Bài tập nhóm - Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam | Đại học Hồng Đức

Bài tập nhóm - Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam | Đại học Hồng Đức được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Trường:

Đại học Hồng Đức 130 tài liệu

Thông tin:
10 trang 6 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Bài tập nhóm - Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam | Đại học Hồng Đức

Bài tập nhóm - Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam | Đại học Hồng Đức được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

160 80 lượt tải Tải xuống
TRƯỜNG: ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC
KHOA: CÔNG NGHỆ THÔNG TIN & TRUYỀN THÔNG
--- ---

BÀI TẬP NHÓM
Học phần: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhóm: 5
Lớp: K25B
Thanh Hóa, ngày 8 tháng 04 năm 2024.
1
TRƯỜNG: ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC
KHOA: CÔNG NGHỆ THÔNG TIN & TRUYỀN THÔNG
--- ---

BÀI TẬP NHÓM
Đề tài: Làm rõ ba bước đột phá đổi mới cục bộ
về kinh tế giai đoạn 1979 – 1986
Học phần: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhóm: 5
Lớp: K25B
Thanh Hóa, ngày 8 tháng 04 năm 2024.
1
1
Ba bước đột phá đổi mới cục bộ về kinh tế
giai đoạn 1979 – 1986
I. Những nét đột phá về đổi mới kinh tế tại hội nghị Trung ương
6 (8-1979).
Tại hội nghị Trung ương 6 khóa IV (8 -1979) được cho là bước đột phá đầu tiên đổi
mới kinh tế của Đảng với chủ trương khắc phục những khuyết điểm, sai lầm trong quản lý
kinh tế, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa , phá bỏ những rào cản để cho "sản xuất bung ra".
Đó là "bước đột phá đầu tiên", rồi đến chủ trương dứt khoát xóa bỏ tập trung quan liêu,
bao cấp, thực hiện cơ chế một giá, để đến Đại hội VI (12/1986) đã đưa ra đường lối đổi
mới toàn diện đất nước, bao gồm tư đổi mới tư tưởng, đổi mới tổ chức - cán bộ, đổi mới
phương thức lãnh đạo và phong cách công tác, nhưng nhấn mạnh phải đổi mới tư duy,
trước hết là tư duy kinh tế...
Cũng tại Hội nghị, nhiệm vụ cấp bách được đề ra là để mạnh sản xuất, ổn định và đảm
bảo đời sống nhân dân, tăng cường quốc phòng và an ninh, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ
quốc, khắc phục những mặt tiêu cực trong hoạt động kinh tế và xã hội. Vấn đề cơ bản
trong tư tưởng chính sách kinh tế của Đảng như: kết hợp kế hoạch hóa với sử dụng quan hệ
thị trường; sử dụng các thành phần kinh tế; kết hợp ba loại lợi ích: lợi ích xã hội, lợi ích tập
thể và lợi ích cá nhân người sản xuất…
Cũng trong thông báo này, bộ chính trị đưa ra một số giải pháp cấp bách trước mắt là:
- Tập trung cho sản xuất nông lâm ngư nghiệp trước hết là cho sản xuất lương thực, thực
phẩm.
- Tập chung sức tạo ra một số mặt hàng suất khẩu chủ lực. Có chính sách tận dụng mọi khả
năng để sản xuất hàng tiêu dùng, kiên quyết không để thiếu những hàng tiêu dùng thiết
yếu.
1
- Các chỉ tiêu kế hoạch phải được tiến hành kiểm tra chu đáo và thiết thực. Chú trọng xây
dựng kế hoạch từ dưới lên, đi từ lao động và các tư liệu sản xuất hiện có, tránh tình trạng
áp đặt từ trên xuống dưới từ trên xuống một cách duy ý chí.
Những đột phá về đổi mới kinh tế tại hội nghị trung ương 6 (8/1979).
Hội nghị đã thể hiện một loạt chuyển biến về quan điểm như sau:
- Về chủ trương đối với các thành phần kinh tế: hội nghị phê phán xu hướng tả khuynh
trước đây, chị muốn sớm đưa ra đưa Cá thể vào hợp tác xã, đưa hợp tác xã lên quốc doanh,
tưởng như cứ làm như thế đã có chủ nghĩa xã hội. Hội nghị xác định một cách nhìn mới về
thành phần kinh tế.
- Về hợp tác kế hoạch với thị trường: Hội nghị thể hiện thái độ phê phán cách nghĩ và
cách làm trước đây, muốn có tất cả vào kế hoạch, coi thị trường làm một cái gì bất hợp
pháp, càng dẹp bỏ sớm càng tốt. Hội nghị khẳng định:"Trong một thời gian khá dài, bên
cạnh thị trường có tổ chức, có kế hoạch, còn tồn tại một cách khách quan thị trường ngoài
kế hoạch. Về sản xuất có phần chủ động của các xí nghiệp quốc doanh được làm thêm sản
phẩm sau khi hoàn thành kế hoạch nhà nước, có kinh tế của gia đình nông dân trên đất 5 %
và các nghề phụ Trong nông thôn, có sản xuất của thủ công nghiệp có thể ở thành phố ...
thì tất nhiên về lưu thông, cần có thị trường ngoài kế hoạch. Thị trường đó bổ sung cho thị
trường có kế hoạch do thị trường có kế hoạch chi phối về tính chất và quy mô phát triển."
Hội nghị đã đi đến một chủ trương rất mới: chấp nhận cho các cơ sở sản xuất được chia sẻ
thị trường trong việc tìm kiếm nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm, đồng thời được cũng
được liên doanh, liên kết với nhau để giải quyết những nhu cầu sản xuất và đời sống.
Đối với những hàng hóa nguyên liệu không thuộc trung ương thống nhất quản lý, thì
"giữa các địa phương được giao được trao đổi mua bán với nhau và được quyền quyết định
giá".
Những chủ trương này chính là tiền đề cho quyết định 25-CP sau này(1981) Và những
cuộc giao phó, liên doanh liên kết sôi động của các cơ sở kinh tế trong những năm sau.
