BỘ PHÁP
BÀI TẬP NHÓM
MÔN: LUẬT HÀNH CHÍNH
LỚP: 4916 NHÓM SỐ 6
Đề số 1:
Ngày 05/01/2025, Đội tuần tra đường bộ cao tốc số 4 (Cục cảnh sát giao thông, Bộ
Công an) nhận được clip từ camera hành trình ô tô do lái xe Trần M gửi đến, có hình ảnh
một nhóm người điều khiển xe máy không biển số trên cao tốc Nghi Sơn Diễn Châu,
đoạn qua tỉnh Nghệ An, trong ngày 26/12/2024. Sau khi xác minh, đã xác định có 10
thanh niên từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi điều khiển 5 xe mô dung tích xi-lanh từ 50cm3
trở lên, xe đăng ký tên cha, mẹ của các thanh niên này, nên tiến hành xử phạt theo quy
định của pháp luật.
1. Xác định các vi phạm hành chính trong vụ việc nêu trên.
2. Xác định hình thức, mức xử phạt vi phạm hành chính vụ việc trên.
3. Ai thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong vụ việc trên.
4. Thông tin từ camera hành trình của lái xe Trần M thể được sử dụng để xử phạt vi
phạm hành chính không?
5. Khi phát hiện có xe máy chạy trên cao tốc, Trần M đã điều khiển xe chạy trong làn
khẩn cấp để quay clip cung cấp cho công an. Hành vi của M vi phạm hành chính
không?
NỘI, 2025
BIÊN BẢN ĐÁNH QUÁ MỨC ĐỘ THAM GIA LÀM BÀI TẬP NHÓM
Ngày: / /2025 Địa điểm: Trường Đại học Luật Nội
Nhóm số: 06 Lp: 4916
Tổng số thành viên của nhóm: 10 Có mặt: Vắng mặt:
Môn học: Luật Hành chính Đề: 01
Bảng đánh giá:
STT
MSSV
HỌ N
XẾP
LOẠI
GHI CHÚ
TÊN
1.
241011813
Ngô Đức Thái
A
2.
241011807
Đặng Thị Kim Oanh
A
3.
241011811
Thị N Quỳnh
A
4.
241013460
Đỗ Đức Tài
A
5.
241011823
Nguyễn Khả
A
6.
241011822
Trịnh Thị Ánh Tuyết
A
7.
241011812
Lường Thanh n
A
8.
241011806
Trần Nguyn Hạnh Nhi
A
9.
241011810
Xuân Quang
A
10.
241011809
Phạm Phương
A
Nội, ngày tháng năm 2025
NHÓM TRƯỞNG
LỜI MỞ ĐẦU
Luật giao thông đường bộ một hệ thống các quy tắc quy định điều chỉnh hành
vi của người và phương tiện tham gia giao thông trên đường bộ nhằm đảm bảo trật tự, an
toàn giao thông, giảm thiểu tai nạn và ùn tắc, đồng thời bảo vệ kết cấu hạ tầng, cơ sở vật
chất. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện tại, thực trạng vi phạm nghiêm trọng các quy định về
an toàn giao thông của một bộ phận thanh thiếu niên đã cho thấy sự thiếu ý thức trong
chấp hành pháp luật, tiềm ẩn nguy gây tai nạn đặt ra bài toán về công tác quản trật
tự an toàn giao thông. Điển hình là vụ việc được ghi lại qua camera hành trình trên cao
tốc Nghi Sơn - Diễn Châu về một nhóm thanh niên điều khiển xe máy không có biển số
có dung tích xi-lanh từ 50cm3 trở lên. Đáng lưu ý, xe được đăng kí tên cha, mẹ của các
thanh thiếu niên này còn là vấn đề quản lí và giáo dục đối với người chưa thành niên.
Nhận thấy tính nghiêm trọng của trường hợp trên, với cương vị là một người học và
nghiên cứu Luật, nhóm chúng em đã tìm hiểu và phân tích trường hợp vi phạm trên về
nhiều khía cạnh, cũng như trách nhiệm liên quan các hình thức xừ phạt hợp dưới góc
độ của bộ môn Luật Hành chính.
NỘI DUNG
I. Nội dung tình huống
Ngày 05/01/2025, Đội tuần tra đường bộ cao tốc số 4 (Cục cảnh sát giao thông, Bộ
Công an) nhận được clip từ camera hành trình ô tô do lái xe Trần M gửi đến, có hình ảnh
một nhóm người điều khiển xe máy không biển số trên cao tốc Nghi Sơn Diễn Châu,
đoạn qua tỉnh Nghệ An, trong ngày 26/12/2024. Sau khi xác minh, đã xác định có 10
thanh niên từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi điều khiển 5 xe mô dung tích xi-lanh từ 50cm3
trở lên, xe đăng ký tên cha, mẹ của các thanh niên này, nên tiến hành xử phạt theo quy
định của pháp luật.
II. Giải quyết tình huống
Câu 1: Xác định các vi phạm hành chính trong vụ việc nêu trên?
Vi phạm hành chính được định nghĩa tại khoản 1 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành
chính năm 2012 (sửa đổi năm 2022) là: “Hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi
phạm quy định của pháp luật về quản nhà nước không phải tội phạm theo quy
định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.”
Hành vi này mang những đặc điểm pháp lý đặc trưng để phân biệt với các loại vi
phạm pháp luật khác. Trước hết, đây hành vi lỗi, được thực hiện một cách cố ý hoặc
ý bởi nhân hoặc tổ chức năng lực hành vi hành chính, tức khả năng nhận thức
và điều khiển hành vi của mình theo quy định pháp luật. Thứ hai, hành vi vi phạm hành
chính là hành vi trái pháp luật, xâm phạm đến các quy tắc quản lý nhà nước trong nhiều
lĩnh vực như trật tự an toàn giao thông, môi trường, thương mại, xây dựng, thuế, y tế...
Một đặc điểm quan trọng khác là vi phạm hành chính không phải là tội phạm – tức mức
độ nguy hiểm cho xã hội không nghiêm trọng đến mức phải bị truy cứu trách nhiệm hình
sự. Cuối cùng, hành vi vi phạm hành chính sẽ bị xử phạt bằng các chế tài hành chính như:
cảnh cáo, phạt tiền, tước quyền sử dụng giấy phép, trục xuất hoặc buộc thực hiện biện
pháp khắc phục hậu quả. Những đặc điểm này giúp xác định rõ ranh giới giữa vi phạm
hành chính và các hành vi vi phạm pháp luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
1
1
https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Giao-thong-Van-tai/Luat-giao-thong-duong-bo-2008-23-2008-QH12-
82203.aspx
Vận dụng các quy định pháp luật vào tình huống thực tế, căn cứ vào các hành vi vi
phạm và quy định hiện hành, cơ quan chức năng đã tiến hành lập hồ sơ xử lý vi phạm
hành chính theo đúng quy định pháp luật. Dựa vào tình huống và các quy định có liên
quan, xác định được bốn hành vi vi phạm hành chính rõ ràng, với cơ sở pháp lý cụ thể:
Thứ nhất, hành vi điều khiển xe mô tô đi vào đường cao tốc là vi phạm quy
định tại khoản 4 Điều 26 Luật giao thông đường bộ 2008: Người đi bộ, xe thô sơ, xe gắn
máy, xe máy kéo; xe máy chuyên dùng tốc độ thiết kế nhỏ hơn 70 km/h không
được đi vào đường cao tốc, trừ người, phương tiện, thiết bị phục vụ việc quản lý, bảo trì
đường cao tốc”. Trong tình huống này, việc nhóm thanh thiếu niên điều khiển mô tô lưu
thông trên cao tốc mà không thuộc diện ngoại lệ như quy định hành vi vi phạm rõ ràng
và bị xử phạt theo điểm b khoản 6 Điều 6 Nghị định 100/2019/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung
bởi Nghị định 123/2021/NĐ-CP).
Thứ hai, hành vi điều khiển xe tô không gắn biển số vi phạm quy định tại
khoản 3 Điều 53 Luật Giao thông đường bộ 2008: Xe cơ giới phải đăng ký và gắn biển
số do cơ quan nhà nước thẩm quyền cấp”. Biển số xe được gắn vào phương tiện giao
thông đường bộ theo quy định nhằm phục vụ công tác quản nhà nước và truy cứu trách
nhiệm khi có vi phạm xảy ra. Đây là hành vi vi phạm quy định về đăng ký xe và căn cứ
vào điểm c khoản 2 Điều 17 Nghị định 100/2019/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định
123/2021/NĐ-CP) để xử phạt đối với hành vi vi phạm này.
Thứ ba, nhóm thanh niên có hành vi điều khiển xe máy có dung tích xi-lanh
trên 50cm3 khi ca đủ tuổi vi phạm điểm a, b khoản 1 Điều 60 Luật giao thông đường
bộ 2008: Người đủ 16 tuổi trở lên được lái xe gắn máy có dung tích xi-lanh dưới 50cm3;
Người đủ 18 tuổi trở lên được lái xe mô tô hai bánh, xe mô ba bánh có dung tích xi-
lanh từ 50cm3 trở lên và các loại xe có kết cấu tương tự; xe ô tô tải, máy kéo có trọng tải
dưới 3.500 kg; xe ô tô chở người đến 9 chỗ ngồi”. Quy định này nhằm đảm bảo người
điều khiển phương tiện có đầy đủ nhận thức, k năng trách nhiệm phápkhi tham gia
giao thông. Nhóm thanh niên trên có độ tuổi từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi và bị xử phạt
theo điểm a khoản 4 Điều 21 Nghị định 100/2019/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định
123/2021/NĐ-CP).
Thứ tư, hành vi giao xe có dung tích trên 50cm3 cho người chưa đủ điều kiện
điều khiển phương tiện của cha mẹ tức người đứng tên đăng ký xe vi phạm khoản 10
Điều 8 Luật giao thông đường bộ 2008: Nghiêm cấm giao xe cơ giới, xe máy chuyên
dùng cho người không đủ điều kiện để điều khiển xe tham gia giao thông đường bộ”. Giao
xe cho người chưa đủ tuổi là hành động nguy hiểm gây ra nhiều tác hại nghiêm trọng.
Người chưa đủ tuổi thiếu kiến thức, kỹ năng kinh nghiệm, dễ gây tai nạn giao thông,
ảnh hưởng tiêu cực đến hội tạo gánh nặng cho gia đình. Hành vi trên bị xử theo
điểm đ khoản 5 Điều 30 Nghị định 100/2019/-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định
123/2021/NĐ-CP).
Thứ năm, nhóm thanh niên không giấy phép lái xe phù hợp căn cứ vào điểm
a, b khoản 1 Điều 60 Luật giao thông đường bộ 2008: Người đủ 16 tuổi trở lên được lái
xe gắn máy có dung tích xi-lanh dưới 50cm3; Người đủ 18 tuổi trở lên được lái xe mô
hai bánh, xe mô tô ba bánh có dung tích xi-lanh từ 50cm3 trở lên và các loại xe có kết
cấu tương tự”; điểm a khoản 2 Điều 59 Luật giao thông đường bộ 2008: “Giấy phép lái
xe hạng A1 cấp cho người lái xe mô tô hai bánh có dung tích xi-lanh từ 50cm3 đến dưới
175cm3” và tình huống đề bài nhóm thanh niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi điều khiển
xe máy có dung tích từ 50cm3 trở lên. Giấy phép lái xe có vai trò quan trọng, khẳng định
người lái đủ điều kiện để điều khiển phương tiện, giúp đảm bảo an toàn giao thông, giảm
thiểu rủi ro tai nạn do người lái thiếu năng lực hoặc không hiểu luật. Theo đó, hành vi này
phải chịu xử phạt theo điểm a khoản 5 Điều 21 Nghị định 100/2019/NĐ-CP (sửa đổi, bổ
sung bởi Nghị định 123/2021/NĐ-CP).
