết bị vào ban đêm, gây gián đoạn giấc ngủ và giảm
khả năng tập trung vào ban ngày, hiện tượng phổ biến. Ngoài ra, người nghiện công nghệ
thường xu hướng rút lui khỏi các hoạt động thể chất, sthích nhân giao tiếp hội;
một số còn cố tình che giấu thời gian sử dụng màn hình hoặc nói dối về thói quen trực tuyến
do cảm giác tội lỗi hoặc xấu hổ.
Thứ ba là các triệu chứng về thể chất. Việc tiếp xúc lâu dài với thiết bị số, đặc biệt là vào buổi
tối, có thể gây rối loạn giấc ngủ, dẫn đến mất ngủ hoặc chất lượng giấc ngủ kém. Những biểu
hiện như mỏi mắt, đau đầu, mờ mắt được biết đến dưới tên gọi “mỏi mắt do kỹ thuật số” hoặc
“hội chứng thị lực màn hình” là những hậu quđiển hình. Việc ngồi lâu trước màn hình cũng
đồng nghĩa với giảm vận động thể chất, có thể dẫn tới các vấn đề như tăng cân, tư thế sai lệch
và các nguy cơ sức khỏe liên quan khác.
Thứ các triệu chứng hội học tập công việc. Nghiện công nghệ thể dẫn đến sự
suy giảm hiệu suất học tập và làm việc, thể hiện qua việc khó duy trì sự tập trung, trễ hạn nộp
bài, kết quả học tập giảm sút hoặc giảm năng suất lao động. Mặt khác, tình trạng này n
thể gây ra sự thu hẹp các mối quan hệ xã hội, do người dùng ưu tiên tương tác trực tuyến thay
vì giao tiếp thực tế. Việc sử dụng công nghệ như một cơ chế đối phó với cảm xúc tiêu cực như
căng thẳng, đơn hoặc buồn chán thể dẫn đến sự lệ thuộc cảm xúc, làm giảm khả ng
thích ứng và đối mặt với các thách thức của đời sống thực.
lOMoARcPSD| 58591236
2. Lý do chọn đề tài
Thứ nhất, công nghệ đã trở thành một yếu tố không thể thiếu trong đời sống hiện đại. Trong kỷ
nguyên số, sự hiện diện của điện thoại thông minh và các nền tảng mạng hội không còn giới
hạn ở vai trò công cụ liên lạc đơn thuần, mà đã mở rộng thành phương tiện hỗ trợ học tập, làm
việc, giải trí kết nối hội. Việc sử dụng các thiết bị số nền tảng trực tuyến đã trn
gần như tất yếu trong sinh hoạt hàng ngày. Tuy nhiên, chính sự phụ thuộc cao vào công nghệ
cũng kéo theo những hệ lụy, điển hình là tình trạng lệ thuộc hay còn gọi là "nghiện" thiết bị số,
đặc biệt phổ biến trong nhóm đối tượng thanh thiếu niên.
Thứ hai, công nghệ số tác động sâu rộng đến sức khỏe tinh thần thể chất của người sử
dụng. Việc sử dụng các thiết bị công nghệ một cách thiếu kiểm soát thể dẫn đến nhiều vấn
đề nghiêm trọng như rối loạn giấc ngủ, mệt mỏi mãn tính, suy giảm khả năng tập trung, cảm
giác lo âu, trầm cảm, cũng như nguy cơ gia tăng trạng thái cô lập xã hội.
Những biểu hiện này không còn dừng lại ở phạm vi cá nhân, mà đã trở thành một vấn đề đáng
lo ngại đối với sức khỏe cộng đồng trong bối cảnh hiện đại.
Thứ ba, việc lệ thuộc vào thiết bị số thể ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu suất học tập làm
việc. Tình trạng sao nhãng, trì hoãn giảm hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ hệ quả
thường thấy ở nhữngnhân sử dụng công nghệ quá mức. Về lâu dài, điều này có thể làm suy
giảm thành tích học tập, giảm năng suất lao động, thậm chí ảnh hưởng đến sự phát triển nghề
nghiệp và chất lượng cuộc sống.
Thứ tư, việc gắn bó quá mức với không gian mạng cũng tác động không nhỏ đến các mối quan
hệ xã hội thực tế. Khi dành quá nhiều thời gian cho thế giới ảo, người dùng có xu hướng thờ ơ
hoặc giảm tương tác với những người xung quanh, bao gồm cả gia đình bạn bè. Điều này
không chỉ làm suy giảm chất lượng giao tiếp còn ảnh hưởng đến sự gắn kết cảm xúc
trong các mối quan hệ xã hội trực tiếp.
Cuối cùng, việc nâng cao nhận thức về tác động của công nghệ đến sức khỏe tâm hành
vi điều cần thiết. Khi hiểu rõ các cơ chế tâm liên quan đến việc lệ thuộc vào công nghệ,
mỗi cá nhân có thể chủ động nhận diện sớm các dấu hiệu nguy cơ, từ đó thực hiện điều chỉnh
hành vi sử dụng thiết bị số một cách hợp lý. Đồng thời, kiến thức này cũng đóng vai trò nền
tảng trong việc xây dựng các chiến lược hỗ trợ sức khỏe tinh thần hiệu quả, đặc biệt trong môi
trường học đường nơi làm việc, góp phần tạo dựng một hội số lành mạnh cân bằng
hơn.
II. PHÂN TÍCH CƠ CHẾ TÂM LÝ
lOMoARcPSD| 58591236
1. Các lý thuyết, khái niệm tâm lý học hành vi liên quan
Điều kiện hóa hành động (B.F. Skinner) quá trình học tập mà trong đó hành vi bị ảnh hưởng
bởi các hệ quả xảy ra sau nó. Nói đơn giản, nếu một hành vi dẫn đến kết quả tốt (phần thưởng),
thì cá nhân xu hướng lặp lại hành vi đó. Ngược lại, nếu hành vi dẫn đến kết quả xấu (hình
phạt), t nhân xu hướng giảm hoặc tránh hành vi đó. Các thành phần chính của điều kiện
hóa hành động gồm tăng cường và trừng phạt. Trong đó, tăng cường có hai loại là tăng cường
dương và tăng cường âm. Tăng cường dương là thêm vào một yếu tố dễ chịu, tăngờng âm
loại bỏ một yếu tố khó chịu. Tương tự vậy, trừng phạt hai loại trừng phạt ơng
trừng phạt âm. Trừng phạt dương là thêm vào một yếu tố khó chịu, còn trừng phạt âm là lấy đi
một yếu tố dễ chịu.
Điều kiện hóa cổ điển (Ivan Pavlov) một hình thức học tập trong đó một kích thích trung
tính (neutral stimulus) trở n khả ng gợi ra một phản ứng điều kiện (conditioned
response) sau khi được kết hợp lặp đi lặp lại với một kích thích không điều kiện (unconditioned
stimulus) vốn dĩ đã gây ra phản ứng đó.
Thuyết học tập xã hội (Albert Bandura) lý thuyết do Albert Bandura phát triển, cho rằng con
người học hành vi mới thông qua việc quan sát, bắt chước phỏng hành vi của người
khác, đặc biệt những người được xem hình mẫu (models), quá trình học này chịu ảnh
hưởng bởi các yếu tố như sự chú ý, ghi nhớ, khả năng tái hiện hành vi và động lực. Các yếu tố
cốt lõi trong quá trình học tập hội chú ý (attention), ghi nhớ (retention), tái hiện
(reproduction), động lực (motivation).
Vai trò của dopamine và hệ thống phần thưởng trong não bộ: Dopamine là một chất dẫn truyền
thần kinh đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh động lực, cảm giác khoái cảm và q
trình học tập thông qua hệ quả. Khi dopamine tăng trong vùng nhân accumbens, con người có
xu hướng tìm kiếm những hành vi mang lại phần thưởng, trong khi sự thiếu hụt dopamine
thường dẫn đến giảm hứng thú mất động lực, như thường thấy bệnh nhân Parkinson.
Ngoài ra, mức dopamine cao cũng tạo ra cảm giác hưng phấn, giúp củng cố hành vi để ta có
xu hướng lặp lại, tuy nhiên không phải “hóa chất hạnh phúc” duy nhất còn serotonin
endorphin cùng tham gia. Trong học tập, dopamine giúp a “sai số dự đoán phần
thưởng”, tức là khi phần thưởng cao hơn mong đợi, dopamine được phóng thích nhiều hơn để
củng cố hành vi; ngược lại, nếu phần thưởng thấp hơn mong đợi, dopamine giảm để điều chỉnh
lại hành vi. Những cơ chế này nhiều hệ quả thực tiễn, như việc các chất kích thích
(amphetamine, cocaine) hay các hành vi như chơi game, cược, mua sắm đều làm tăng
dopamine quá mức, từ đó gây nghiện chất hoặc nghiện hành vi. Mặt khác, sự mất cân bằng
dopamine còn liên quan đến nhiều rối loạn tâm thần như trầm cảm, ADHD hay tâm thần phân
lOMoARcPSD| 58591236
liệt, vậy điều trị các rối loạn y thường nhắm vào việc điều chỉnh hệ thống dopaminergic
trong não.
Cơ chế tăng cường hành vi (reinforcement) qua các tương tác mạng hội: Trong thời đại số,
các nền tảng mạng xã hội đã trở thành công cụ không chỉ để giao tiếp mà còn điều hướng hành
vi con người thông qua các cơ chế tâm lý tinh vi. Một trong những cơ chế nổi bật nhất là tăng
cường hành vi (reinforcement) khái niệm thuộc thuyết điều kiện hóa hành động do B.F.
Skinner phát triển. Theo đó, nếu một hành vi dẫn đến kết quả tích cực, hành vi đó xu hướng
lặp lại. Trên mạng hội, các hành vi như đăng bài, chia sẻ nội dung hay bình luận được
“thưởng” bằng c lượt like, comment, share chính những phần thưởng hội. Những
tương tác này kích hoạt dopamine – chất dẫn truyền thần kinh liên quan đến khoái cảm và động
lực – trong hệ thống phần thưởng của não bộ. Mỗi lượt like trở thành một phần thưởng tức thì,
tạo cảm giác được công nhận; các comment mang lại sự quan tâm sâu sắc hơn, còn lượt share
củng cố cảm giác có giá trị và tầm ảnh hưởng.
Đặc biệt, vì không thể dự đoán được số lượng tương tác, hành vi sử dụng mạng xã hội rơi vào
lịch trình củng cố biến thiên kiểu lịch trình dễ gây nghiện nhất, khiến người dùng liên tục
kiểm tra và lặp lại hành vi.
2. Cơ chế tác động đến hành vi con người
Trong thời đại số như ngày nay, mạng hội đã đang trở thành một phần không thể thiếu
trong đời sống của con người. mục đích ban đầu kết nối nhưng càng ngày người dùng
càng bị cuốn vào một cách vô thức và khó kiểm soát. Từ góc nhìn của tâm học hành vi, hiện
tượng này thể được giải thích thông qua bốn chế: tăng cường ơng, tăng cường âm,
phản xạ điều kiện học tập qua quan sát. Đây những nguyên căn bản giúp lý giải
sao mạng xã hội có sức hút mạnh mẽ và có khả năng định hình hành vi con người.