Về chính sách phân phối lưu thông: hội nghị chủ trương một cơ chế phân phối lưu
thông tự do hơn, cơ chế muốn thu mua dựa trên những biện pháp hành chính, cưỡng bức
trong các năm trước.
Ngoài thuế (10 % sản lượng) và mua theo giá hợp đồng hai chiều, nhà nước dùng giá
thỏa thuận đi đôi với động viên chính trị để mua phần lương thực hàng hóa còn lại. Giá
thỏa thuận là giá nông dân đồng ý bán và nhà nước đồng ý mua, kế hoạch không hoàn toàn
theo giá thị trường tự do, nhưng không nên quy định cứng nhắc bằng gấp đôi giá chỉ đạo
như hiện nay.
Về giá cả, Hội nghị quyết định giao cho Ban Bí thư, Hội đồng Chính phủ và các cơ
quan hữu quan chuẩn bị tiến hành sửa đổi hệ thống giá.
"Sửa lại giá lương thực và xác các nông sản khác cho hợp lý để khuyến khích sản
xuất và mở rộng nguồn thu mua của Nhà nước".
"Nghiên cứu điều chỉnh giá một số mặt hàng cần thiết cho sản xuất, đời sống, suất
khẩu và tích lũy, tiến tới chấm dứt sớm tình trạng bù lỗ không hợp lý"
Như vậy là những gì được coi là "đinh đóng cột "tự nghị quyết 10 (1964) Về chính
sách giá đến đây. Đó chính là tiền đề cho các cuộc cách sát được tiến hành vào nửa đầu
thập kỷ 80.
1
Về nông nghiệp: Hội nghị đã nghe phản ánh rất nhiều về tình trạng gò ép nông dân
trong hợp tác hóa, tình trạng thiếu hiệu quả của các tập đoàn sản xuất. Từ đó có những uốn
nắn về cả quan điểm lẫn biện pháp.
Tổ chức nông dân vào hợp tác hoặc tập đoàn sản xuất, phải theo đúng ba nguyên tắc: tự
nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ.
Cuối cùng, nghị quyết hội nghị trung ương 6 nhắc nhở tất cả các cấp các ban, ngành
phải nhanh chóng tạo ra sự chuyển biến về tổ chức, quản lý. Vì nhận thức được tính cấp
bách của vấn đề, vào lúc tình hình kinh tế của đất nước lâm vào khủng hoảng trầm trọng.
Hội nghị nhắc nhở các cơ quan hữu quan hãy khẩn trương báo cáo tình hình của cơ sở và
sửa đổi những chính sách những việc khác nào trái với tinh thần của hội nghị.
Cho đến nay, trong lịch sử công cuộc đổi mới của Việt Nam, hội nghị trung ương 6 có
thể coi là mốc đầu tiên đánh dấu sự khởi đầu về cả tư duy lẫn đường lối kinh tế.
II .Những đột phá về đổi mới kinh tế tại Trung ương 8 (6-1985)
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 khóa IV và phát triển tinh thần của Nghị quyết,
trong những năm 1980 - 1985, Ban Chấp hành Trung ương mà trực tiếp là Bộ Chính trị, đã
chỉ đạo thực hiện nhiều bước điều chỉnh các chính sách về giá - lương - tiền theo hướng bỏ
dần quan liêu, bao cấp, giảm bớt số mặt hàng nhà nước cung cấp hiện vật theo mức giá rất
thấp và ổn định, đưa hệ thống giá của Nhà nước ngày càng tiếp cận gần hơn với giá thị
trường, mở rộng việc vận dụng quan hệ tiền tệ và quy luật giá trị trong nền kinh tế.
Những đột phá về đổi mới kinh tế tại Trung ương 8 (6-1985).
Hội nghị Trung ương 8 (6/1985) được gọi là bước đột phá thứ hai trong quá trình tìm tòi,
đổi mới kinh thế của Đảng.
Tháng 6-1985, Hội nghị Trung ương 8, chỉ rõ nguồn gốc căn bản của tình hình: chúng ta
vẫn chưa nhận rõ căn bệnh sâu xa của cơ chế quản lý kinh tế quốc dân là quan liêu, bao
cấp; những bước cải tiến về giá và lương từ năm 1980 đến giữa năm 1985 vẫn còn tiến
hành một cách thiếu đồng bộ và nửa vời, sau khi điều chỉnh một bước giá và lương, vẫn
tiếp tục để giá và lương ở cơ chế tĩnh; tiến hành điều chỉnh về giá và lương một cách đơn
độc không đi liền với cải cách cơ chế quản lý kinh tế, sắp xếp và tổ chức lại sản xuất, phân
phối, lưu thông..., kết quả là hệ thống giá nhà nước vẫn xa rời, giá trị, hạch tốn chỉ là hình
thức, bù lỗ sản xuất kinh doanh ngày càng
lớn, bội chi ngân sách và tiền mặt ngày càng
tiếp tục tăng, tiền lương thực tế ngày càng
giảm.
Rõ ràng là, việc điều chỉnh chính sách
kinh tế một cách nửa vời không thể đem lại
kết quả mong đợi; tình hình định hướng cải
cách chính sách kinh tế một cách cơ bản
hơn với những biện pháp mạnh mẽ hơn, đồng bộ hơn.
Với nhận định đó, Hội nghị Trung ương 8 đi đến quyết định: "phải dứt khốt xóa bỏ tập
trung quan liêu - bao cấp,... chuyển hẳn nền kinh tế sang hạch toán, kinh doanh xã hội chủ
nghĩa" và xác định lúc này, xóa bỏ quan liêu, bao cấp trong giá, lương, tiền chính là khâu
đột phá có tính chất quyết định cần phải tiến hành để thực hiện sự chuyển biến đó.
