-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Bài tập nhóm - Lý luận nhà nước và pháp luật | Trường đại học Luật, đại học Huế
Bài tập nhóm - Lý luận nhà nước và pháp luật | Trường đại học Luật, đại học Huế được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Lý luận nhà nước và pháp luật (NNPL) 21 tài liệu
Trường Đại học Luật, Đại học Huế 440 tài liệu
Bài tập nhóm - Lý luận nhà nước và pháp luật | Trường đại học Luật, đại học Huế
Bài tập nhóm - Lý luận nhà nước và pháp luật | Trường đại học Luật, đại học Huế được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Lý luận nhà nước và pháp luật (NNPL) 21 tài liệu
Trường: Trường Đại học Luật, Đại học Huế 440 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Trường Đại học Luật, Đại học Huế
Preview text:
MÔN: LÍ LUẬN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
GIẢNG VIÊN PHỤ TRÁCH: TS.LÊ THỊ HẰNG
CHỦ ĐỀ:PHÂN TÍCH HÌNH THỨC NHÀ NƯỚC TƯ SẢN,
PHÂN BIỆT VỚI HÌNH THỨC NHÀ NƯỚC CHỦ NÔ NHÓM 4 1.Hoàng Đức Nghĩa 6.Nguyễn Thị Hoài My 2.Bùi Thị Như Ngọc 7.Nguyễn Thanh Minh (420) 3.Lê Trần Bảo Ngân 8.Nguyễn Thanh Minh (416) 4.Phạm Hoàng Ngân 9.Y-Jơ Man 5.Trịnh Thị Yến Mỹ 10.Cao Đoàn Xuân Mai MỤC LỤC A.LỜI NÓI ĐẦU B.NỘI DUNG I.Kiểu Nhà nước 1.1 Khái niệm nhà nước 1.2 Các kiểu nhà nước II. Nhà nước tư sản
2.1 Khái niệm nhà nước tư sản
2.1.1 Nguồn gốc hình thành nhà nước tư sản 2.2 Bộ máy nhà nước
2.3 Hình thức nhà nước tư sản
2.3.1Chính thể quân chủ lập hiến
2.3.2 Chính Thể Cộng Hoà tư sản
2.3.3 Hình thức cấu trúc:
2.3.4 Chế độ Chính Trị III Nhà nước chủ nô
3.1 Khái niệm nhà nước chủ nô
3.2 Nguồn gốc hình thành nước chủ nô
3.3 Bộ máy nhà nước chủ nô
3.4 Hình thức nhà nước chủ nô IV. So sánh V. Kết luận A.MỞ ĐẦU
Nói tới kiểu nhà nước là nói tới bộ máy nhà nước của giai cấp thống trị,
tồn tại trên cơ sở một nền tảng kinh tế, tương ứng với một hình thái kinh
tế xã hội nhất định. Như vậy, kiểu nhà nước mới thay thế cho kiểu nhà
nước cũ thông qua cuộc cách mạng xã hội hoặc thông qua những cuộc
cải cách lớn diễn ra dần. Bởi vì giai cấp thống trị nắm quyền lực nhà
nước đại diện cho phương thức sản xuất cũ không bao giờ tự từ bỏ
quyền lực nhà nước của mình, do đó giai cấp đại diện cho phương thức
sản xuất mới phải đấu tranh để giành chính quyền, thiết lập nên nhà
nước mới. Đó là quy luật, kiểu nhà nước mới ra đời thì bản chất, vai trò
xã hội, chức năng của nó cũng thay đổi B. Nội dung I. Kiểu nhà nước 1.1 Khái niệm nhà nước 1.1. Nhà nước là gì?
Nhà nước là tổ chức quyền lực công đặc biệt, có pháp luật và bộ máy chuyên thực thi
quyền lực, thực hiện chủ quyền quốc gia va tham gia các quan hệ quốc tê một cách
độc lập, tổ chức và quản lí xã hội nhằm thiết lập trật tự xã hội và thực hiện mục đích
của lực lượng cầm quyền. 1.2. Các kiểu Nhà nước - Kiểu nhà nước là gì?
+ Kiểu nhà nước là một dạng thức hay một loại nhà nước ra đời, tồn tại và
phát triển trong một hình thái kinh tế- xã hội nhất định và chịu sự chi phối
nhất định của một lực lượng xã hội nào đó.
+ Căn cứ cách phân loại kiểu nhà nước:
• Hình thái kinh tế xã hội • Tính giai cấp
- Các kiểu nhà nước cơ bản: + Nhà nước chủ nô. +Nhà nước phong kiến. + Nhà nước tư sản . + Nhà nước vô sản.
II. Nhà nước tư sản II. Nhà Nước Tư Sản
2.1. Khái quát Nhà nước tư sản
Nhà nước tư sản là một nhà nước có giai cấp, đồng thời, là người đại diện
chính thức của toàn xã hội đảm đương các chức năng công ích, xã hội; là bộ
máy duy trì trật tự xã hội, điều hoà các mối quan hệ xã hội chung của cả cộng
đồng dân cư của quốc gia - dân tộc.
