
















Preview text:
lOMoAR cPSD| 59780317 TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO HỌC VIỆN TOÀ ÁN
MÔN: LUẬT DÂN SỰ 2
Đề bài: Khái niệm hợp đồng và những nguyên tắc cơ bản
của hệ thống pháp luật hợp đồng Việt Nam Nhóm: 2 Lớp: E khóa 6 1 .Tạ Thùy Dương
2 .Cao Tùng Dương (nhóm trưởng ) 3 .Tô Thị Hà 4 .Phạm Hương Giang 5 .Phan Trần Khánh Duy .N 6 guyễn Trường Giang
7 .Phạm Nguyễn Minh Hiếu 8 .Nguyễn Văn Ngọc Hải
Hà Nội, ngày 06 tháng 11 năm 2022 MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................. B.
NỘI DUNG.....................................................................................................
I. KHÁI NIỆM HỢP ĐỒNG..............................................................................
1. Hợp đồng là gì?..............................................................................................
2. Các thành tố của hợp đồng...........................................................................
2. Khái niệm hợp đồng trong pháp luật Việt Nam.........................................
II. Những nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật hợp đồng Việt Nam.....
1. Cấu trúc của những nguyên tắc cơ bản.......................................................
2. Nguyên tắc tự do ý chí hay tự do hợp đồng................................................
3. Nguyên tắc thiện chí....................................................................................
4. Nguyên tắc áp dụng tập quán....................................................................
C. KẾT LUẬN................................................................................................... 1 A.LỜI MỞ ĐẦU
Khi các mối quan hệ về tài sản, các mối quan hệ về nhân thân càng ngày càng
phát triển trong xã hội dân sự, một sự nhu cầu về trao đổi tài sản, hàng hóa cũng
như vấn đề thuê nhân lực để phục vụ cho việc phát triển tài sản của mình cũng
ngày càng phát triển theo. Khi ý chí của các bên trong việc trao đổi đó gặp nhau
ở một số điểm nhất định, họ muốn tiến tới thực hiện ý chí của nhau ở những điểm trùng lặp đó.
Nhưng việc đơn thuần để tiến hành những điểm chung đó là chưa đủ, cần có
một cơ chế để giúp việc đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ với nhau khi họ
thực hiện ý chí của mình, và từ đó hợp đồng ra đời. vậy hợp đồng là gì? Pháp luật
quy định như thế nào về các loại hợp đồng? B. NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM HỢP ĐỒNG
1. Hợp đồng là gì?
Hợp đồng có thể hiểu là sự thỏa thuận giữa các bên về việc quy định các quyền
lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm dân sự, cùng các điều khoản làm thay đổi hay chấm dứt
chúng, hợp đồng được lập thành nhiều hình thức khác nhau, như qua lời nói, qua
văn bản hoặc qua hành vi cụ thể, trừ khi pháp luật quy định cụ thể trong một số lĩnh vực.
2. Các thành tố của hợp đồng.
a. Các chủ thể giao kết của hợp đồnga hợp đồng?
Người kết ước, hay chủ thể giao kết hợp đồng là các bên tham gia vào một
quan hệ hợp đồng, có thể là cá nhân hoặc pháp nhân. Trong một quan hệ hợp
đồng, xuất hiện những cặp chủ thể tương ứng là người có quyền (trái chủ) và
người có nghĩa vụ (thụ trái). Một trái chủ có thể có nhiều thụ trái và ngược lại,
một thụ trái có thể có nhiều trái chủ. Lưu ý rằng, có những trường hợp “các bên”
trong quan hệ hợp đồng mang tính kỹ thuật pháp lý hơn là thực chất, khi mà một người giao kết lOMoAR cPSD| 59780317
hợp đồng với chính bản thân mình. Người đó thực hành hai (hoặc nhiều hơn) tư
cách pháp lý khác nhau và giao kết hợp đồng giữa các tư cách đó.
Ví dụ: Một người được ủy quyền bởi cả hai bên trong quan hệ hợp đồng để giao
kết hợp đồng; một người được ủy quyền giao kết một hợp đồng và giao kết hợp
đồng đó với chính mình.
b. Sự thỏa thuận ý chí
Chủ đích của sự ưng thuận hay mục đích của thỏa thuận có nghĩa là các bên
phải thỏa thuận với nhau về một việc xác định nào đó, ý chí của mỗi bên phải
cùng hướng về một mục đích, hay còn gọi là sự thống nhất ý chí, nhưng không
nhất thiết phải thỏa thuận về tất cả những vấn đề xoay quanh hay phát sinh từ mối
quan hệ của họ. Những vấn đề mà các bên chưa thỏa thuận, vì nhiều lý do mà chủ
yếu là do họ không thể lường trước những trường hợp phát sinh bất đồng gặp phải
trong tương lai, sẽ được dự liệu trong các quy định của pháp luật về chế định hợp
đồng. Ý chí của các bên cần đủ rõ ràng (không có nghĩa là không chấp nhận sự
ngầm định) và ăn nhập với nhau.