1
Về giá cả: Xác định giá phù hợp với giá trị và với sức mua thực tế của đồng tiền; định
giá trên cơ sở lấy kế hoạch làm trung tâm, thực hiện hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội
chủ nghĩa, chủ động vận dụng quy luật giá trị và quan hệ cung - cầu.Theo chủ trương của
Đảng coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, phải lấy giá thóc làm chuẩn để tính t các oán
loại giá khác và t bộ mặt bằng giá. Quản lý giá cả phải có phân công, phân cấp hợp lý oàn
theo nguyên tắc tập trung dân chủ, phù hợp với thực tế.
phải thể hiện và góp phần thực hiện đường lối phát Giá mua lương thực và nông sản
triển nông nghiệp nhằm hình thành cơ cấu công-nông nghiệp hợp lý, thể hiện quan hệ
công - nông cùng làm chủ.
.Tính đủ các yếu tố chi phí và xác định đúng giá thành sản phẩm công nghiệp
(vật tư và hàng tiêu dùng) trên cơ sở giá Điều chỉnh giá bán buôn hàng công nghiệp
thành tính đủ chi phí, có lãi thỏa đáng cho người sản xuất và thể hiện chính sách kinh tế
của Nhà nước, bảo đảm tính chung có tích lũy cho Nhà nước.
Giá bán lẻ phải được xác định trên cơ sở giá trị hàng hóa, có tính đến quan hệ cung
cầu, tiền - hàng và phải thể hiện chính sách kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước.
Chính sách giá bán lẻ hàng tiêu dùng cần phân biệt theo tính chất mặt hàng.
Thực hiện cơ chế một giá thống nhất, do Nhà nước (trung ương và địa phương) quy
định và điều chỉnh kịp thời khi cần thiết; từng bước ổn định giá trên cơ sở làm chủ kế
hoạch sản xuất và phân phối, nắm hàng, nắm tiền, cải tạo, quản lý và làm chủ thị trường.
Bên cạnh về kinh tế, Hội nghị Trung ương 8 còn đưa ra những cải cách mang tính tiến bộ
và chiến thuật mang tầm nhìn xa về vấn đề xã hội (lương và tiền tệ).
Như vậy, Ðại hội đề ra phương hướng nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu về kinh tế-xã hội từ
năm 1981 đến năm 1985 và những năm 80; khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối cách
mạng xã hội chủ nghĩa mà Ðại hội lần thứ IV của Ðảng đã vạch ra.
Ðại hội xác định: Những năm 1981-1985 là những năm phát triển thêm một bước, sắp
xếp lại cơ cấu và đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh tế quốc dân.
Ba mặt đó kết hợp chặt chẽ với nhau, nhằm cơ bản ổn định được tình hình kinh tế và xã
hội, đáp ứng những nhu cầu cấp bách và thiết yếu nhất của đời sống nhân dân, giảm
nhẹ những chỗ mất cân đối nghiêm trọng nhất của nền kinh tế, khắc phục một bước quan
trọng tình trạng khơng bình thường về phân phối, lưu thơng, tăng thêm tiền đề và điều kiện
để tiến lên mạnh mẽ và vững chắc hơn trong những năm sau.
Trên cơ sở đó, Đại hội vạch ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu về kinh tế
xã hội từ năm 1981 đến 1985, đề ra hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa .
1
III. Những đột phá về đổi mới kinh tế tại Hội nghị Bộ Chính trị
khóa V (8-1986).
Hội nghị Bộ Chính trị khóa V tháng 8/1986 được coi là bước đột phá thứ ba trước đổi mới
với "Kết luận đối với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế":
a) Về cơ cấu kinh tế.
Hội nghị chỉ rõ: chỉ có một nền kinh tế có cơ cấu hợp lý mới có thể phát triển ổn định.
Bố trí đúng cơ cấu các ngành kinh tế, cơ cấu sảm xuất và đầu tư là những vấn đề quan
trọng đầu tiên của đường lối kinh tế, có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện các
mục tiêu kinh tế - xã hội trong mỗi chặng đường. Đảng đã xác định cơng nghiệp hố là
nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kết hợp chặt chẽ sự phát
triển của nông nghiệp, công nghiệp nhẹ và công nghiệp nặng, từng bước tiến lên xây
dựng cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý, hiện đại, trong đó cơng nghiệp và nông nghiệp
gắn liền với nhau và cùng phát triển.
Hội nghị cũng đã thẳng thắn thừa nhận trong hơn mười năm (từ 1976 đến 1986), Đảng
ta đã mắc nhiều sai lầm, khuyết điểm trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, bố trí đầu tư. Vì
vậy, những mục tiêu do Đại hội V đặt ra đã không thể thực hiện được. Bên cạnh việc gây
thêm những khó khăn lớn và lãng phí thời gian, chúng ta đã chủ quan, nóng vội đề ra một
số chỉ tiêu quá lớn về quy mô, quá cao về nhịp độ xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất;
tập trung quá nhiều nguồn lực vào các ngành công nghiệp nặng, không tập trung phát
triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, không coi trọng đúng mức việc khôi phục và tổ
chức lại sản xuất công nghiệp, khơng khuyến khích và hướng dẫn tiểu thủ cơng nghiệp
phát triển đúng hướng, không tăng cường đúng mức kết cấu hạ tầng. Điều đó khiến cho
đầu tư nhiều nhưng hiệu quả rất thấp, là một nguyên nhân quan trọng khiến cho sản xuất
trong thời gian 5 năm trở lại hầu như khơng có sự tiến lên, năng suất lao động giảm sút,
tình hình kinh tế - xã hội ngày càng khơng ổn định.
Để khắc phục tình hình nói trên và ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống
nhân dân, tạo tiền đề đẩy mạnh công nghiệp hóa trong chặng đường sau, trong 5 năm
1986 - 1990 Hội nghị yêu cầu phải kiên quyết điều chỉnh lớn phương án bố trí cơ cấu
kinh tế, cơ cấu đầu tư theo hướng “thật sự lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức
1
phát triển công nghiệp nhẹ, bao gồm công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và công nghiệp
chế biến nông sản, thực phẩm, tạo nguồn hàng xuất khẩu lớn, tạo thêm việc làm cho
người lao động.”