Tăng cường dương chế trong đó một hành vi được lặp lại dẫn đến hậu quả tích cực,
thường là cảm giác dễ chịu, hài lòng. Ví dụ như khi người dùng đăng bài viết hay hình ảnh lên
mạng xã hội và nhận được lượt thích, bình luận tích cực, họ nhận được một chuỗi phần thưởng
từ xã hội. Những tương tác này đóng vai trò như “mồi thưởng” nhỏ nhưng đều đặn, tạo ra cảm
giác được công nhận, yêu thích hoặc ngưỡng mộ. Trên phương diện sinh học thần kinh, mỗi
lần nhận phần thưởng, não tiết ra dopamine, một chất dẫn truyền thần kinh liên quan đến khoái
cảm động lực. Quá trình này củng cố hành vi thúc đẩy người dùng tiếp tục đăng bài để
tìm kiếm cảm giác thỏa mãn đó. Điều đáng cý mạng hội thường sử dụng lịch trình
tăng cường biến đổi tỉ lệ, tức là khi phần thưởng không đến đều đặn, không thể dự đoán trước,
tương tự như trò chơi máy đánh bạc thì sẽ khiến người dùng khó tbỏ hành vi bởi mỗi lần
lOMoARcPSD| 58591236
đăng bài hay lướt mạng, họ đều kỳ vọng trúng một phần thưởng ngẫu nhiên nào đó. Chính tính
bất định của phần thưởng khiến việc sử dụng mạng xã hội trở nên đặc biệt khó kiểm soát.
Ngược lại, tăng cường âm là cơ chế trong đó hành vi được lặp lại vì nó giúp loại bỏ hoặc giảm
bớt một trạng thái khó chịu. Trong đời sống hiện đại, con người thường xuyên đối mặt với áp
lực, căng thẳng, lo âu đơn. Khi đó, mạng hội trở thành một i trú ẩn để con người
quên đi những thứ áp lực đó. Việc lướt mạng, xem video, đọc tin tức hay trò chuyện qua tin
nhắn giúp người dùng tạm quên đi cảm xúc tiêu cực, làm dịu sự căng thẳng trong chốc lát.
Chính hiệu quả “giảm đau” này khiến hành vi sử dụng mạng xã hội có xu hướng được duy trì
lặp lại. Về lâu về dài, con người thể nh thành một tâm đối phó không lành mạnh:
dùng mạng hội để tránh cảm xúc thay vì học cách đối mặt xchúng. Đây điểm
nguy hiểm của tăng ờng âm, củng cố hành vi bằng cách tạm thời làm dịu nỗi khó chịu,
nhưng không giải quyết vấn đề gốc rễ. Khi bị lệ thuộc vào công nghệ như một cơ chế xoa dịu
cảm xúc, người dùng thể rơi vào trạng thái trống rỗng, lo âu kéo dài và giảm khả năng tập
trung khi làm việc, học tập.
Một chế khác hoạt động tầng phản xạ phản xạ điều kiện, hiện tượng trong đó một
kích thích trung tính ban đầu, khi được lặp đi lặp lại cùng một phản ứng, sẽ trở thành tín hiệu
kích hoạt phản ứng đó. Tiêu biểu trong môi trường số âm thanh thông báo từ điện thoại. Ban
đầu, tiếng “ding” đơn thuần một tín hiệu, nhưng theo thời gian, gắn liền với cảm giác
mong đợi: một tin nhắn quan trọng, một lượt thích, một bình luận. Não bộ ghi nhận điều này
bắt đầu phản ứng tự động. Khi nghe thấy âm thanh đó, người dùng ngay lập tức thấy tim
đập nhanh hơn, tay vội vàng kiểm tra điện thoại dù bất kể đang làm gì. Họ không suy nghĩ mà
hành động theo phản xạ. Đây ví dụ điển hình cho việc mạng hội khai thác bản chất sinh
học của não người để hình thành thói quen phản xạ, giúp nền tảng luôn giữ được sự chú ý của
người dùng.
Cuối cùng, học tập qua quan sát là một cơ chế được nhà tâm lý học Albert Bandura phát triển,
cũng đóng vai trò lớn trong hành vi sử dụng mạng hội. Theo thuyết này, con người không
cần trải nghiệm trực tiếp để học một hành vi mà họ có thể học bằng cách quan sát người khác.
Trên mạng hội, người dùng dễ dàng tiếp xúc với số hình mẫu: người nổi tiếng, bạn bè,
KOL, KOC. Khi thấy họ chụp ảnh đẹp, quay video sáng tạo, tham gia thử thách, được ng
nhận rộng rãi, người quan sát có xu hướng bắt chước để tìm kiếm cảm giác tương tự. Ngoài ra,
việc thấy nhiều người cùng thực hiện một hành vi tạo ra áp lực xã hội ngầm khiến nhân cảm
thấy cần phải tham gia để hòa nhập hoặc xây dựng danh tính cá nhân. Vì vậy, các "trend", thử
thách lan truyền hay cách thể hiện bản thân trên mạng đều kết quả của quá trình học tập
hội này.
lOMoARcPSD| 58591236
Tổng kết lại, hành vi sử dụng mạng xã hội không đơn thuần là một thói quen ngẫu nhiên mà là
kết quả của nhiều chế tâm học hành vi vận hành song song. Tăng cường dương tạo ra
động lực từ phần thưởng; tăng cường âm củng cố hành vi tránh cảm xúc; phản xạ điều
kiện khiến người dùng phản ứng tự động; còn học tập qua quan sát cho thấy hành vi được sao
chép thông qua người khác. Nhận diện những cơ chế này không chỉ giúp chúng ta hiểu sao
mạng hội sức hút mạnh mẽ, còn bước đầu để phát triển sự tự nhận thức, từ đó kiểm
soát và điều chỉnh hành vi số của bản thân một cách chủ động và lành mạnh hơn.
III. VÍ DỤ THỰC TIỄN
1. Ví dụ 1
TikTok nền tảng mạng hội cực kỳ phổ biến tại Việt Nam trên thế giới, đặc biệt trong
giới trẻ. Người dùng thường lướt video hàng giờ, đôi khi không nhận ra đã tiêu tốn rất nhiều
thời gian. Thuật toán TikTok liên tục đề xuất video “vừa đủ hấp dẫn” để giữ chân người xem.
Trung bình toàn cầu: Người dùng TikTok trên toàn thế giới dành khoảng 58 phút 24 giây mỗi
ngày để sử dụng ứng dụng này vào năm 2024. Con số này đã tăng hơn gấp đôi so với mức
trung bình 27 phút 24 giây vào năm 2019. Người dùng TikTok tại Việt Nam dành trung bình
54 phút mỗi ngày trên ứng dụng này vào đầu năm 2024.
Phân tích ví dụ: TikTok sử dụng mô hình điều kiện hóa vận hành, trong đó hành vi được củng
cố bằng phần thưởng. Mỗi lần người dùng lướt TikTok thấy một video thú vị (hài hước, cảm
động hoặc đúng sở thích), họ nhận được phần thưởng tức thì cảm giác i lòng, điều này
củng cố hành vi “vuốt để xem tiếp”. Việc nghiện TikTok không chỉ đến từ mong muốn giải trí
đơn thuần, mà còn là tâm lý né tránh cảm xúc tiêu cực một cách vô thức của người dùng. Khi
con người cảm thấy căng thẳng, lo âu và áp lực trong cuộc sống, TikTok giúp người dùng thoát
khỏi cảm xúc tiêu cực đó trong khoảng thời gian ngắn, tạo cảm giác dễ chịu nhưng người dùng
sẽ ngày càng phụ thuộc vào chúng và phớt lờ những hệ quả.
Hội chứng FOMO (Fear of Missing Out): FOMO nỗi sợ bị bỏ lỡ thông tin, xu hướng hay
trải nghiệm người khác đang tận hưởng. TikTok, với đặc tính lan truyền nhanh chóng các
trào lưu “hot trend”, môi trường tưởng để FOMO phát triển. Người dùng lo sợ nếu
không cập nhật thường xuyên, họ sẽ bị lạc hậu, không thể hòa nhập hoặc bị tách khỏi cộng
đồng.
Tâm đám đông hiệu ứng bắt chước: TikTok khuyến khích người dùng “bắt trend” tham
gia các thử thách, nhảy, meme,... điều này kích thích tâm muốn được thuộc về một cộng
đồng. đôi khi không thực sự hứng thú, nhiều người vẫn quay video chỉ để không bị lạc
hậu”. Hành vi này dẫn đến nghiện tham gia xu ớng chứ không chỉ nghiện xem. Do vậy,
TikTok không chỉ gây nghiện giải trí, còn tác động sâu đến tâm hành vi, từ chế
phần thưởng, né tránh cảm xúc, FOMO, đến hiệu ứng xã hội.
lOMoARcPSD| 58591236
2. Ví dụ 2
Chen Rong-yu, một thanh niên 23 tuổi ở Đài Loan, đã tử vong trong một quán cà phê Internet
vào năm 2012. Anh đã chơi liên tục trong khoảng 23 giờ. Khoảng 3 giờ chiều ngày hôm sau,
nhân viên quán nhận thấy Chen ngồi bất động với tay vẫn đặt trên bàn phím cùng chuột, tưởng
rằng anh đang ngủ gật. Khi đến kiểm tra, họ phát hiện anh đã tử vong, với cơ thể cứng đờ và
khuôn mặt tím tái. Tờng hợp của Chen Rong-yu một dụ điển hình về tác hại của việc
nghiện công nghệ, đặc biệt nghiện trò chơi trực tuyến, thiếu nhận thức về sức khỏe khi
tham gia vào các hoạt động này trong thời gian dài mà không nghỉ ngơi hoặc vận động.
Phân tích dụ theo Tâm học hành vi: chế củng cố ơng tính: Mỗi chiến thắng trong
game hoặc một pha highlight đẹp mắt đều kích hoạt hệ thống phần thưởng trong não bộ
(dopamine), tạo ra cảm giác “thỏa mãn tạm thời”. Chen tiếp tục chơi game vì mỗi lần như vậy
mang lại niềm vui, sự công nhận từ đồng đội hoặc cảm giác “trốn thoát thực tại”. o ghi
nhớ rằng “chơi game là cách để cảm thấy tốt hơn”, từ đó củng cố hành vi lặp lại liên tục. Tâm
tránh cảm xúc tiêu cực: Khi bước vào thế giới game, những căng thẳng, lo âu sẽ giảm,
khiến não gắn hành vi đó với “cách làm dịu cảm xúc”. Chen không chỉ muốn chơi, còn
cần chơi để tránh cảm xúc tiêu cực, hình thành chế phụ thuộc hành vi. Với một chuỗi
hành vi tâm quá mức như vậy khiến Chen không kiểm soát được bản thân và giảm nhận thức
về sức khỏe.
IV. SỐ LIỆU MINH HỌA
Việc phổ cập công nghệ và Internet đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống của
người trẻ Việt Nam hiện nay. Theo báo cáo từ Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam
(VECOM), hiện khoảng 72,7 triệu người dùng mạng hội, chiếm 73,3% dân số. Con số
này phản ánh mức độ thâm nhập sâu rộng của Internet vào đời sống hội, đặc biệt trong bối
cảnh chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực.