Ví dụ: Nếu một bên muốn có xe đạp để đi, họ có thể mua hoặc thuê chiếc xe.
Một bên muốn kiếm được lợi từ chiếc xe đạp không sử dụng nữa, họ có thể cho
thuê hoặc bán chiếc xe. Dù ý chí của mỗi người là mua hoặc thuê/bán hoặc cho
thuê, chúng đều có sự tương đồng về việc bên A phải trả tiền cho bên B, và bên
B phải đưa xe cho bên A đi. Nhưng hai cặp ý chí mua - cho thuê và thuê - bán
không thống nhất với nhau, khi đó các bên không có sự thỏa thuận.
c. Hệ quả pháp lý
Có các bên kết ước và có sự thỏa thuận giữa các bên về một việc xác định nào
đó chưa đủ để tạo ra một hợp đồng. Sự thỏa thuận phải tạo lập một hệ quả pháp
lý mới có khả năng tạo thành hợp đồng. Hệ quả pháp lý được hiểu là sự tạo lập,
thay đổi hay chấm dứt một quyền lợi (và nghĩa vụ dân sự tương ứng) hoặc một
quan hệ pháp luật. Một thỏa thuận để được coi là hợp đồng, cần là một trong
những nguồn gốc phát sinh của nghĩa vụ dân sự (nghĩa vụ pháp lý phát sinh từ ý lOMoAR cPSD| 59780317
chí của chủ thể) cả về mặt chủ quan và khách quan. Về mặt chủ quan, một sự thỏa
thuận hay một lời cam kết đôi khi chỉ nhắm đến những nghĩa vụ mang tính luân
lý chứ không phải là nghĩa vụ pháp lý. Dựa trên hiệu lực của nghĩa vụ hay chủ
đích của nghĩa vụ, ta cần phân biệt nghĩa vụ pháp lý có tính ràng buộc bởi pháp
luật, với các loại nghĩa vụ phi pháp lý luân lý không có tính ràng buộc bởi pháp
luật như nghĩa vụ tự nhiên, nghĩa vụ đạo đức, nghĩa vụ tôn giáo. Ví dụ: Nếu người
tham gia vào thỏa thuận không thực sự muốn bị ràng buộc bởi pháp luật mà họ
chỉ thiết lập nghĩa vụ mang tính luân lý, thì pháp luật không thể cưỡng chế họ
thực hiện nghĩa vụ đó được, mặc dù họ có thể bị lên án về mặt đạo đức. Đó có thể
là các thỏa thuận mang tính xã giao hay vui đùa giữa mọi người; lời hứa (và chấp
nhận lời hứa) về sự giúp đỡ thiện tâm; hay sự cam đoan bằng danh dự. Nghĩa vụ
đạo đức đơn thuần là sự ràng buộc trong lương tâm. Một người có thể đưa ra lời
hứa về sự giúp đỡ thiện tâm với một người nào đó mà không nhận được sự đối
ứng nào. Nghĩa vụ tôn giáo có thể hiểu là những nghĩa vụ dựa trên một giáo lý
tôn giáo nào đó, mà một người gia nhập cần phải thực hiện. Nếu một người không
thực hiện hành vi giúp đỡ thiện tâm hoặc hành vi bị ràng buộc bởi giáo lý, thì luật
pháp không thể cưỡng chế anh ta thực hiện điều đó. Trong pháp luật Việt Nam
Cộng hòa cũ, nếu có tai nạn trong những sự giúp đỡ thiện tâm, tòa án cũng không
áp dụng trách nhiệm khế ước đối với người giúp đỡ. Cả hai Bộ dân luật Bắc Kỳ
và Trung Kỳ cũ đều quy định “luật pháp không can thiệp vào sự thi hành các
nghĩa vụ về luân lý cùng về tôn giáo”. Nghĩa vụ tự nhiên có thể biến đổi thành
nghĩa vụ dân sự bởi người thụ trái nếu sự cam kết của người thụ trái đáp ứng các
yêu cầu nhất định như nguyên nhân hoặc hình thức hoặc có một nghĩa vụ đối ứng.
Điều này có thể áp dụng cho các loại nghĩa vụ phi pháp lý khác, rằng nếu chúng
đáp ứng được những yêu cầu nhất định thì người ta có thể suy đoán về ý chí của
các bên thỏa thuận rằng họ muốn chịu sự ràng buộc một cách nghiêm túc bởi pháp
luật, và do đó chúng trở thành hợp đồng. Như vậy, một thỏa thuận giữa trái chủ
và thụ trái không nhằm phát sinh một hệ quả pháp lý, mà chỉ nhằm phát sinh một
hệ quả luân lý nói chung hay nghĩa vụ tự nhiên nói riêng không thể coi là hợp lOMoAR cPSD| 59780317
đồng được. Về mặt khách quan, sự thỏa thuận cần tạo ra được hệ quả pháp lý thì
mới có thể coi là hợp đồng. Pháp luật luôn đặt ra một giới hạn tự do thỏa thuận
nhất định, mà vượt qua lằn ranh đó thì sự thống nhất ý chí của các bên dù có muốn tạo lập.