Để thực hiện mục tiêu và phương hướng chung nói trên, Hội nghị yêu cầu: trong việc
bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, phải thấu suốt những chủ trương quan trọng như:
Kiên quyết sắp xếp lại các cơ sở kinh tế, văn hoá, trước hết là các cơ sở sản xuất
công nghiệp và nông nghiệp, của cả trung ương và địa phương.
Tập trung vốn hoàn thành xây dựng các cơng trình dở dang đã được lựa chọn
theo đúng tiến độ và đồng bộ để có thể phát huy ngay hiệu quả, phục vụ cho việc
thực hiện ba chương trình và những mục tiêu nói trên.
Việc đầu tư và xây dựng thêm công trình mới phải nhằm đúng phương hướng và
mục tiêu đã định, chú trọng trước hết phục vụ yêu cầu của mặt trận nông nghiệp,
phục vụ yêu cầu phân phối lại lao động, yêu cầu đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu, đầu tư cho việc tạo thêm nguồn năng lượng, nguyên
liệu, tăng thêm năng lực giao thông vận tải, thông tin liên lạc,...
Trong việc đầu tư và xây dựng cần sửa đổi cách làm trước đây là quyết định
riêng lẻ từng công trình mà khơng xem xét trong tổng thể phương án kế hoạch 5
năm, vừa nhất thiết phải làm đúng quy trình xây dựng, xét duyệt các luận chứng
kinh tế - kỹ thuật. Các phương án đầu tư và xây dựng đều phải đảm bảo mục đích
cuối cùng là đạt hiệu quả kinh tế, xã hội cao.
Bên cạnh đó, đi đôi với đầu tư của Nhà nước, cần có chính sách huy động rộng
rãi nguồn vốn của nhân dân, kể cả của Việt kiều, đầu tư vào phát triển sản xuất,
nhất là sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp sản
xuất hàng tiêu dùng và các hoạt động dịch vụ, phù hợp với chính sách đối với
các thành phần kinh tế.
b) Về cải tạo xã hội chủ nghĩa và củng cố quan hệ sản xuất mới.
Hội nghị yêu cầu: “Phải tiếp tục đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, củng cố và tăng
cường quan hệ sản xuất mới, phấn đấu đến hết chặng đường đầu tiên làm cho kinh tế xã
hội chủ nghĩa chiếm tỷ trọng lớn và giữ vị trí chi phối trong nền kinh tế quốc dân, quan
hệ sản xuất mới thể hiện rõ tính hơn hẳn so với quan hệ sản xuất cũ, thật sự thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển”.
Đối với kinh tế quốc doanh: Phải trên cơ sở thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám
Ban Chấp hành Trung ương (khoá V), kiên quyết và từng bước xóa bỏ tập trung quan
liêu, bao cấp, chuyển hoạt động kinh tế sang hoạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa mà
tăng cường khu vực kinh tế xã hội chủ nghĩa, nhất là kinh tế quốc doanh, làm cho kinh tế
quốc doanh thực sự phát huy vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể chiếm vị trí chi
phối trong nền kinh tế quốc dân. Đó là phương hướng quan trọng nhất của toàn bộ nhiệm
vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa, củng cố quan hệ sản xuất mới.
Đối với kinh tế tập thể: Phương hướng chủ yếu là củng cố và tăng cường các tổ chức
sản xuất tập thể hiện có, nhằm mục tiêu nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. trong
nông nghiệp, hết sức coi trọng việc củng cố các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất. Tiếp tục
vận động người sản xuất nhỏ trong các ngành tham gia các tổ chức sản xuất tập thể với
những hình thức thích hợp, từ thấp đến cao, từ nhỏ lên lớn, dựa trên nguyên tắc tự nguyện
cùng có lợi.
1
Đối với kinh tế công tư hợp doanh: Đối với những tư nhân có vốn lớn, có khả năng
sản xuất những mặt hàng có nhu cầu hoặc làm dịch vụ với quy mô lớn và tương đối lớn
thì dùng hình thức công tư hợp doanh. Cần có chính sách thích hợp để thành phần kinh tế
này tồn tại trong một thời gian nhất định và phát huy tác dụng tích cực của nó trong sản
xuất, kinh doanh.
Đối với kinh tế tư bản tư nhân: Chúng ta chủ trương sử dụng có chọn lọc một bộ phận
kinh tế tư bản tư nhân.
c) Về cơ chế quản lý kinh tế.
Hội nghị nên ra những nội dung chỉ yếu của cơ chế hạch toán kinh tế, kinh doanh xã
hội chủ nghĩa mà chúng ta cần xây dựng là:
Đổi mới kế hoạch hoá trên cơ sở vận dụng đúng đắn hệ thống các quy luật kinh tế,
phát huy vai trò chủ đạo của các quy luật đặc thù của chủ nghĩa xã hội, đồng thời sử dụng
đúng đắn các quy luật vận động của quan hệ hàng hoá - tiền tệ; chuyển sang các phương
pháp kinh tế là chủ yếu, trong đó kế hoạch hố thật sự trở thành trung tâm của hệ thống
quản lý. Bảo đảm cho các đơn vị kinh tế xã hội chủ nghĩa có quyền tự chủ sản xuất, kinh
doanh, thực hiện đúng hạch toán kinh tế, tự tạo vốn và hoàn vốn, tự chịu trách nhiệm về
kết quả sản xuất, kinh doanh của mình. Mức thu nhập của tập thể và của người lao động
được xác định căn cứ vào kết quả lao động và hiệu quả kinh tế. Chấn chỉnh và kiện toàn tổ
chức bộ máy và đội ngũ cán bộ quản lý theo yêu cầu của cơ chế mới, trên cơ sở phân biệt
rõ chức năng quản lý hành chính - kinh tế của cơ quan nhà nước và chức năng quản lý sản
xuất - kinh doanh của các tổ chức, đơn vị kinh tế, phân cấp quản lý theo nguyên tắc tập
trung dân chủ. tồn bộ hệ thống quản lý hành chính Nhà nước và quản lý sản xuất, kinh
doanh đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Kết luận của Bộ Chính trị có ý nghĩa to lớn trong việc định hướng soạn thảo lại một
cách căn bản dự thảo báo cáo chính trị trình Đại hội VI của Đảng.