Việc xác định các vi phạm hành chính là căn c để xác định hình thức và mức xử
phạt được áp dụng cũng như thẩm quyền xử phạt trong vụ việc nhằm xác định đúng mức
độ vi phạm để đưa ra hình phạt tương xứng, đảm bảo sự minh bạch và bảo vệ quyền lợi
người bị xử phạt từ đó quyết định tính công bằng, hiệu quả của xử phạt hành chính.
Câu 2: Xác định hình thức, mức xử phạt vi phm hành chính vụ việc trên.
Theo điều 2 khoản 2 Luật xử vi phạm hành chính: Xử phạt vi phạm hành chính
việc người thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu
quả đối với nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của
pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính.”
Căn cứ theo khoản 1, Điều 21 Luật xử vi phạm hành chính 2012 (luật sửa đổi bổ
sung năm 2022). Trong xử phạt vi phạm hành chính, có 05 hình thức xử phạt, gồm: Cảnh
cáo; phạt tiền; tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình
chỉ hoạt động có thời hạn; tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử
dụng để vi phạm hành chính; trục xuất. Các hình thức xử phạt chính trong tình huống trên
được áp dụng theo Điều 23 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 (luật sửa đổi bổ sung
năm 2022) là phạt tiền.
Căn cứ vào thời điểm lái xe Trần M quay clip xảy ra vụ việc vào ngày 26/12/2024,
nghị định luật vẫn còn hiệu lực, nhóm sử dụng Nghị định 100/2019/NĐ-CP (sửa đổi, bổ
sung bởi Nghị định 123/2021/NĐ-CP, Luật xử lý vi phạm hành chính m 2012 (sửa đổi
bổ sung m 2022) và Luật Giao thông đường bộ 2008 còn hiệu lực để giải quyết vụ việc:
Căn cứ vào khoản 3, Điều 134 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi
bổ sung năm 2022): “Việc áp dụng hình thức xử phạt, quyết định mức xử phạt đối với
người chưa thành niên vi phạm hành chính phải nhẹ hơn so với người thành niên cùng
vi phạm hành chính. Trường hợp người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi vi phạm hành
chính bị phạt tiền thì mức tiền phạt không quá ½ mức tiền phạt áp dụng đối với người
thành niên; bị buộc phải nộp một khoản tiền tương đương giá trị tang vật, phương tiện vi
phạm hành chính vào ngân sách nhà nước, số tiền nộp vào ngân sách nhà nước bằng ½
giá trị tang vật, phương tiện vi phạm hành chính. Trường hợp không có tiền nộp phạt
hoặc không có khả năng thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả thì cha mẹ hoặc người
giám hộ thực hiện thay.
Theo quy định tại điểm b, khoản 6, Điều 6 Nghị định 100/2019/NĐ-CP (sửa đổi,
bổ sung bởi Nghị định 123/2021/NĐ-CP) “Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000
đồng đối với người điều khiển xe đi vào đường cao tốc, trừ xe phục vụ việc quản, bảo
trì đường cao tốc.
Theo quy định tại điểm c, khoản 2, điều 17 Nghị định 100/2019/NĐ-CP (sửa đổi,
bổ sung bởi Nghị định 123/2021/NĐ-CP) “Người điều khiển xe không gắn biển số (đối
với loại xe có quy định phải gắn biển số); gắn biển số không đúng với Giấy đăng ký xe
hoặc gắn biển số không do quan thẩm quyền cấp. Bị phạt tiền từ 800.000 đồng đến
1.000.000 đồng.”
Theo quy định tại điểm a, khoản 4, Điều 21 Nghị định 100/2019/NĐ-CP (sửa đổi,
bổ sung bởi Nghị định 123/2021/NĐ-CP) “Phạt tiền từ 400.000 đồng đến 600.000 đồng
đối với hành vi: người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi điều khiển xetô có dung tích xi
lanh từ 50cm3 trở lên.”
Theo quy định tại điểm a, khoản 5, Điều 21 nghị định 100/2019/NĐ-CP (sửa đối
bổ sung nghị định 123/2021/NĐ-CP) điểm a khoản 2 Điều 59 Luật giao thông đường
bộ 2008“xử phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với hành vi điều khiển
xe mô tô không có giấy phép lái xe.”
Theo quy định tại điểm đ khoản 5 Điều 30 Nghị định 100/2019/NĐ-CP (sửa đổi,
bổ sung bởi Nghị định 123/2021/NĐ-CP) “Giao xe hoặc để cho người không đủ điều kiện
theo quy định bị phạt tiền từ 800.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với cá nhân” Theo
khoản 1 Điều 58 Luật giao thông đường bộ 2008: “Người lái xe tham gia giao thông phải
đủ độ tuổi, sức khoẻ quy định tại Điều 60 của Luật này giấy phép lái xe phù hợp với
loại xe được phép điều khiển do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp.
Từ sở pháp trên, nhóm xin đưa ra mức xử phạt hành chính đối với các hành
vi vi phạm. Căn cứ vào khoản 1, Điều 5 Luật xử lí vi phạm hành chính 2012 (sửa đổi, bổ
sung bổ sung năm 2022): “Người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt hành chính về mọi vi
phạm hành chính.” Theo như tình huống đề bài thì nhóm thanh niên vi phạm hành chính
đã đạt độ tuổi từ đủ 16 trở lên nên phải chịu mọi trách nhiệm về vi phạm hành chính do
mình gây ra. Tuy nhiên căn cứ theo khoản 3, Điều 134 Luật xử lí vi phạm hành chính
2012 (sửa đổi bổ sung năm 2022): “người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi vi phạm hành
chính bị phạt tiền thì mức phạt không quá ½ mức tiền phạt áp dụng đối với người thành
niên…” điều này được thực hiện nhằm giáo dục, giúp đỡ người chưa thành niên sửa chữa
sai lầm, phát triển lành mạnh và giúp họ trở thành công dân có ích cho xã hội.
Thứ nhất, nhóm thanh niên này điều khiển xe máy vào đường cao tốc, theo điểm b,
khoản 6, Điều 6 Nghị định 100/2019/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định
123/2021/NĐ-CP) và khoản 4 Điều 26 Luật giao thông đường bộ năm 2008, hành vi điều
khiển xe máy (không phải là phương tiện thiết kế quản lí bảo trì đường cao tốc, đây là
tô, xe máy có tốc độ thiết kế nhỏ hơn 70km/h) vào cao tốc bị xử phạt từ 2.000.000 đồng
đến 3.000.000 đồng, tuy nhiên trong lúc sự kiện này xảy ra nhóm thanh niên này chỉ từ đủ
16 tuổi đến dưới 18 tuổi nên mức xử phạt không quá ½ mức tiền phạt áp dụng đối với
người trưởng thành nên mức hình phạt của từng người trong nhóm thanh niên này không
quá 1.250.000 đồng theo khoản 3, Điều 134 Luật xử vi phạm hành chính 2012 (sửa đổi,
bổ sung năm 2022).
Thứ hai, theo quy định tại khoản 3 Điều 53 Luật giao thông đường bộ 2008: “Xe
cơ giới phải đăng ký và gắn biển số do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp” nhóm
thanh niên điều khiển xe máy không gắn biển số, gắn biển không đúng với Giấy đăng ký
xe hoặc gắn biển số không do cơ quan có thẩm quyền cấp. Bị phạt tiền từ 800.000 đồng
đến 1.000.000 đồng điều này quy định tại điểm c, khoản 2, điều 17 Nghị định
100/2019/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 123/2021/NĐ-CP) hành vi của nhóm
thanh niên này diễn ra khi từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nên mức xử phạt được áp dụng
theo khoản 3 Điều 134 Luật xử vi phạm hành chính 2012 (sửa đổi bổ sung năm 2022).
Mức xử phạt đối với từng người không quá 450.000 đồng.
Thứ ba, nhóm thanh niên này điều khiển xe máy có dung tích từ 50cm3 trở lên
theo điểm a, khoản 4, Điều 21 Nghị định 100/2019/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị
định 123/2021/NĐ-CP) và điểm a, b khoản 1 Điều 60 Luật giao thông đường bộ 2008,
hành vi điều khiển xe tô, xe máy khi chưa đủ điều kiện về độ tuổi, giấy phép lái xe thì
bị xử phạt hành chính từ 400.000 đồng đến 600.000 đồng. Mức xử phạt trung bình
mỗi thanh niên phải chịu là 500.000 đồng.
Thứ tư, theo khoản 1 Điều 58 Luật giao thông đường bộ 2008: Nghiêm cấm giao
xe cơ giới, xe máy chuyên dùng cho người không đủ điều kiện để điều khiển xe tham gia
giao thông đường bộ” người được tham gia điều khiển xe máy (tham gia giao thông) phải
đủ độ tuổi và giấy phép lái xe từ từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp tuy nhiên hành
vi điều khiển xe của nhóm thanh niên này đã diễn ra khi chưa đủ độ tuổi điều khiển tô,
xe máy và chưa có giấy phép từ cơ quan thẩm quyền nên việc giao xe cho nhóm đối
tượng này của cha mẹ các em là hành vi vi phạm pháp luật về hành chính, điều này bị xử
phạt từ 800.000 đồng đến 2.000.000 đồng theo quy định tại điểm đ khoản 5 Điều 30 Nghị
định 100/2019/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi nghị định 123/2021/NĐ-CP). Mức xử phạt
đối với từng cá nhân phụ huynh là 1.400.000 đồng. Tuỳ vào mức độ vi phạm mà mức xử
phạt có thể tăng lên, thậm chí là bị xử lý hình sự nếu như gây ra hành vi chết người.
Thứ năm, hành vi điều khiển xe tô, xe máy của các thanh niên này xảy ra trong
tình trạng không có giấy phép lái xe. Vậy theo điểm a, khoản 5, Điều 21 nghị định
100/2019/NĐ-CP (sửa đối bổ sung nghị định 123/2021/NĐ-CP) và điểm a khoản 2 Điều
59 Luật giao thông đường bộ 2008, hành vi của nhóm thanh niên này phải chịu hình phạt
hành chính từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng. Tuy nhiên nhóm thanh niên này vẫn
chưa đủ tuổi thành niên nên hình phạt được áp dụng theo khoản 3, Điều 134. Hình phạt
dành cho từng người trong nhóm thanh niên này không quá 750.000.
Như vậy hình thức xử phạt chính áp dụng với các vi phạm hành chính trên hình
thức phạt tiền và tổng mức xử phạt hành chính đối với từng thanh niên sẽ không quá
2.950.000 đồng và mức xử phạt hành chính đối với bố mẹ (phụ huynh) của các thanh niên
đó 1.400.000 đồng tuỳ vào mức độ vi phạm mức xử phạt đối với bố mẹ (phụ huynh)
của các thanh niên này thể tang lên hoặc giảm xuống.
Câu 3: Ai thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong vụ việc trên.
Theo quy định của pháp luật, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính được giao
cho nhiều quan, chủ thể thẩm quyền khác nhau thực hiện. Đồng thời pháp luật cũng
quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính cụ thể của mỗi chức danh có thẩm
quyền xử phạt trong các cơ quan này.