2. Khái niệm hợp đồng trong pháp luật Việt Nam
a. Khái niệm hợp đồng
Khái niệm hợp đồng trong pháp luật Việt Nam Điều 644(2) Bộ Dân luật Bắc
Kỳ năm 1931 quy định: “Khế ước là một hiệp ước của một người hay nhiều người
cam đoan với một hay nhiều người khác để tặng cho, để làm hay không làm cái
gì”. Điều 680(2) Dân luật Trung Kỳ năm 1936 quy định: “Khế ước là một hiệp
ước của một người hay nhiều người cam đoan với một hay nhiều người khác để
chuyển giao, để làm hay không làm cái gì”. Điều 653 Bộ Dân luật Việt Nam Cộng
hòa năm 1972 quy định: “Khế ước hay hiệp ước là một hành vi pháp lý do sự thỏa
thuận giữa hai người hay nhiều người để tạo lập, di chuyển, biến cải hay tiêu trừ
một quyền lợi, đối nhân hay đối vật”. Điều 394 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 1995
và Điều 388 BLDS năm 2005 của Việt Nam ngày nay đều quy định: “Hợp đồng
dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự”. Điều 385 BLDS năm 2015 quy định: “Hợp đồng là sự
thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự”. Khái niệm về hợp đồng của hai bộ Dân luật Bắc Kỳ và Trung Kỳ thiếu
sự bao quát khi đề cập ngay đến một sự phân loại nghĩa vụ dựa trên nội dung của
nghĩa vụ, là chuyển giao quyền, làm hoặc không làm một việc gì đó. Riêng Bộ
Dân luật Bắc Kỳ sử dụng thuật ngữ “tặng cho” dường như loại trừ các trường hợp
chuyển giao quyền có đền bù, có nội hàm hẹp hơn nhiều so với thuật ngữ “chuyển
giao” trong Bộ Dân luật Trung Kỳ. Cách phân loại này được đề cập tới nhiều
trong việc thực hiện nghĩa vụ, nhưng cũng chỉ là một cách trong nhiều cách phân
loại nghĩa vụ. Nội hàm của hai khái niệm này không bao quát được yếu tố tạo lập
hậu quả pháp lý. Khái niệm hợp đồng của hai bộ luật này chịu ảnh hưởng sâu sắc
bởi BLDS Pháp năm 1804, do những chuyên gia pháp lý thời đó là người Pháp lOMoAR cPSD| 59780317
hoặc tiếp thu nền khoa học pháp lý Pháp Bộ Dân luật năm 1972 của Việt Nam
Cộng hòa nhắc đến sự thỏa thuận với nghĩa tương đồng với khế ước/hợp đồng.
Tuy nhiên điều này không gây ra sự nhầm lẫn nào vì việc tạo lập hậu quả pháp lý
được nhắc đến ngay sau đó. BLDS năm 1995 và Bộ luật Dân sự năm 2005 lại
không sử dụng thuật ngữ “hợp đồng” như tất cả các nghiên cứu cơ bản về hợp
đồng mà có một bổ ngữ “dân sự” ở sau. Bổ ngữ “dân sự” này đã tạo ra bất cập
trong thực tiễn. Về mặt cấu trúc của hệ thống pháp luật, ở những nước có sự phân
biệt ngành luật công và luật tư thì BLDS thường được coi là bộ luật nền tảng của
luật tư. Do vậy khái niệm hợp đồng và chế định hợp đồng trong BLDS có tính
bao quát cho toàn bộ các quan hệ tư nơi mà các chủ thể trong quan hệ ở vị thế
bình đẳng với nhau và giao kết hợp đồng dựa trên tự do ý chí. Việc thêm bổ ngữ
“dân sự” ở đằng sau có thể khiến cho những người thực hành pháp luật hiểu nhầm
rằng chế định về hợp đồng dân sự trong BLDS năm 1995 và năm 2005 chỉ áp
dụng cho các quan hệ dân sự thuần túy (phục vụ mục đích sinh hoạt, tiêu dùng,
không làm phát sinh lợi nhuận) mà không áp dụng cho các quan hệ tư khác như
thương mại, kinh doanh, lao động thể hiện tư duy không chính xác về cấu trúc
của hệ thống pháp luật tư và không thích ứng với cơ chế thị trường Có lẽ thuật
ngữ “hợp đồng dân sự” của BLDS 2005 là sự kế thừa mặc định từ BLDS năm
1995. Ở hoàn cảnh BLDS năm 1995 ra đời, nước ta vừa mới bắt đầu quá trình đổi
mới, thoát ra khỏi nền kinh tế kế hoạch được gần 10 năm và trong tư duy của các
chuyên gia cũng như nhà quản lý vẫn còn những quan niệm cũ về “kế hoạch hóa”,
đặc biệt trong các quan hệ nhằm làm phát sinh lợi nhuận, dẫn đến sự phân biệt
hợp đồng kinh tế, thương mại và hợp đồng dân sự thuần tuý. Pháp lệnh Hợp đồng
kinh tế năm 1989 tồn tại song song với BLDS năm 1995 đã tạo nên hai hệ thống
pháp luật hợp đồng riêng biệt. Hai hệ thống này có sự trùng lặp, mâu thuẫn và
không thống nhất, vì vậy dẫn đến sự sửa đổi về thuật ngữ trong BLDS năm 2015,
chỉ còn là “hợp đồng”. Những người soạn thảo BLDS năm 2015 trình bày rằng,
sự sửa đổi này nhằm loại bỏ mọi cách hiểu không chính xác cả về mặt khoa học
và trong thực tiễn về phạm vi điều chỉnh của chế định hợp đồng trong BLDS, để lOMoAR cPSD| 59780317
chế định hợp đồng này là nền tảng của mọi quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực tư.