Một điểm đáng chú ý từ các dữ liệu điều tra độ tuổi bắt đầu sử dụng thiết bị công nghệ của
trẻ em Việt Nam. Cụ thể, trẻ em Việt Nam trung bình bắt đầu sử dụng điện thoại từ năm 9 tuổi,
sớm hơn đáng kể so với độ tuổi trung bình toàn cầu 13 tuổi. Điều này không chỉ cho thấy
khả năng tiếp cận sớm với công nghệ mà n đặt ra những yêu cầu về định hướng sử dụng hợp
lý trong giai đoạn phát triển tâm sinh lý quan trọng của trẻ.
Xét về thời lượng sử dụng Internet, một khảo sát cho thấy gần 30% thanh thiếu niên sử dụng
Internet từ 6 đến dưới 8 giờ mỗi ngày, và khoảng 80% sử dụng từ 2 đến 8 giờ/ngày (nbtv.vn,
2024). Những con số này nhấn mạnh mức độ gắn bó cao của thanh thiếu niên với không gian
mạng, phản ánh rõ xu hướng chuyển dịch sinh hoạt và giải trí của giới trẻ sang môi trường số.
lOMoARcPSD| 58591236
Ngoài ra, mục đích sử dụng Internet của người dùng trẻ tại Việt Nam cũng khá đa dạng. Theo
khảo sát từ VECOM, đến 75,4% sử dụng Internet để giải trí, 71% để học tập tìm kiếm
thông tin, 65,9% để giao tiếp, làm quen, kết bạn, và 63,5% để cập nhật tin tc. Những số liệu
này chứng minh ràng tính chất đa nhiệm linh hoạt của Internet, đồng thời cho thấy vai
trò trung tâm của môi trường số trong mọi mặt đời sống người trẻ Việt Nam ngày nay.
V. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
Một thực trạng đáng báo động trong giới trẻ hiện nay sự gia ng mức độ lệ thuộc vào
smartphone, nhất đối với sinh viên đại học. Nghiên cứu năm 2021 tại TP.HCM chỉ ra rằng
nguy cơ nghiện smartphone có tỷ lệ thuận với các dấu hiệu tâm lý tiêu cực như trầm cảm, cảm
giác độc sự suy giảm nhận thức về giá trị bản thân. Việc lạm dụng thiết bị di động một
cách thiếu kiểm soát tạo ra hệ luỵ đáng báo động trong giới trẻ, làm suy giảm kết nối với thực
tế. Hệ quả là sự độc gia tăng, dẫn đến vòng luẩn quẩn của sự phụ thuộc nỗi đơn dai
dẳng. Điều y phản ánh sâu sắc mối liên hệ giữa hành vi lệ thuộc công nghệ những tổn
thương tâm lý lâu dài.
Không chỉ ảnh hưởng đến sức khoẻ tinh thần, việc lạm dụng smartphone còn gây tổn hại đến
sức khỏe thể chất, đặc biệt giấc ngủ. Một nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Y học
TP.HCM cho thấy thói quen lạm dụng smartphone vào ban đêm gây ra hiện tượng "sleep
procrastination" trì hoãn giấc ngủ, xuất phát từ việc khó kiểm soát ham muốn sử dụng thiết
bị di động. Điều này gây ra sự xáo trộn nghiêm trọng trong chu kỳ sinh học của giấc ngủ, đồng
thời giảm sút các chức năng điều hành nhận thức bao gồm khả năng tập trung, kiểm soát cảm
xúc và đưa ra quyết định. Đây là những kỹ năng thiết yếu, có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả
học tập và khả năng tương tác, giao tiếp xã hội của mỗi cá nhân.
Ở góc độ nh vi, một nguyên nhân sâu xa khác khiến người trẻ khó tách rời khỏi thế giới ảo
hiện tượng tâm được biết đến với n gọi: FOMO (Fear of Missing Out). Một khảo sát
mang tầm quốc tế do Đại học Tilburg thực hiện đã chỉ ra rằng, chính nỗi sợ bỏ lỡ thông tin đã
thôi thúc người dùng liên tục kiểm tra thiết bdi động một cách thức. Hệ lụy kéo theo
cảm giác bất an, bồn chồn trỗi dậy nếu họ không thể truy cập vào không gian mạng trong một
khoảng thời gian ngắn. Đây là một dạng lệ thuộc cưỡng bức, gần giống với rối loạn kiểm soát
hành vi, gây ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng tự chủ chức năng điều hành nhận thức
những yếu tố then chốt trong việc duy trì sự cân bằng cảm xúc và hành vi cá nhân.
VI. MẶT TÍCH CỰC CỦA TÂM LÝ HỌC CỦA VIỆC “NGHIỆN” CÔNG NGHỆ:
SMARTPHONE VÀ MẠNG XÃ HỘI
lOMoARcPSD| 58591236
1. Cơ chế tâm lý
Trong khi nghiện mạng hội thường được nhìn nhận như một vấn đề tiêu cực, ít ai nhận ra
rằng đằng sau đó những nhu cầu tâm tích cực thật của con người. Chính mạng
hội có khả năng thỏa mãn sâu sắc các nhu cầu này nên nó mới dễ gây nghiện. Từ góc nhìn tâm
học, hiện tượng này liên quan đến một số chế như: nhu cầu được công nhận khẳng
định bản thân, tăng cường dương, sự kết nối xã hội và sự hình thành danh tính cá nhân.
Trước hết, mạng hội đáp ứng nhu cầu được công nhận đánh giá tích cực, một trong những
nhu cầu tâm căn bản theo tháp nhu cầu của Maslow. Việc đăng một bức ảnh nhận được
nhiều lượt thích, bình luận tích cực sẽ kích hoạt hệ thống phần thưởng trong não bộ, tạo cảm
giác hạnh phúc, hài lòng và được coi trọng. Đây chính là tăng cường dương, khi hành vi được
củng cố vì dẫn đến hậu quả tích cực. Về mặt sinh học, mỗi lượt tương tác có thể khiến não tiết
ra dopamine chất dẫn truyền thần kinh liên quan đến khoái lạc và động lực. Người dùng cảm
thấy vui, tự tin muốn tiếp tục chia sẻ. Việc sử dụng mạng hội mang lại cảm giác
thành công và giá trị là một dạng củng cố hành vi tích cực.
Thứ hai, mạng xã hội cho phép người dùng kết nối và duy trì các mối quan hệ xã hội một cách
dễ dàng linh hoạt. Trong bối cảnh hiện đại khi các mối quan hệ ngày càng bị chia cắt về mặt
địa lý, mạng hội đóng vai trò cầu nối quan trọng. Việc được trò chuyện, cập nhật cuộc
sống của người thân, bạn bè, thậm chí chỉ cần cảm giác “không bị bỏ lại” cũng đã đủ để duy
trì hành vi sử dụng mạng hội thường xuyên đủ để duy trì hành vi sử dụng mạng hội
thường xuyên. Tâm lý học hội cho rằng sự gắn kết và cảm giác thuộc về là một trong những
yếu tố căn bản giúp con người phát triển tâm lý khỏe mạnh. Nghiện mạng xã hội, trong trường
hợp này, không đơn thuần chạy trốn thực tại, cố gắng duy trì mối liên hệ hội vốn
mang lại cảm xúc tích cực và ý nghĩa.
Thứ ba, mạng xã hội tạo điều kiện để người dùng khám phá và khẳng định danh tính cá nhân.
Qua việc lựa chọn nội dung đăng tải, tham gia vào cộng đồng yêu thích (ví dụ: nhiếp ảnh, làm
đẹp, sách, văn hóa…), người dùng không chỉ thể hiện bản thân mà còn dần định hình họ là ai.
Điều này đặc biệt rõ rệt ở giới trẻ, những người đang trong quá trình tìm kiếm cái tôi và khẳng
định chỗ đứng trong hội. Học tập qua quan sát (observational learning) một chế m
lý do Bandura đề xuất, đóng vai trò lớn trong quá trình này. Người dùng học được cách sống,
cách thể hiện, cách giao tiếp thông qua quan sát người khác trên mạng. Khi họ áp dụng và nhận
được phản hồi tích cực, hành vi tiếp tục được củng cố. Việc hình thành bản sắc nhân qua
mạng xã hội không hẳn tiêu cc, nếu được định hướng đúng cách và sử dụng có ý thức.
Cuối cùng, mạng xã hội cũng giúp thỏa mãn nhu cầu về sự giải trí, tò cập nhật thông tin,
những khía cạnh tích cực của hành vi tìm kiếm tri thức mở rộng thế giới quan. Việc “lướt
mạng” thể khơi gợi hứng thú, kích thích trí mò, hoặc đơn giản là giúp thư giãn sau gi
lOMoARcPSD| 58591236
làm việc. Nếu được sử dụng điều độ, đây là cách lành mạnh để làm mới tinh thần, không khác
gì việc đọc sách hay xem phim.
Nghiện mạng hội không chỉ đến từ những yếu tố tiêu cực như tránh cảm xúc hay phản
xạ thức, còn đến từ những chế tâm tích cực gắn liền với các nhu cầu chính đáng
như được công nhận, được kết nối, được thể hiện khám phá bản thân. Việc hiểu những
mặt tích cực này giúp chúng ta nhìn nhận hiện tượng “nghiện” một cách toàn diện hơn từ đó
học cách sử dụng mạng hội ý thức, tận dụng mặt lợi kiểm soát mặt hại, thay chỉ
loay hoay tìm cách “cai nghiện” trong vô vọng.
2. Ví dụ thực tiễn
CEO Linh Khi mạng hội trở thành công cụ phát triển cá nhân kinh doanh. Một
dụ tiêu biểu cho mặt tích cực của việc sử dụng smartphone và mạng xã hội với tần suất cao
trường hợp của CEO Hà Linh, một người chuyên livestream và review sản phẩm trên các nền
tảng như TikTok và YouTube. Công việc của cô yêu cầu phải thường xuyên sử dụng điện thoại
để quay video, chỉnh sửa nội dung, theo dõi xu hướng tương tác với người xem. Dưới góc
độ thuyết củng cố hành vi của B.F. Skinner, trường hợp của CEO Linh một dụ điển
hình cho việc hình thành và duy trì hành vi tích cực thông qua quá trình củng cố tích cực. Ban
đầu, Hà Linh chỉ chia sẻ trải nghiệm nhân khi sử dụng các sản phẩm tiêu dùng. Tuy nhiên,
sau mỗi video review chân thật, cô nhận được lượng lớn lượt xem, bình luận khen ngợi, sự tin
tưởng từ cộng đồng mạng cả lợi ích kinh tế từ nền tảng số. Những yếu tố này chính các
“phần thưởng” hay còn gọi kích thích củng cố khiến hành vi đăng tải và livestream của
được lặp lại, duy trì phát triển theo thời gian. Não bộ của con người xu ớng tiết
dopamine khi nhận được phản hồi tích cực, tđó hình thành cảm giác hứng thú, động lực
thậm chí “nghiện” trong trạng thái kiểm soát. Hành vi sử dụng smartphone mạng
hội với tần suất cao vậy không hề tiêu cực trong trường hợp này, ngược lại đã giúp
Linh xây dựng uy tín nhân, đóng góp cho cộng đồng tiêu dùng và trở thành hình mẫu truyền
cảm hứng. Như vậy, thuyết củng cố hành vi giúp giải cách một hành vi ban đầu nhỏ
thể phát triển thành thói quen tích cực giá trị xã hội, nhờ được củng cố liên tục bằng phản
hồi tích cực từ môi trường.