2
Căn cứ theo các điều từ 38 đến 51 Luật xử lý vi
phạm hành chính 2012 (sửa đổi, bổ sung m 2022).
Căn cứ vào sự việc, ngày 05/01/2025, Đội tuần tra đường bộ cao tốc số 4 (Cục
Cảnh sát giao thông, Bộ Công an) nhận được clip từ camera hành trình ô tô do lái xe Trần
M gửi đến, có hình ảnh một nhóm người điều khiển xe máy không có biển số trên cao tốc
Nghi Sơn - Diễn Châu, đoạn qua tỉnh Nghệ An, trong ngày 26/12/2024. Sau khi xác minh,
đã xác định 10 thanh thiếu niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi điều khiển 5 xe
dung tích xi-lanh từ 50cm3 trở lên, xe đăng ký tên cha, mẹ các thanh thiếu niên này.
2
Trường đại học Luật Ni, Giáo trình Luật hành chính, NXB. pháp, Ni, 2024.
Thứ nhất, về nguyên tắc xác định thẩm quyền theo khoản 1 Điều 52 Luật xử lý vi
phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2022) quy định: “Thẩm quyền xử phạt
vi phạm hành chính của những người được quy định tại các điều từ 38 đến 51 của Luật
này là thẩm quyền áp dụng đối với một một hành vi vi phạm hành chính của cá nhân;
trong trường hợp phạt tiền, thẩm quyền xử phạt tổ chức gấp 02 lần thẩm quyền xử phạt
cá nhân và được xác định theo tỷ lệ phần trăm quy định tại Luật này đối với chức danh
đó.” Trong tình huống được nêu ở đề bài, clip do lái xe Trần M ghi lại có hình ảnh một
nhóm gồm 10 người điều khiển xe máy có dung tích xi - lanh từ 50cm3 trở lên, không
biển số trên cao tốc, độ tuổi từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Theo khoản 7 Điều 2 Luật xử
lý vi phạm hành chính 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2022) quy định: “Vi phạm hành chính
có tổ chức là trường hợp nhân, tổ chức câu kết với cá nhân, tổ chức khác để cùng thực
hiện hành vi vi phạm hành chính.” Về bản chất, hành vi có tổ chức thể hiện ở một hoặc
nhiều yếu tố như: có sự bàn bạc, phối hợp thực hiện, hành vi được thực hiện có mục đích,
kế hoạch cụ thể. Các nhân liên kết vi nhau một cách chủ động nhằm thực hiện hành vi
vi phạm pháp luật. Đối chiếu với hành vi của nhóm thanh niên thì chưa đủ cơ sở rõ ràng
để kết luận đây là hành vi vi phạm hành chính có tổ chức nếu chỉ dựa trên việc nhiều
người cùng vi phạm tại một thời điểm. Vì vậy, trường hợp trên không áp dụng thẩm
quyền xử phạt đối với hành vi vi phạm hành chính tổ chức cũng không áp dụng tình
tiết tăng nặng đối với vụ việc này.
Thứ hai, căn cứ theo khoản 2 Điều 52 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 (sửa
đổi, bổ sung 2022) quy định: Thẩm quyền phạt tiền quy định tại khoản 1 Điều này được
xác định căn cứ vào mức tối đa của khung tiền phạt quy định đối với từng hành vi vi
phạm cụ thể.Căn cứ theo Điều 76 Nghị định số 100/2019/NĐ-CP (sửa đổi, bổ Nghị
định 123/2021/NĐ-CP) về thẩm quyền xử phạt của Công an nhân dân quy định:
“4. Trưởng Công an cấp huyện; Trưởng phòng nghiệp vụ thuộc Cục Cảnh sát giao
thông; Trưởng phòng Công an cấp tỉnh gồm Trưởng phòng Cảnh sát quản hành chính
về trật tự hội, Trưởng phòng Cảnh sát giao thông, Trưởng phòng Cảnh sát giao thông
đường bộ - đường sắt; Thủ trưởng đơn vị Cảnh sát động từ cấp đại đội trở lên,
quyền:
b) Phạt tiền đến 8.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm trong lĩnh vực giao thông đường
bộ và 15.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm trong lĩnh vực giao thông đường sắt;”
Căn cứ vào khung hình phạt câu 2, cụ thể: Thứ nhất, nhóm thanh niên này điều
khiển xe máy vào đường cao tốc, theo điểm b, khoản 6, Điều 6 Nghị định 100/2019/NĐ-
CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 123/2021/NĐ-CP) Khoản 4 Điều 26 Luật giao
thông đường bộ m 2008: “Hành vi điều khiển xe máy (không phải phương tiện thiết
kế quản lý bảo trì đường cao tốc, đây mô tô, xe máy có tốc độ thiết kế nhỏ hơn 70km/h)
vào cao tốc bị xử phạt từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng.”. Thứ hai, theo quy định
tại khoản 3 Điều 53 Luật giao thông đường bộ 2008: “Xe giới phải đăng gắn
biển số do quan nhà ớc thẩm quyền cấp” nhóm thanh niên điều khiển xe máy
không gắn biển số, gắn biển không đúng với Giấy đăng xe hoặc gắn biển số không do
quan thẩm quyền cấp. Bị phạt tiền từ 800.000 đồng đến 1.000.000 đồng điều này
quy định tại điểm c, khoản 2, Điều 17 Nghị định 100/2019/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi
Nghị định 123/2021/NĐ-CP). Thứ ba, nhóm thanh niên này điều khiển xe máy dung
tích từ 50cm3 trở lên theo điểm a, khoản 4, Điều 21 Nghị định 100/2019/NĐ-CP (sửa đổi,
bổ sung bởi Nghị định 123/2021/NĐ-CP) điểm a, b khoản 1 Điều 60 Luật giao thông
đường bộ 2008, hành vi điều khiển xe tô, xe máy khi chưa đủ điều kiện vđộ tuổi,
giấy phép lái xe thì bị xử phạt hành chính từ 400.000 đồng đến 600.000 đồng. Thứ ,
hành vi điều khiển xe mô tô, xe máy của các thanh niên này xảy ra trong tình trạng không
giấy phép lái xe. Vậy theo điểm a, khoản 5, Điều 21 nghị định 100/2019/NĐ-CP (sửa
đổi bổ sung nghị định 123/2021/NĐ-CP) điểm a khoản 2 Điều 59 Luật giao thông
đường bộ 2008, hành vi của nhóm thanh niên này phải chịu hình phạt hành chính từ
1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng.
Cụ thể, trong các lỗi các thanh thiếu niên này vi phạm thì lỗi điều khiển xe máy
vào đường cao tốc bị xphạt với khung hình phạt từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng
(theo điểm b, khoản 6, Điều 6 Nghị định 100/2019/NĐ-CP). Nếu người xử phạt chỉ
thẩm quyền xử phạt vi số tiền không quá 2.500.000 đồng (dụ như Trưởng Công an
cấp huyện theo Điều 39 Luật xử vi phạm hành chính 2012), thì không được áp dụng
mức phạt 3.000.000 đồng mà chỉ được áp dụng mức trong giới hạn thẩm quyền của mình.
Để ra quyết định xử phạt mức cao nhất của khung (3.000.000 đồng), thẩm quyền xử
phạt phải thuộc về người thẩm quyền cao hơn, theo quy định tại Điều 39 Luật Xử vi
phạm hành chính 2012. Như vậy, mức cao nhất của khung hình phạt 3.000.000 đồng
đối với hành vi điều khiển xe trên đường cao tốc.
3
Theo khoản 2 Điều 74 Nghị định
100/2019/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 123/2021/NĐ-CP) thì những vi phạm
hành chính nêu trên đều thuộc thẩm quyền xử vi phạm hành chính của Cảnh sát giao
thông. Như vậy, căn cứ vào các căn cứ pháp lý nêu trên thì thẩm quyền xử phạt hành vi vi
phạm hành chính của nhóm thanh niên trên thuộc về Trưởng phòng nghiệp vụ thuộc Cục
cảnh sát giao thông - Bộ Công an hoặc thể Trưởng phòng Cảnh sát giao thông thuộc
Công an Tỉnh/TP trực thuộc TW nơi xảy ra vi phạm tỉnh Nghệ An. (khoản 4 Điều 76
Nghị định 100/2019/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 123/2021/NĐ-CP).
Ngoài ra, trong tình huống nêu trên, cha mẹ người đứng tên trong giấy đăng
xe mô đã giao xe cho con từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi điều khiển xe trên 50cm³
chưa giấy phép lái xe hợp lệ, vi phạm quy định về điều kiện điều khiển phương tiện
giao thông. Cụ thể theo Khoản 1 Điều 58 Luật giao thông đường bộ 2008: Nghiêm cấm
giao xe giới, xe máy chuyên dùng cho người không đủ điều kiện để điều khiển xe tham
gia giao thông đường bộ”. Hành vi này bị xử phạt từ 800.000 đồng đến 2.000.000 đồng
theo quy định tại điểm đ Khoản 5 Điều 30 Nghị định 100/2019/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung
bởi nghị định 123/2021/NĐ-CP). Mức xử phạt đối với từng nhân phụ huynh
1.400.000 đồng. Những vi phạm hành chính trên đều thuộc thẩm quyền xử vi phạm
hành chính của Cảnh sát giao thông căn cứ theo khoản 2 Điều 74 Nghị định
100/2019/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 123/2021/NĐ-CP). Đối với mức xử
phạt này thẩm quyền xử phạt thuộc về Trưởng phòng nghiệp vụ thuộc Cục cảnh sát giao
thông - Bộ Công an hoặc Trưởng phòng cảnh sát giao thông thuộc Công an Tỉnh /TP trực
thuộc TW nơi xảy ra vi phạm là tỉnh Nghệ An.
Từ những kết luận trên thể thấy rằng thẩm quyền xử vi phạm hành chính
trong vụ việc này thể thuộc về 2 ngưi đó Trưởng phòng nghiệp vụ thuộc Cục cảnh sát
giao thông - Bộ Công an hoặc Trưởng phòng cảnh sát giao thông thuộc Công an tỉnh
Nghệ An. Nhưng thể thấy rằng Đội tuần tra đường bộ cao tốc số 4 (Cục Cảnh sát giao
thông - Bộ Công an) lực lượng đã tiếp nhận vụ việc đầu tiên nên thẩm quyền xử vi
3
https://laodongcongdoan.vn/ai-co-tham-quyen-xu-phat-vi-pham-giao-thong-109635.html
phạm hành chính trong vụ việc này thuộc về Trưởng phòng nghiệp vụ thuộc Cục Cảnh sát
giao thông - Bộ Công an.
Câu 4: Thông tin từ camera hành trình của lái xe Trần M thể được sử dụng để xử
phạt vi phạm hành chính không?
Cơ quan thẩm quyền tiếp nhận video của Trần M cung cấp vào ngày 05/1/2025
theo khoản 1 Điều 64 luật Xử lý vi phạm hành chính (sửa đổi, bổ sung 2022): “Cơ quan,
người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính , cá nhân , tổ chức được giao quản
phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ được sử dụng phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ để
phát hiện vi phạm hành chính về trật tự an toàn giao thông, bảo vệ môi trường, phòng
cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ, phòng chống ma túy, phòng, chống tác hại của rượu
bia, tần số vô tuyến điện và các lĩnh vực khác do Chính phủ quy định sau khi được sự
đồng ý của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.” Do vậy CSGT có thể sử dụng hình ảnh, video
do cá nhân, tổ chức cung cấp để làm căn cứ xử phạt vi phạm hành chính, với điều kiện
các bằng chứng này phải đảm bảo tính chính xác, khách quan, và có thông tin rõ ràng về
thời gian, địa điểm xảy ra vi phạm. Tuy nhiên trước khi ra quyết định xử phạt, quan
thẩm quyền phải tiến hành xác minh tính xác thực của các bằng chứng này.