Kiểu nhà nước tư sản là kiểu nhà nước ra đời, tồn tại và phát triển trong
lòng hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa. Cơ sở kinh tế của nhà nước
tư sản là phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ chiếm hữu tư
nhân về tư liệu sắn xuất, nền kinh tế hàng hoá - thị trường.
Tuy nhiên, do nhà nước tư sản hình thành trên một hình thái kinh tế - xã
hội tiến bộ hơn, trong giai đoạn nền văn minh nhân loại phát triển cao hơn, vì
vậy, tính xã hội của nhà nước tư sản cũng phát triển sâu rộng hơn.
2.1.2. Cơ sở hình thành
- Các nhà nước tư sản trên thê giới ra đời trên cơ sở của một cuộc cách mạng
hoặc cải cách xã hội do giai cấptư sản lãnh đạo.
- Nói chung cách mạng tư sản được ra đời dưới những con đường như sau:
+ Thông qua các cuộc cách mạng tư sản được tiến hành dưới hình
thức khởi nghĩa vũ trang để lật đổ chế độ phong kiến.
+ Thông qua các cuộc khởi nghĩa vũ trang chống lại ách thống trị
của thực dân nước ngoài để giành quyền độc lập, xây dựng nhà nước tư sản.
+ Thông qua các cuộc cải cách tư bản chủ nghĩa thê hiện sự thỏa
hiệp giữa giai cấp tư bản chủ nghĩa với tầng lớp quý tộc phong kiến
2.2 Bộ máy nhà nước
Bộ máy nhà nước tư sản được tổ chức theo nguyên tắc phân chia quyền lực
Nguyên tắc này căn cứ theo học thuyết của Locker và Montesquieu – những
người sáng lập ra thuyết phân quyền cho rằng cần hạn chế sự chuyên quyền, độc
đoán bằng việc phân chia quyền lực nhà nước cho những cơ quan khác nhau, chứ
không tập trung quá nhiều vào một cơ quan nhất định.
Theo họ, quyền lực nhà nước cần được phân thành ba quyền theo chiều ngang: lập
pháp, hành pháp, tư pháp. Quyền lập pháp giao cho Nghị viện do nhân dân bầu ra
theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu. Quyền hành pháp thuộc về Chính phủ và
quyền tư pháp giao cho Tòa án.
Theo chiều dọc, quyền lực nhà nước được phân chia thành chính quyền trung ương
và chính quyền địa phương.
Bộ máy nhà nước tư sản được tổ chức theo nguyên tắc dân chủ, đa nguyên
chính trị và đa đảng
Đây là một trong những nguyên tắc phổ biến của nền dân chủ tư sản.
Nguyên tắc đa nguyên chính trị cho phép công dân có quyền tự do chính kiến,
công dân có quyền chỉ trích đường lối chính trị của chính phủ và công khai thể
hiện quan điểm chính trị của mình mà không bị coi là phạm pháp.
Nguyên tắc đa nguyên chính trị còn cho phép sự tồn tại của nhiều đảng phái chính
trị. Các đảng phái chính trị tự do tranh cử trong các cuộc bầu cử nghị viện và tổng thống.
Như vậy, việc tồn tại chế độ đa nguyên chính trị và đa đảng mà các nước tư sản
thừa nhận có đảng cầm quyền và đảng đối lập.
Từ những đặc trưng trên có thể nhận thấy cơ cấu tổ chức của bộ máy nhà nước tư sản gồm: a. Nguyên thủ quốc gia
Trong hệ thống cơ quan nhà nước tối cao của các nước tư bản, về mặt pháp lý,
nguyên thủ quốc gia đứng đầu nhà nước, chịu trách nhiệm lãnh đạo bộ máy nhà
nước. Tuy nhiên, việc trở thành và thôi chức nguyên thủ quốc gia ở các nước tư bản là khác nhau.
Đối với các nước có chính thể quân chủ như Anh, người đứng đầu là vua được
thiết lập trên cơ sở kế truyền.
Nguyên thủ quốc gia có quyền hạn lớn nhất là ở trong chính thể cộng hòa tổng
thống, điển hình là Mỹ, nơi mà tổng thống vừa là người đứng đầu Nhà nước vừa là
người đứng đầu Chính phủ.
Còn ở các nước quân chủ đại nghị, nguyên thủ quốc gia phần lớn mang tính chất
đại diện, hình thức (Anh, Nhật Bản). Nhiệm kỳ của nguyên thủ quốc gia ở các
nước quy định cũng không giống nhau, có thể là 4 năm, 5 năm hoặc 7 năm. Có
nước Nguyên thủ quốc gia không thể được bầu quá hai nhiệm kỳ (Mỹ, Phần Lan). b. Nghị Viện
Nghị viện có vị trí đặc biệt trong hệ thống cơ quan trung ương của nhà nước tư
sản. Như Yves Meny – học giả người Pháp đã viết: “nếu tồn tại một biểu tưởng của
chế độ đại diện thì đó chính là nghị viện”. Nghị viện tư sản phát triển qua các giai
đoạn tương ứng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Về cách thức tổ chức, nghị viện được phân thành một viện hoặc hai viện. Một số
nước, nghị viện được tổ chức theo chế độ một viện là Đan Mạch, Thụy Sỹ, Bồ Đào
Nha, Phần Lan,… Đại đa số các nước tư bản phát triển đều tổ chức thành hai viện
là hạ nghị viện và Thượng nghị viện, đó là Mỹ, Nhật, Anh, Pháp, Đức, Ý,… Hạ
nghị viện đại diện cho tầng lớp dân cư trong xã hội và bầu theo tỷ lệ dân số.