3. Kết quả nghiên cứu liên quan
Mặc dù việc “nghiện’ công nghệ và mạng xã hội thường được xem là tiêu cực. Tuy nhiên một
số nghiên cứu vẫn cho thấy những mặt tích cực của việc sử dụng ng nghệ mạng hội
thường xuyên và có kiểm soát. Một nghiên cứu từ Trường Y tế Công cộng Harvard T.H. Chan
phát hiện rằng việc sử dụng mạng hội như một phần của thói quen hàng ngày liên quan
tích cực đến ba khía cạnh sức khỏe: phúc lợi xã hội, sức khỏe tâm thần tích cực và sức khỏe tự
đánh giá. Điều này cho thấy rằng, khi được sử dụng một cách có kiểm soát, mạng xã hội thể
lOMoARcPSD| 58591236
giúp bù đắp cho sự thiếu hụt trong tương tác trực tiếp, đồng thời gia tăng và mở rộng các mối
quan hệ xã hội, củng cố sự kết nối, tương tác giữa người với người.
Tương tự, một nghiên cứu được công bố trên tạp chí BMC Psychology đã nhấn mạnh rằng các
nền tảng mạng hội thể hỗ trợ phát triển các mối quan hệ, gia tăng sự kết nối, nâng cao
lòng tự trọng cải thiện cảm giác thuộc về cộng đồng. Đặc biệt, trong thời điểm bùng phát
đại dịch COVID-19, các tương tác xã hội mang tính tích cực cũng như sự hỗ trợ từ cộng đồng
trực tuyến đã giúp giảm stress cảm giác đơn. Ngoài ra, một nghiên cứu của Đại học Johns
Hopkins cũng cho thấy các nền tảng mạng xã hội có khả năng cung cấp các hỗ trxã hội, giúp
khẳng định bản dạng cá nhân đóng vai trò như một chế giảm căng thẳng cho trẻ em và
thanh thiếu niên.
Tóm lại, khi được sử dụng một cách kiểm soát tích cực, mạng hội không chỉ công
cụ giải trí còn có thể đóng p vào việc nâng cao sức khỏe tâm thần cảm xúc người
dùng.
VII. KẾT LUẬN VÀ LIÊN HTHỰC TIỄN
Qua các phân tích ví dụ thực tiễn đã trình bày, thể thấy rằng hiện tượng “nghiện” công
nghệ, đặc biệt là smartphone và mạng xã hội, không đơn thuần là một xu hướng tiêu cực mang
tính thời đại kết quả của sự vận hành phức tạp giữa các chế tâm học hành vi, nhu
cầu cảm xúc và đặc điểm xã hội học hiện đại. Dưới góc độ tâm lý học hành vi, việc lặp lại hành
vi sử dụng công nghệ được củng cố thông qua các hình thức phần thưởng từ cảm giác hài lòng
tức thời, sự thừa nhận xã hội, đến sự né tránh cảm xúc tiêu cực. Các ví dụ như trào lưu TikTok
hay trường hợp nghiện game dẫn đến hậu quả nghiêm trọng của Chen Rong-yu cho thấy mức
độ tác động sâu sắc của công nghệ lên hành vi tâm nhân nếu thiếu sự kiểm soát
nhận thức đầy đủ.
Tuy nhiên, cần nhìn nhận hiện tượng “nghiện” công nghệ một cách toàn diện hơn. Khi được
sử dụng đúng cách kiểm soát, các nền tảng công nghệ thể đáp ứng các nhu cầu tích
cực của con người như kết nối hội, khẳng định bản thân, phát triển danh tính nhân
thậm chí công cụ nâng cao hiệu quả công việc, như minh chứng từ trường hợp CEO
Linh. Những phát hiện từ các nghiên cứu gần đây cũng cho thấy mối liên hệ tích cực giữa việc
sử dụng mạng hội và sự cải thiện sức khỏe tinh thần, cảm giác thuộc về cộng đồng khả
năng kết nối xã hội đặc biệt trong bối cảnh hiện đại khi các hình thức giao tiếp truyền thống bị
giới hạn bởi khoảng cách địa lý hoặc tình huống đặc biệt như đại dịch COVID-19.
Từ đó, có thể rút ra một bài học thực tiễn quan trọng: Vấn đề không nằm công nghệ, mà nằm
cách chúng ta sử dụng công nghệ. Thay cực đoan hóa vấn đề bằng cách hoàn toàn “cai
nghiện”, điều cần thiết là giáo dục knăng sử dụng công nghệ một ch có nhận thức và chủ
lOMoARcPSD| 58591236
đích. Điều này bao gồm việc xây dựng thói quen sử dụng hợp lý, phát triển khả năng tự kiểm
soát hành vi, nâng cao nhận thức về sức khỏe tinh thần, cũng như hiểu được cơ chế tâm lý
nhân để tự điều chỉnh thích ứng. Bên cạnh đó, vai trò của gia đình, nhà trường các tổ
chức hội cũng rất quan trọng trong việc cung cấp môi trường hỗ trợ, hướng dẫn định
hướng cho thế hệ trẻ trong quá trình tiếp xúc và phát triển song hành với công nghệ.
Tóm lại, công nghệ không phải là con dao hai lưỡi mà là một công cụ đa chức năng phụ thuộc
vào cách con người sử dụng nó. Việc tiếp cận với công nghệ từ góc nhìn tâm lý học giúp mở
ra hướng đi bền vững, nơi “nghiện” không còn bị mặc định là tiêu cực, có thể được hiểu
như một biểu hiện của những nhu cầu nhân sinh sâu xa, cần được điều chỉnh, định hướng
khai thác một cách tích cực.
VIII. NGUỒN THAM KHẢO
Dean, B. (2024, March 4). How much time is spent on TikTok? (2024 data). Exploding Topics.
https://explodingtopics.com/blog/tiktok-usage
Hiệp hội Thương mại Điện tử Việt Nam (VECOM). (2024). Digital Report Việt Nam
2024. https://www.vecom.vn/
iDotSC. (2024, January 12). Lượng người dùng và thời gian sử dụng các mạng xã hội lớn:
Zalo, TikTok, YouTube, Facebook tại Việt Nam. https://www.idotsc.vn/
NP Istanbul Brain Hospital. (n.d.). What is digital addiction? NP Istanbul.
https://npistanbul.com/
Nguyễn, N. A. T., & Lê, T. T. H. (2021). Mối liên hệ giữa nghiện điện thoại thông minh và
sức khỏe tâm thần ở sinh viên tại TP. Hồ Chí Minh. Trường Đại học Khoa học Xã hội &
Nhân văn TP.HCM.
Przybylski, A. K., Murayama, K., DeHaan, C. R., & Gladwell, V. (2013). Motivational,
emotional, and behavioral correlates of fear of missing out. Computers in Human
Behavior, 29(4), 1841–1848. https://doi.org/10.1016/j.chb.2013.02.014
Tạp chí Y học TP.HCM. (2022). Ảnh hưởng của việc sử dụng smartphone vào ban đêm đến
giấc ngủ và chức năng nhận thức ở thanh thiếu niên Việt Nam, 26(3), 45–52.
Đài Phát thanh – Truyền hình Ninh Bình. (2024). Thanh thiếu niên sử dụng internet trung
bình bao nhiêu giờ mỗi ngày? https://nbtv.vn/
lOMoARcPSD| 58591236
Báo Dân Sinh. (2024, March). Trẻ em Việt Nam tiếp cận công nghệ sớm hơn mức trung bình
thế giới. https://baodansinh.vn/

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58591236
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN, CHẤT LƯỢNG CAO VÀ POHE --------------
MÔN HỌC: TÂM LÝ HỌC HÀNH VI
Đề tài: Tâm lý của việc “nghiện” công nghệ:
Smartphone và mạng xã hội
Lớp học phần: NLXH1069(224)CLC_01-Tâm lý học hành vi Lớp:
Quan hệ công chúng CLC 66A Giảng viên: ThS Đặng Hồng Sơn Nhóm: 03 Thành viên:
Nguyễn Trúc An Phạm Hoài An Lê
Tuệ Anh Mai Thị Chúc Anh Nguyễn Vân Anh Nguyễn Ngô Mai
Hương Trần Thị Quỳnh Nhi
Hà Nội, ngày 23 tháng 05 năm 2025 MỤC LỤC
I. GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ
1. Giải thích vấn đề “nghiện” công nghệ 2. Lý do chọn đề tài lOMoAR cPSD| 58591236
II. PHÂN TÍCH CƠ CHẾ TÂM LÝ
1. Các lý thuyết, khái niệm tâm lý học hành vi liên quan
2. Cơ chế tác động đến hành vi con người
III. VÍ DỤ THỰC TIỄN 1. Ví dụ 1 2. Ví dụ 2
IV. SỐ LIỆU MINH HỌA V. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
VI. MẶT TÍCH CỰC CỦA TÂM LÝ HỌC CỦA VIỆC “NGHIỆN” CÔNG NGHỆ:
SMARTPHONE VÀ MẠNG XÃ HỘI 1. Cơ chế tâm lý 2. Ví dụ thực tiễn
3. Kết quả nghiên cứu liên quan
VII. KẾT LUẬN VÀ LIÊN HỆ THỰC TIỄN VIII. NGUỒN THAM KHẢO
TÂM LÝ HỌC CỦA VIỆC “NGHIỆN” CÔNG NGHỆ:
SMARTPHONE VÀ MẠNG XÃ HỘI
I. GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ
1. Giải thích vấn đề “nghiện” công nghệ
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), nghiện được định nghĩa là một trạng thái phụ thuộc định
kỳ hoặc mãn tính vào các chất hoặc hành vi. Trạng thái này đặc trưng bởi việc mất khả năng
kiểm soát hành vi lặp đi lặp lại, mặc dù người đó đã nhận thức được các hậu quả tiêu cực, nhằm
đạt được sự thỏa mãn tức thời hoặc làm giảm cảm giác khó chịu. Trong bối cảnh hiện đại,
nghiện mạng xã hội là một biểu hiện cụ thể của hành vi lệ thuộc, thể hiện qua việc người dùng
luôn bị ám ảnh bởi nhu cầu truy cập Internet, gia tăng thời lượng sử dụng, cảm thấy khó chịu
hoặc buồn bã khi không được kết nối, và sử dụng mạng như một phương tiện để trốn tránh các vấn đề cá nhân.