Ở tất cả các khái niệm hợp đồng của các BLDS nêu trên, với sự sử dụng các từ
“để” và “về” khi nói đến mục đích của hợp đồng trong việc tạo lập hệ quả pháp
lý, có thể thấy nhà làm luật nhìn nhận về sự ràng buộc của hợp đồng nghiêng về
mặt chủ quan của sự thỏa thuận ý chí hơn là mặt khách quan/kết quả của sự thỏa
thuận đó. Người ta quan tâm đến việc các bên có ý chí tạo lập hệ quả pháp lý ràng
buộc mình hay không hơn là việc hệ quả pháp lý ràng buộc các bên xuất phát từ
sự thỏa thuận hay xuất phát từ quy chế pháp lý được định sẵn bởi pháp luật. Từ
sự phân tích ba thành tố của hợp đồng, khảo sát về khái niệm hợp đồng trong pháp
luật thực định ở Việt Nam từ xưa đến nay, có thể thấy, khái niệm hợp đồng trong
pháp luật Việt Nam được hoàn thiện dần theo thời gian. Bộ Dân luật Việt Nam
Cộng hòa năm 1972 và BLDS năm 2015 hiện nay đều có chung quan điểm về
hợp đồng rằng, hợp đồng là một sự thỏa thuận/sự thống nhất ý chí giữa các chủ
thể, nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự
Theo Điều 385 Bộ luật dân sự 2015: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các
bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.
b. Các loại hợp đồng
Một là, hợp đồng song vụ là hợp đồng mà mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với
nhau. Ví dụ: hợp đồng thuê quyền sở hữu đất.
Hai là, hợp đồng đơn vụ là hợp đồng mà chỉ một bên có nghĩa vụ. Ví dụ: hợp
đồng tặng, cho tài sản.
Ba là. hợp đồng chính là hợp đồng mà hiệu lực không phụ thuộc vào hợp đồng phụ.
Bốn là, hợp đồng phụ là hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc vào hợp đồng chính.
Năm là, hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba là hợp đồng mà các bên giao
kết hợp đồng đều phải thực hiện nghĩa vụ và người thứ ba được hưởng lợi ích từ
việc thực hiện nghĩa vụ đó. lOMoAR cPSD| 59780317
Sáu là, hợp đồng có điều kiện là hợp đồng mà việc thực hiện phụ thuộc vào
việc phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một sự kiện nhất định.
c. Hình thức của hợp đồng
Hình thức của hợp đồng là cách thức thể hiện sự thỏa thuận của các bên.
Hình thức của hợp đồng có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể.
Có một số hợp đồng bắt buộc phải công chứng như hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất… còn lại thì không yêu cầu bắt buộc công chứng.
d. Nội dung của hợp đồng
Các bên trong hợp đồng có quyền thỏa thuận về nội dung trong hợp đồng.
Hợp đồng có thể có các nội dung là: đối tượng của hợp đồng; số lượng, chất
lượng; giá, phương thức thanh toán; thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện
hợp đồng; quyền, nghĩa vụ của các bên; trách nhiệm do vi phạm hợp đồng;
phương thức giải quyết tranh chấp.
e. Hiệu lực của hợp đồng
Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy định khác.
Từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực, các bên phải thực hiện quyền và nghĩa vụ đối
với nhau theo cam kết. Hợp đồng chỉ có thể bị sửa đổi hoặc hủy bỏ theo thỏa
thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật.
