BẢNG ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG NHÓM
Nm: 02 Lớp: 4911
Chủ đề tranh biện: Trước tình hình xu thế kết hôn muộn hoặc độc thân
đang không ngừng gia tăng Việt Nam trong thời gian gần đây, ý kiến cho
rằng nên quy định đánh thuế với người độc thân. Bằng kiến thức đã học, hãy
đưa ra các quan điểm để phản đối ý kiến trên.
Thời gian hoạt động
Nội dung cụ thể
17/10/2024
Nhn đề tài nhóm
25/10/2024
Bắt đầu làm việc nhóm
Thông báo đề tài tranh biện cả nhóm
26/10/2024
Họp nhóm lần 1
Mỗi thành viên nêu lên quan điểm
của mình về chủ đề bài tập
27/10/2024
Nhóm trưởng tổng hợp ý kiến, gửi
dàn ý bài tập cho nm
29/10/2024
Họp nhóm lần 2
+ Nhóm trưởng phânng công vic
cho các cá nhân
+ nhân nhn nhim vụbắt đầu
công việc
Deadline 02/11/2024
03/11/2024
Tổng hợp nội dung từ bài của các
thành viên
05/11/2024
Hoàn thành tổng nội dung, bắt đầu
viết bài tiểu lun
09/11/2024
Tổ chức họp nhóm lần 3
+ Bổ sung đóng p cho bài tiểu
luận
12/11/2024
Tổ chức họp nhóm lần 4
Các thành viên trong nhóm p ý
thêm và hoàn thiện bài tiểu luận
1. Kế hoạch làm việc nhân
2
2. Phân chia công việc
STT
Họ n
Tiến
độ
thực
hin
úng
hạn)
Mức độ hoàn thành
Họp nhóm
Xếp
loại
Không
Không
tốt
TB
Tốt
Đầy
đủ
Tích
cực
sôi
nổi
Đóng
góp
nhiều ý
ởng
1
Nguyn Ngân
2
Đỗ Việt Hải
3
Nguyn Thu
Hằng
4
Nguyễn Trương
Diệu Hiền
5
Nguyn Phương
Hoa
6
Phùng Đức Huy
7
Phạm Thanh
Huyền
8
Nguyễn Vi Việt
Hùng
9
Chu Mai Hương
10
Nguyn Đình Gia
Khánh
11
Xuân Kiên
12
Bùi Thị Mỹ Lệ
13
Đinh Khánh Linh
14
Phương Linh
15
Nguyn Khánh
Linh
16
Nguyn Khánh
Linh
Nội, ngày tháng năm 2024
Nm trưởng
Nguyễn Khánh Linh
MỤC LỤC
PHẦN A: LỜI MỞ
ĐẦU.......................................................................................
PHẦN B: NỘI DUNG...........................................................................................
I. Những vấn đề
chung..........................................................................................
1. Khái nim............................................................................................................
2. Thc
trạng............................................................................................................
II. Phản đối ý kiến đánh thuế đối với nời đc
thân........................................
Luận điểm 1: Đánh thuế người độc thân đi ngược li vi các quy định trong
Hiến pháp và Pháp luật của nước Cộng h xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Luận điểm 2: Đánh thuế người độc thân gây rắc rối tới các vn đề về mặt pháp
, tạo ra gánh nặng về tài chính và phát sinh nhiều vn nạn như kết hôn giả và
cưỡng ép kết hôn.
PHẦN C: KẾT
LUẬN...........................................................................................
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................
4
PHẦN A: LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm gần đây, khi các quốc gia trên thế giới phải đối mặt vi
các thách thức vn sgià hóa, thiếu hụt nguồn nhân lực trẻ gánh nặng i
chính cho hệ thng an sinh hội, các đề xut về việc đánh thuế người độc thân
đã bắt đầu được đưa ra nhm khuyến khích hôn nhân gia đình. Những người
ủng hchính sách này cho rằng, đây là một cách hiệu quả để thúc đẩy dân số,
tăng nguồn thu ngân ch, đồng thời tạo động lực để c nhân tích cực tham
gia vào cuộc sống gia đình. Tuy nhiên, từ góc độ ca nhiều chuyên gia, đây lại
là một chính sách mang tính áp đặt, gây áp lực hội m gia tăng phân biệt
đối xử đối với một bộ phận người dân.