Căn cứ vào Điều 17 nghị định 135/2021/NĐ-CP:
“1. Yêu cầu về dữ liệu thu được từ phương tiện, thiết bị kỹ thuật:
a) Thuộc lĩnh vực quản nhà nước theo quy định tại khoản 1 Điều 64 Luật Xử vi
phạm hành chính;
b) Không xâm phạm quyền tự do, danh dự, nhân phẩm, đời sống riêng tư,mật nhân,
các quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân và tổ chức theo quy định của pháp luật;
c) Phản ánh khách quan, chính xác, trung thực về hành vi vi phạm, thời gian, địa điểm
xảy ra vi phạm;
d) Đáp ứng yêu cầu về thời hạn sử dụng theo quy định tại khoản 3 Điều 14 Nghị định
này.
2. Dữ liệu thu được từ phương tiện, thiết bị kỹ thuật do nhân, tổ chức cung cấp, nếu
đáp ứng được yêu cầu quy định tại khoản 1 Điều này thì được sử dụng làm căn cứ xác
minh, phát hiện vi phạm xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật”.
Cung cấp dữ liệu thu được từ phương tiện, thiết bị kỹ thuật được quy định tại Điều
16 Nghị định 135/2021/NĐ-CP, cụ thể như sau:
“Cung cấp dữ liệu thu được từ phương tiện, thiết bị kỹ thuật
1. Dữ liệu do nhân, tổ chức thu được từ phương tiện, thiết bị kỹ thuật cung cấp cho
quan, đơn vị, người có thẩm quyền xử phạt bằng một trong các hình thức sau:
a) Trực tiếp đến trụ sở quan, đơn vị của người thẩm quyền hoặc hiện trường xảy ra
vụ việc để cung cấp;
b) Thư điện tử, cổng thông tin điện tử hoặc trang thông tin điện tử, số điện thoại đường
dây nóng;
c) Dịch vụ bưu chính;
d) Kết nối, chia sẻ dữ liệu.”
Qua đối chiều vi các yêu cầu, quy định của pháp luật về dữ liệu điện tử, hình ảnh,
video làm bằng chứng. Có thể thấy clip anh Trần M sử dụng để cung cấp cho quan
có thẩm quyền đã đáp ứng được các yêu cầu, quy định về mặt nội dung và hình thức nêu
trên.
Trong trường hợp này không thể sử dụng Nghị định 168/2024/NĐ-CP vào xử lý vi
phạm hành chính vì vmặt thời gian: thời điểm Nghị định 168/2024/NĐ-CP ban hành
ng thời điểm xảy ra vi phạm hành chính nhưng nghị định 168 lại chưa có hiệu lực vì
Nghị định 168/2024/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/01/2025 thời điểm sau khi xảy ra vi
phạm nên không được áp dụng Nghị định 168/2024/NĐ-CP vào xử vi phạm hành chính
trong trường hợp này.
Như vậy, theo khoản 1 Điều 64 Luật Xử vi phạm hành chính m 2012 (sửa đổi,
bổ sung 2022), Điều 17 Nghị định 135/2021/NĐ-CP, Điều 74 Luật Xử phạt vi phạm hành
chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2022), có thể thấy rằng clip mà Trần M cung cấp
đã phù hợp những yêu cầu tại Điều 17 Nghị định 135/2021/NĐ-CP, Điều 16 Nghị định
135/2021/NĐ-CP và đội tuần tra đường bộ cao tốc số 4 (Cục Cảnh sát giao thông, Bộ
Công an) đã nhận được clip vào ngày 05/01/2025, chỉ cách ngày 26/12/2024 vài ngày.
Dựa vào hai điều trên, ta thể khẳng định rằng thông tin từ Camera hành trình của lái xe
Trần M có thể được áp dụng để xử lý vi phạm hành chính.
Câu 5: Khi phát hiện có xe máy chạy trên cao tc, Trần M đã điều khiển xe chạy
trong n khẩn cấp để quay clip cung cấp cho công an. Hành vi của M vi phạm
hành chính không?
Hành vi của Trần M được phát hiện trên cơ sở video từ camera hành trình xe M
được coi hình ảnh, video do nhân, tổ chức cung cấp để làm căn cứ xử phạt vi phạm
hành chính, cần phải tiến hành xác minh tính xác thực của các bằng chứng này. Căn cứ
theo Điều 6 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 sửa đổi năm 2021 quy định về nguồn
chứng cứ trong xử phạt vi phạm hành chính, trong để dữ liệu điện tử, hình ảnh, video là
bằng chứng hợp pháp.
quan thẩm quyền tiếp nhận video của Trần M cung cấp vào ngày 05/01/2025
về vụ việc xảy ra vào ngày 26/12/2024, có hình ảnh một nhóm người điều khiển xe máy
không có biển số trên cao tốc Nghi Sơn – Diễn Châu, đoạn qua tỉnh Nghệ An khi đó thời
điểm xảy ra vụ việc trên Nghị định 168 chưa có hiệu lực do vậy phải sử dụng nghị định
100/2019/NĐ-CP (sửa đổi nghị định 123/2021/NĐ-CP). Theo đó tại khoản 11 Điều 80
Nghị định 100/2019/NĐ-CP quy định: Người có thẩm quyền xử phạt được sử dụng các
thông tin, hình ảnh thu được từ thiết bị ghi âm, ghi hình của nhân, tổ chức cung cấp để
làm căn cứ xác minh, phát hiện hành vi vi phạm quy định đại Nghị định này.
Do vậy CSGT thể sử dụng hình ảnh, video do cá nhân, tổ chức cung cấp đề làm
căn cứ xử phạt vi phạm hành chính, với điều kiện các bằng chứng này phải đảm bảo tính
chính xác, khách quan, và thông tin ràng về thời gian, địa điểm xảy ra phạm. Căn
cứ theo Điều 26 Luật Giao thông đường bộ 2008: “Làn khẩn cấp trên đường cao tốc chỉ
được sử dụng trong các trường hợp như xe gặp sự cố, xe cứu thương, cứu hỏa, hoặc các
trường hợp khẩn cấp khác. Người điều khiển phương tiện không được tự ý đi vào làn
khẩn cấp nếu không thuộc các trường hợp nêu trên”. vậy, Trần M điều khiển xe đi vào
làn khẩn cấp nhưng không thuộc diện khẩn cấp để quay clip là vi phạm quy định về sử
dụng làn đường. Điều đó cho thấy rằng hành vi của Trần M điều khiển ô vào làn khẩn
cấp để quay clip là hành vi vi phạm hành chính.
Căn cứ vào Nghị định số 123/2021/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định số 100/2019/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ và đường sắt:
Điểm b khoản 6 Điều 5 Nghị định 100/2019/NĐ-CP: Dừng xe, đỗ xe trên đường
cao tốc không đúng nơi quy định; không có o hiệu để người lái xe khác biết khi buộc
phải dừng xe, đỗ xe trên đường cao tốc không đúng nơi quy định; quay đầu xe trên đưng
cao tốc
Điểm g khoản 5 Điều 5 Nghị định 100/2019--CP: "Không tuân thủ các quy
định khi vào hoặc ra đường cao tốc; điều khiến xe chạy làn dừng xe khẩn cấp hoặc
phần lề đường của đường cao tốc; chuyển làn đường không đúng nơi cho phép hoặc
không có tín hiệu báo trước khi chạy trên đường cao tốc; không tuân thủ quy định về
khoảng cách an toàn đối với xe chạy liền trước khi chạy trên đường cao tốc”.
Hành vi của Trần M điều khiển xe ô đi vào làn dừng xe khẩn cấp trên đường cao
tốc Nghi Sơn – Diễn Châu không thuộc trường hợp khẩn cấp là vi phạm quy định của
pháp luật giao thông đường bộ và có thể bị xử phạt theo quy định tại Nghị định
100/2019/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 123/2021/NĐ-CP). Tuy nhiên, xét về
mục đích của hành vi là nhằm ghi lại hình ảnh, cung cấp bằng chứng hỗ trợquan chức
năng xử lý vi phạm của các đối tượng khác, Trần M đã thể hiện sự hợp tác, chủ động,
thành thật và có tinh thần trách nhiệm. Do đó, hành vi này có thể được xem xét áp dụng
các tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 9 Luật Xử vi phạm hành chính năm 2012 (sửa
đổi, bổ sung năm 2022): Người vi phạm hành chính đã tự nguyện khai báo, thành thật
hối lỗi; tích cực giúp đỡ cơ quan chức năng phát hiện vi phạm hành chính, xử lý vi phạm
hành chính.”
Việc xử hành vi vi phạm của Trần M cần được tiến hành đúng quy định, khách
quan, đồng thời cân nhắc đến động cơ, hậu quả và tinh thần hợp tác để đảm bảo sự công
bằng và hợp lý trong việc áp dụng pháp luật.
Kết luận
Vụ việc trên không chỉ phản ánh hành vi vi phạm pháp luật của nhóm thanh thiếu
niên, sự thiếu trách nhiệm của các bậc phụ huynh trong giáo dục quản còn việc
thiếu ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận giới trẻ ngày nay, tiềm ẩn nguy cơ gây
tai nạn dẫn đến những hậu quả đáng tiếc. Không những vậy, tình trạng vi phạm giao
thông của lứa tuổi này tạo ra những mối nguy hiểm tiềm ẩn cho xã hội. Việc xử nghiêm
minh và kịp thời các trường hợp đó không chỉ nhằm mục đích răn đe mà còn là bài học
giáo dục về ý thức pháp luật, góp phần xây dựng một môi trường tham gia giao thông an
toàn và văn minh hơn. Đồng thời, ngoài việc xử phạt, đây cũng là bài học đắt giá về sự
phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc quản lí, hình thành nhận thức
trong giới trẻ thời đại ngày nay.
III. Danh mục tài liệu tham khảo
A. GIÁO TRÌNH, SÁCH THAM KHẢO
1. Trường Đại học Lut Nội, Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, NXB.
Tư pháp, Hà Nội, 2024.
2. Luật xử vi phạm nh chính sửa đổi, bổ sung m 2022, NXB Lao động.
3. Luật giao thông đường bộ 2008, NXB chính trị quốc gia sự thật.
B. TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN
4. Nghị định số 100/2019/NĐ-CP của Chính phủ: Quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt.
5. Nghị định số 123/2021/NĐ-CP của Chính phủ: Sửa đổi, bổ sung một sđiều
của các Nghị định quy định xử phạt vi phạm nh chính trong lĩnh vực hàng
hải; giao thông đường bộ, đường sắt; hàng không n dụng.
6. Nghị định số 135/2021/NĐ-CP ca Chính phủ: Quy định vdanh mục, việc
quản , sử dụng phương tiện, thiết b kthut nghiệp vụ quy trình thu
thập, sử dụng dliệu thu được tphương tin, thiết bkthuật do nhân,
tổ chức cung cấp để phát hin vi phạm hành chính.