1
| 1/10

Preview text:

TRƯỜNG: ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC
KHOA: CÔNG NGHỆ THÔNG TIN & TRUYỀN THÔNG --- --- BÀI TẬP NHÓM
Học phần: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhóm: 5 Lớp: K25B
Thanh Hóa, ngày 8 tháng 04 năm 2024. 1
TRƯỜNG: ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC
KHOA: CÔNG NGHỆ THÔNG TIN & TRUYỀN THÔNG --- ---BÀI TẬP NHÓM
Đề tài: Làm rõ ba bước đột phá đổi mới cục bộ
về kinh tế giai đoạn 1979 – 1986
Học phần: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhóm: 5 Lớp: K25B
Thanh Hóa, ngày 8 tháng 04 năm 2024. 1 1
Ba bước đột phá đổi mới cục bộ về kinh tế
giai đoạn 1979 – 1986
I. Những nét đột phá về đổi mới kinh tế tại hội nghị Trung ương 6 (8-1979).
Tại hội nghị Trung ương 6 khóa IV (8 -1979) được cho là bước đột phá đầu tiên đổi
mới kinh tế của Đảng với chủ trương khắc phục những khuyết điểm, sai lầm trong quản lý
kinh tế, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa , phá bỏ những rào cản để cho "sản xuất bung ra".
Đó là "bước đột phá đầu tiên", rồi đến chủ trương dứt khoát xóa bỏ tập trung quan liêu,
bao cấp, thực hiện cơ chế một giá, để đến Đại hội VI (12/1986) đã đưa ra đường lối đổi
mới toàn diện đất nước, bao gồm tư đổi mới tư tưởng, đổi mới tổ chức - cán bộ, đổi mới
phương thức lãnh đạo và phong cách công tác, nhưng nhấn mạnh phải đổi mới tư duy,
trước hết là tư duy kinh tế...
Cũng tại Hội nghị, nhiệm vụ cấp bách được đề ra là để mạnh sản xuất, ổn định và đảm
bảo đời sống nhân dân, tăng cường quốc phòng và an ninh, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ
quốc, khắc phục những mặt tiêu cực trong hoạt động kinh tế và xã hội. Vấn đề cơ bản
trong tư tưởng chính sách kinh tế của Đảng như: kết hợp kế hoạch hóa với sử dụng quan hệ
thị trường; sử dụng các thành phần kinh tế; kết hợp ba loại lợi ích: lợi ích xã hội, lợi ích tập
thể và lợi ích cá nhân người sản xuất…
Cũng trong thông báo này, bộ chính trị đưa ra một số giải pháp cấp bách trước mắt là:
- Tập trung cho sản xuất nông lâm ngư nghiệp trước hết là cho sản xuất lương thực, thực phẩm.
- Tập chung sức tạo ra một số mặt hàng suất khẩu chủ lực. Có chính sách tận dụng mọi khả
năng để sản xuất hàng tiêu dùng, kiên quyết không để thiếu những hàng tiêu dùng thiết yếu. 1
- Các chỉ tiêu kế hoạch phải được tiến hành kiểm tra chu đáo và thiết thực. Chú trọng xây
dựng kế hoạch từ dưới lên, đi từ lao động và các tư liệu sản xuất hiện có, tránh tình trạng
áp đặt từ trên xuống dưới từ trên xuống một cách duy ý chí.
Những đột phá về đổi mới kinh tế tại hội nghị trung ương 6 (8/1979).
Hội nghị đã thể hiện một loạt chuyển biến về quan điểm như sau:
- Về chủ trương đối với các thành phần kinh tế: hội nghị phê phán xu hướng tả khuynh
trước đây, chị muốn sớm đưa ra đưa Cá thể vào hợp tác xã, đưa hợp tác xã lên quốc doanh,
tưởng như cứ làm như thế đã có chủ nghĩa xã hội. Hội nghị xác định một cách nhìn mới về thành phần kinh tế.
- Về hợp tác kế hoạch với thị trường: Hội nghị thể hiện thái độ phê phán cách nghĩ và
cách làm trước đây, muốn có tất cả vào kế hoạch, coi thị trường làm một cái gì bất hợp
pháp, càng dẹp bỏ sớm càng tốt. Hội nghị khẳng định:"Trong một thời gian khá dài, bên
cạnh thị trường có tổ chức, có kế hoạch, còn tồn tại một cách khách quan thị trường ngoài
kế hoạch. Về sản xuất có phần chủ động của các xí nghiệp quốc doanh được làm thêm sản
phẩm sau khi hoàn thành kế hoạch nhà nước, có kinh tế của gia đình nông dân trên đất 5 %
và các nghề phụ Trong nông thôn, có sản xuất của thủ công nghiệp có thể ở thành phố ...
thì tất nhiên về lưu thông, cần có thị trường ngoài kế hoạch. Thị trường đó bổ sung cho thị
trường có kế hoạch do thị trường có kế hoạch chi phối về tính chất và quy mô phát triển."
Hội nghị đã đi đến một chủ trương rất mới: chấp nhận cho các cơ sở sản xuất được chia sẻ
thị trường trong việc tìm kiếm nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm, đồng thời được cũng
được liên doanh, liên kết với nhau để giải quyết những nhu cầu sản xuất và đời sống.
Đối với những hàng hóa nguyên liệu không thuộc trung ương thống nhất quản lý, thì
"giữa các địa phương được giao được trao đổi mua bán với nhau và được quyền quyết định giá".
Những chủ trương này chính là tiền đề cho quyết định 25-CP sau này(1981) Và những
cuộc giao phó, liên doanh liên kết sôi động của các cơ sở kinh tế trong những năm sau.
Về chính sách phân phối lưu thông: hội nghị chủ trương một cơ chế phân phối lưu
thông tự do hơn, cơ chế muốn thu mua dựa trên những biện pháp hành chính, cưỡng bức trong các năm trước.