Việc đánh thuế người độc thân không chỉ nh ng đến quyền tự do lựa
chọn của mỗi cá nhân còn thể làm sâu sắc thêm sự bất bình đẳng trong
hội. Người độc thân không phải lúc nào cũng thể dễ ng lập gia đình do
những yếu tố khách quan như tài chính, hoàn cảnh gia đình, hoặc thậm c
nguyện vọng nhân. Áp lực từ chính ch thuế không những không giải quyết
được vấn đề dân số mà còn gây ra nhiều hệ lụy về tâm lý và xã hi.
Thông qua bài tiu luận này, chúng em xin trình y quan đim nhân
về do sao việc đánh thuế người độc thân kng hợp , đồng thời phân
ch những bất cập mà chính sách y có thể gây ra đối với một hội hiện đại,
đa dạng và bao dung.
Do trình độ nghiên cứu còn hạn chế, thời gian tìm i kiến thức n chưa
đủ, kinh nghiệm tích luỹ qua quá trình học tập tại trường chưa được nhiều,
vậy nên i tiểu luận không tránh khỏi được những thiếu sót. Rất mong nhận
được sgóp ý từ các thy để có thể hoàn thiện tm cách nhìn nhận vấn đề
và nâng cao kỹ năng viết lách.
PHẦN B: NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. Khái niệm
1.1. Khái niệm độc thân
Độc thân tng được hiểu trạng thái không mối quan hệ tình cảm
hoặc n nhân. Người độc thân thchọn sống một mình hoặc trong các mối
quan hkhông chính thức, thường có quyền tdo quyết định lối sống, công
việc các mi quan hệ hội mà không bràng buộc bởi trách nhiệm hôn
nhân. Tình trạng này thể xuất phát từ nhiều do, bao gồm sự lựa chọn
nhân, tập trung vào sự nghiệp, hoặc các yếu tố xã hội và văn hóa.
1.2. Khái niệm thuế đc thân
Thuế độc thân loại thuế áp dụng cho những nhân chưa kết hôn hoặc
không có người phụ thuộc. Mức thuế này thường khác với mc thuế áp dụng
cho các cặp vợ chồng hoặc hộ gia đình. nhiều quốc gia, người độc thân thể
chịu mức thuế cao hơn so với những người đã kết n, do không schia sẻ
thu nhập giảm trừ thuế. Thuế độc thân thường phản ánh khả năng i chính
của cá nhân và có thể ảnh hưởng đến quyết định tài chính ca họ.
2. Thực trạng độc thân kết hôn muộn của nời trẻ tại Việt Nam hiện
nay
2.1 Tỷ lệ kết hôn muộn độc thân Việt Nam càng gia tăng:
Theo Tổng cục Thống kê, tuổi kết hôn ln đầu trung bình trên cả nước
năm 2021 26,2 tui (cao hơn 0,5 tuổi so với năm 2020); m 2022 26,9
tuổi. Độ tuổi kết hôn lần đầu tiếp tc ghi nhận sgia ng. Theo đó, năm 2023,
tuổi kết hôn ln đầu trung bình là 27,2.
Đặc biệt các khu vực địa phương, Đông Nam bộ hiện vùng người dân
kết hôn lần đầu muộn nhất, ngoài 29 tui. Trong đó, tuổi kết hôn lần đầu của
người TPHCM 30,4 tuổi; Ra - Vũng u 29,3 tuổi. Người n Khánh
Hòa cũng kết hôn muộn, trung bình 29,1 tuổi. Ngoài ra, độ tuổi trung bình để
người Nội kết hôn lần đầu năm 2023 27,9 tuổi, cao nhất trong vùng Đồng
bằng sông Hồng.