7. https://laodongcongdoan.vn/ai-co-tham-quyen-xu-phat-vi-pham-giao-thong-
109635.html

Preview text:

BỘ TƯ PHÁP BÀI TẬP NHÓM
MÔN: LUẬT HÀNH CHÍNH
LỚP: 4916 – NHÓM SỐ 6 Đề số 1:
Ngày 05/01/2025, Đội tuần tra đường bộ cao tốc số 4 (Cục cảnh sát giao thông, Bộ
Công an) nhận được clip từ camera hành trình ô tô do lái xe Trần M gửi đến, có hình ảnh
một nhóm người điều khiển xe máy không có biển số trên cao tốc Nghi Sơn – Diễn Châu,
đoạn qua tỉnh Nghệ An, trong ngày 26/12/2024. Sau khi xác minh, đã xác định có 10
thanh niên từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi điều khiển 5 xe mô tô có dung tích xi-lanh từ 50cm3
trở lên, xe đăng ký tên cha, mẹ của các thanh niên này, nên tiến hành xử phạt theo quy định của pháp luật.
1. Xác định các vi phạm hành chính trong vụ việc nêu trên.
2. Xác định hình thức, mức xử phạt vi phạm hành chính vụ việc trên.
3. Ai có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong vụ việc trên.
4. Thông tin từ camera hành trình của lái xe Trần M có thể được sử dụng để xử phạt vi phạm hành chính không?
5. Khi phát hiện có xe máy chạy trên cao tốc, Trần M đã điều khiển xe chạy trong làn
khẩn cấp để quay clip cung cấp cho công an. Hành vi của M có vi phạm hành chính không? HÀ NỘI, 2025
BIÊN BẢN ĐÁNH QUÁ MỨC ĐỘ THAM GIA LÀM BÀI TẬP NHÓM Ngày: / /2025
Địa điểm: Trường Đại học Luật Hà Nội Nhóm số: 06 Lớp: 4916
Tổng số thành viên của nhóm: 10 Có mặt: Vắng mặt:
Môn học: Luật Hành chính Đề: 01 Bảng đánh giá: XẾP STT MSSV HỌ VÀ TÊN GHI CHÚ KÝ TÊN LOẠI 1. 241011813 Ngô Đức Thái A 2. 241011807 Đặng Thị Kim Oanh A 3. 241011811 Lê Thị Như Quỳnh A 4. 241013460 Đỗ Đức Tài A 5. 241011823 Nguyễn Khả Tú A 6. 241011822 Trịnh Thị Ánh Tuyết A 7. 241011812 Lường Lê Thanh Sơn A 8. 241011806 Trần Nguyễn Hạnh Nhi A 9. 241011810 Vũ Xuân Quang A 10. 241011809 Phạm Hà Phương A
Hà Nội, ngày tháng năm 2025 NHÓM TRƯỞNG LỜI MỞ ĐẦU
Luật giao thông đường bộ là một hệ thống các quy tắc và quy định điều chỉnh hành
vi của người và phương tiện tham gia giao thông trên đường bộ nhằm đảm bảo trật tự, an
toàn giao thông, giảm thiểu tai nạn và ùn tắc, đồng thời bảo vệ kết cấu hạ tầng, cơ sở vật
chất. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện tại, thực trạng vi phạm nghiêm trọng các quy định về
an toàn giao thông của một bộ phận thanh thiếu niên đã cho thấy sự thiếu ý thức trong
chấp hành pháp luật, tiềm ẩn nguy cơ gây tai nạn và đặt ra bài toán về công tác quản lí trật
tự an toàn giao thông. Điển hình là vụ việc được ghi lại qua camera hành trình trên cao
tốc Nghi Sơn - Diễn Châu về một nhóm thanh niên điều khiển xe máy không có biển số
có dung tích xi-lanh từ 50cm3 trở lên. Đáng lưu ý, xe được đăng kí tên cha, mẹ của các
thanh thiếu niên này còn là vấn đề quản lí và giáo dục đối với người chưa thành niên.
Nhận thấy tính nghiêm trọng của trường hợp trên, với cương vị là một người học và
nghiên cứu Luật, nhóm chúng em đã tìm hiểu và phân tích trường hợp vi phạm trên về
nhiều khía cạnh, cũng như trách nhiệm liên quan và các hình thức xừ phạt hợp lí dưới góc
độ của bộ môn Luật Hành chính. NỘI DUNG
I. Nội dung tình huống
Ngày 05/01/2025, Đội tuần tra đường bộ cao tốc số 4 (Cục cảnh sát giao thông, Bộ
Công an) nhận được clip từ camera hành trình ô tô do lái xe Trần M gửi đến, có hình ảnh
một nhóm người điều khiển xe máy không có biển số trên cao tốc Nghi Sơn – Diễn Châu,
đoạn qua tỉnh Nghệ An, trong ngày 26/12/2024. Sau khi xác minh, đã xác định có 10
thanh niên từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi điều khiển 5 xe mô tô có dung tích xi-lanh từ 50cm3
trở lên, xe đăng ký tên cha, mẹ của các thanh niên này, nên tiến hành xử phạt theo quy định của pháp luật.
II. Giải quyết tình huống
Câu 1: Xác định các vi phạm hành chính trong vụ việc nêu trên?
Vi phạm hành chính được định nghĩa tại khoản 1 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành
chính năm 2012 (sửa đổi năm 2022) là: “Hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi
phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy
định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.”
Hành vi này mang những đặc điểm pháp lý đặc trưng để phân biệt với các loại vi
phạm pháp luật khác. Trước hết, đây là hành vi có lỗi, được thực hiện một cách cố ý hoặc
vô ý bởi cá nhân hoặc tổ chức có năng lực hành vi hành chính, tức có khả năng nhận thức
và điều khiển hành vi của mình theo quy định pháp luật. Thứ hai, hành vi vi phạm hành
chính là hành vi trái pháp luật, xâm phạm đến các quy tắc quản lý nhà nước trong nhiều
lĩnh vực như trật tự an toàn giao thông, môi trường, thương mại, xây dựng, thuế, y tế...
Một đặc điểm quan trọng khác là vi phạm hành chính không phải là tội phạm – tức mức
độ nguy hiểm cho xã hội không nghiêm trọng đến mức phải bị truy cứu trách nhiệm hình
sự. Cuối cùng, hành vi vi phạm hành chính sẽ bị xử phạt bằng các chế tài hành chính như:
cảnh cáo, phạt tiền, tước quyền sử dụng giấy phép, trục xuất hoặc buộc thực hiện biện
pháp khắc phục hậu quả. Những đặc điểm này giúp xác định rõ ranh giới giữa vi phạm
hành chính và các hành vi vi phạm pháp luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam.1
1 https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Giao-thong-Van-tai/Luat-giao-thong-duong-bo-2008-23-2008-QH12- 82203.aspx
Vận dụng các quy định pháp luật vào tình huống thực tế, căn cứ vào các hành vi vi
phạm và quy định hiện hành, cơ quan chức năng đã tiến hành lập hồ sơ xử lý vi phạm
hành chính theo đúng quy định pháp luật. Dựa vào tình huống và các quy định có liên
quan, xác định được bốn hành vi vi phạm hành chính rõ ràng, với cơ sở pháp lý cụ thể:
Thứ nhất, hành vi điều khiển xe mô tô đi vào đường cao tốc là vi phạm quy
định tại khoản 4 Điều 26 Luật giao thông đường bộ 2008: “Người đi bộ, xe thô sơ, xe gắn
máy, xe mô tô và máy kéo; xe máy chuyên dùng có tốc độ thiết kế nhỏ hơn 70 km/h không
được đi vào đường cao tốc, trừ người, phương tiện, thiết bị phục vụ việc quản lý, bảo trì
đường cao tốc”. Trong tình huống này, việc nhóm thanh thiếu niên điều khiển mô tô lưu
thông trên cao tốc mà không thuộc diện ngoại lệ như quy định là hành vi vi phạm rõ ràng
và bị xử phạt theo điểm b khoản 6 Điều 6 Nghị định 100/2019/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung
bởi Nghị định 123/2021/NĐ-CP).
Thứ hai, hành vi điều khiển xe mô tô không gắn biển số vi phạm quy định tại
khoản 3 Điều 53 Luật Giao thông đường bộ 2008: “Xe cơ giới phải đăng ký và gắn biển
số do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp”. Biển số xe được gắn vào phương tiện giao
thông đường bộ theo quy định nhằm phục vụ công tác quản lý nhà nước và truy cứu trách
nhiệm khi có vi phạm xảy ra. Đây là hành vi vi phạm quy định về đăng ký xe và căn cứ
vào điểm c khoản 2 Điều 17 Nghị định 100/2019/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định
123/2021/NĐ-CP) để xử phạt đối với hành vi vi phạm này.
Thứ ba, nhóm thanh niên có hành vi điều khiển xe máy có dung tích xi-lanh
trên 50cm3 khi chưa đủ tuổi vi phạm điểm a, b khoản 1 Điều 60 Luật giao thông đường
bộ 2008: “Người đủ 16 tuổi trở lên được lái xe gắn máy có dung tích xi-lanh dưới 50cm3;
Người đủ 18 tuổi trở lên được lái xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh có dung tích xi-
lanh từ 50cm3 trở lên và các loại xe có kết cấu tương tự; xe ô tô tải, máy kéo có trọng tải
dưới 3.500 kg; xe ô tô chở người đến 9 chỗ ngồi”. Quy định này nhằm đảm bảo người
điều khiển phương tiện có đầy đủ nhận thức, kỹ năng và trách nhiệm pháp lý khi tham gia
giao thông. Nhóm thanh niên trên có độ tuổi từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi và bị xử phạt
theo điểm a khoản 4 Điều 21 Nghị định 100/2019/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 123/2021/NĐ-CP).
Thứ tư, hành vi giao xe có dung tích trên 50cm3 cho người chưa đủ điều kiện
điều khiển phương tiện của cha mẹ tức người đứng tên đăng ký xe vi phạm khoản 10
Điều 8 Luật giao thông đường bộ 2008: “Nghiêm cấm giao xe cơ giới, xe máy chuyên
dùng cho người không đủ điều kiện để điều khiển xe tham gia giao thông đường bộ”. Giao
xe cho người chưa đủ tuổi là hành động nguy hiểm gây ra nhiều tác hại nghiêm trọng.
Người chưa đủ tuổi thiếu kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm, dễ gây tai nạn giao thông,
ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội và tạo gánh nặng cho gia đình. Hành vi trên bị xử lí theo
điểm đ khoản 5 Điều 30 Nghị định 100/2019/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 123/2021/NĐ-CP).
Thứ năm, nhóm thanh niên không có giấy phép lái xe phù hợp căn cứ vào điểm
a, b khoản 1 Điều 60 Luật giao thông đường bộ 2008: “Người đủ 16 tuổi trở lên được lái
xe gắn máy có dung tích xi-lanh dưới 50cm3; Người đủ 18 tuổi trở lên được lái xe mô tô
hai bánh, xe mô tô ba bánh có dung tích xi-lanh từ 50cm3 trở lên và các loại xe có kết
cấu tương tự”; điểm a khoản 2 Điều 59 Luật giao thông đường bộ 2008: “Giấy phép lái
xe hạng A1 cấp cho người lái xe mô tô hai bánh có dung tích xi-lanh từ 50cm3 đến dưới
175cm3” và tình huống đề bài nhóm thanh niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi điều khiển
xe máy có dung tích từ 50cm3 trở lên. Giấy phép lái xe có vai trò quan trọng, khẳng định
người lái đủ điều kiện để điều khiển phương tiện, giúp đảm bảo an toàn giao thông, giảm
thiểu rủi ro tai nạn do người lái thiếu năng lực hoặc không hiểu luật. Theo đó, hành vi này
phải chịu xử phạt theo điểm a khoản 5 Điều 21 Nghị định 100/2019/NĐ-CP (sửa đổi, bổ
sung bởi Nghị định 123/2021/NĐ-CP).