Thượng nghị viện đại diện cho quyền lợi của các bang, các chủ thể liên bang (trong
nhà nước liên bang); đại diện cho các đơn vị hành chính lãnh thổ cao nhất hoặc đại
diện cho tầng lớp quý tộc (trong nhà nước đơn nhất). c. Chính phủ
Chính phủ ở các nước tư bản là cơ quan hành pháp cao nhất, chiếm vị trí trung
tâm trong hệ thống các cơ quan nhà nước ở trung ương. Trên thực tế, quyền hạn
của chính phủ trong lĩnh vực hành pháp là rất rộng. Nó quyết định phần lớn các
chính sách đối nội, đối ngoại của nhà nước. Cách thức bổ nhiệm thủ tướng và các
thành viên của chính phủ ở các nước cũng có điểm khác nhau.
Ở các nước theo chính thể quân chủ lập hiến, cộng hòa nghị viện và cộng hòa
lưỡng tính, đứng đầu chính phủ là thủ tướng.,
Ở các nước theo chính thể cộng hòa tổng thống, đứng đầu chính phủ là tổng
thống. Các thành viên của chính phủ do tổng thống bổ nhiệm với sự đồng thuận của thượng nghị viện. d. Tòa án
Trong bộ máy nhà nước tư sản, về mặt hình thức, tòa án là cơ quan có vị trí độc
lập với các cơ quan nhà nước khác. Về loại hình, thông thường tòa án được xây
dựng thành ba hệ thống: tòa án truyền thống, tòa án hiến pháp và tòa án hành chính.
Tòa án truyền thống (hay còn gọi là tòa án tư pháp) – nơi xử các công dân vi phạm
pháp luật hoặc giải quyết tranh chấp giữa các công dân với nhau, ở một số nước tư
bản còn lập ra tòa án hiến pháp (Pháp, Đức).
Tòa án hiến pháp (hay còn gọi là tòa án bảo hiến) có chức năng kiểm tra tính hợp
hiến của các văn bản pháp luật, kiểm tra hoạt động của quốc hội, chính phủ.
Tòa án hành chính là xét xử các quyết định hoặc hành vi hành chính của các công
chức nhà nước và các cơ quan nhà nước trên cơ sở các khiếu kiện của công dân.
Hoạt động xét xử của tòa án thưởng được tổ chức theo hai cấp xét xử: Hệ thống
tố tụng tranh tụng và hệ thống tố tụng thẩm vấn
e. Hệ thống quân đội, cảnh sát
Nhà nước tư sản đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng lực lượng này, đặc biệt trong
điều kiện khi mâu thuẫn xã hội gay gắt hoặc khi cuộc chiến tranh trở nên quyết liệt.
Hệ thống quân đội và cảnh sát luôn được nhà nước tư sản chú trọng đầu tư, chi
một khoản không nhỏ trong ngân sách nhà nước nhằm tăng cường và hiện đại hóa
quân đội và cảnh sát; luôn được ưu tiên đầu tư những thiết khoa học kỹ thuật hiện đại nhất.
Trong quan hệ đối ngoại, khi xảy ra xung đột hoặc tranh chấp, quân đội được nhà
nước tư sản dùng làm công cụ thực hiện chính sách răn đe.
Còn trong quan hệ đối nội, cùng với quân đội, cảnh sát là lực lượng đàn áp các
thế lực đối lập, bảo vệ trật tự xã hội và trật tự công cộng trong xã hội tư sản.
2.3 Hình thức chỉnh thể:
2.3.1 Chính thể quân chủ lập hiến:
Đây là hình thức quá độ khi giai cấp tư sản chưa giành được thắng
lợi hoàn toàn và đây chính là hình thức thỏa thuận giữa giai cấp tư sản
và tầng lớp quý tộc phong kiến. - Nguồn gốc :
• Chế độ quân chủ lập hiến tìm thấy các nguyên tắc của nó trong các nhà tư
tưởng thế kỷ thứ mười bảy và mười tám, những người ủng hộ sự phân chia
quyền lực và cải cách chính trị của các nước châu Âu.
• Trong những thế kỷ này, hai sự kiện lịch sử cơ bản đã diễn ra mang theo một
loạt các thay đổi về văn hóa và tinh thần tạo điều kiện cho việc thực hiện hệ
thống chính quyền này: Cách mạng khoa học và Khai sáng hoặc Khai sáng.
• Tất cả các quyền lực vẫn còn trong quốc vương, nhưng điều này tạo ra một
loạt các nhượng bộ cho người dân thường và hạn chế quyền lực của các quý
tộc và giáo sĩ. Phương châm của hệ thống này là "tất cả vì người dân nhưng không có người dân".
• Quá trình thay đổi các chế độ quân chủ trên thế giới diễn ra chậm chạp, bởi vì
vào thế kỷ XVII, Louis XIV, một trong những vị vua tuyệt đối nổi tiếng nhất
trong lịch sử, tiếp tục chứng tỏ quyền lực lộng lẫy của mình trên ngai vàng nước Pháp.