Theo thống của Tổng cục Thng kê, tỷ lệ người độc thân xu ng
tăng nhanh, tỷ lệ người độc thân tăng 3,87% trong 15 năm (2004 - 2019). Một
phần người trẻ ngày nay chọn tập trung cho sự nghiệp, trải nghiệm thêm nhiều
điu mi mẻ, học các kỹ năng mi để hoàn thiện bản thân. Vào ngày
09/11/2023 Phòng nghiên cứu Statista đã công bố bảng tỷ lệ
1
độc thân Việt
Nam vào m 2021, gần 85% n số nam Việt Nam trong độ tuổi từ 20 - 24
vẫn độc thân. Mặt khác, 61,9% dân snữ trong cùng nhóm tuổi tình trạng
độc thân.
3. Ngun nhân dẫn đến tình trạng độc thân kết hôn muộn ca giới tr
Việt Nam hiện nay
Ưu tiên phát triển sự nghiệp bản thân: Ngày nay, nhiều người trẻ lựa
chọn ưu tiên snghiệp phát triển bản thân trước khi đầu tư vào các mi quan
hệ tình cảm hoặc lập gia đình. Sự n định tài chính vị trí trong ng việc là
những yếu tố quan trọng hàng đầu, bởi chúng mang lại cảm giác an toàn tự
tin cho tương lai. Trong bối cảnh chi psinh hoạt ngày ng ng áp lực
kinh tế đè nặng, việc đạt được một sự nghiệp vững chắc không chỉ giúp đảm
bảo cuộc sống thoải mái mà còn tạo nền tảng cho các kế hoạch i hạn như y
dựng gia đình. Thực tế, vic duy trì một mi quan hệ tình cảm bền vững trong
hội hiện đại không hề dễ ng, khi những yêu cầu về thời gian, ng sức,
i chính đều rất lớn. Do đó, nhiều người chọn cách tập trung vào sự nghiệp,
tạm gác lại chuyện hẹn để ththeo đuổi những mục tiêu khác họ cho
là quan trọng hơn. Trong thời đại mà tự do độc lập nhân ngày ng được
coi trọng, nhiu người trẻ không còn xem việc kết hôn là thước đo duy nhất của
hạnh phúc và thành ng. Với họ, việc đạt được sự ổn định tài chính và sự
nghiệp đã một phần quan trọng của "an lạc nghiệp". Trong khi đó, s
thay đổi trong quan niệm về hạnh phúc thành ng cũng khiến họ cởi mở
n trong việc xác định lộ trình cuộc sống riêng của mình. Thành công thể
việc thỏa n với bản thân, đạt được sự độc lập tự do thực hiện ước mơ, thay
phi tuân theo những khuôn mu truyền thống. Những tiến bộ về công nghệ
cũng đã làm thay đổi cách thức hẹn xây dựng mi quan hệ, khiến nhiu
6
người trẻ trở nên thận trọng hơn trong việc đầu vào tình u. Tất cả những
yếu tnày tạo nên một xu hướng mi, nơi sự nghiệp và phát trin cá nhân được
đặt lên hàng đầu, phản ánh một sự thay đổi sâu sắc trong cách suy nghĩ về cuộc
sống, hạnh phúc và thành công của thế hệ trẻ hin nay. Nhiu người mun an
lạc nghiệp, đạt được sự ổn định i chính, vị trí trong công việc, xây dựng sự
nghiệp trước khi kết hôn. Họ cũng nh nhiu thời gian để trau dồi bản thân,
học hỏi, khám phá đam mê, đạt được những mục tiêu nhân. Hơn nữa trong
thi buổi hin nay, việc hn cần rất nhiều thi gian, công sức cả tài chính
thì mi thể duy trì một mi quan hệ được lâu i hạnh phúc trọn vn. Đối
với gii trẻ y giờ, đa phần họ sẽ tập trung vào ng việc, ưu tiên sự nghiệp
2
,
sự tự do độc lập của bản thân lên trước do vậy sẽ khó để thể dành nhiều
sự tập trung cho việc kiếm tìm một đối tượng hẹn hò thực sự chất lượng.