Việc xác định các vi phạm hành chính là căn cứ để xác định hình thức và mức xử
phạt được áp dụng cũng như thẩm quyền xử phạt trong vụ việc nhằm xác định đúng mức
độ vi phạm để đưa ra hình phạt tương xứng, đảm bảo sự minh bạch và bảo vệ quyền lợi
người bị xử phạt từ đó quyết định tính công bằng, hiệu quả của xử phạt hành chính.
Câu 2: Xác định hình thức, mức xử phạt vi phạm hành chính vụ việc trên.
Theo điều 2 khoản 2 Luật xử lý vi phạm hành chính: “Xử phạt vi phạm hành chính
là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu
quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của
pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính.”
Căn cứ theo khoản 1, Điều 21 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 (luật sửa đổi bổ
sung năm 2022). Trong xử phạt vi phạm hành chính, có 05 hình thức xử phạt, gồm: Cảnh
cáo; phạt tiền; tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình
chỉ hoạt động có thời hạn; tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử
dụng để vi phạm hành chính; trục xuất. Các hình thức xử phạt chính trong tình huống trên
được áp dụng theo Điều 23 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 (luật sửa đổi bổ sung năm 2022) là phạt tiền.
Căn cứ vào thời điểm lái xe Trần M quay clip xảy ra vụ việc vào ngày 26/12/2024,
nghị định luật vẫn còn hiệu lực, nhóm sử dụng Nghị định 100/2019/NĐ-CP (sửa đổi, bổ
sung bởi Nghị định 123/2021/NĐ-CP, Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi
bổ sung năm 2022) và Luật Giao thông đường bộ 2008 còn hiệu lực để giải quyết vụ việc:
Căn cứ vào khoản 3, Điều 134 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi
bổ sung năm 2022): “Việc áp dụng hình thức xử phạt, quyết định mức xử phạt đối với
người chưa thành niên vi phạm hành chính phải nhẹ hơn so với người thành niên có cùng
vi phạm hành chính. Trường hợp người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi vi phạm hành
chính bị phạt tiền thì mức tiền phạt không quá ½ mức tiền phạt áp dụng đối với người
thành niên; bị buộc phải nộp một khoản tiền tương đương giá trị tang vật, phương tiện vi
phạm hành chính vào ngân sách nhà nước, số tiền nộp vào ngân sách nhà nước bằng ½
giá trị tang vật, phương tiện vi phạm hành chính. Trường hợp không có tiền nộp phạt
hoặc không có khả năng thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả thì cha mẹ hoặc người
giám hộ thực hiện thay.
Theo quy định tại điểm b, khoản 6, Điều 6 Nghị định 100/2019/NĐ-CP (sửa đổi,
bổ sung bởi Nghị định 123/2021/NĐ-CP) “Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000
đồng đối với người điều khiển xe đi vào đường cao tốc, trừ xe phục vụ việc quản lý, bảo
trì đường cao tốc.”
Theo quy định tại điểm c, khoản 2, điều 17 Nghị định 100/2019/NĐ-CP (sửa đổi,
bổ sung bởi Nghị định 123/2021/NĐ-CP) “Người điều khiển xe không gắn biển số (đối
với loại xe có quy định phải gắn biển số); gắn biển số không đúng với Giấy đăng ký xe
hoặc gắn biển số không do cơ quan có thẩm quyền cấp. Bị phạt tiền từ 800.000 đồng đến 1.000.000 đồng.”
Theo quy định tại điểm a, khoản 4, Điều 21 Nghị định 100/2019/NĐ-CP (sửa đổi,
bổ sung bởi Nghị định 123/2021/NĐ-CP) “Phạt tiền từ 400.000 đồng đến 600.000 đồng
đối với hành vi: người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi điều khiển xe mô tô có dung tích xi
lanh từ 50cm3 trở lên.”
Theo quy định tại điểm a, khoản 5, Điều 21 nghị định 100/2019/NĐ-CP (sửa đối
bổ sung nghị định 123/2021/NĐ-CP) và điểm a khoản 2 Điều 59 Luật giao thông đường
bộ 2008“xử phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với hành vi điều khiển
xe mô tô không có giấy phép lái xe.”
Theo quy định tại điểm đ khoản 5 Điều 30 Nghị định 100/2019/NĐ-CP (sửa đổi,
bổ sung bởi Nghị định 123/2021/NĐ-CP) “Giao xe hoặc để cho người không đủ điều kiện
theo quy định bị phạt tiền từ 800.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với cá nhân” Theo
khoản 1 Điều 58 Luật giao thông đường bộ 2008: “Người lái xe tham gia giao thông phải
đủ độ tuổi, sức khoẻ quy định tại Điều 60 của Luật này và có giấy phép lái xe phù hợp với
loại xe được phép điều khiển do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp.”
Từ cơ sở pháp lí ở trên, nhóm xin đưa ra mức xử phạt hành chính đối với các hành
vi vi phạm. Căn cứ vào khoản 1, Điều 5 Luật xử lí vi phạm hành chính 2012 (sửa đổi, bổ
sung bổ sung năm 2022): “Người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt hành chính về mọi vi
phạm hành chính.” Theo như tình huống đề bài thì nhóm thanh niên vi phạm hành chính
đã đạt độ tuổi từ đủ 16 trở lên nên phải chịu mọi trách nhiệm về vi phạm hành chính do
mình gây ra. Tuy nhiên căn cứ theo khoản 3, Điều 134 Luật xử lí vi phạm hành chính
2012 (sửa đổi bổ sung năm 2022): “người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi vi phạm hành
chính bị phạt tiền thì mức phạt không quá ½ mức tiền phạt áp dụng đối với người thành
niên…” điều này được thực hiện nhằm giáo dục, giúp đỡ người chưa thành niên sửa chữa
sai lầm, phát triển lành mạnh và giúp họ trở thành công dân có ích cho xã hội.
Thứ nhất, nhóm thanh niên này điều khiển xe máy vào đường cao tốc, theo điểm b,
khoản 6, Điều 6 Nghị định 100/2019/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định
123/2021/NĐ-CP) và khoản 4 Điều 26 Luật giao thông đường bộ năm 2008, hành vi điều
khiển xe máy (không phải là phương tiện thiết kế quản lí bảo trì đường cao tốc, đây là mô
tô, xe máy có tốc độ thiết kế nhỏ hơn 70km/h) vào cao tốc bị xử phạt từ 2.000.000 đồng
đến 3.000.000 đồng, tuy nhiên trong lúc sự kiện này xảy ra nhóm thanh niên này chỉ từ đủ
16 tuổi đến dưới 18 tuổi nên mức xử phạt không quá ½ mức tiền phạt áp dụng đối với
người trưởng thành nên mức hình phạt của từng người trong nhóm thanh niên này không
quá 1.250.000 đồng theo khoản 3, Điều 134 Luật xử lí vi phạm hành chính 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2022).
Thứ hai, theo quy định tại khoản 3 Điều 53 Luật giao thông đường bộ 2008: “Xe
cơ giới phải đăng ký và gắn biển số do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp” nhóm
thanh niên điều khiển xe máy không gắn biển số, gắn biển không đúng với Giấy đăng ký
xe hoặc gắn biển số không do cơ quan có thẩm quyền cấp. Bị phạt tiền từ 800.000 đồng
đến 1.000.000 đồng điều này quy định tại điểm c, khoản 2, điều 17 Nghị định
100/2019/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 123/2021/NĐ-CP) hành vi của nhóm
thanh niên này diễn ra khi từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nên mức xử phạt được áp dụng
theo khoản 3 Điều 134 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 (sửa đổi bổ sung năm 2022).
Mức xử phạt đối với từng người không quá 450.000 đồng.
Thứ ba, nhóm thanh niên này điều khiển xe máy có dung tích từ 50cm3 trở lên
theo điểm a, khoản 4, Điều 21 Nghị định 100/2019/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị
định 123/2021/NĐ-CP) và điểm a, b khoản 1 Điều 60 Luật giao thông đường bộ 2008,
hành vi điều khiển xe mô tô, xe máy khi chưa đủ điều kiện về độ tuổi, giấy phép lái xe thì
bị xử phạt hành chính từ 400.000 đồng đến 600.000 đồng. Mức xử phạt trung bình mà
mỗi thanh niên phải chịu là 500.000 đồng.
Thứ tư, theo khoản 1 Điều 58 Luật giao thông đường bộ 2008: “Nghiêm cấm giao
xe cơ giới, xe máy chuyên dùng cho người không đủ điều kiện để điều khiển xe tham gia
giao thông đường bộ” người được tham gia điều khiển xe máy (tham gia giao thông) phải
đủ độ tuổi và giấy phép lái xe từ từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp tuy nhiên hành
vi điều khiển xe của nhóm thanh niên này đã diễn ra khi chưa đủ độ tuổi điều khiển mô tô,
xe máy và chưa có giấy phép từ cơ quan có thẩm quyền nên việc giao xe cho nhóm đối
tượng này của cha mẹ các em là hành vi vi phạm pháp luật về hành chính, điều này bị xử
phạt từ 800.000 đồng đến 2.000.000 đồng theo quy định tại điểm đ khoản 5 Điều 30 Nghị
định 100/2019/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi nghị định 123/2021/NĐ-CP). Mức xử phạt
đối với từng cá nhân phụ huynh là 1.400.000 đồng. Tuỳ vào mức độ vi phạm mà mức xử
phạt có thể tăng lên, thậm chí là bị xử lý hình sự nếu như gây ra hành vi chết người.
Thứ năm, hành vi điều khiển xe mô tô, xe máy của các thanh niên này xảy ra trong
tình trạng không có giấy phép lái xe. Vậy theo điểm a, khoản 5, Điều 21 nghị định
100/2019/NĐ-CP (sửa đối bổ sung nghị định 123/2021/NĐ-CP) và điểm a khoản 2 Điều
59 Luật giao thông đường bộ 2008, hành vi của nhóm thanh niên này phải chịu hình phạt
hành chính từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng. Tuy nhiên nhóm thanh niên này vẫn
chưa đủ tuổi thành niên nên hình phạt được áp dụng theo khoản 3, Điều 134. Hình phạt
dành cho từng người trong nhóm thanh niên này không quá 750.000.
Như vậy hình thức xử phạt chính áp dụng với các vi phạm hành chính trên là hình
thức phạt tiền và tổng mức xử phạt hành chính đối với từng thanh niên sẽ không quá
2.950.000 đồng và mức xử phạt hành chính đối với bố mẹ (phụ huynh) của các thanh niên
đó là 1.400.000 đồng tuỳ vào mức độ vi phạm mà mức xử phạt đối với bố mẹ (phụ huynh)
của các thanh niên này có thể tang lên hoặc giảm xuống.
Câu 3: Ai có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong vụ việc trên.
Theo quy định của pháp luật, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính được giao
cho nhiều cơ quan, chủ thể có thẩm quyền khác nhau thực hiện. Đồng thời pháp luật cũng
quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính cụ thể của mỗi chức danh có thẩm
quyền xử phạt trong các cơ quan này.2 Căn cứ theo các điều từ 38 đến 51 Luật xử lý vi
phạm hành chính 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2022).