Ngoài thuế (10 % sản lượng) và mua theo giá hợp đồng hai chiều, nhà nước dùng giá
thỏa thuận đi đôi với động viên chính trị để mua phần lương thực hàng hóa còn lại. Giá
thỏa thuận là giá nông dân đồng ý bán và nhà nước đồng ý mua, kế hoạch không hoàn toàn
theo giá thị trường tự do, nhưng không nên quy định cứng nhắc bằng gấp đôi giá chỉ đạo như hiện nay.
Về giá cả, Hội nghị quyết định giao cho Ban Bí thư, Hội đồng Chính phủ và các cơ
quan hữu quan chuẩn bị tiến hành sửa đổi hệ thống giá.
"Sửa lại giá lương thực và xác các nông sản khác cho hợp lý để khuyến khích sản
xuất và mở rộng nguồn thu mua của Nhà nước".
"Nghiên cứu điều chỉnh giá một số mặt hàng cần thiết cho sản xuất, đời sống, suất
khẩu và tích lũy, tiến tới chấm dứt sớm tình trạng bù lỗ không hợp lý"
Như vậy là những gì được coi là "đinh đóng cột "tự nghị quyết 10 (1964) Về chính
sách giá đến đây. Đó chính là tiền đề cho các cuộc cách sát được tiến hành vào nửa đầu thập kỷ 80. 1
Về nông nghiệp: Hội nghị đã nghe phản ánh rất nhiều về tình trạng gò ép nông dân
trong hợp tác hóa, tình trạng thiếu hiệu quả của các tập đoàn sản xuất. Từ đó có những uốn
nắn về cả quan điểm lẫn biện pháp.
Tổ chức nông dân vào hợp tác hoặc tập đoàn sản xuất, phải theo đúng ba nguyên tắc: tự
nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ.
 Cuối cùng, nghị quyết hội nghị trung ương 6 nhắc nhở tất cả các cấp các ban, ngành
phải nhanh chóng tạo ra sự chuyển biến về tổ chức, quản lý. Vì nhận thức được tính cấp
bách của vấn đề, vào lúc tình hình kinh tế của đất nước lâm vào khủng hoảng trầm trọng.
Hội nghị nhắc nhở các cơ quan hữu quan hãy khẩn trương báo cáo tình hình của cơ sở và
sửa đổi những chính sách những việc khác nào trái với tinh thần của hội nghị.
 Cho đến nay, trong lịch sử công cuộc đổi mới của Việt Nam, hội nghị trung ương 6 có
thể coi là mốc đầu tiên đánh dấu sự khởi đầu về cả tư duy lẫn đường lối kinh tế.
II .Những đột phá về đổi mới kinh tế tại Trung ương 8 (6-1985)
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 khóa IV và phát triển tinh thần của Nghị quyết,
trong những năm 1980 - 1985, Ban Chấp hành Trung ương mà trực tiếp là Bộ Chính trị, đã
chỉ đạo thực hiện nhiều bước điều chỉnh các chính sách về giá - lương - tiền theo hướng bỏ
dần quan liêu, bao cấp, giảm bớt số mặt hàng nhà nước cung cấp hiện vật theo mức giá rất
thấp và ổn định, đưa hệ thống giá của Nhà nước ngày càng tiếp cận gần hơn với giá thị
trường, mở rộng việc vận dụng quan hệ tiền tệ và quy luật giá trị trong nền kinh tế.
Những đột phá về đổi mới kinh tế tại Trung ương 8 (6-1985).
Hội nghị Trung ương 8 (6/1985) được gọi là bước đột phá thứ hai trong quá trình tìm tòi,
đổi mới kinh thế của Đảng.
Tháng 6-1985, Hội nghị Trung ương 8, chỉ rõ nguồn gốc căn bản của tình hình: chúng ta
vẫn chưa nhận rõ căn bệnh sâu xa của cơ chế quản lý kinh tế quốc dân là quan liêu, bao
cấp; những bước cải tiến về giá và lương từ năm 1980 đến giữa năm 1985 vẫn còn tiến
hành một cách thiếu đồng bộ và nửa vời, sau khi điều chỉnh một bước giá và lương, vẫn
tiếp tục để giá và lương ở cơ chế tĩnh; tiến hành điều chỉnh về giá và lương một cách đơn
độc không đi liền với cải cách cơ chế quản lý kinh tế, sắp xếp và tổ chức lại sản xuất, phân
phối, lưu thông..., kết quả là hệ thống giá nhà nước vẫn xa rời, giá trị, hạch tốn chỉ là hình
thức, bù lỗ sản xuất kinh doanh ngày càng
lớn, bội chi ngân sách và tiền mặt ngày càng
tiếp tục tăng, tiền lương thực tế ngày càng giảm.
Rõ ràng là, việc điều chỉnh chính sách
kinh tế một cách nửa vời không thể đem lại
kết quả mong đợi; tình hình định hướng cải
cách chính sách kinh tế một cách cơ bản
hơn với những biện pháp mạnh mẽ hơn, đồng bộ hơn.
Với nhận định đó, Hội nghị Trung ương 8 đi đến quyết định: "phải dứt khốt xóa bỏ tập
trung quan liêu - bao cấp,... chuyển hẳn nền kinh tế sang hạch toán, kinh doanh xã hội chủ
nghĩa" và xác định lúc này, xóa bỏ quan liêu, bao cấp trong giá, lương, tiền chính là khâu
đột phá có tính chất quyết định cần phải tiến hành để thực hiện sự chuyển biến đó. 1
Về giá cả: Xác định giá phù hợp với giá trị và với sức mua thực tế của đồng tiền; định
giá trên cơ sở lấy kế hoạch làm trung tâm, thực hiện hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội
chủ nghĩa, chủ động vận dụng quy luật giá trị và quan hệ cung - cầu.Theo chủ trương của
Đảng coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, phải lấy giá thóc làm chuẩn để tính toán các
loại giá khác và toàn bộ mặt bằng giá. Quản lý giá cả phải có phân công, phân cấp hợp lý
theo nguyên tắc tập trung dân chủ, phù hợp với thực tế.