II. Những nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật hợp đồng Việt Nam
1. Cấu trúc của những nguyên tắc cơ bản
Trong BLDS cũ năm 2005, chế định hợp đồng có nhiều nguyên tắc chi phối
và có sự trùng lặp lẫn nhau. BLDS Việt Nam 2015 khắc phục nhược điểm nêu
trên, chỉ đưa ra một bộ nguyên tắc chung cho cả Bộ luật, mang tính khái quát hóa
cao và giảm đáng kể số lượng nguyên tắc của BLDS. Trong BLDS Việt Nam năm
2015, chế định hợp đồng nằm ở Phần thứ ba về trái quyền với tên gọi “nghĩa vụ
và hợp đồng”. Ở phần này không có quy định nào về nguyên tắc cơ bản của hợp
đồng nói chung hay việc giao kết, thực hiện hợp đồng nói riêng. lOMoAR cPSD| 59780317
Những người soạn thảo Bộ luật đã giải thích rằng, việc bỏ đi các quy định riêng
về nguyên tắc giao kết hợp đồng hay nguyên tắc thực hiện hợp đồng không có
nghĩa là việc giao kết và thực hiện hợp đồng không tuân thủ nguyên tắc nào, mà
nó phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự Việt Nam. Xem xét
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 BLDS năm 2015,
có thể rút ra hai nguyên tắc cơ bản của luật tư là nguyên tắc tự do ý chí (khoản 2)
và nguyên tắc thiện chí (khoản 3). Trong đó, nguyên tắc tự do ý chí là cơ sở cho
hai tiểu nguyên tắc của nó là nguyên tắc hiệu lực ràng buộc của hợp đồng và tự
do ý chí có sự giới hạn bởi các trật tự công cộng (khoản 4). Điều 5 về áp dụng tập
quán của Bộ luật tuy không được coi là “nguyên tắc cơ bản” của pháp luật dân
sự, nhưng ở cấp độ chế định hợp đồng, nó là một quy định chung mang tính khái
quát áp dụng cho cả chế định thì vẫn nên được coi là nguyên tắc cơ bản của pháp
luật về hợp đồng. Như vậy, pháp luật hợp đồng Việt Nam có ba nguyên tắc cơ
bản: nguyên tắc tự do ý chí, nguyên tắc thiện chí và nguyên tắc áp dụng tập quán.
2. Nguyên tắc tự do ý chí hay tự do hợp đồngMột là, nguyên tắc tự do ý chí.
Nguyên tắc tự do ý chí trong pháp luật hợp đồng được hiểu là các bên được tự
do giao kết hợp đồng hay thỏa thuận về việc xác lập quyền và nghĩa vụ dân sự
theo ý chí của mình miễn là nó không trái với trật tự công cộng. Nguyên tắc này
khi chiếu vào việc thực hiện nghĩa vụ dân sự phát sinh từ hợp đồng lại mang một
sắc thái khác, làm phát sinh một tiểu nguyên tắc là nguyên tắc hiệu lực ràng buộc
của hợp đồng. Theo Vũ Văn Mẫu, nguyên tắc tự do ý chí trong luật hợp đồng là
một sản phẩm lịch sử của các lý thuyết về tự do thế kỷ 18, ảnh hưởng mạnh mẽ
đến các BLDS của Pháp và Đức, gián tiếp ảnh hưởng tới pháp luật hợp đồng của
Việt Nam. Lý thuyết này ủng hộ tự do ý chí vô giới hạn vì tin rằng sự tự do thương
lượng giữa các cá nhân với nhau để ràng buộc chính mình sẽ mang lại công bằng
và sự tự do cạnh tranh sẽ mang lại sự thịnh vượng về kinh tế, đã dẫn tới hệ quả là
coi hợp đồng và hành vi pháp lý đơn phương là một nguồn gốc quan trọng của
nghĩa vụ (đề cao nghĩa vụ dân sự thay vì nghĩa vụ pháp định) vì nó đến từ chính lOMoAR cPSD| 59780317
ý chí của chủ thể bị ràng buộc. Đó cũng là hai căn cứ phát sinh nghĩa vụ đầu tiên
trong BLDS Việt Nam năm 2015 tại Điều 275. Một người có quyền tự do giao
kết hợp đồng, nghĩa là tự do quyết định mình sẽ bị ràng buộc như thế nào. Và một
khi đã tuyên bố ý chí về sự tự ràng buộc thì người đó không còn được tự do thực
hiện nghĩa vụ nữa, mà sẽ bị cưỡng chế thực hiện. Hiệu lực ràng buộc của hợp
đồng còn được gọi dưới cái tên Latin pacta sunt servanda, được hiểu đơn giản là
“cam kết phải được tôn trọng”. Điều 3 khoản 2 BLDS Việt Nam năm 2015 quy
định về nguyên tắc tự do ý chí như sau: “Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện,
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết,
thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái
đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng”.
Quy định trên, có ba vấn đề về quy định này cần được xem xét: Thứ nhất, việc
gộp chung nhóm xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền đều đặt trên cơ sở tự do, tự
nguyện cam kết, thỏa thuận có thể tạo ra rủi ro pháp lý khi một người có thể tự
do thực hiện và chấm dứt nghĩa vụ dân sự của mình chứ không phải là sự ràng
buộc phải thực hiện nghĩa vụ dân sự đó. Có lẽ khi áp dụng, các thẩm phán cần
hiểu cụm từ “trên cơ sở” một cách linh hoạt. Thứ hai, là sự mở rộng tự do ý chí
của các bên gây ra sự mâu thuẫn trong chính bộ luật. BLDS cũ năm 2005 ở Điều
4 quy định “Cam kết, thoả thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với
các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng”. Sự thay đổi
thuật ngữ từ “hợp pháp” thành “không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo
đức xã hội” khiến khoản 2 Điều 3 BLDS Việt Nam năm 2015 có thể bỏ qua quy
định về những điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mà vẫn công nhận hiệu lực của
hợp đồng. Chẳng hạn điều kiện về hình thức phải công chứng. Một hợp đồng theo
luật phải công chứng mới có hiệu lực, thì có thể coi sự không công chứng là vi
phạm điều cấm của luật hay không? Có thể thấy quy định này chưa chú ý đến sự
khác biệt giữa nội hàm của các cụm từ “trái pháp luật”, “không hợp pháp” và “vi
phạm điều cấm của luật”. lOMoAR cPSD| 59780317
Thứ ba là sự bỏ đi từ “bắt buộc” trong cụm từ “hiệu lực bắt buộc thực hiện”, khiến
cụm từ “hiệu lực thực hiện” không rõ nghĩa. Sự ràng buộc thực hiện đến từ sự tự
do ý chí và là một yếu tố quan trọng của hợp đồng nói riêng và hành vi pháp lý
nói chung. Vì vậy cần nhấn mạnh sự ràng buộc ở trong nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự.