Căn cứ vào sự việc, ngày 05/01/2025, Đội tuần tra đường bộ cao tốc số 4 (Cục
Cảnh sát giao thông, Bộ Công an) nhận được clip từ camera hành trình ô tô do lái xe Trần
M gửi đến, có hình ảnh một nhóm người điều khiển xe máy không có biển số trên cao tốc
Nghi Sơn - Diễn Châu, đoạn qua tỉnh Nghệ An, trong ngày 26/12/2024. Sau khi xác minh,
đã xác định có 10 thanh thiếu niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi điều khiển 5 xe mô tô có
dung tích xi-lanh từ 50cm3 trở lên, xe đăng ký tên cha, mẹ các thanh thiếu niên này.
2 Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hành chính, NXB. Tư pháp, Hà Nội, 2024.
Thứ nhất, về nguyên tắc xác định thẩm quyền theo khoản 1 Điều 52 Luật xử lý vi
phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2022) quy định: “Thẩm quyền xử phạt
vi phạm hành chính của những người được quy định tại các điều từ 38 đến 51 của Luật
này là thẩm quyền áp dụng đối với một một hành vi vi phạm hành chính của cá nhân;
trong trường hợp phạt tiền, thẩm quyền xử phạt tổ chức gấp 02 lần thẩm quyền xử phạt
cá nhân và được xác định theo tỷ lệ phần trăm quy định tại Luật này đối với chức danh
đó.” Trong tình huống được nêu ở đề bài, clip do lái xe Trần M ghi lại có hình ảnh một
nhóm gồm 10 người điều khiển xe máy có dung tích xi - lanh từ 50cm3 trở lên, không có
biển số trên cao tốc, độ tuổi từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Theo khoản 7 Điều 2 Luật xử
lý vi phạm hành chính 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2022) quy định: “Vi phạm hành chính
có tổ chức là trường hợp cá nhân, tổ chức câu kết với cá nhân, tổ chức khác để cùng thực
hiện hành vi vi phạm hành chính.” Về bản chất, hành vi có tổ chức thể hiện ở một hoặc
nhiều yếu tố như: có sự bàn bạc, phối hợp thực hiện, hành vi được thực hiện có mục đích,
kế hoạch cụ thể. Các cá nhân liên kết với nhau một cách chủ động nhằm thực hiện hành vi
vi phạm pháp luật. Đối chiếu với hành vi của nhóm thanh niên thì chưa đủ cơ sở rõ ràng
để kết luận đây là hành vi vi phạm hành chính có tổ chức nếu chỉ dựa trên việc nhiều
người cùng vi phạm tại một thời điểm. Vì vậy, trường hợp trên không áp dụng thẩm
quyền xử phạt đối với hành vi vi phạm hành chính có tổ chức và cũng không áp dụng tình
tiết tăng nặng đối với vụ việc này.
Thứ hai, căn cứ theo khoản 2 Điều 52 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 (sửa
đổi, bổ sung 2022) quy định: “Thẩm quyền phạt tiền quy định tại khoản 1 Điều này được
xác định căn cứ vào mức tối đa của khung tiền phạt quy định đối với từng hành vi vi
phạm cụ thể.” Căn cứ theo Điều 76 Nghị định số 100/2019/NĐ-CP (sửa đổi, bổ Nghị
định 123/2021/NĐ-CP) về thẩm quyền xử phạt của Công an nhân dân quy định:
“4. Trưởng Công an cấp huyện; Trưởng phòng nghiệp vụ thuộc Cục Cảnh sát giao
thông; Trưởng phòng Công an cấp tỉnh gồm Trưởng phòng Cảnh sát quản lý hành chính
về trật tự xã hội, Trưởng phòng Cảnh sát giao thông, Trưởng phòng Cảnh sát giao thông
đường bộ - đường sắt; Thủ trưởng đơn vị Cảnh sát cơ động từ cấp đại đội trở lên, có quyền:
b) Phạt tiền đến 8.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm trong lĩnh vực giao thông đường
bộ và 15.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm trong lĩnh vực giao thông đường sắt;”
Căn cứ vào khung hình phạt ở câu 2, cụ thể: Thứ nhất, nhóm thanh niên này điều
khiển xe máy vào đường cao tốc, theo điểm b, khoản 6, Điều 6 Nghị định 100/2019/NĐ-
CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 123/2021/NĐ-CP) và Khoản 4 Điều 26 Luật giao
thông đường bộ năm 2008: “Hành vi điều khiển xe máy (không phải là phương tiện thiết
kế quản lý bảo trì đường cao tốc, đây là mô tô, xe máy có tốc độ thiết kế nhỏ hơn 70km/h)
vào cao tốc bị xử phạt từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng.”. Thứ hai, theo quy định
tại khoản 3 Điều 53 Luật giao thông đường bộ 2008: “Xe cơ giới phải đăng ký và gắn
biển số do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp” nhóm thanh niên điều khiển xe máy
không gắn biển số, gắn biển không đúng với Giấy đăng ký xe hoặc gắn biển số không do
cơ quan có thẩm quyền cấp. Bị phạt tiền từ 800.000 đồng đến 1.000.000 đồng điều này
quy định tại điểm c, khoản 2, Điều 17 Nghị định 100/2019/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi
Nghị định 123/2021/NĐ-CP). Thứ ba, nhóm thanh niên này điều khiển xe máy có dung
tích từ 50cm3 trở lên theo điểm a, khoản 4, Điều 21 Nghị định 100/2019/NĐ-CP (sửa đổi,
bổ sung bởi Nghị định 123/2021/NĐ-CP) và điểm a, b khoản 1 Điều 60 Luật giao thông
đường bộ 2008, hành vi điều khiển xe mô tô, xe máy khi chưa đủ điều kiện về độ tuổi,
giấy phép lái xe thì bị xử phạt hành chính từ 400.000 đồng đến 600.000 đồng. Thứ tư,
hành vi điều khiển xe mô tô, xe máy của các thanh niên này xảy ra trong tình trạng không
có giấy phép lái xe. Vậy theo điểm a, khoản 5, Điều 21 nghị định 100/2019/NĐ-CP (sửa
đổi bổ sung nghị định 123/2021/NĐ-CP) và điểm a khoản 2 Điều 59 Luật giao thông
đường bộ 2008, hành vi của nhóm thanh niên này phải chịu hình phạt hành chính từ
1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng.
Cụ thể, trong các lỗi mà các thanh thiếu niên này vi phạm thì lỗi điều khiển xe máy
vào đường cao tốc bị xử phạt với khung hình phạt từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng
(theo điểm b, khoản 6, Điều 6 Nghị định 100/2019/NĐ-CP). Nếu người xử phạt chỉ có
thẩm quyền xử phạt với số tiền không quá 2.500.000 đồng (ví dụ như Trưởng Công an
cấp huyện theo Điều 39 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012), thì không được áp dụng
mức phạt 3.000.000 đồng mà chỉ được áp dụng mức trong giới hạn thẩm quyền của mình.
Để ra quyết định xử phạt ở mức cao nhất của khung (3.000.000 đồng), thẩm quyền xử
phạt phải thuộc về người có thẩm quyền cao hơn, theo quy định tại Điều 39 Luật Xử lý vi
phạm hành chính 2012. Như vậy, mức cao nhất của khung hình phạt là 3.000.000 đồng
đối với hành vi điều khiển xe trên đường cao tốc.3 Theo khoản 2 Điều 74 Nghị định
100/2019/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 123/2021/NĐ-CP) thì những vi phạm
hành chính nêu trên đều thuộc thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính của Cảnh sát giao
thông. Như vậy, căn cứ vào các căn cứ pháp lý nêu trên thì thẩm quyền xử phạt hành vi vi
phạm hành chính của nhóm thanh niên trên thuộc về Trưởng phòng nghiệp vụ thuộc Cục
cảnh sát giao thông - Bộ Công an hoặc có thể là Trưởng phòng Cảnh sát giao thông thuộc
Công an Tỉnh/TP trực thuộc TW nơi xảy ra vi phạm là tỉnh Nghệ An. (khoản 4 Điều 76
Nghị định 100/2019/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 123/2021/NĐ-CP).
Ngoài ra, trong tình huống nêu trên, cha mẹ là người đứng tên trong giấy đăng ký
xe mô tô đã giao xe cho con từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi điều khiển xe trên 50cm³ mà
chưa có giấy phép lái xe hợp lệ, vi phạm quy định về điều kiện điều khiển phương tiện
giao thông. Cụ thể theo Khoản 1 Điều 58 Luật giao thông đường bộ 2008: “Nghiêm cấm
giao xe cơ giới, xe máy chuyên dùng cho người không đủ điều kiện để điều khiển xe tham
gia giao thông đường bộ”. Hành vi này bị xử phạt từ 800.000 đồng đến 2.000.000 đồng
theo quy định tại điểm đ Khoản 5 Điều 30 Nghị định 100/2019/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung
bởi nghị định 123/2021/NĐ-CP). Mức xử phạt đối với từng cá nhân phụ huynh là
1.400.000 đồng. Những vi phạm hành chính ở trên đều thuộc thẩm quyền xử lý vi phạm
hành chính của Cảnh sát giao thông căn cứ theo khoản 2 Điều 74 Nghị định
100/2019/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 123/2021/NĐ-CP). Đối với mức xử
phạt này thẩm quyền xử phạt thuộc về Trưởng phòng nghiệp vụ thuộc Cục cảnh sát giao
thông - Bộ Công an hoặc Trưởng phòng cảnh sát giao thông thuộc Công an Tỉnh /TP trực
thuộc TW nơi xảy ra vi phạm là tỉnh Nghệ An.
Từ những kết luận trên có thể thấy rằng thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính
trong vụ việc này có thể thuộc về 2 người đó Trưởng phòng nghiệp vụ thuộc Cục cảnh sát
giao thông - Bộ Công an hoặc Trưởng phòng cảnh sát giao thông thuộc Công an tỉnh
Nghệ An. Nhưng có thể thấy rằng Đội tuần tra đường bộ cao tốc số 4 (Cục Cảnh sát giao
thông - Bộ Công an) là lực lượng đã tiếp nhận vụ việc đầu tiên nên thẩm quyền xử lý vi
3 https://laodongcongdoan.vn/ai-co-tham-quyen-xu-phat-vi-pham-giao-thong-109635.html
phạm hành chính trong vụ việc này thuộc về Trưởng phòng nghiệp vụ thuộc Cục Cảnh sát giao thông - Bộ Công an.
Câu 4: Thông tin từ camera hành trình của lái xe Trần M có thể được sử dụng để xử
phạt vi phạm hành chính không?
Cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận video của Trần M cung cấp vào ngày 05/1/2025
theo khoản 1 Điều 64 luật Xử lý vi phạm hành chính (sửa đổi, bổ sung 2022): “Cơ quan,
người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính , cá nhân , tổ chức được giao quản lý
phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ được sử dụng phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ để
phát hiện vi phạm hành chính về trật tự an toàn giao thông, bảo vệ môi trường, phòng
cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ, phòng chống ma túy, phòng, chống tác hại của rượu
bia, tần số vô tuyến điện và các lĩnh vực khác do Chính phủ quy định sau khi được sự
đồng ý của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.” Do vậy CSGT có thể sử dụng hình ảnh, video
do cá nhân, tổ chức cung cấp để làm căn cứ xử phạt vi phạm hành chính, với điều kiện
các bằng chứng này phải đảm bảo tính chính xác, khách quan, và có thông tin rõ ràng về
thời gian, địa điểm xảy ra vi phạm. Tuy nhiên trước khi ra quyết định xử phạt, cơ quan có
thẩm quyền phải tiến hành xác minh tính xác thực của các bằng chứng này.