Về bản chất, nghiện công nghệ bắt nguồn từ sự thiếu kiểm soát trong việc sử dụng các công cụ
kỹ thuật số, thường xuất phát từ nhu cầu truy cập nhanh vào thông tin, duy trì kết nối xã hội
hoặc tìm kiếm hoạt động giải trí. Các yếu tố chính góp phần hình thành tình trạng nghiện này
bao gồm nhu cầu được xã hội công nhận, mong muốn đạt được sự thỏa mãn tức thời và khả
năng tiếp cận dễ dàng đến các nội dung kỹ thuật số. Đặc biệt, trên các nền tảng truyền thông
xã hội, các phản hồi như lượt thích, bình luận và số lượng người theo dõi có ảnh hưởng mạnh lOMoAR cPSD| 58591236
đến cơ chế khen thưởng trong não bộ, dẫn đến sự giải phóng dopamine, tạo ra cảm giác khoái
cảm. Trạng thái này thường thúc đẩy người dùng tiếp tục tìm kiếm trải nghiệm tương tự, dẫn
đến việc kiểm tra thiết bị một cách liên tục. Về lâu dài, tình trạng lệ thuộc vào công nghệ có
thể gây ra nhiều vấn đề về mặt tâm lý và thể chất. Tuy nhiên, việc nhận diện dấu hiệu nghiện
công nghệ không hề đơn giản, bởi lẽ công nghệ đã trở thành một phần thiết yếu trong đời sống
đương đại. Dưới đây là một số chỉ báo phổ biến liên quan đến tình trạng này:
Thứ nhất là các triệu chứng tâm lý. Nhiều cá nhân có biểu hiện cáu gắt, lo lắng hoặc thất vọng
khi không thể tiếp cận với thiết bị kỹ thuật số. Trạng thái bất an này, đôi khi được gọi là “triệu
chứng thiếu vắng kỹ thuật số”, phản ánh sự lệ thuộc về mặt cảm xúc. Người nghiện công nghệ
có thể bị ám ảnh bởi các suy nghĩ liên quan đến việc trực tuyến, hoặc thường xuyên lên kế
hoạch cho lần sử dụng tiếp theo, ngay cả khi điều này ảnh hưởng đến các nghĩa vụ học tập,
công việc hoặc gia đình.
Thứ hai là các triệu chứng hành vi. Những người gặp khó khăn trong việc kiểm soát thời gian
sử dụng thiết bị thường dành nhiều giờ liên tục để trực tuyến, bỏ bê các trách nhiệm cá nhân,
học tập hoặc nghề nghiệp. Việc sử dụng thiết bị vào ban đêm, gây gián đoạn giấc ngủ và giảm
khả năng tập trung vào ban ngày, là hiện tượng phổ biến. Ngoài ra, người nghiện công nghệ
thường có xu hướng rút lui khỏi các hoạt động thể chất, sở thích cá nhân và giao tiếp xã hội;
một số còn cố tình che giấu thời gian sử dụng màn hình hoặc nói dối về thói quen trực tuyến
do cảm giác tội lỗi hoặc xấu hổ.
Thứ ba là các triệu chứng về thể chất. Việc tiếp xúc lâu dài với thiết bị số, đặc biệt là vào buổi
tối, có thể gây rối loạn giấc ngủ, dẫn đến mất ngủ hoặc chất lượng giấc ngủ kém. Những biểu
hiện như mỏi mắt, đau đầu, mờ mắt được biết đến dưới tên gọi “mỏi mắt do kỹ thuật số” hoặc
“hội chứng thị lực màn hình” là những hậu quả điển hình. Việc ngồi lâu trước màn hình cũng
đồng nghĩa với giảm vận động thể chất, có thể dẫn tới các vấn đề như tăng cân, tư thế sai lệch
và các nguy cơ sức khỏe liên quan khác.
Thứ tư là các triệu chứng xã hội và học tập – công việc. Nghiện công nghệ có thể dẫn đến sự
suy giảm hiệu suất học tập và làm việc, thể hiện qua việc khó duy trì sự tập trung, trễ hạn nộp
bài, kết quả học tập giảm sút hoặc giảm năng suất lao động. Mặt khác, tình trạng này còn có
thể gây ra sự thu hẹp các mối quan hệ xã hội, do người dùng ưu tiên tương tác trực tuyến thay
vì giao tiếp thực tế. Việc sử dụng công nghệ như một cơ chế đối phó với cảm xúc tiêu cực như
căng thẳng, cô đơn hoặc buồn chán có thể dẫn đến sự lệ thuộc cảm xúc, làm giảm khả năng
thích ứng và đối mặt với các thách thức của đời sống thực. lOMoAR cPSD| 58591236
2. Lý do chọn đề tài
Thứ nhất, công nghệ đã trở thành một yếu tố không thể thiếu trong đời sống hiện đại. Trong kỷ
nguyên số, sự hiện diện của điện thoại thông minh và các nền tảng mạng xã hội không còn giới
hạn ở vai trò công cụ liên lạc đơn thuần, mà đã mở rộng thành phương tiện hỗ trợ học tập, làm
việc, giải trí và kết nối xã hội. Việc sử dụng các thiết bị số và nền tảng trực tuyến đã trở nên
gần như tất yếu trong sinh hoạt hàng ngày. Tuy nhiên, chính sự phụ thuộc cao vào công nghệ
cũng kéo theo những hệ lụy, điển hình là tình trạng lệ thuộc hay còn gọi là "nghiện" thiết bị số,
đặc biệt phổ biến trong nhóm đối tượng thanh thiếu niên.
Thứ hai, công nghệ số có tác động sâu rộng đến sức khỏe tinh thần và thể chất của người sử
dụng. Việc sử dụng các thiết bị công nghệ một cách thiếu kiểm soát có thể dẫn đến nhiều vấn
đề nghiêm trọng như rối loạn giấc ngủ, mệt mỏi mãn tính, suy giảm khả năng tập trung, cảm
giác lo âu, trầm cảm, cũng như nguy cơ gia tăng trạng thái cô lập xã hội.
Những biểu hiện này không còn dừng lại ở phạm vi cá nhân, mà đã trở thành một vấn đề đáng
lo ngại đối với sức khỏe cộng đồng trong bối cảnh hiện đại.
Thứ ba, việc lệ thuộc vào thiết bị số có thể ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu suất học tập và làm
việc. Tình trạng sao nhãng, trì hoãn và giảm hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ là hệ quả
thường thấy ở những cá nhân sử dụng công nghệ quá mức. Về lâu dài, điều này có thể làm suy
giảm thành tích học tập, giảm năng suất lao động, thậm chí ảnh hưởng đến sự phát triển nghề
nghiệp và chất lượng cuộc sống.
Thứ tư, việc gắn bó quá mức với không gian mạng cũng tác động không nhỏ đến các mối quan
hệ xã hội thực tế. Khi dành quá nhiều thời gian cho thế giới ảo, người dùng có xu hướng thờ ơ
hoặc giảm tương tác với những người xung quanh, bao gồm cả gia đình và bạn bè. Điều này
không chỉ làm suy giảm chất lượng giao tiếp mà còn ảnh hưởng đến sự gắn kết và cảm xúc
trong các mối quan hệ xã hội trực tiếp.
Cuối cùng, việc nâng cao nhận thức về tác động của công nghệ đến sức khỏe tâm lý và hành
vi là điều cần thiết. Khi hiểu rõ các cơ chế tâm lý liên quan đến việc lệ thuộc vào công nghệ,
mỗi cá nhân có thể chủ động nhận diện sớm các dấu hiệu nguy cơ, từ đó thực hiện điều chỉnh
hành vi sử dụng thiết bị số một cách hợp lý. Đồng thời, kiến thức này cũng đóng vai trò nền
tảng trong việc xây dựng các chiến lược hỗ trợ sức khỏe tinh thần hiệu quả, đặc biệt trong môi
trường học đường và nơi làm việc, góp phần tạo dựng một xã hội số lành mạnh và cân bằng hơn.
II. PHÂN TÍCH CƠ CHẾ TÂM LÝ lOMoAR cPSD| 58591236
1. Các lý thuyết, khái niệm tâm lý học hành vi liên quan
Điều kiện hóa hành động (B.F. Skinner) là quá trình học tập mà trong đó hành vi bị ảnh hưởng
bởi các hệ quả xảy ra sau nó. Nói đơn giản, nếu một hành vi dẫn đến kết quả tốt (phần thưởng),
thì cá nhân có xu hướng lặp lại hành vi đó. Ngược lại, nếu hành vi dẫn đến kết quả xấu (hình
phạt), thì cá nhân có xu hướng giảm hoặc tránh hành vi đó. Các thành phần chính của điều kiện
hóa hành động gồm tăng cường và trừng phạt. Trong đó, tăng cường có hai loại là tăng cường
dương và tăng cường âm. Tăng cường dương là thêm vào một yếu tố dễ chịu, tăng cường âm
là loại bỏ một yếu tố khó chịu. Tương tự vậy, trừng phạt có hai loại là trừng phạt dương và
trừng phạt âm. Trừng phạt dương là thêm vào một yếu tố khó chịu, còn trừng phạt âm là lấy đi một yếu tố dễ chịu.
Điều kiện hóa cổ điển (Ivan Pavlov) là một hình thức học tập trong đó một kích thích trung
tính (neutral stimulus) trở nên có khả năng gợi ra một phản ứng có điều kiện (conditioned
response) sau khi được kết hợp lặp đi lặp lại với một kích thích không điều kiện (unconditioned
stimulus) vốn dĩ đã gây ra phản ứng đó.
Thuyết học tập xã hội (Albert Bandura) là lý thuyết do Albert Bandura phát triển, cho rằng con
người học hành vi mới thông qua việc quan sát, bắt chước và mô phỏng hành vi của người
khác, đặc biệt là những người được xem là hình mẫu (models), và quá trình học này chịu ảnh
hưởng bởi các yếu tố như sự chú ý, ghi nhớ, khả năng tái hiện hành vi và động lực. Các yếu tố
cốt lõi trong quá trình học tập xã hội là chú ý (attention), ghi nhớ (retention), tái hiện
(reproduction), động lực (motivation).
Vai trò của dopamine và hệ thống phần thưởng trong não bộ: Dopamine là một chất dẫn truyền
thần kinh đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh động lực, cảm giác khoái cảm và quá
trình học tập thông qua hệ quả. Khi dopamine tăng trong vùng nhân accumbens, con người có
xu hướng tìm kiếm những hành vi mang lại phần thưởng, trong khi sự thiếu hụt dopamine
thường dẫn đến giảm hứng thú và mất động lực, như thường thấy ở bệnh nhân Parkinson.
Ngoài ra, mức dopamine cao cũng tạo ra cảm giác hưng phấn, giúp củng cố hành vi để ta có
xu hướng lặp lại, tuy nhiên nó không phải là “hóa chất hạnh phúc” duy nhất mà còn có serotonin
và endorphin cùng tham gia. Trong học tập, dopamine giúp mã hóa “sai số dự đoán phần
thưởng”, tức là khi phần thưởng cao hơn mong đợi, dopamine được phóng thích nhiều hơn để
củng cố hành vi; ngược lại, nếu phần thưởng thấp hơn mong đợi, dopamine giảm để điều chỉnh
lại hành vi. Những cơ chế này có nhiều hệ quả thực tiễn, như việc các chất kích thích
(amphetamine, cocaine) hay các hành vi như chơi game, cá cược, mua sắm đều làm tăng
dopamine quá mức, từ đó gây nghiện chất hoặc nghiện hành vi. Mặt khác, sự mất cân bằng
dopamine còn liên quan đến nhiều rối loạn tâm thần như trầm cảm, ADHD hay tâm thần phân lOMoAR cPSD| 58591236
liệt, vì vậy điều trị các rối loạn này thường nhắm vào việc điều chỉnh hệ thống dopaminergic trong não.