Áp lực kinh tế: Trong hội hin đại đang trở thành một trong những
do chính khiến nhiều người trẻ trì hoãn việc kết hôn. Chi psinh hoạt ngày
càng gia tăng, tnhà ở, thực phm, đến c dịch vụ y tế giáo dục, khiến việc
duy trì một cuộc sống ổn định trn khó khăn hơn bao giờ hết. Không chỉ
những khoản chi tiêu bản ng ngày, nhiều người trẻ còn phải đối mặt với
gánh nặng của các khoản vay mua nhà, xe hơi, hoặc nợ học phí. Điều này đặt ra
yêu cầu phải một nền tảng tài chính vững chắc trước khi nghĩ đến việc lập
gia đình. Với sbất n của thị trường lao động áp lực tnền kinh tế cạnh
tranh, việc đảm bảo một ng việc n định với thu nhập đ cao để trang trải
cho các nhu cầu dự phòng tương lai điều không hề đơn giản. Chính vậy,
thay vội vàng lập gia đình, nhiều người trẻ lựa chọn tập trung vào sự nghiệp,
ch lũy i chính, xây dựng một cuộc sống n định hơn trước khi bước vào
hôn nhân. Họ hy vọng rằng, khi đủ tiềm lực kinh tế, họ sẽ giảm bớt căng
thng i chính thtận hưởng cuộc sống hôn nhân mt cách trọn vn hơn.
Áp lực kinh tế không chỉ nh hưởng đến quyết định kết hôn n tác động
đến cách mọi người xây dựng các mi quan hệ, từ việc lựa chọn đối tượng hẹn
đến việc lập kế hoạch cho tương lai. Những điu này cho thy sthay đổi
ln trong cách nhìn nhận về hôn nhân của giới trẻ trong thời đại ngày nay, khi
mà sự n định i chính trở thành một yếu tố quan trọng ng đầu để đảm bảo
hạnh phúc gia đình.
Suy nghĩ hiện đại về hôn nhân tình u: Trong hội hiện đại, quan niệm
về hôn nhân tình yêu đã nhiều thay đổi, khiến nhiều bạn trẻ lựa chọn sống
độc thân thay kết hôn theo các chuẩn mực truyền thống. Họ coi trọng quyn
tự quyết về cuộc sống không muốn bbởi những định kiến cũ. Tình
yêu không còn là yếu tố duy nhất quyết định hôn nhân; nhiều người trẻ đặt nặng
sự nghiệp, sự tự do nhân hạnh phúc riêng hơn việc phải lập gia đình
theo mong đợi của hội. Thậm chiện nay, một phần nhỏ trong hội n
tìm đến những mối quan hệ được như “đồ ăn nhanh” - họ sẽ lên những ứng
dụng hẹn hò, nhìn vào những ng tiểu sử vắn tắt về cuộc đời sở thích đối
phương. Từ đó sẽ nhanh chóng chn những người cùng đam mê, chí hướng
để tiến tới kết nối liên lạc. Tất nhiên hình thức này cũng được kết quả tốt
2
: xem phụ lc 2 3
đẹp những mối quan hệ tiến đến hôn nhân lâu dài nhưng cũng có không ít,
hay thm crất phổ biến, những mối quan hệ chỉ kéo i vài ngày, vài tuần.
Việc tìm kiếm bạn đời qua những ng dụng này phn ánh sự thay đổi trong cách
tiếp cận tình yêu: thực dụng hơn, nhanh chóng hơn, có phần thoải mái hơn
với sự tạm thi. Sự thay đổi này cho thấy giới trẻ ngày nay đã thoát khỏi những
ràng buộc truyền thống, tìm kiếm sự linh hoạt quyền tự chủ trong c mối
quan hệ tình cảm.