Căn cứ vào Điều 17 nghị định 135/2021/NĐ-CP:
“1. Yêu cầu về dữ liệu thu được từ phương tiện, thiết bị kỹ thuật:
a) Thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước theo quy định tại khoản 1 Điều 64 Luật Xử lý vi phạm hành chính;
b) Không xâm phạm quyền tự do, danh dự, nhân phẩm, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân,
các quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân và tổ chức theo quy định của pháp luật;
c) Phản ánh khách quan, chính xác, trung thực về hành vi vi phạm, thời gian, địa điểm xảy ra vi phạm;
d) Đáp ứng yêu cầu về thời hạn sử dụng theo quy định tại khoản 3 Điều 14 Nghị định này.
2. Dữ liệu thu được từ phương tiện, thiết bị kỹ thuật do cá nhân, tổ chức cung cấp, nếu
đáp ứng được yêu cầu quy định tại khoản 1 Điều này thì được sử dụng làm căn cứ xác
minh, phát hiện vi phạm và xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật”.
Cung cấp dữ liệu thu được từ phương tiện, thiết bị kỹ thuật được quy định tại Điều
16 Nghị định 135/2021/NĐ-CP, cụ thể như sau:
“Cung cấp dữ liệu thu được từ phương tiện, thiết bị kỹ thuật
1. Dữ liệu do cá nhân, tổ chức thu được từ phương tiện, thiết bị kỹ thuật cung cấp cho cơ
quan, đơn vị, người có thẩm quyền xử phạt bằng một trong các hình thức sau:
a) Trực tiếp đến trụ sở cơ quan, đơn vị của người có thẩm quyền hoặc hiện trường xảy ra
vụ việc để cung cấp;
b) Thư điện tử, cổng thông tin điện tử hoặc trang thông tin điện tử, số điện thoại đường dây nóng;
c) Dịch vụ bưu chính;
d) Kết nối, chia sẻ dữ liệu.”
Qua đối chiều với các yêu cầu, quy định của pháp luật về dữ liệu điện tử, hình ảnh,
video làm bằng chứng. Có thể thấy clip mà anh Trần M sử dụng để cung cấp cho cơ quan
có thẩm quyền đã đáp ứng được các yêu cầu, quy định về mặt nội dung và hình thức nêu trên.
Trong trường hợp này không thể sử dụng Nghị định 168/2024/NĐ-CP vào xử lý vi
phạm hành chính vì về mặt thời gian: thời điểm Nghị định 168/2024/NĐ-CP ban hành
cùng thời điểm xảy ra vi phạm hành chính nhưng nghị định 168 lại chưa có hiệu lực vì
Nghị định 168/2024/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/01/2025 thời điểm sau khi xảy ra vi
phạm nên không được áp dụng Nghị định 168/2024/NĐ-CP vào xử lý vi phạm hành chính trong trường hợp này.
Như vậy, theo khoản 1 Điều 64 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi,
bổ sung 2022), Điều 17 Nghị định 135/2021/NĐ-CP, Điều 74 Luật Xử phạt vi phạm hành
chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2022), có thể thấy rằng clip mà Trần M cung cấp
đã phù hợp những yêu cầu tại Điều 17 Nghị định 135/2021/NĐ-CP, Điều 16 Nghị định
135/2021/NĐ-CP và đội tuần tra đường bộ cao tốc số 4 (Cục Cảnh sát giao thông, Bộ
Công an) đã nhận được clip vào ngày 05/01/2025, chỉ cách ngày 26/12/2024 vài ngày.
Dựa vào hai điều trên, ta có thể khẳng định rằng thông tin từ Camera hành trình của lái xe
Trần M có thể được áp dụng để xử lý vi phạm hành chính.
Câu 5: Khi phát hiện có xe máy chạy trên cao tốc, Trần M đã điều khiển xe chạy
trong làn khẩn cấp để quay clip cung cấp cho công an. Hành vi của M có vi phạm hành chính không?
Hành vi của Trần M được phát hiện trên cơ sở video từ camera hành trình xe M
được coi là hình ảnh, video do cá nhân, tổ chức cung cấp để làm căn cứ xử phạt vi phạm
hành chính, cần phải tiến hành xác minh tính xác thực của các bằng chứng này. Căn cứ
theo Điều 6 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 sửa đổi năm 2021 quy định về nguồn
chứng cứ trong xử phạt vi phạm hành chính, trong để dữ liệu điện tử, hình ảnh, video là bằng chứng hợp pháp.
Cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận video của Trần M cung cấp vào ngày 05/01/2025
về vụ việc xảy ra vào ngày 26/12/2024, có hình ảnh một nhóm người điều khiển xe máy
không có biển số trên cao tốc Nghi Sơn – Diễn Châu, đoạn qua tỉnh Nghệ An khi đó thời
điểm xảy ra vụ việc trên Nghị định 168 chưa có hiệu lực do vậy phải sử dụng nghị định
100/2019/NĐ-CP (sửa đổi nghị định 123/2021/NĐ-CP). Theo đó tại khoản 11 Điều 80
Nghị định 100/2019/NĐ-CP quy định: “Người có thẩm quyền xử phạt được sử dụng các
thông tin, hình ảnh thu được từ thiết bị ghi âm, ghi hình của cá nhân, tổ chức cung cấp để
làm căn cứ xác minh, phát hiện hành vi vi phạm quy định đại Nghị định này.
Do vậy CSGT có thể sử dụng hình ảnh, video do cá nhân, tổ chức cung cấp đề làm
căn cứ xử phạt vi phạm hành chính, với điều kiện các bằng chứng này phải đảm bảo tính
chính xác, khách quan, và có thông tin rõ ràng về thời gian, địa điểm xảy ra vì phạm. Căn
cứ theo Điều 26 Luật Giao thông đường bộ 2008: “Làn khẩn cấp trên đường cao tốc chỉ
được sử dụng trong các trường hợp như xe gặp sự cố, xe cứu thương, cứu hỏa, hoặc các
trường hợp khẩn cấp khác. Người điều khiển phương tiện không được tự ý đi vào làn
khẩn cấp nếu không thuộc các trường hợp nêu trên”. Vì vậy, Trần M điều khiển xe đi vào
làn khẩn cấp nhưng không thuộc diện khẩn cấp để quay clip là vi phạm quy định về sử
dụng làn đường. Điều đó cho thấy rằng hành vi của Trần M điều khiển ô tô vào làn khẩn
cấp để quay clip là hành vi vi phạm hành chính.
Căn cứ vào Nghị định số 123/2021/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định số 100/2019/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ và đường sắt:
Điểm b khoản 6 Điều 5 Nghị định 100/2019/NĐ-CP: “Dừng xe, đỗ xe trên đường
cao tốc không đúng nơi quy định; không có báo hiệu để người lái xe khác biết khi buộc
phải dừng xe, đỗ xe trên đường cao tốc không đúng nơi quy định; quay đầu xe trên đường cao tốc
Điểm g khoản 5 Điều 5 Nghị định 100/2019-NĐ-CP: "Không tuân thủ các quy
định khi vào hoặc ra đường cao tốc; điều khiến xe chạy ở làn dừng xe khẩn cấp hoặc
phần lề đường của đường cao tốc; chuyển làn đường không đúng nơi cho phép hoặc
không có tín hiệu báo trước khi chạy trên đường cao tốc; không tuân thủ quy định về
khoảng cách an toàn đối với xe chạy liền trước khi chạy trên đường cao tốc”.
Hành vi của Trần M điều khiển xe ô tô đi vào làn dừng xe khẩn cấp trên đường cao
tốc Nghi Sơn – Diễn Châu không thuộc trường hợp khẩn cấp là vi phạm quy định của
pháp luật giao thông đường bộ và có thể bị xử phạt theo quy định tại Nghị định
100/2019/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 123/2021/NĐ-CP). Tuy nhiên, xét về
mục đích của hành vi là nhằm ghi lại hình ảnh, cung cấp bằng chứng hỗ trợ cơ quan chức
năng xử lý vi phạm của các đối tượng khác, Trần M đã thể hiện sự hợp tác, chủ động,
thành thật và có tinh thần trách nhiệm. Do đó, hành vi này có thể được xem xét áp dụng
các tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 9 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa
đổi, bổ sung năm 2022): “Người vi phạm hành chính đã tự nguyện khai báo, thành thật
hối lỗi; tích cực giúp đỡ cơ quan chức năng phát hiện vi phạm hành chính, xử lý vi phạm hành chính.”
Việc xử lý hành vi vi phạm của Trần M cần được tiến hành đúng quy định, khách
quan, đồng thời cân nhắc đến động cơ, hậu quả và tinh thần hợp tác để đảm bảo sự công
bằng và hợp lý trong việc áp dụng pháp luật. Kết luận
Vụ việc trên không chỉ phản ánh hành vi vi phạm pháp luật của nhóm thanh thiếu
niên, sự thiếu trách nhiệm của các bậc phụ huynh trong giáo dục và quản lí mà còn là việc
thiếu ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận giới trẻ ngày nay, tiềm ẩn nguy cơ gây
tai nạn dẫn đến những hậu quả đáng tiếc. Không những vậy, tình trạng vi phạm giao
thông của lứa tuổi này tạo ra những mối nguy hiểm tiềm ẩn cho xã hội. Việc xử lí nghiêm
minh và kịp thời các trường hợp đó không chỉ nhằm mục đích răn đe mà còn là bài học
giáo dục về ý thức pháp luật, góp phần xây dựng một môi trường tham gia giao thông an
toàn và văn minh hơn. Đồng thời, ngoài việc xử phạt, đây cũng là bài học đắt giá về sự
phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc quản lí, hình thành nhận thức
trong giới trẻ thời đại ngày nay.
III. Danh mục tài liệu tham khảo
A. GIÁO TRÌNH, SÁCH THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, NXB. Tư pháp, Hà Nội, 2024.
2. Luật xử lý vi phạm hành chính sửa đổi, bổ sung năm 2022, NXB Lao động.
3. Luật giao thông đường bộ 2008, NXB chính trị quốc gia sự thật. B. TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN
4. Nghị định số 100/2019/NĐ-CP của Chính phủ: Quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt.
5. Nghị định số 123/2021/NĐ-CP của Chính phủ: Sửa đổi, bổ sung một số điều
của các Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng
hải; giao thông đường bộ, đường sắt; hàng không dân dụng.
6. Nghị định số 135/2021/NĐ-CP của Chính phủ: Quy định về danh mục, việc
quản lý, sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ và quy trình thu
thập, sử dụng dữ liệu thu được từ phương tiện, thiết bị kỹ thuật do cá nhân,
tổ chức cung cấp để phát hiện vi phạm hành chính.
7. https://laodongcongdoan.vn/ai-co-tham-quyen-xu-phat-vi-pham-giao-thong- 109635.html
Document Outline

  • LỜI MỞ ĐẦU
  • NỘI DUNG
    • I. Nội dung tình huống
    • II. Giải quyết tình huống
    • Câu 2: Xác định hình thức, mức xử phạt vi phạm hành chính vụ việc trên.
    • Câu 3: Ai có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong vụ việc trên.
    • Câu 4: Thông tin từ camera hành trình của lái xe Trần M có thể được sử dụng để xử phạt vi phạm hành chính không?
    • Câu 5: Khi phát hiện có xe máy chạy trên cao tốc, Trần M đã điều khiển xe chạy trong làn khẩn cấp để quay clip cung cấp cho công an. Hành vi của M có vi phạm hành chính không?
  • Kết luận
  • III. Danh mục tài liệu tham khảo