Giá mua lương thực và nông sản phải thể hiện và góp phần thực hiện đường lối phát
triển nông nghiệp nhằm hình thành cơ cấu công-nông nghiệp hợp lý, thể hiện quan hệ
công - nông cùng làm chủ.
Tính đủ các yếu tố chi phí và xác định đúng giá thành sản phẩm công nghiệp.
Điều chỉnh giá bán buôn hàng công nghiệp (vật tư và hàng tiêu dùng) trên cơ sở giá
thành tính đủ chi phí, có lãi thỏa đáng cho người sản xuất và thể hiện chính sách kinh tế
của Nhà nước, bảo đảm tính chung có tích lũy cho Nhà nước.
Giá bán lẻ phải được xác định trên cơ sở giá trị hàng hóa, có tính đến quan hệ cung
cầu, tiền - hàng và phải thể hiện chính sách kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước.
Chính sách giá bán lẻ hàng tiêu dùng cần phân biệt theo tính chất mặt hàng.
Thực hiện cơ chế một giá thống nhất, do Nhà nước (trung ương và địa phương) quy
định và điều chỉnh kịp thời khi cần thiết; từng bước ổn định giá trên cơ sở làm chủ kế
hoạch sản xuất và phân phối, nắm hàng, nắm tiền, cải tạo, quản lý và làm chủ thị trường.
Bên cạnh về kinh tế, Hội nghị Trung ương 8 còn đưa ra những cải cách mang tính tiến bộ
và chiến thuật mang tầm nhìn xa về vấn đề xã hội (lương và tiền tệ).
Như vậy, Ðại hội đề ra phương hướng nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu về kinh tế-xã hội từ
năm 1981 đến năm 1985 và những năm 80; khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối cách
mạng xã hội chủ nghĩa mà Ðại hội lần thứ IV của Ðảng đã vạch ra.
 Ðại hội xác định: Những năm 1981-1985 là những năm phát triển thêm một bước, sắp
xếp lại cơ cấu và đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh tế quốc dân.
Ba mặt đó kết hợp chặt chẽ với nhau, nhằm cơ bản ổn định được tình hình kinh tế và xã
hội, đáp ứng những nhu cầu cấp bách và thiết yếu nhất của đời sống nhân dân, giảm
nhẹ những chỗ mất cân đối nghiêm trọng nhất của nền kinh tế, khắc phục một bước quan
trọng tình trạng khơng bình thường về phân phối, lưu thơng, tăng thêm tiền đề và điều kiện
để tiến lên mạnh mẽ và vững chắc hơn trong những năm sau.
 Trên cơ sở đó, Đại hội vạch ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu về kinh tế
xã hội từ năm 1981 đến 1985, đề ra hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa . 1
III. Những đột phá về đổi mới kinh tế tại Hội nghị Bộ Chính trị khóa V (8-1986).
Hội nghị Bộ Chính trị khóa V tháng 8/1986 được coi là bước đột phá thứ ba trước đổi mới
với "Kết luận đối với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế": a) Về cơ cấu kinh tế.
Hội nghị chỉ rõ: chỉ có một nền kinh tế có cơ cấu hợp lý mới có thể phát triển ổn định.
Bố trí đúng cơ cấu các ngành kinh tế, cơ cấu sảm xuất và đầu tư là những vấn đề quan
trọng đầu tiên của đường lối kinh tế, có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện các
mục tiêu kinh tế - xã hội trong mỗi chặng đường. Đảng đã xác định cơng nghiệp hố là
nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kết hợp chặt chẽ sự phát
triển của nông nghiệp, công nghiệp nhẹ và công nghiệp nặng, từng bước tiến lên xây
dựng cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý, hiện đại, trong đó cơng nghiệp và nông nghiệp
gắn liền với nhau và cùng phát triển.
Hội nghị cũng đã thẳng thắn thừa nhận trong hơn mười năm (từ 1976 đến 1986), Đảng
ta đã mắc nhiều sai lầm, khuyết điểm trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, bố trí đầu tư. Vì
vậy, những mục tiêu do Đại hội V đặt ra đã không thể thực hiện được. Bên cạnh việc gây
thêm những khó khăn lớn và lãng phí thời gian, chúng ta đã chủ quan, nóng vội đề ra một
số chỉ tiêu quá lớn về quy mô, quá cao về nhịp độ xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất;
tập trung quá nhiều nguồn lực vào các ngành công nghiệp nặng, không tập trung phát
triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, không coi trọng đúng mức việc khôi phục và tổ
chức lại sản xuất công nghiệp, khơng khuyến khích và hướng dẫn tiểu thủ cơng nghiệp
phát triển đúng hướng, không tăng cường đúng mức kết cấu hạ tầng. Điều đó khiến cho
đầu tư nhiều nhưng hiệu quả rất thấp, là một nguyên nhân quan trọng khiến cho sản xuất
trong thời gian 5 năm trở lại hầu như khơng có sự tiến lên, năng suất lao động giảm sút,
tình hình kinh tế - xã hội ngày càng khơng ổn định.
Để khắc phục tình hình nói trên và ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống
nhân dân, tạo tiền đề đẩy mạnh công nghiệp hóa trong chặng đường sau, trong 5 năm
1986 - 1990 Hội nghị yêu cầu phải kiên quyết điều chỉnh lớn phương án bố trí cơ cấu
kinh tế, cơ cấu đầu tư theo hướng “thật sự lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức 1
phát triển công nghiệp nhẹ, bao gồm công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và công nghiệp
chế biến nông sản, thực phẩm, tạo nguồn hàng xuất khẩu lớn, tạo thêm việc làm cho người lao động.”
Để thực hiện mục tiêu và phương hướng chung nói trên, Hội nghị yêu cầu: trong việc
bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, phải thấu suốt những chủ trương quan trọng như: 
Kiên quyết sắp xếp lại các cơ sở kinh tế, văn hoá, trước hết là các cơ sở sản xuất
công nghiệp và nông nghiệp, của cả trung ương và địa phương. 