Trải nghiệm cuộc sống đa dạng hơn: Những hội trải nghiệm phong
phú trong cuộc sống hiện đại, từ việc đi du lịch km pnhững miền đất mi,
học hỏi những k năng mi, đến tham gia các hoạt động hội cộng đồng,
đã tạo ra mt sức hấp dẫn đặc biệt vi nhiều người trẻ. Những trải nghiệm y
không chỉ giúp m mang kiến thức mà n mang lại những kniệm cảm xúc
khó quên, khiến cuộc sống độc thân trở nên thú vị ý nghĩa hơn bao giờ hết.
Nhiều bạn trẻ cảm thấy rằng cuộc sống độc thân cho phép họ tận hưởng sự tự
do, không bị ràng buộc bởi những trách nhiệm của hôn nhân, từ đó thdễ
dàng tập trung vào những đam sở thích nhân. Việc nh thời gian để
khám phá thế giới tìm hiểu về bản thân giúp họ phát triển nhân một cách
toàn diện, từ kỹ năng mm, hiểu biết n hóa đến sự ttin khng thích
nghi. Chính những trải nghiệm phong phú này đã khiến nhiều người trẻ có xu
hướng kéo i giai đoạn độc thân, không vội vàng bước vào hôn nhân. Họ muốn
thời gian để tự do khám phá tận hưởng những niềm vui của tuổi trẻ, đồng
thi tích lũy những i học q giá từ cuộc sống trước khi cam kết với một mối
quan hệ i hn. Sự đa dạng trong những trải nghiệm sống không chỉ làm phong
phú thêm đời sống nhân còn giúp họ hình thành mt cái nhìn mới về hạnh
phúc và thành ng. Thay tuân theo những k vọng truyền thống về việc lập
gia đình sớm, nhiều ngưi trẻ chọn cho mình một lối sống linh hoạt, cởi mở, nơi
mà hạnh phúc được đo lường bằng những kỷ niệm, trải nghiệm và sự tự do
nhân. Điu này thể hiện một sthay đổi trong cách tiếp cận cuộc sống của thế
hệ trẻ, khi họ kng còn coi n nhân điểm đích duy nhất một trong
nhiu lựa chọn để tìm kiếm ý nghĩa và hạnh phúc.
Ảnh hưởng từ mạng hội văn hóa hiện đại: Mạng hội văn
hóa hiện đại nh hưởng lớn đến quan niệm của gii trẻ về n nhân tình
yêu. Các nền tảng như Instagram, Facebook, TikTok thúc đẩy xu hướng sống
tự do độc lập, khiến li sống độc thân hoặc kết hôn muộn trở nên phổ biến.
Việc chia sẻ những u chuyện về cuộc sống tdo, snghiệp, du lịch giúp
nhiu người trẻ cảm thấy hạnh phúc hơn khi lựa chn sống độc thân thay vội
vàng kết hôn. Bên cạnh đó, các bộ phim chương trình truyền hình hiện nay
thường phản ánh những khía cạnh tiêu cực của hôn nhân, như mâu thuẫn bất
hòa, khiến nhiều người trẻ cảm thấy e ngại khi nghĩ đến việc cam kết lâu dài. Sự
kết hợp giữa những trào lưu tn mạng hi nội dung văn hóa này đã tạo ra
mt hình nh không mấy tích cực về hôn nhân, khiến nhiu bạn trẻ chọn cuộc
sống độc thân hoặc kết hôn muộn như một lựa chọn an toàn hơn.
8
II. PHẢN ĐỐI Ý KIẾN ĐÁNH THUẾ NGƯỜI ĐỘC THÂN
Luận điểm 1: Đánh thuế người độc thân đi ngược lại với các quy đnh
trong Hiến pháp Pháp lut của nước Cộng hoà hội chủ nghĩa Việt
Nam
* Căn cứ pháp
Khoản 1, điều 2 Luật Hôn nhân gia đình 2014 quy định: Hôn nhân
tự nguyện, tiến bộ, mt vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.