Cơ chế tăng cường hành vi (reinforcement) qua các tương tác mạng xã hội: Trong thời đại số,
các nền tảng mạng xã hội đã trở thành công cụ không chỉ để giao tiếp mà còn điều hướng hành
vi con người thông qua các cơ chế tâm lý tinh vi. Một trong những cơ chế nổi bật nhất là tăng
cường hành vi (reinforcement) – khái niệm thuộc thuyết điều kiện hóa hành động do B.F.
Skinner phát triển. Theo đó, nếu một hành vi dẫn đến kết quả tích cực, hành vi đó có xu hướng
lặp lại. Trên mạng xã hội, các hành vi như đăng bài, chia sẻ nội dung hay bình luận được
“thưởng” bằng các lượt like, comment, share – chính là những phần thưởng xã hội. Những
tương tác này kích hoạt dopamine – chất dẫn truyền thần kinh liên quan đến khoái cảm và động
lực – trong hệ thống phần thưởng của não bộ. Mỗi lượt like trở thành một phần thưởng tức thì,
tạo cảm giác được công nhận; các comment mang lại sự quan tâm sâu sắc hơn, còn lượt share
củng cố cảm giác có giá trị và tầm ảnh hưởng.
Đặc biệt, vì không thể dự đoán được số lượng tương tác, hành vi sử dụng mạng xã hội rơi vào
lịch trình củng cố biến thiên – kiểu lịch trình dễ gây nghiện nhất, khiến người dùng liên tục
kiểm tra và lặp lại hành vi.
2. Cơ chế tác động đến hành vi con người
Trong thời đại số như ngày nay, mạng xã hội đã và đang trở thành một phần không thể thiếu
trong đời sống của con người. Dù mục đích ban đầu là kết nối nhưng càng ngày người dùng
càng bị cuốn vào một cách vô thức và khó kiểm soát. Từ góc nhìn của tâm lý học hành vi, hiện
tượng này có thể được giải thích thông qua bốn cơ chế: tăng cường dương, tăng cường âm,
phản xạ có điều kiện và học tập qua quan sát. Đây là những nguyên lý căn bản giúp lý giải vì
sao mạng xã hội có sức hút mạnh mẽ và có khả năng định hình hành vi con người.
Tăng cường dương là cơ chế trong đó một hành vi được lặp lại vì dẫn đến hậu quả tích cực,
thường là cảm giác dễ chịu, hài lòng. Ví dụ như khi người dùng đăng bài viết hay hình ảnh lên
mạng xã hội và nhận được lượt thích, bình luận tích cực, họ nhận được một chuỗi phần thưởng
từ xã hội. Những tương tác này đóng vai trò như “mồi thưởng” nhỏ nhưng đều đặn, tạo ra cảm
giác được công nhận, yêu thích hoặc ngưỡng mộ. Trên phương diện sinh học thần kinh, mỗi
lần nhận phần thưởng, não tiết ra dopamine, một chất dẫn truyền thần kinh liên quan đến khoái
cảm và động lực. Quá trình này củng cố hành vi và thúc đẩy người dùng tiếp tục đăng bài để
tìm kiếm cảm giác thỏa mãn đó. Điều đáng chú ý là mạng xã hội thường sử dụng lịch trình
tăng cường biến đổi tỉ lệ, tức là khi phần thưởng không đến đều đặn, không thể dự đoán trước,
tương tự như trò chơi máy đánh bạc thì sẽ khiến người dùng khó từ bỏ hành vi bởi mỗi lần lOMoAR cPSD| 58591236
đăng bài hay lướt mạng, họ đều kỳ vọng trúng một phần thưởng ngẫu nhiên nào đó. Chính tính
bất định của phần thưởng khiến việc sử dụng mạng xã hội trở nên đặc biệt khó kiểm soát.
Ngược lại, tăng cường âm là cơ chế trong đó hành vi được lặp lại vì nó giúp loại bỏ hoặc giảm
bớt một trạng thái khó chịu. Trong đời sống hiện đại, con người thường xuyên đối mặt với áp
lực, căng thẳng, lo âu và cô đơn. Khi đó, mạng xã hội trở thành một nơi trú ẩn để con người
quên đi những thứ áp lực đó. Việc lướt mạng, xem video, đọc tin tức hay trò chuyện qua tin
nhắn giúp người dùng tạm quên đi cảm xúc tiêu cực, làm dịu sự căng thẳng trong chốc lát.
Chính hiệu quả “giảm đau” này khiến hành vi sử dụng mạng xã hội có xu hướng được duy trì
và lặp lại. Về lâu về dài, con người có thể hình thành một tâm lý đối phó không lành mạnh:
dùng mạng xã hội để né tránh cảm xúc thay vì học cách đối mặt và xử lý chúng. Đây là điểm
nguy hiểm của tăng cường âm, nó củng cố hành vi bằng cách tạm thời làm dịu nỗi khó chịu,
nhưng không giải quyết vấn đề gốc rễ. Khi bị lệ thuộc vào công nghệ như một cơ chế xoa dịu
cảm xúc, người dùng có thể rơi vào trạng thái trống rỗng, lo âu kéo dài và giảm khả năng tập
trung khi làm việc, học tập.
Một cơ chế khác hoạt động ở tầng phản xạ là phản xạ có điều kiện, hiện tượng trong đó một
kích thích trung tính ban đầu, khi được lặp đi lặp lại cùng một phản ứng, sẽ trở thành tín hiệu
kích hoạt phản ứng đó. Tiêu biểu trong môi trường số là âm thanh thông báo từ điện thoại. Ban
đầu, tiếng “ding” đơn thuần là một tín hiệu, nhưng theo thời gian, nó gắn liền với cảm giác
mong đợi: một tin nhắn quan trọng, một lượt thích, một bình luận. Não bộ ghi nhận điều này
và bắt đầu phản ứng tự động. Khi nghe thấy âm thanh đó, người dùng ngay lập tức thấy tim
đập nhanh hơn, tay vội vàng kiểm tra điện thoại dù bất kể đang làm gì. Họ không suy nghĩ mà
hành động theo phản xạ. Đây là ví dụ điển hình cho việc mạng xã hội khai thác bản chất sinh
học của não người để hình thành thói quen phản xạ, giúp nền tảng luôn giữ được sự chú ý của người dùng.
Cuối cùng, học tập qua quan sát là một cơ chế được nhà tâm lý học Albert Bandura phát triển,
cũng đóng vai trò lớn trong hành vi sử dụng mạng xã hội. Theo lý thuyết này, con người không
cần trải nghiệm trực tiếp để học một hành vi mà họ có thể học bằng cách quan sát người khác.
Trên mạng xã hội, người dùng dễ dàng tiếp xúc với vô số hình mẫu: người nổi tiếng, bạn bè,
KOL, KOC. Khi thấy họ chụp ảnh đẹp, quay video sáng tạo, tham gia thử thách, được công
nhận rộng rãi, người quan sát có xu hướng bắt chước để tìm kiếm cảm giác tương tự. Ngoài ra,
việc thấy nhiều người cùng thực hiện một hành vi tạo ra áp lực xã hội ngầm khiến cá nhân cảm
thấy cần phải tham gia để hòa nhập hoặc xây dựng danh tính cá nhân. Vì vậy, các "trend", thử
thách lan truyền hay cách thể hiện bản thân trên mạng đều là kết quả của quá trình học tập xã hội này. lOMoAR cPSD| 58591236
Tổng kết lại, hành vi sử dụng mạng xã hội không đơn thuần là một thói quen ngẫu nhiên mà là
kết quả của nhiều cơ chế tâm lý học hành vi vận hành song song. Tăng cường dương tạo ra
động lực từ phần thưởng; tăng cường âm củng cố hành vi né tránh cảm xúc; phản xạ có điều
kiện khiến người dùng phản ứng tự động; còn học tập qua quan sát cho thấy hành vi được sao
chép thông qua người khác. Nhận diện những cơ chế này không chỉ giúp chúng ta hiểu vì sao
mạng xã hội có sức hút mạnh mẽ, mà còn là bước đầu để phát triển sự tự nhận thức, từ đó kiểm
soát và điều chỉnh hành vi số của bản thân một cách chủ động và lành mạnh hơn.
III. VÍ DỤ THỰC TIỄN 1. Ví dụ 1
TikTok là nền tảng mạng xã hội cực kỳ phổ biến tại Việt Nam và trên thế giới, đặc biệt trong
giới trẻ. Người dùng thường lướt video hàng giờ, đôi khi không nhận ra đã tiêu tốn rất nhiều
thời gian. Thuật toán TikTok liên tục đề xuất video “vừa đủ hấp dẫn” để giữ chân người xem.
Trung bình toàn cầu: Người dùng TikTok trên toàn thế giới dành khoảng 58 phút 24 giây mỗi
ngày để sử dụng ứng dụng này vào năm 2024. Con số này đã tăng hơn gấp đôi so với mức
trung bình 27 phút 24 giây vào năm 2019. Người dùng TikTok tại Việt Nam dành trung bình
54 phút mỗi ngày trên ứng dụng này vào đầu năm 2024.
Phân tích ví dụ: TikTok sử dụng mô hình điều kiện hóa vận hành, trong đó hành vi được củng
cố bằng phần thưởng. Mỗi lần người dùng lướt TikTok và thấy một video thú vị (hài hước, cảm
động hoặc đúng sở thích), họ nhận được phần thưởng tức thì là cảm giác hài lòng, điều này
củng cố hành vi “vuốt để xem tiếp”. Việc nghiện TikTok không chỉ đến từ mong muốn giải trí
đơn thuần, mà còn là tâm lý né tránh cảm xúc tiêu cực một cách vô thức của người dùng. Khi
con người cảm thấy căng thẳng, lo âu và áp lực trong cuộc sống, TikTok giúp người dùng thoát
khỏi cảm xúc tiêu cực đó trong khoảng thời gian ngắn, tạo cảm giác dễ chịu nhưng người dùng
sẽ ngày càng phụ thuộc vào chúng và phớt lờ những hệ quả.
Hội chứng FOMO (Fear of Missing Out): FOMO là nỗi sợ bị bỏ lỡ thông tin, xu hướng hay
trải nghiệm mà người khác đang tận hưởng. TikTok, với đặc tính lan truyền nhanh chóng các
trào lưu và “hot trend”, là môi trường lý tưởng để FOMO phát triển. Người dùng lo sợ nếu
không cập nhật thường xuyên, họ sẽ bị lạc hậu, không thể hòa nhập hoặc bị tách khỏi cộng đồng.