- Chính thể quân chủ lập hiến:
• Chính thể quân chủ lập hiến là hình thức nhà nước, trong đó người đứng đầu
nhà nước được thiết lập theo nguyên tắc kể truyền Với quyền lực chỉ có tính chất tượng trưng.
• Chính thể quân chủ lập hiến là một trong những hình thức nhà nước phổ biến
của các nước tư sản và các nước đang phát triển. Đặc điểm của các nước có
chính thể quân chủ lập hiến là nguyên thủ quốc gia được thiết lập theo
nguyên tắc kế truyền nhưng quyền lực của nhà vua chỉ có tính chất tượng
trưng, thường chỉ có chức năng lễ tân và ngoại giao, vì vậy thường có cách
nói: "vua trị vì mà không cai trị”. Trong các nước quân chủ lập hiến, quyền
lực thực sự nằm trong tay thủ tướng, vì thủ tướng thường là thủ lĩnh của đảng
chiếm đa số trong nghị viện và vì vậy, chính phủ có chỗ dựa vững chắc trong nghị viện
Ngày nay, vẫn có những quốc gia tiếp tục duy trì chế độ quân chủ lập
hiến, mà không trở thành nghị viện. Ở các quốc gia này, nhân vật của Nhà
vua đang hoạt động và có quyền lực chính trị, nó không phải là một đại diện
mang tính biểu tượng như xảy ra ở Tây Ban Nha với Philip VI hoặc ở các
nước châu Âu khác như Bỉ, Đan Mạch hoặc Anh.
2.3.2 Chính Thể Cộng Hoà tư sản - Khái niệm:
Chính thể cộng hòa được hiểu là hình thức nhà nước mà tại
đây nguyên thủ quốc gia được xây dựng theo một chế độ bầu
cử nhất định. Điều này chứng tỏ quyền lực cao nhất của nhà
nước theo chính thể cộng hòa không phụ thuộc vào người
đứng đầu cơ quan mà được thực hiện thông qua phương thức
bầu cử do cử tri cả nước bỏ phiếu bầu ra
• Đây là hình thức chính thể phổ biến của nhà nước tư sản hiện nay. Ở hình
thức này có hai biến dạng chủ yếu là cộng hòa tổng thống và cộng hòa đại lo
nó lập với nghị viện và có quyền ngang bằng với nghị viện.
+ Chỉnh thể cộng hòa Tổng thống:
• Cộng hoà tổng thống là hình thức tổ chức bộ máy nhà nước thể hiện sự áp
dụng nguyên tắc phân quyền một cách đúng đắn, rõ rệt nhất.
• Ở các nhà nước chính thể cộng hoà tổng thống, quyền lập pháp thuộc về nghị
viện, quyền hành pháp thuộc về tổng thống và quyền tư pháp thuộc về hệ
thống toà án, điều này được minh định cụ thể trong hiến pháp. Vai trò của
nguyên thủ quốc gia là rất quan trọng.
• Được bầu cử độc lập với cơ quan Nghị viện, tức là người có thẩm
quyền bầu Tổng thống là nhân dân cả nước chứ không cần thông
qua cơ quan Nghị viện hay bầu cử cùng với cơ quan Nghị viện.
• Tổng thống vừa là người đứng đầu quốc gia vừa là người đứng đầu chính phủ,
trong bộ máy nhà nước không có chức vụ thủ tướng. Tổng thống có quyền
lực rất lớn, vừa là trung tâm của bộ máy nhà nước, vừa là trung tâm quyết sách của chính phủ.
+Chính thể cộng hòa đại nghị hay ( chính thể cộng hòa nghị viện):
• . Đặc điểm của mô hình này là thủ tướng là người nắm quyền lực chính
trị và là người quyết định và chịu trách nhiệm về đường lối chính trị của
chính phủ. Thủ tướng luôn là thủ lĩnh của đảng chiếm ưu thế trong nghị
viện, vì vậy, quyền hạn của thủ tướng là rất lớn.
• Tuy nhiên, Tổng thống trong mô hình nhà nước này cũng sẽ có
quyền lực phối hợp với Thủ tướng trong quyền hành pháp. Như tại
nước Ý thì Tổng thống Ý do Nghị viện bầu ra trong phiên họp
toàn thể của hai viện và các đại diện của các vùng lãnh thổ hành chính
+ Chỉnh thể Cộng hòa lưỡng tính:
• Hình thức chính thể cộng hòa pha trộn giữa cộng hòa tổng thống và cộng
hòa nghị viện. Tổng thống do nhân dân bầu ra; tổng thống chỉ đứng đầu
nhà nước chứ không đứng đầu Chính phủ; Tổng thống có quyền bổ
nhiệm thủ tướng Chính phủ nhưng phải được nghị viện phê chuẩn.
• Vì đây là sự kết hợp của hai mô hình nhà nước cộng hòa nên Tổng
thống chỉ đứng đầu nhà nước chứ không đứng đầu chính phủ mà
thay vào đó chính phủ sẽ do Thủ tướng đứng đầu, đây là yếu tố
thể hiện mô hình nhà nước cộng hòa Nghị viện.