Điều 36 Hiến pháp nước CHXHC N Việt Nam năm 2013: Nam, nữ
quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một
chồng, vchồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau.
Điều 16 Hiến pháp năm 2013 quy định: Mọi người đều bình đẳng trước
pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính tr, dân sự, kinh tế,
văn hóa, xã hội.
* Phân tích
Thứ nhất, căn cvào khoản 1, điều 2 Luật Hôn nhân gia đình 2014
khoản 1, điều 36 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013 đề cập đến
nguyên tắc hôn nhân tự nguyện ta thể khẳng định rằng việc kết hôn hay
không kết hôn phải slựa chọn nhân, mang nh tự nguyện không bị
ép buộc. Hôn nhân một quyền không phải nghĩa vụ pháp luật thể áp
đặt hoặc khuyến khích tham gia đánh thuế người độc thân. Việc đánh thuế
người độc thân hay những người không kết hôn thể được xem như một sự
can thiệp không hợp vào quyn tự do cá nhân, đi ngược lại với nguyên tắc
“hôn nhâ n tự nguyện” mà pháp luật đã quy định và đề cao.Việc đánh thuế
người độc thân có thể dẫn đến sự ép buộc xã hội, khiến nhiều người cảm thấy b
áp lực phải kết hôn để tránh bđánh thuế. Điều này đi ngược lại nguyên tắc
“hôn nhân tự nguyện” trong luật. Mỗi nhân có quyền tquyết định về cuộc
sống của mình, bao gồm việc kết hôn hay không. Pháp luật không nên áp
dụng các chính sách kinh tế để định hướng hay can thiệp vào quyết định
nhân đó.
Thứ hai, điều 16 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013 khẳng
định một nguyên tắc bản quan trọng của nhà nước pháp quyền xã hội ch
nghĩa Việt Nambình đẳng trước pháp luật”. Nguyên tắc này bảo đảm rằng
mi công n, bất kể giới tính, dân tộc, tôn giáo, thành phần, địa vị hội đều
được hưởng quyền nghĩa vụ như nhau trước pháp luật. Việc phân biệt đối xử
trong bất kỳ lĩnh vực nào của đời sống đều bị nghiêm cấm. Việc đánh thuế người
độc thân với mức thuế cao hơn so với người đã kết hôn thể được xem đi
ngược lại với nguyên tắc bình đẳng. Bởi vì: tình trạng hôn nhân chỉ là một yếu
tố nhân không liên quan trực tiếp đến khnăng đóng góp cho hội hoặc thu
nhập nhân, người độc thân vẫn tham gia vào các hoạt động kinh tế, hội
đóng góp vào ngân sách nhà nước thông qua các loại thuế khác lên nếu họ b
đánh thuế cao n không nhận được lợi ích cụ thể nào tương ng từ chính
sách này tđây sự bất công đối với người độc thân. Việc đánh thuế đối với
người độc thân đi ngược lại với nguyên tắc nh đẳng trước pháp luật, khi
mà mọi công n đều quyn được đối xử công bằng, không phân biệt đối xử
như Dejonghe nói: "Các chính sách không nên thiên vị hay trừng phạt đối
xử bình đẳng với mọi lối sống". Đánh thuế người độc thân sthdẫn đến
những bất ng, bất bình đẳng trong việc phân chia gánh nặng thuế giữa c
nhóm n cư. Theo nguyên tắc bình đẳng, mỗi ng n đều phải đóng góp một
phần i chính hợp dựa trên khả năng của mình, không phải trên yếu tố tình
trạng gia đình. Việc đánh thuế người độc thân thể bị xem làm tổn hại đến
nguyên tắc công bằng trong hệ thống thuế, khi những người thkhông cần
gánh vác những trách nhiệm i chính bổ sung lại phải đóng thuế nhiều n chỉ
họ chưa kết hôn. Việc đánh thuế cao hơn đối với người độc thân còn thể
gây áp lực khiến người dân phải thay đổi quyết định nhân về việc kết hôn,
ảnh ng đến quyền tdo lựa chọn lối sống của mi ngưi. Việc đánh thuế
người độc thân th tạo ra sự bất bình đẳng hội làm giảm động lực m
việc của một số người.