Tâm lý đám đông và hiệu ứng bắt chước: TikTok khuyến khích người dùng “bắt trend” tham
gia các thử thách, nhảy, meme,... điều này kích thích tâm lý muốn được thuộc về một cộng
đồng. Dù đôi khi không thực sự hứng thú, nhiều người vẫn quay video chỉ để “không bị lạc
hậu”. Hành vi này dẫn đến nghiện tham gia xu hướng chứ không chỉ nghiện xem. Do vậy,
TikTok không chỉ gây nghiện vì giải trí, mà còn tác động sâu đến tâm lý hành vi, từ cơ chế
phần thưởng, né tránh cảm xúc, FOMO, đến hiệu ứng xã hội. lOMoAR cPSD| 58591236 2. Ví dụ 2
Chen Rong-yu, một thanh niên 23 tuổi ở Đài Loan, đã tử vong trong một quán cà phê Internet
vào năm 2012. Anh đã chơi liên tục trong khoảng 23 giờ. Khoảng 3 giờ chiều ngày hôm sau,
nhân viên quán nhận thấy Chen ngồi bất động với tay vẫn đặt trên bàn phím cùng chuột, tưởng
rằng anh đang ngủ gật. Khi đến kiểm tra, họ phát hiện anh đã tử vong, với cơ thể cứng đờ và
khuôn mặt tím tái. Trường hợp của Chen Rong-yu là một ví dụ điển hình về tác hại của việc
nghiện công nghệ, đặc biệt là nghiện trò chơi trực tuyến, và thiếu nhận thức về sức khỏe khi
tham gia vào các hoạt động này trong thời gian dài mà không nghỉ ngơi hoặc vận động.
Phân tích ví dụ theo Tâm lý học hành vi: Cơ chế củng cố dương tính: Mỗi chiến thắng trong
game hoặc một pha highlight đẹp mắt đều kích hoạt hệ thống phần thưởng trong não bộ
(dopamine), tạo ra cảm giác “thỏa mãn tạm thời”. Chen tiếp tục chơi game vì mỗi lần như vậy
mang lại niềm vui, sự công nhận từ đồng đội hoặc cảm giác “trốn thoát thực tại”. Và não ghi
nhớ rằng “chơi game là cách để cảm thấy tốt hơn”, từ đó củng cố hành vi lặp lại liên tục. Tâm
lý tránh né cảm xúc tiêu cực: Khi bước vào thế giới game, những căng thẳng, lo âu sẽ giảm,
khiến não gắn hành vi đó với “cách làm dịu cảm xúc”. Chen không chỉ muốn chơi, mà còn
cần chơi để né tránh cảm xúc tiêu cực, hình thành cơ chế phụ thuộc hành vi. Với một chuỗi
hành vi tâm lý quá mức như vậy khiến Chen không kiểm soát được bản thân và giảm nhận thức về sức khỏe.
IV. SỐ LIỆU MINH HỌA
Việc phổ cập công nghệ và Internet đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống của
người trẻ Việt Nam hiện nay. Theo báo cáo từ Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam
(VECOM), hiện có khoảng 72,7 triệu người dùng mạng xã hội, chiếm 73,3% dân số. Con số
này phản ánh mức độ thâm nhập sâu rộng của Internet vào đời sống xã hội, đặc biệt trong bối
cảnh chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực.
Một điểm đáng chú ý từ các dữ liệu điều tra là độ tuổi bắt đầu sử dụng thiết bị công nghệ của
trẻ em Việt Nam. Cụ thể, trẻ em Việt Nam trung bình bắt đầu sử dụng điện thoại từ năm 9 tuổi,
sớm hơn đáng kể so với độ tuổi trung bình toàn cầu là 13 tuổi. Điều này không chỉ cho thấy
khả năng tiếp cận sớm với công nghệ mà còn đặt ra những yêu cầu về định hướng sử dụng hợp
lý trong giai đoạn phát triển tâm sinh lý quan trọng của trẻ.
Xét về thời lượng sử dụng Internet, một khảo sát cho thấy gần 30% thanh thiếu niên sử dụng
Internet từ 6 đến dưới 8 giờ mỗi ngày, và khoảng 80% sử dụng từ 2 đến 8 giờ/ngày (nbtv.vn,
2024). Những con số này nhấn mạnh mức độ gắn bó cao của thanh thiếu niên với không gian
mạng, phản ánh rõ xu hướng chuyển dịch sinh hoạt và giải trí của giới trẻ sang môi trường số. lOMoAR cPSD| 58591236
Ngoài ra, mục đích sử dụng Internet của người dùng trẻ tại Việt Nam cũng khá đa dạng. Theo
khảo sát từ VECOM, có đến 75,4% sử dụng Internet để giải trí, 71% để học tập và tìm kiếm
thông tin, 65,9% để giao tiếp, làm quen, kết bạn, và 63,5% để cập nhật tin tức. Những số liệu
này chứng minh rõ ràng tính chất đa nhiệm và linh hoạt của Internet, đồng thời cho thấy vai
trò trung tâm của môi trường số trong mọi mặt đời sống người trẻ Việt Nam ngày nay.
V. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
Một thực trạng đáng báo động trong giới trẻ hiện nay là sự gia tăng mức độ lệ thuộc vào
smartphone, nhất là đối với sinh viên đại học. Nghiên cứu năm 2021 tại TP.HCM chỉ ra rằng
nguy cơ nghiện smartphone có tỷ lệ thuận với các dấu hiệu tâm lý tiêu cực như trầm cảm, cảm
giác cô độc và sự suy giảm nhận thức về giá trị bản thân. Việc lạm dụng thiết bị di động một
cách thiếu kiểm soát tạo ra hệ luỵ đáng báo động trong giới trẻ, làm suy giảm kết nối với thực
tế. Hệ quả là sự cô độc gia tăng, dẫn đến vòng luẩn quẩn của sự phụ thuộc và nỗi cơ đơn dai
dẳng. Điều này phản ánh sâu sắc mối liên hệ giữa hành vi lệ thuộc công nghệ và những tổn thương tâm lý lâu dài.
Không chỉ ảnh hưởng đến sức khoẻ tinh thần, việc lạm dụng smartphone còn gây tổn hại đến
sức khỏe thể chất, đặc biệt là giấc ngủ. Một nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Y học
TP.HCM cho thấy thói quen lạm dụng smartphone vào ban đêm gây ra hiện tượng "sleep
procrastination" – trì hoãn giấc ngủ, xuất phát từ việc khó kiểm soát ham muốn sử dụng thiết
bị di động. Điều này gây ra sự xáo trộn nghiêm trọng trong chu kỳ sinh học của giấc ngủ, đồng
thời giảm sút các chức năng điều hành nhận thức bao gồm khả năng tập trung, kiểm soát cảm
xúc và đưa ra quyết định. Đây là những kỹ năng thiết yếu, có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả
học tập và khả năng tương tác, giao tiếp xã hội của mỗi cá nhân.
Ở góc độ hành vi, một nguyên nhân sâu xa khác khiến người trẻ khó tách rời khỏi thế giới ảo
là hiện tượng tâm lý được biết đến với tên gọi: FOMO (Fear of Missing Out). Một khảo sát
mang tầm quốc tế do Đại học Tilburg thực hiện đã chỉ ra rằng, chính nỗi sợ bỏ lỡ thông tin đã
thôi thúc người dùng liên tục kiểm tra thiết bị di động một cách vô thức. Hệ lụy kéo theo là
cảm giác bất an, bồn chồn trỗi dậy nếu họ không thể truy cập vào không gian mạng trong một
khoảng thời gian ngắn. Đây là một dạng lệ thuộc cưỡng bức, gần giống với rối loạn kiểm soát
hành vi, gây ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng tự chủ và chức năng điều hành nhận thức –
những yếu tố then chốt trong việc duy trì sự cân bằng cảm xúc và hành vi cá nhân.
VI. MẶT TÍCH CỰC CỦA TÂM LÝ HỌC CỦA VIỆC “NGHIỆN” CÔNG NGHỆ:
SMARTPHONE VÀ MẠNG XÃ HỘI lOMoAR cPSD| 58591236 1. Cơ chế tâm lý
Trong khi nghiện mạng xã hội thường được nhìn nhận như một vấn đề tiêu cực, ít ai nhận ra
rằng đằng sau đó là những nhu cầu tâm lý tích cực có thật của con người. Chính vì mạng xã
hội có khả năng thỏa mãn sâu sắc các nhu cầu này nên nó mới dễ gây nghiện. Từ góc nhìn tâm
lý học, hiện tượng này liên quan đến một số cơ chế như: nhu cầu được công nhận và khẳng
định bản thân, tăng cường dương, sự kết nối xã hội và sự hình thành danh tính cá nhân.
Trước hết, mạng xã hội đáp ứng nhu cầu được công nhận và đánh giá tích cực, một trong những
nhu cầu tâm lý căn bản theo tháp nhu cầu của Maslow. Việc đăng một bức ảnh và nhận được
nhiều lượt thích, bình luận tích cực sẽ kích hoạt hệ thống phần thưởng trong não bộ, tạo cảm
giác hạnh phúc, hài lòng và được coi trọng. Đây chính là tăng cường dương, khi hành vi được
củng cố vì dẫn đến hậu quả tích cực. Về mặt sinh học, mỗi lượt tương tác có thể khiến não tiết
ra dopamine chất dẫn truyền thần kinh liên quan đến khoái lạc và động lực. Người dùng cảm
thấy vui, tự tin và muốn tiếp tục chia sẻ. Việc sử dụng mạng xã hội vì nó mang lại cảm giác
thành công và giá trị là một dạng củng cố hành vi tích cực.
Thứ hai, mạng xã hội cho phép người dùng kết nối và duy trì các mối quan hệ xã hội một cách
dễ dàng và linh hoạt. Trong bối cảnh hiện đại khi các mối quan hệ ngày càng bị chia cắt về mặt
địa lý, mạng xã hội đóng vai trò là cầu nối quan trọng. Việc được trò chuyện, cập nhật cuộc
sống của người thân, bạn bè, thậm chí chỉ cần cảm giác “không bị bỏ lại” cũng đã đủ để duy
trì hành vi sử dụng mạng xã hội thường xuyên đủ để duy trì hành vi sử dụng mạng xã hội
thường xuyên. Tâm lý học xã hội cho rằng sự gắn kết và cảm giác thuộc về là một trong những
yếu tố căn bản giúp con người phát triển tâm lý khỏe mạnh. Nghiện mạng xã hội, trong trường
hợp này, không đơn thuần là chạy trốn thực tại, mà là cố gắng duy trì mối liên hệ xã hội vốn
mang lại cảm xúc tích cực và ý nghĩa.
Thứ ba, mạng xã hội tạo điều kiện để người dùng khám phá và khẳng định danh tính cá nhân.
Qua việc lựa chọn nội dung đăng tải, tham gia vào cộng đồng yêu thích (ví dụ: nhiếp ảnh, làm
đẹp, sách, văn hóa…), người dùng không chỉ thể hiện bản thân mà còn dần định hình họ là ai.
Điều này đặc biệt rõ rệt ở giới trẻ, những người đang trong quá trình tìm kiếm cái tôi và khẳng
định chỗ đứng trong xã hội. Học tập qua quan sát (observational learning) là một cơ chế tâm
lý do Bandura đề xuất, đóng vai trò lớn trong quá trình này. Người dùng học được cách sống,
cách thể hiện, cách giao tiếp thông qua quan sát người khác trên mạng. Khi họ áp dụng và nhận
được phản hồi tích cực, hành vi tiếp tục được củng cố. Việc hình thành bản sắc cá nhân qua
mạng xã hội không hẳn tiêu cực, nếu được định hướng đúng cách và sử dụng có ý thức.