• Chính vì vậy để hạn chế được những mâu thuẫn nội bộ thì việc
phân chia quyền lực dược áp dụng một cách mềm dẻo và tinh tế,
đồng thời phải có sự điều hòa, phối hợp với nhau trong ba nhánh
quyền lực lập pháp, tư pháp và hành pháp.
2.3.3 Hình thức cấu trúc:
Nhà nước tư sản có các hình thức cấu trúc sau: Hình thức Liên
Bang và hình thức Đơn nhất. - Hình thức Liên Bang
• Hình thức cầu trúc liên bang là sự hợp thành từ nhiều bang thành viên,
song mỗi thành viên của liên bang không có đầy đủ các dấu hiệu của
một nhà nước độc lập. Mặc dù mỗi thành viên đều có lãnh thổ riêng,
hiến pháp riêng, hệ thống chính quyền riêng, song bang không có chủ
quyền quốc gia riêng, quyền tự quyết thuộc về chính quyền liên bang (vì
thể bang không là chủ thể của luật pháp quốc tế).
• Nhà nước liên bang có hiến pháp riêng, hệ thống pháp luật riêng, có giá
trị tối cao so với hiến pháp và pháp luật của các bang thành viên. Đồng
thời trong nhà nước liên bang tồn tại một chế độ hai quốc tịch đối với
mỗi công dân. Trong hình thức cấu trúc nhà nước liên bang, về mặt
nguyên tắc, các thành viên không có quyền tách khỏi nhà nước liên bang. - Hình thức Đơn nhất
Nhà nước đơn nhất là hình thức cấu trúc phổ biến của các nhà nước
tư sản. Nhà nước đơn nhất có những dấu hiệu đặc trưng:
• Có hiến pháp và hệ thống pháp luật thống nhất;
• Hệ thống cơ quan nhà nước ở trung ương thống nhất (cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp);
• Có chủ quyền lãnh thổ thống nhất;
Có quốc tịch thống nhất;
• Các cơ quan chính quyền địa phương tổ chức và hoạt động theo quy định
chung của chính quyền trung ương.
Tuy nhiên, khi xem xét hình thức cấu trúc nhà nước đơn nhất tư sản
cần chú ý một số biểu hiện cụ thể trong tổ chức thực hiện quyền lực
nhà nước địa phương. Trong một số nước, xu hướng tập trung quyền
lực về trung ương được coi trọng. Các cơ quan chính quyền địa
phương phục tùng tuyệt đôi quyền lực nhà nước trung ương.
Ngoài hai hình thức cấu trúc trên, trong lịch sử của nhà nước tư sản còn
tồn tại một kiểu cấu trúc nhà nước khác là liên minh giữa các quốc gia,
như liên minh ở Mỹ (từ năm 1776 đến năm 1787), Đức (từ năm 1815
đến năm 1867), Thụy Sỹ 1848; nhà nước liên minh là sự kết hợp các
quốc gia có chủ quyền, nhằm giải quyết một số vấn đề nào đó trong một
khoảng thời gian nhất định. Xét dưới góc độ khoa học pháp lý, nhà nước
liên minh có cơ cấu tổ chức không chặt chẽ và chỉ gây ảnh hưởng mang
tính quyền lực đối với các nước thành viên trong một số lĩnh vực nhất
định. Hiện nay, đáng chú ý là Liên minh Châu Âu.
2.3.4 Chế độ Chính Trị
- Chế độ chính trị của nhà nước tư sản được hiểu là toàn bộ các phương
pháp, thủ đoạn mà giai cấp tư sản sử dụng để thực hiện nền chính trị tư sản.
- Chế độ chính trị của nhà nước tư sản được phản ảnh qua các phương pháp hoạt động
của hệ thống cơ quan nhà nước, địa vị pháp lý của công dân cùng các tổ chức chính trị
và những biện pháp bảo đảm thực hiện các quyền tự do, dân chủ. Chế độ chính trị tư
sản là một cơ chế năng động, linh hoạt, ở các giai đoạn phát triển khác nhau của nhà
nước tư sản, cũng như ở từng quốc gia cụ thể biểu hiện của nó là hết sức khác nhau.
+ Chế độ dân chủ tư sản
Được biểu hiện bằng các dấu hiệu:
• Có sự thừa nhận sự bình đăng của mọi công dân trước pháp luật;
• Khả năng người dân được sử dụng rộng rãi các quyền tự do dân chủ;
- Có sự cùng tôn tại của các đảng chính trị, kể cả đảng của phái đối
lập bên cạnh đảng câm quyên;
• Hệ thống các cơ quan đại diện được hình thành bằng con đường bầu cử
theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu;
• Nguyên tắc pháp chế tư sản được bảo đảm.
• Tuy nhiên, với chế độ chính trị dân chủ tư sản bộ mặt nhà nước tư sản đã
có sự thay đổi đáng kể, song thực chất nó vẫn chưa vượt ra khỏi khuôn
khổ của một nhà nước bóc lột, như V.I. LêNin đã nhận xét: xã hội tư bản
chủ nghĩa, xét trong những điều kiện phát triển thuận lợi nhất của nó,
đem lại cho ta một chế độ dân chủ ít nhiều hoàn bị trong chế độ cộng hoà dân chủ.