Dựa vào những phân tích trên, ta có thể đưa ra các lập luận để phản đối
việc đánh thuế người độc thân như: Thuế nghĩa vụ ng, nhưng việc đánh
thuế n dựa trên khả năng đóng góp của mi người, c thể là thu nhập. Việc
đánh thuế dựa trên tình trạng hôn nhân không ng bằng không hợp .
Việc đánh thuế người độc thân vi phạm quyền bình đẳng ca ng dân, đi ngược
li với tinh thần của Hiến pháp. Việc đánh thuế người độc thân thể tạo ra áp
lực hội, khiến nhiều người cm thấy bị buộc phải kết hôn, điều này không
khuyến khích sự đa dạng trong các mô hình gia đình và lối sống.
Luận điểm 2: Đánh thuế người độc thân gây rắc ri tới các vấn đề về mặt
pháp lý, tạo ra gánh nặng về tài cnh phát sinh nhiều vấn nạn như kết
hôn giả cưỡng ép kết hôn.
* Căn cứ pháp
Khoản 11, điều 3 Luật Hôn nhân Gia đình năm 2014 quy định: Kết
hôn giả tạo việc lợi dụng kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh, trú, nhập quốc
tịch Việt Nam, quốc tịch nước ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc
để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích xây dựng gia đình.
Khoản 2, điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP quy định hành vi vi phạm
quy định về kết n, ly hôn vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng:
Phạt tin từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối vi một trong các hành vi
sau:
Cưỡng ép kết hôn hoặc lừa dối kết hôn; cưỡng ép ly hôn hoặc lừa dối ly
hôn.
Lợi dụng việc kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh, trú, nhập quốc tịch
Việt Nam, quốc tịch ớc ngoài; ởng chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc để
đạt được mục đích khác không nhằm mục đích xây dựng gia đình.
Khoản 1, điều 4 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 quy định: N
nước có chính sách, bin pháp bảo hộ hôn nhân và gia đình, tạo điều kiện để
nam, nxác lập hôn nhân tự nguyn, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình
đẳng; xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc thực hiện đầy đủ chức
năng của mình; ng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về hôn
nhân gia đình; vận động nhân n xóa bỏ phong tc, tập quán lạc hậu về hôn
10
nhân gia đình, phát huy truyền thng, phong tục, tập quán tốt đẹp th hiện
bản sắc ca mỗi dân tộc.
Điều 5 Luật Hôn nhân gia đình quy định: Bảo vchế độ hôn nhân
gia đình
1. Quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập, thực hiện theo quy định
của Luật này được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
2. Cấm các hành vi sau đây:
a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;
b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;
c) Người đang vợ, chồng kết hôn hoặc chung sống như vợ
chồng với người khác hoặc chưa vợ, chưa chồng kết hôn hoặc chung
sống như vợ chồng với người đang chồng, vợ;
d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng
máu về trực hệ; giữa những người họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ
nuôi với con nuôi; giữa người đã từng cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng
với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con
riêng của chồng;
đ) Yêu sách của cải trong kết hôn;
e) Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly n;
g) Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản mục đích thương
mại, mang thai hộ mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản
tính;
h) Bạo lực gia đình;
i) Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân gia đình để mua bán
người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc hành vi khác nhằm mục
đích trục lợi.