Cuối cùng, mạng xã hội cũng giúp thỏa mãn nhu cầu về sự giải trí, tò mò và cập nhật thông tin,
những khía cạnh tích cực của hành vi tìm kiếm tri thức và mở rộng thế giới quan. Việc “lướt
mạng” có thể khơi gợi hứng thú, kích thích trí tò mò, hoặc đơn giản là giúp thư giãn sau giờ lOMoAR cPSD| 58591236
làm việc. Nếu được sử dụng điều độ, đây là cách lành mạnh để làm mới tinh thần, không khác
gì việc đọc sách hay xem phim.
Nghiện mạng xã hội không chỉ đến từ những yếu tố tiêu cực như né tránh cảm xúc hay phản
xạ vô thức, mà còn đến từ những cơ chế tâm lý tích cực gắn liền với các nhu cầu chính đáng
như được công nhận, được kết nối, được thể hiện và khám phá bản thân. Việc hiểu rõ những
mặt tích cực này giúp chúng ta nhìn nhận hiện tượng “nghiện” một cách toàn diện hơn từ đó
học cách sử dụng mạng xã hội có ý thức, tận dụng mặt lợi và kiểm soát mặt hại, thay vì chỉ
loay hoay tìm cách “cai nghiện” trong vô vọng.
2. Ví dụ thực tiễn
CEO Hà Linh – Khi mạng xã hội trở thành công cụ phát triển cá nhân và kinh doanh. Một ví
dụ tiêu biểu cho mặt tích cực của việc sử dụng smartphone và mạng xã hội với tần suất cao là
trường hợp của CEO Hà Linh, một người chuyên livestream và review sản phẩm trên các nền
tảng như TikTok và YouTube. Công việc của cô yêu cầu phải thường xuyên sử dụng điện thoại
để quay video, chỉnh sửa nội dung, theo dõi xu hướng và tương tác với người xem. Dưới góc
độ thuyết củng cố hành vi của B.F. Skinner, trường hợp của CEO Hà Linh là một ví dụ điển
hình cho việc hình thành và duy trì hành vi tích cực thông qua quá trình củng cố tích cực. Ban
đầu, Hà Linh chỉ chia sẻ trải nghiệm cá nhân khi sử dụng các sản phẩm tiêu dùng. Tuy nhiên,
sau mỗi video review chân thật, cô nhận được lượng lớn lượt xem, bình luận khen ngợi, sự tin
tưởng từ cộng đồng mạng và cả lợi ích kinh tế từ nền tảng số. Những yếu tố này chính là các
“phần thưởng” – hay còn gọi là kích thích củng cố – khiến hành vi đăng tải và livestream của
cô được lặp lại, duy trì và phát triển theo thời gian. Não bộ của con người có xu hướng tiết
dopamine khi nhận được phản hồi tích cực, từ đó hình thành cảm giác hứng thú, động lực và
thậm chí là “nghiện” trong trạng thái có kiểm soát. Hành vi sử dụng smartphone và mạng xã
hội với tần suất cao vì vậy không hề tiêu cực trong trường hợp này, mà ngược lại đã giúp Hà
Linh xây dựng uy tín cá nhân, đóng góp cho cộng đồng tiêu dùng và trở thành hình mẫu truyền
cảm hứng. Như vậy, thuyết củng cố hành vi giúp lý giải cách một hành vi ban đầu nhỏ bé có
thể phát triển thành thói quen tích cực có giá trị xã hội, nhờ được củng cố liên tục bằng phản
hồi tích cực từ môi trường.
3. Kết quả nghiên cứu liên quan
Mặc dù việc “nghiện’’ công nghệ và mạng xã hội thường được xem là tiêu cực. Tuy nhiên một
số nghiên cứu vẫn cho thấy những mặt tích cực của việc sử dụng công nghệ và mạng xã hội
thường xuyên và có kiểm soát. Một nghiên cứu từ Trường Y tế Công cộng Harvard T.H. Chan
phát hiện rằng việc sử dụng mạng xã hội như một phần của thói quen hàng ngày có liên quan
tích cực đến ba khía cạnh sức khỏe: phúc lợi xã hội, sức khỏe tâm thần tích cực và sức khỏe tự
đánh giá. Điều này cho thấy rằng, khi được sử dụng một cách có kiểm soát, mạng xã hội có thể lOMoAR cPSD| 58591236
giúp bù đắp cho sự thiếu hụt trong tương tác trực tiếp, đồng thời gia tăng và mở rộng các mối
quan hệ xã hội, củng cố sự kết nối, tương tác giữa người với người.
Tương tự, một nghiên cứu được công bố trên tạp chí BMC Psychology đã nhấn mạnh rằng các
nền tảng mạng xã hội có thể hỗ trợ phát triển các mối quan hệ, gia tăng sự kết nối, nâng cao
lòng tự trọng và cải thiện cảm giác thuộc về cộng đồng. Đặc biệt, trong thời điểm bùng phát
đại dịch COVID-19, các tương tác xã hội mang tính tích cực cũng như sự hỗ trợ từ cộng đồng
trực tuyến đã giúp giảm stress và cảm giác cô đơn. Ngoài ra, một nghiên cứu của Đại học Johns
Hopkins cũng cho thấy các nền tảng mạng xã hội có khả năng cung cấp các hỗ trợ xã hội, giúp
khẳng định bản dạng cá nhân và đóng vai trò như một cơ chế giảm căng thẳng cho trẻ em và thanh thiếu niên.
Tóm lại, khi được sử dụng một cách có kiểm soát và tích cực, mạng xã hội không chỉ là công
cụ giải trí mà còn có thể đóng góp vào việc nâng cao sức khỏe tâm thần và cảm xúc người dùng.
VII. KẾT LUẬN VÀ LIÊN HỆ THỰC TIỄN
Qua các phân tích và ví dụ thực tiễn đã trình bày, có thể thấy rằng hiện tượng “nghiện” công
nghệ, đặc biệt là smartphone và mạng xã hội, không đơn thuần là một xu hướng tiêu cực mang
tính thời đại mà là kết quả của sự vận hành phức tạp giữa các cơ chế tâm lý học hành vi, nhu
cầu cảm xúc và đặc điểm xã hội học hiện đại. Dưới góc độ tâm lý học hành vi, việc lặp lại hành
vi sử dụng công nghệ được củng cố thông qua các hình thức phần thưởng từ cảm giác hài lòng
tức thời, sự thừa nhận xã hội, đến sự né tránh cảm xúc tiêu cực. Các ví dụ như trào lưu TikTok
hay trường hợp nghiện game dẫn đến hậu quả nghiêm trọng của Chen Rong-yu cho thấy mức
độ tác động sâu sắc của công nghệ lên hành vi và tâm lý cá nhân nếu thiếu sự kiểm soát và nhận thức đầy đủ.
Tuy nhiên, cần nhìn nhận hiện tượng “nghiện” công nghệ một cách toàn diện hơn. Khi được
sử dụng đúng cách và có kiểm soát, các nền tảng công nghệ có thể đáp ứng các nhu cầu tích
cực của con người như kết nối xã hội, khẳng định bản thân, phát triển danh tính cá nhân và
thậm chí là công cụ nâng cao hiệu quả công việc, như minh chứng từ trường hợp CEO Hà
Linh. Những phát hiện từ các nghiên cứu gần đây cũng cho thấy mối liên hệ tích cực giữa việc
sử dụng mạng xã hội và sự cải thiện sức khỏe tinh thần, cảm giác thuộc về cộng đồng và khả
năng kết nối xã hội đặc biệt trong bối cảnh hiện đại khi các hình thức giao tiếp truyền thống bị
giới hạn bởi khoảng cách địa lý hoặc tình huống đặc biệt như đại dịch COVID-19.
Từ đó, có thể rút ra một bài học thực tiễn quan trọng: Vấn đề không nằm ở công nghệ, mà nằm
ở cách chúng ta sử dụng công nghệ. Thay vì cực đoan hóa vấn đề bằng cách hoàn toàn “cai
nghiện”, điều cần thiết là giáo dục kỹ năng sử dụng công nghệ một cách có nhận thức và chủ lOMoAR cPSD| 58591236
đích. Điều này bao gồm việc xây dựng thói quen sử dụng hợp lý, phát triển khả năng tự kiểm
soát hành vi, nâng cao nhận thức về sức khỏe tinh thần, cũng như hiểu được cơ chế tâm lý cá
nhân để tự điều chỉnh và thích ứng. Bên cạnh đó, vai trò của gia đình, nhà trường và các tổ
chức xã hội cũng rất quan trọng trong việc cung cấp môi trường hỗ trợ, hướng dẫn và định
hướng cho thế hệ trẻ trong quá trình tiếp xúc và phát triển song hành với công nghệ.
Tóm lại, công nghệ không phải là con dao hai lưỡi mà là một công cụ đa chức năng phụ thuộc
vào cách con người sử dụng nó. Việc tiếp cận với công nghệ từ góc nhìn tâm lý học giúp mở
ra hướng đi bền vững, nơi mà “nghiện” không còn bị mặc định là tiêu cực, mà có thể được hiểu
như một biểu hiện của những nhu cầu nhân sinh sâu xa, cần được điều chỉnh, định hướng và
khai thác một cách tích cực.
VIII. NGUỒN THAM KHẢO
Dean, B. (2024, March 4). How much time is spent on TikTok? (2024 data). Exploding Topics.
https://explodingtopics.com/blog/tiktok-usage
Hiệp hội Thương mại Điện tử Việt Nam (VECOM). (2024). Digital Report Việt Nam
2024. https://www.vecom.vn/
iDotSC. (2024, January 12). Lượng người dùng và thời gian sử dụng các mạng xã hội lớn:
Zalo, TikTok, YouTube, Facebook tại Việt Nam. https://www.idotsc.vn/
NP Istanbul Brain Hospital. (n.d.). What is digital addiction? NP Istanbul. https://npistanbul.com/
Nguyễn, N. A. T., & Lê, T. T. H. (2021). Mối liên hệ giữa nghiện điện thoại thông minh và
sức khỏe tâm thần ở sinh viên tại TP. Hồ Chí Minh. Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn TP.HCM.
Przybylski, A. K., Murayama, K., DeHaan, C. R., & Gladwell, V. (2013). Motivational,
emotional, and behavioral correlates of fear of missing out. Computers in Human
Behavior, 29(4), 1841–1848. https://doi.org/10.1016/j.chb.2013.02.014
Tạp chí Y học TP.HCM. (2022). Ảnh hưởng của việc sử dụng smartphone vào ban đêm đến
giấc ngủ và chức năng nhận thức ở thanh thiếu niên Việt Nam, 26(3), 45–52.
Đài Phát thanh – Truyền hình Ninh Bình. (2024). Thanh thiếu niên sử dụng internet trung
bình bao nhiêu giờ mỗi ngày? https://nbtv.vn/ lOMoAR cPSD| 58591236
Báo Dân Sinh. (2024, March). Trẻ em Việt Nam tiếp cận công nghệ sớm hơn mức trung bình
thế giới. https://baodansinh.vn/