+ Chế độ phản tư sản
Chế độ phản dân chủ là cơ chế sử dụng bạo lực của các nhóm tư sản
phản động lũng đoạn trong việc thực hiện chuyên chính tư sản. Đặc
trưng của chế độ này là mọi quyền tự do, dân chủ bị hạn chế tới mức tối
đa, hoặc bị xóa bỏ hoàn toàn; các đảng phái chính trị đối lập, các tổ chức
chính trị - xã hội độc lập bị đặt ra ngoài vòng pháp luật và bị đàn áp dã
man, các thể chế dân chủ bị
3.1 Bản chất của nhà nước
Bản chất của nhà nước tư sản thể hiện thông qua các chức năng đối nội
và đối ngoại của nó. Chức năng của nhà nước tư sản chính là những
phương diện hoạt động cơ bản của nhà nước nhằm thực hiện quyền lực
nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. – Chức năng đối nội
+ Chức năng chính trị càng được thể hiện rõ nét nhất khi nhà nước tư
sản chuyển từ chế độ dân chủ tư sản sang chế độ phát xít. Điển hình là chế độ phát xít Đức.
+ Chức năng kinh tế nhằm tạo ra các điều kiện, các đảm bảo vật chất, kỹ
thật, pháp lý và chính trị cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh của các
tập đoàn tư bản, đảm bảo sự tăng trưởng của nền kinh tế tư sản, ngăn
ngừa và khắc phục những nguyên nhân dẫn đến tình trạng khủng hoảng kinh tế.
+ Chức năng xã hội được Nhà nước thực hiện nhằm tạo ra các điều kiện,
các đảm bảo vật chất, kỹ thật, pháp lý và chính trị cho các hoạt động sản
xuất, kinh doanh của các tập đoàn tư bản, đảm bảo sự tăng trưởng của
nền kinh tế tư sản, ngăn ngừa và khắc phục những nguyên nhân dẫn đến
tình trạng khủng hoảng kinh tế.
+ Chức năng trấn áp về tư tưởng là một trong những chức năng quan
trọng nhằm trấn áp của nhà nước tư sản.
– Chức năng đối ngoại
+ Chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược và chống phá các phong
trào cách mạng thế giới là chức năng đối ngoại chủ yếu của nhà nước tư
sản thời kỳ chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do.
+ Chức năng phòng thủ là chức năng đối ngoại chủ yếu của nhà nước tư
sản thời kỳ chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do.
+ Thiết lập và phát triển các quan hệ ngoại giao để giải quyết các vấn đề
quốc tế thông qua đối thoại với những chính sách đối ngoại mềm dẻo
III. Nhà nước chủ nô
3.1 Khái niệm nhà nước chủ nô
Chủ nô là người sở hữu hoặc chiếm hữu nô lệ bị bắt có quyền thừa kế để tiếp tục
sở hữu nô lệ và có thể mua, bán, nợ hoặc chuyển nhượng nô lệ.
Nhà nước chủ nô là một hình thái kinh tế - xã hội có giai cấp dựa trên nền tảng
chính trị của người bóc lột nhân dân. Chế độ nô lệ ra đời trong thời kỳ tan rã của công xã nguyên thủy.
3.2 Nguồn gốc hình thành nước chủ nô
Nhà nước chủ nô ra đời, tồn tại và phát triển dựa trên các quan hệ sản xuất
chiếm hữu nô lệ. Những quan hệ sản xuất này được xây dựng trên cơ sở chế độ
chiếm hữu của chủ nô đối với toàn bộ tư liệu sản xuất và cả người sản xuất là nô lệ.
Nhà nước chủ nô ra đời trên cơ sở tan rã của chế độ thị tộc, bộ lạc gắn liền với
sự xuất hiện chế độ tư hữu và sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng.
Các Nhà nước chủ nô đầu tiên xuất hiện ở Châu Á và Bắc Phi như Trung Quốc,
Ấn Độ, Babilon, Ai Cập... khoảng từ 4000 đến 5000 năm trước công nguyên.
3.3 Bộ máy nhà nước chủ nô
Khi nhà nước chủ nô mới ra đời, bộ máy nhà nước vẫn kế thừa, in đậm dấu ấn
cách mạng của hệ thống chuyên quyền thị tộc. Việc tổ chức và triển khai bộ máy
nhà nước còn mang tính tự phát, người của bộ máy nhà nước thường đảm nhận mọi công việc.
Cùng với sự lớn mạnh của nhà nước chủ nô, bộ máy nhà nước ngày càng trở nên
phổ biến. tổ chức thực hiện có nề nếp, chuyên nghiệp hơn. Nhà nước được chia
thành các đơn vị chức năng, hành chính, lãnh thổ và tổ chức triển khai máy móc
theo cấp, tạo thành mạng lưới các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương.
Đối với nhà nước ở phương Tây, tổ chức nhà nước khá hoàn chỉnh, bộ máy nhà
nước đã được phân chia thành các cơ quan nhà nước có tổ chức và hoạt động dân
chủ. Điểm nổi bật của nhà nước phương Tây là sự phân chia rạch ròi giữa các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ví dụ như nhà nước Athen, nhà nước La Mã và nhà nước Spartan.