Hai là, sự hạn chế tự do ý chí.
Lý thuyết tự do ý chí với tư tưởng tự do cá nhân vô giới hạn không thể điều
chỉnh các mối quan hệ xã hội một cách công bằng khi mà con người sống quá phụ
thuộc vào nhau với nhiều mối quan hệ phức tạp đan xen lẫn nhau. Để giải quyết
vấn đề giữa cá nhân và cộng đồng, cần phải dung hòa hai thuyết tự do và thuyết
xã hội bằng cách tôn trọng quyền tự do giao kết hợp đồng và chỉ giới hạn sự tự
do này bởi những nguyên nhân chính đáng mà tiêu biểu là trật tự công cộng và đạo đức xã hội.
Ngô Huy Cương chỉ ra ba lý do của sự giới hạn tự do ý chí: nhu cầu cân đối giữa
lợi ích cá nhân và lợi ích công cộng, nhu cầu bảo vệ người yếu thế trong xã hội,
và nhu cầu phát triển kinh tế có trật tự đúng hướng theo sự lựa chọn chung.
Hạn chế tự do hợp đồng có thể xem xét dưới hai khía cạnh là hạn chế về nội
dung giao kết và chủ thể giao kết. Hạn chế tự do giao kết hợp đồng về nội dung
là dạng hạn chế điển hình nhất, thể hiện rõ nhất qua chế định về vô hiệu giao dịch
dân sự do xâm phạm trật tự công cộng và đạo đức xã hội.
Trong BLDS năm 2015, Điều 122 về Giao dịch dân sự vô hiệu dẫn chiếu về
Điều 117 Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, ở điểm c khoản 1 nêu “Mục
đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không
trái đạo đức xã hội”. Ở đây đã có sự biến chuyển về quan niệm khi xóa bỏ nguyên
tắc về giao kết hợp đồng ở Điều 389 BLDS cũ năm 2005 “Tự do giao kết hợp
đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội”; và thay thế bằng nguyên
tắc “không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội” ở Điều 3 và sự
thể hiện nguyên tắc ở Điều 117 của BLDS năm 2015. Trong luật tư, từ “trái” pháp
luật có nội hàm rộng hơn “vi phạm điều cấm của luật” bởi không phải quy phạm lOMoAR cPSD| 59780317
luật tư nào cũng là quy phạm mệnh lệnh mà phần lớn là quy phạm dự liệu, đặc
biệt là trong chế định hợp đồng.
BLDS năm 2015 không sử dụng “trật tự công cộng” để làm căn cứ giới hạn
quyền ở trong những nguyên tắc cơ bản, có lẽ do nghi ngại tính trừu tượng của
nó và chỉ sử dụng nó với nghĩa rất hẹp, không biết vô tình hay có chủ đích ở Điều
525 về việc hành khách trong hợp đồng vận chuyển làm mất trật tự công cộng.
Điều 3 khoản 4 BLDS 2015 thay “lợi ích của Nhà nước” ở Điều 10 BLDS
cũ năm 2005 thành “lợi ích quốc gia, dân tộc”. Lợi ích quốc gia, dân tộc là khái
niệm mang tính chính trị, không đồng nhất với lợi ích của Nhà nước bởi vì “quốc
gia, dân tộc” và “nhà nước” là những khái niệm khác nhau. Sự thay đổi này hưởng
ứng xu thế đang lên của quyền con người trong đời sống chính trị và pháp lý. Khi
nhà nước luôn bị coi là một trong những chủ thể xâm phạm đến quyền của mỗi
cá nhân nhiều nhất, thì sự thay đổi về thuật ngữ này là hợp lý.
Có thể nói, BLDS năm 2015 ở những nguyên tắc cơ bản đã thu hẹp hơn
phạm vi giới hạn tự do ý chí, đồng nghĩa với mở rộng sự tự do giao kết hợp đồng của các bên.