Tập trung vốn hoàn thành xây dựng các cơng trình dở dang đã được lựa chọn
theo đúng tiến độ và đồng bộ để có thể phát huy ngay hiệu quả, phục vụ cho việc
thực hiện ba chương trình và những mục tiêu nói trên. 
Việc đầu tư và xây dựng thêm công trình mới phải nhằm đúng phương hướng và
mục tiêu đã định, chú trọng trước hết phục vụ yêu cầu của mặt trận nông nghiệp,
phục vụ yêu cầu phân phối lại lao động, yêu cầu đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu, đầu tư cho việc tạo thêm nguồn năng lượng, nguyên
liệu, tăng thêm năng lực giao thông vận tải, thông tin liên lạc,... 
Trong việc đầu tư và xây dựng cần sửa đổi cách làm trước đây là quyết định
riêng lẻ từng công trình mà khơng xem xét trong tổng thể phương án kế hoạch 5
năm, vừa nhất thiết phải làm đúng quy trình xây dựng, xét duyệt các luận chứng
kinh tế - kỹ thuật. Các phương án đầu tư và xây dựng đều phải đảm bảo mục đích
cuối cùng là đạt hiệu quả kinh tế, xã hội cao. 
Bên cạnh đó, đi đôi với đầu tư của Nhà nước, cần có chính sách huy động rộng
rãi nguồn vốn của nhân dân, kể cả của Việt kiều, đầu tư vào phát triển sản xuất,
nhất là sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp sản
xuất hàng tiêu dùng và các hoạt động dịch vụ, phù hợp với chính sách đối với các thành phần kinh tế.
b) Về cải tạo xã hội chủ nghĩa và củng cố quan hệ sản xuất mới.
Hội nghị yêu cầu: “Phải tiếp tục đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, củng cố và tăng
cường quan hệ sản xuất mới, phấn đấu đến hết chặng đường đầu tiên làm cho kinh tế xã
hội chủ nghĩa chiếm tỷ trọng lớn và giữ vị trí chi phối trong nền kinh tế quốc dân, quan
hệ sản xuất mới thể hiện rõ tính hơn hẳn so với quan hệ sản xuất cũ, thật sự thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển”.
Đối với kinh tế quốc doanh: Phải trên cơ sở thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám
Ban Chấp hành Trung ương (khoá V), kiên quyết và từng bước xóa bỏ tập trung quan
liêu, bao cấp, chuyển hoạt động kinh tế sang hoạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa mà
tăng cường khu vực kinh tế xã hội chủ nghĩa, nhất là kinh tế quốc doanh, làm cho kinh tế
quốc doanh thực sự phát huy vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể chiếm vị trí chi
phối trong nền kinh tế quốc dân. Đó là phương hướng quan trọng nhất của toàn bộ nhiệm
vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa, củng cố quan hệ sản xuất mới.
Đối với kinh tế tập thể: Phương hướng chủ yếu là củng cố và tăng cường các tổ chức
sản xuất tập thể hiện có, nhằm mục tiêu nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. trong
nông nghiệp, hết sức coi trọng việc củng cố các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất. Tiếp tục
vận động người sản xuất nhỏ trong các ngành tham gia các tổ chức sản xuất tập thể với
những hình thức thích hợp, từ thấp đến cao, từ nhỏ lên lớn, dựa trên nguyên tắc tự nguyện cùng có lợi. 1
Đối với kinh tế công tư hợp doanh: Đối với những tư nhân có vốn lớn, có khả năng
sản xuất những mặt hàng có nhu cầu hoặc làm dịch vụ với quy mô lớn và tương đối lớn
thì dùng hình thức công tư hợp doanh. Cần có chính sách thích hợp để thành phần kinh tế
này tồn tại trong một thời gian nhất định và phát huy tác dụng tích cực của nó trong sản xuất, kinh doanh.
Đối với kinh tế tư bản tư nhân: Chúng ta chủ trương sử dụng có chọn lọc một bộ phận kinh tế tư bản tư nhân.
c) Về cơ chế quản lý kinh tế.
Hội nghị nên ra những nội dung chỉ yếu của cơ chế hạch toán kinh tế, kinh doanh xã
hội chủ nghĩa mà chúng ta cần xây dựng là:
Đổi mới kế hoạch hoá trên cơ sở vận dụng đúng đắn hệ thống các quy luật kinh tế,
phát huy vai trò chủ đạo của các quy luật đặc thù của chủ nghĩa xã hội, đồng thời sử dụng
đúng đắn các quy luật vận động của quan hệ hàng hoá - tiền tệ; chuyển sang các phương
pháp kinh tế là chủ yếu, trong đó kế hoạch hố thật sự trở thành trung tâm của hệ thống
quản lý. Bảo đảm cho các đơn vị kinh tế xã hội chủ nghĩa có quyền tự chủ sản xuất, kinh
doanh, thực hiện đúng hạch toán kinh tế, tự tạo vốn và hoàn vốn, tự chịu trách nhiệm về
kết quả sản xuất, kinh doanh của mình. Mức thu nhập của tập thể và của người lao động
được xác định căn cứ vào kết quả lao động và hiệu quả kinh tế. Chấn chỉnh và kiện toàn tổ
chức bộ máy và đội ngũ cán bộ quản lý theo yêu cầu của cơ chế mới, trên cơ sở phân biệt
rõ chức năng quản lý hành chính - kinh tế của cơ quan nhà nước và chức năng quản lý sản
xuất - kinh doanh của các tổ chức, đơn vị kinh tế, phân cấp quản lý theo nguyên tắc tập
trung dân chủ. tồn bộ hệ thống quản lý hành chính Nhà nước và quản lý sản xuất, kinh
doanh đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
 Kết luận của Bộ Chính trị có ý nghĩa to lớn trong việc định hướng soạn thảo lại một
cách căn bản dự thảo báo cáo chính trị trình Đại hội VI của Đảng. 1