Đối với Nhà nước phương Đông, bộ máy tổ chức đơn giản hơn so với Nhà nước
phương Tây. Vua có toàn quyền thực hiện quyền lực nhà nước. Các quan lại từ
trung ương đến địa phương đều là những người phục vụ vua và giúp vua. Ai Cập,
Lưỡng Hà và Ấn Độ là những điển hình của các Quốc gia phương Đông.
Dù là quốc gia đông hay tây, trong bộ máy của các quốc gia nô lệ, quân đội, cảnh
sát và hệ thống tư pháp là lực lượng chính.
Quân đội được xây dựng nhằm mục đích chinh phục và bảo vệ chủ quyền. Các
chỉ huy quân sự nhận được danh hiệu và đặc quyền. Vai trò của quân đội ngày càng
trở nên quan trọng khi các cuộc đấu tranh của giai cấp chiếm hữu nô lệ ngày càng
lớn và chiến tranh giữa các quốc gia trở nên thường xuyên hơn.
Cảnh sát được thành lập để duy trì trật tự xã hội của những người nô lệ trong nước.
Tòa án của mỗi quốc gia nô lệ có những đặc điểm riêng. Các quốc gia phương
Tây đã thiết lập một hệ thống quyền lực tư pháp và hành chính, hoặc một hệ thống
chuyên biệt xét xử bởi các thẩm phán được bầu chọn định kỳ. Ở nhà nước phía
đông, quyền tư pháp tối cao nằm trong tay nhà vua, và quyền lực này được giao
cho một tổ chức chịu trách nhiệm trực tiếp với nhà vua.
3.4 Hình thức nhà nước chủ nô
Hình thức chính trị quân chủ và cộng hòa tồn tại và phát triển trong nhà nước chủ
nô. Song do những điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau kèm theo đó là việc tổ
chức và triển khai quyền tối cao của nhà nước ở mỗi quốc gia cũng mang tính đặc thù.
* Chế độ quân chủ
Chế độ quân chủ là hình thức nhà nước phổ biến ở các quốc gia cổ đại phương đông.
Đặc điểm của nhà nước này là quyền lực nhà nước tập trung ở nguyên thủ quốc
gia tức là vua và được hình thành theo nguyên tắc kế thừa.
Giúp việc cho vua là phải có một hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương
đến địa phương, nhưng chủ yếu là những người có quan hệ dòng họ hoặc thân cận
Hình thức chính quyền quân chủ cũng cho thấy vua là người có quyền lực vô hạn
và có toàn quyền quyết định mọi việc từ nhà nước, không có thể chế nào hạn chế quyền lực của nhà
Chứng của nhà nước Ai Cập, pharaoh (vua) nắm mọi quyền hành của nhà nước, là
chủ sở hữu của các vùng đất của các nước và trực tiếp thành lập nhiều điền trang ở
Ai Cập. Hầu như không có sự phân biệt giữa tài sản của vua và tài sản của nhà nước.
* Chế độ cộng hòa
Bộc lộ rõ ràng ở nhà nước phương tây, nhưng chế độ cộng hòa ở nhà nước phương
tây bao gồm cộng hòa dân chủ và cộng hòa quý tộc Chế độ cộng hòa dân chủ tồn
tại ở nhà nước Athen vào thế kỷ 5 và 4trước Công nguyên.
Ở nhà nước này, tất cả các cơ quan quyền lực nhà nước được hình thành do bầu cử
và hoạt động theo nhiệm kỳ.
Hội đồng Công dân là cơ quan quyền lực cao nhất, họp khoảng 10 ngày một lần.
Hội đồng công dân có quyền thảo luận và biểu quyết mọi vấn đề liên quan đến nhà
nước, có quyền bầu ra các cơ quan và cá nhân thực hiện quyền lực nhà nước trong
một thời gian nhất định.
Nhưng thực chất của nền cộng hòa dân chủ ở Athens là một nền cộng hòa dân chủ
chủ nô. Vì Nhà nước Athen được xây dựng trên cơ sở tư hữu và quan hệ bóc lột nô
lệ. Ông bảo vệ địa vị và quyền lợi của giai cấp chiếm hữu nô lệ. Chỉ có chủ nô và
rất ít người lao động tự do được hưởng các quyền chính trị, trong khi phụ nữ,
người nhập cư và nô lệ bị loại khỏi các hoạt động chính trị.
Chế độ cộng hòa quý tộc tồn tại sau thời Sparta (Thế kỷ thứ VII đến Thế kỷ thứ IV
trước Công nguyên) và La Mã (Thế kỷ thứ V đến Thế kỷ II trước Công nguyên).
* Hình thức cấu trúc của nhà nước chủ nô
Hầu hết các quốc gia nô lệ đều có cấu trúc nhất thể. Trong giai đoạn đầu, các
quốc gia thiếu cơ cấu nhà nước thành các đơn vị chức năng về chủ quyền hành
chính và lãnh thổ. Cùng với sự lớn mạnh, các đơn vị chức năng hành chính lãnh
thổ mới từng bước được thành lập.