Ngoài lời văn của nguyên tắc cơ bản, sự thể hiện của hạn chế tự do hợp đồng
còn nằm trong nhiều quy định chi tiết của BLDS hoặc ở luật chuyên ngành về các
điều khoản áp đặt quyền và nghĩa vụ cho các bên trong một quan hệ tư. Ở trường
hợp này, nghĩa vụ pháp định xuất phát từ hiệu lực của luật đã thay thế nghĩa vụ
dân sự xuất phát từ ý chí của các bên. Các trường hợp thường thấy là các quy định
mang tính mệnh lệnh điều chỉnh các loại hợp đồng lao động, hợp đồng giữa người
tiêu dùng và bên bán hàng, điều lệ doanh nghiệp, hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng
có đối tượng là bất động sản, v.v..
Hạn chế tự do giao kết hợp đồng về chủ thể chủ yếu nhằm bảo vệ những
nhóm yếu thế trong xã hội, bảo vệ người thứ ba, hay bảo vệ lợi ích công cộng.
Chẳng hạn pháp luật về doanh nghiệp có các quy định phải ưu tiên chuyển nhượng
phần vốn góp cho hoặc phát hành cổ phần cho thành viên/cổ đông trong công ty,
hoặc trường hợp người cung cấp dịch vụ công cộng không được từ chối giao kết lOMoAR cPSD| 59780317
hợp đồng với mọi người nếu còn khả năng cung cấp dịch vụ và không được phân
biệt đối xử với bất cứ ai dựa trên bất cứ yếu tố nào về sắc tộc, tôn giáo, giới tính, màu da,...
3. Nguyên tắc thiện chí.
Thiện chí là được làm rõ nghĩa khi gắn chặt với hoàn cảnh cụ thể của một
ứng xử cụ thể. Thiện chí không được định nghĩa bởi luật, mang nghĩa về mặt luân
lý nhiều hơn với liên hệ gần gũi về sự trung thực, không có sự ác ý hay tư lợi bất chính.
Trong bộ luật dân sự cũng đã nêu rõ thiện trí trong mối quan hệ giao kết hợp
đồng Như tại bộ luật dân sự 2005 được nêu tại Điều 6 quy định về nguyên tắc
thiện chí như sau: “Trong quan hệ dân sự, các bên phải thiện chí, trung thực trong
việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự, không bên nào được lừa dối bên nào”.
Điều 3(2) BLDS năm 2015: “Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện,
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực”.
Trong lĩnh vực luật hợp đồng, đặc biệt là ở giai đoạn giao kết, nguyên tắc
thiện chí được giải thích gần gũi với nguyên tắc tự do ý chí, có nghĩa là việc xác
lập hợp đồng và các điều kiện của nó phụ thuộc vào ý chí của các bên .Trong giai
đoạn thực hiện hợp đồng, nguyên tắc này có thể không gắn với ý chí của các bên
lúc đầu mà lại gắn với sự công bằng về lợi ích giữa các bên hoặc với việc chấp
nhận sự thực hiện chủ yếu chứ không phải thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ
của hợp đồng, thiện chí là sự thông cảm cho những thiếu sót khi thực hiện nghĩa
vụ của đối phương. Đặc biệt sự vận dụng nguyên tắc này trong một số hoàn cảnh
đặc thù có thể coi là tạo ra ngoại lệ cho nguyên tắc hiệu lực ràng buộc của hợp
đồng, đó là trong trường hợp thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi
Nguyên tắc thực hiện đúng và đủ nghĩa vụ hợp đồng là quan trọng nhất và
được ưu tiên hàng đầu so với hai nguyên tắc thực hiện trung thực, tin cậy (mà ở
đây không xuất hiện thuật ngữ “thiện chí”) và nguyên tắc tôn trọng quyền và lợi
ích hợp pháp của chủ thể khác: “Thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng, chất lOMoAR cPSD| 59780317
lượng, số lượng, chủng loại, thời hạn, phương thức và các thoả thuận khác”. Có
lẽ với sự bãi bỏ nguyên tắc riêng của chế định hợp đồng, áp dụng một cách toàn
diện nguyên tắc thiện chí cùng với sự công nhận trường hợp không cần phải thực
hiện đúng những nghĩa vụ đã cam kết khi có hoàn cảnh thay đổi, BLDS Việt Nam
đã có những chuyển biến trong quy tắc thực hiện nghĩa vụ.
Và cũng theo TS Ngô Huy Cương – Chủ nhiệm bộ môn Luật Dân sự, Khoa
Luật-Đại học Quốc gia Hà Nội . thì nguyên tắc thiện chí ở BLDS năm 2005 nhấn
mạnh về yếu tố phi lừa dối của sự thiện chí, tức là cách thức hành xử chứ không
nhấn mạnh vào động cơ hay mục đích của hành vi. Ông cũng đưa ra nhận xét mà
có thể áp dụng cho cả quy định mới của BLDS năm 2015 về nguyên tắc thiện chí
rằng, nguyên tắc này chưa đủ lớn khi không đề cập tới thiện chí trong giải quyết
tranh chấp và trong một số trường hợp đặc biệt khác Sự bổ sung thêm vào nguyên
tắc rằng giai đoạn chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự, các bên cũng phải tuân thủ
nghĩa vụ thiện chí có thể coi là một nỗ lực khái quát hóa thiện chí cho tất cả các
giai đoạn của một hợp đồng, nhưng không nhắc đến thiện chí trong việc giải quyết
tranh chấp mà bao gồm nhiều phương thức khác nhau từ thương lượng, hòa giải
đặc biệt cần sự thiện chí, đến trọng tài, tòa án thì vẫn còn thiếu sót.