* Chế độ chính trị của nhà nước chủ nô
Các quốc gia nô lệ chủ yếu sử dụng các chiến thuật phi dân chủ để thực hiện
quyền tối cao của họ, trong khi các quốc gia phương Đông thực hiện quyền tối cao
của mình thông qua chế độ độc tài toàn trị.
Các quốc gia phương Tây sử dụng ít nhiều các phương pháp dân chủ, nhưng vẫn
có một chế độ quân chủ chuyên chế tàn bạo với đa số dân chúng. IV. So sánh NHÀ NƯỚC CHỦ NÔ NHÀ NƯỚC TƯ SẢN * Hình thức chính thể: * Hình thức chính thể: - Chính thể quân chủ - Quân chủ lập hiến
- Chính thể cộng hòa(thể hiện rõ nét ở +Quân chủ nhị hợp, quyền lực nguyên thủ hạn chế trong lĩnh phương Tây)
vực lập pháp, song lại rộng trong lĩnh vực hành pháp.
+ Chính thể cộng hòa dân chủ Quân chủ đại
+ Chính thể cộng hòa quý tộc
+ Quân chủ đại nghị; nguyên thủ * Hình thức cấu trúc:
quốc gia không có quyền trong
- Hầu hết các nhà nước chủ nô đều có cấu lĩnh vực lập pháp và trong lĩnh vực hành pháp bị hạn chế đến trúc đơn nhất. mức tối đa
Giai đoạn đầu, các nhà nước chưa có sự Chính thể cộng hòa
cấu tạo nhà nước thành các đơn vị hành
Cộng hòa tổngthống, nguyên thủcó vai trò cực kìquan chính lãnh thổ. trọng.
Cùng với sự phát triển các đơn vị hành Cộng hòa đại
chính dần được thiết lập. Cộng hòa tổng
* Về chế độ chính trị
+ Cộng hòa tổng thống nguyên thủ có vai trò cực kì quan
- Các nhà nước chủ nô chủ yếu sử dụng trọng
phương pháp phản dân chủ để thực hiện +Cộng hòa đại nghị, nghị viện lập ra chính phủ và giám sát quyền lực của mình.
làm việc cuả chính phủ
- Các nhà nước phương Đông thực * Hình thức cấu trúc của nhà nước
hiện quyền lực bằng phương pháp độc tài - Hình thức nhà nước cấu trúc đơn giản nhất chuyên chế.
- Hình thức nhà nước liên bang
- Các nhà nước phương Tây sử dụng các * Chế độ chính trị
phương pháp ít nhiều có tính dân chủ - Chế độ dân chủ tư sản. Trong các chế độ chính trị do nhà
hơn, song vẫn thể hiện là một chế độ quân nước tư sản thực hiện, chế độ dân chủ tư sản là cơ chế chính
chủ tàn bạo, chuyên chế với đại bộ phận trị tốt nhất. dân cư.
Nó được biểu hiện bởi các dấu hiệu:
+ Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
+ Bộ máy nhà nước được thiết lập theo nguyên tắc phân chia quyền lực
+ Có sự thừa nhận sự bình đẳng của công dân trước pháp luật
và người dân được sử dụng rộng rãi các quyền tự do dân chủ
như quyền sống, quyền tự do mưu cầu hạnh phúc, quyền bất
khả xâm phạm về thân thể…
+ Có sự tồn tại công khai của đảng cầm quyền, các đảng phái
độc lập và có tổ chức xã hội tiến bộ. Nguyên tắc
+ Nguyên tắc pháp chế tư sản được thực hiện như có thiết chế
giám sát hiến pháp bằng hệ thống tòa án tư pháp. - Chế độ quân phiệt
Là cơ chế sử dụng bạo lực của
các nhóm tư sản phản động lũng
đoạn. Đặc trưng của chế độ này là mọi quyền tự do, dân chủ
bị hạn chế tới mức tối đa; các đảng phái
chính trị và các tổ chức xã hội độc
lập bị đặt ra ngoài vòng pháp luật và bị đàn áp dã man, các thể
chế dân chủ bị vô hiệu
Biến dạng của chủ nghĩa quân phiệt là chế độ phát xít. Chế
độ phát xít xóa bỏ hoàn toàn các thể
chế dân chủ tư sản, cấm mọi tổ chức, đảng phái đối lập hoạt
động, thực hiện đàn áp dã man, khốc liệt đối với người tiến bộ
trong nước và thực hiện khủng bố tàn bạo với các dân tộc bị chúng xâm chiếm V. Kết Luận
Cũng như các kiểu nhà nước tồn tại trước đó, nhà nước tư sản là một nhà nước có giai
cấp, đồng thời, là người đại diện chính thức của toàn xã hội đảm đương các chức năng
công ích, xã hội; là bộ máy duy trì trật tự xã hội, điều hoà các mối quan hệ xã hội
chung của cả cộng đồng dân cư của quốc gia - dân tộc. Tuy nhiên, do nhà nước tư sản
hình thành trên một hình thái kinh tế - xã hội tiến bộ hơn, trong giai đoạn nền văn minh
nhân loại phát triển cao hơn, vì vậy, tính xã hội của nhà nước tư sản cũng phát triển sâu rộng hơn.