4. Nguyên tắc áp dụng tập quán.
Phương thức khác nhau từ thương lượng, hòa giải đặc biệt cần sự thiện chí,
đến trọng tài, tòa án thì vẫn còn thiếu sót. Nguyên tắc áp dụng tập quán. Nguyên
tắc này đc nhiều học giả được cập như một tắc cơ bản trong nhiều lĩnh vực khoa
học và pháp luật hợp đồng nói riêng. BLDS Việt Nam đặt thứ tự ưu tiên áp dụng
của tập quán chỉ sau thỏa thuận của các bên và luật thành văn. Tập quán đóng vai
trò quan trọng trong việc bổ khuyết những khoảng trống hay giải thích những vấn
đề chưa rõ ràng của hợp đồng, nếu pháp luật thực định cũng không có giải pháp
cho vấn đề đó. Được nếu khá rõ ràng và đầy đủ trong bộ luật dân sự việt nam
Định nghĩa về tập quán trong BLDS 2015 (Điều 5 khoản 1) nêu ra ba đặc điểm
chính yếu của tập quán, đó là có nội dung rõ ràng đủ để xác định quyền và nghĩa
vụ của chủ thể, được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều lần trong thời gian dài và lOMoAR cPSD| 59780317
được mọi người cùng thừa nhận như là những quy tắc ràng buộc. Hai điều kiện
để áp dụng tập quán (Điều 5 khoản 2) là: (1) thiếu vắng giải pháp cho vấn đề pháp
lý từ các nguồn gốc nghĩa vụ có tính ưu tiên cao hơn là sự thỏa thuận và quy định
pháp luật; (2) tập quán không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự.
Có lẽ chính vì yếu tố (2) nên nhà làm luật Việt Nam đã không xếp quy định áp
dụng tập quán vào những nguyên tắc cơ bản của Bộ luật hay của pháp luật dân sự
nói chung. Nó cho ta thấy rằng quy định chung về áp dụng tập quán tuy đã được
công nhận từ lâu nhưng vấn đề chính yếu của nguyên tắc này là cụ thể hóa nó. Sự
áp dụng tập quán có đặc điểm khác biệt đặc thù với các áp dụng các nguồn pháp
luật khác như luật và án lệ, bởi lẽ nó không “thành văn” cả về nghĩa pháp lý và
nghĩa thông dụng. Tập quán có khi không được ghi nhận trong một văn bản nào
cả mà chỉ là một quy tắc được nhiều người ngầm định tuân thủ. Trong một tranh
chấp cần viện đến tập quán tất yếu sẽ xuất hiện vấn đề chứng minh tập quán. Như
vậy cần có những quy định chi tiết để hướng dẫn các tòa án trong việc đánh giá
tính xác thực của những quy phạm được các bên viện dẫn xem chúng có đáp ứng
đủ điều kiện của một tập quán hay không, bên nào có nghĩa vụ chứng minh tập
quán, ... Và chúng ta nhận thấy rõ ràng trong nhận thức và rong thực tế, đôi khi
có những tập quán mà các bên viện dẫn trái ngược nhau. Khi không có những
khảo cứu đầy đủ về tập quán thì việc áp dụng và chứng minh tập quán gặp nhiều
khó khăn. Các tòa án ở Việt Nam còn gặp nhiều vướng mắc và chưa có sự thống
nhất cao trong việc công nhận và áp dụng tập quán. C.KẾT LUẬN
Tóm lại, hợp đồng được tạo nhằm vào mục đích trao đổi, chuyển giao các
lợi ích vật chất của các bên chủ thể. Được pháp luật Việt Nam - ghi nhận tại điều
385 Bộ Luật Dân Sự 2015. Và Hợp đồng dân sự được hình thành dựa trên sự tự
nguyện ý chí của các bên. Các bên được tự do ý chí thỏa thuận về hợp đồng nhưng
phải phù hợp với ý chí của Nhà nước thì hợp đồng đó mới được coi là có hiệu lực
pháp luật. Ý chí của Nhà nước được coi là các nguyên tắc kết giao hợp đồng. Các lOMoAR cPSD| 59780317
nguyên tắc này không được quy định cụ thể mà chính các nguyên tắc cơ bản của
Pháp luật Dân sự Việt Nam. Bao gồm: nguyên tắc tự do ý chí hay tự do hợp đồng;
nguyên tắc thiện chí; nguyên tắc áp dụng tập quán. Trong quá trình áp dụng các
quy định về hợp đồng cần chú ý các nguyên tắc trên. Nói cách khác, các nguyên
tắc trên cần tôn trọng và thực hiện đầy đủ, có như vậy, quyền lợi của các chủ thể
pháp luật dân sự mới được bảo vệ. Làm cơ sở tiền đề xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì lợi ích của nhân dân tại Việt Nam.