* Phân tích:
Thứ nhất, pháp luật Việt Nam không bất kỳ quy định nào xử phạt
người độc thân không kết hôn cũng không loại thuế n "thuế độc
thân". Nên việc áp đặt một loại thuế mi sẽ đòi hỏi phải sđiều chỉnh bổ
sung pháp luật, điu này đòi hỏi quá trình tham vấn và thông qua phức tạp. Khái
nim "người độc thân" thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau, tngười
chưa bao giờ kết hôn đến người đã ly hôn hoặc góa bụa vậy để xác định chính
xác khái niệm này rất khó. Chính sách thuế phân biệt thể tạo ra lỗ hổng pháp
mà người dân thể li dụng để giảm thuế. Những người chưa kết hôn hoặc
chưa đăng kết hôn có thể khai báo sai về nh trạng hôn nhân của mình để
tránh bị đánh thuế cao, dẫn đến gian lận thuế. Điềuy gây khó khăn trong việc
giám sát và kiểm tra, dẫn đến sự bất ổn trong hệ thống thuế gia ng nh
nặng cho quan quản lý. Việc xác định một cách chính xác thống nhất ai
"người độc thân" để áp dụng thuế là rất khó khăn. Để xác định tình trạng n
nhân của một nhân, các quan thuế thể yêu cu cung cấp thông tin
nhân liên quan đến đời sống riêng tư, điều y thể vi phạm quyền riêng tư
của công n. Nếu chính sách thuế phân biệt giữa người độc thân người đã
kết hôn, s nhiều nh huống pháp khó giải quyết. dụ: Người đc
thân sống chung với bạn đời nhưng chưa kết hôn: Họ nên chịu mức thuế
giống như người đã kết hôn hay không?; Người đã ly hôn nhưng chưa tái n:
Họ vẫn được coi là người "độc thân " hay có quyn hưởng mức thuế thấp của
người đã kết n? Những người không muốn công khai nh trạng hôn nhân
do riêng tư cũng sẽ gặp khó khăn trong việc cung cấp thông tin chính xác.
Việc đưa ra chính sách thuế phân biệt theo tình trạng hôn nhân sẽ đòi hỏi phi
xây dựng các quy định chi tiết để xác định ai người độc thân và ai người đã
kết hôn. Tuy nhiên, các quy định này thể gặp nhiều khó khăn trong việc đảm
bảo tính công bằng, chính xác khthi trong thực tế. Liệu một người sống độc
thân thchứng minh tình trạng độc thân hợp pháp hay không? Những người
quan hệ yêu đương nhưng kng đăng kết hôn thể gặp phải khó kn
khi xác định liệu họ có nên báp mức thuế cao hay không. Điều này sdẫn đến
rắc rối pháp thể dẫn đến việc áp dụng sai quy định. Việc áp dụng chính
sách thuế y thể dẫn đến nhiều tranh chấp pháp và khó khăn trong
việc giải thích luật trước tòa nếu khiếu ni, đồng thời m gia ng gánh
nặng nh chính cho các quan nhà nước. Việc đánh thuế người độc thân
thdẫn đến nhiều vụ kiện tụng, khi người dân cho rằng quyền lợi của mình b
xâm phạm. Các vụ kiện này sẽ gây tốn m về thời gian, ng sức i chính
cho cả nhân nhà nước. Số lượng vụ kiện ng lên sẽ gây áp lực ln lên hệ
thống pháp, làm chậm trễ việc gii quyết các vụ án khác. Việc quản thực
thi loại thuế y sẽ tốn m nhiu chi phí hơn so với các loại thuế khác, do yêu
cầu xác minh thông tin phức tạp. Việc đánh thuế người độc thân không chỉ y
ra bất bình đẳng hội mà còn tiềm n nhiu rắc rối về mặt pháp lý. Để giải
quyết vấn đề thu ngân sách, nhà nước nên tập trung vào việc hn thiện hệ thống
thuế hin hành, ng cường qun thuế chng trốn thuế, chứ không nên áp
dụng những bin pháp y tranh i khó thực thi như đánh thuế người độc
thân.
Thứ hai, việc đánh thuế người độc thân thể tạo ra nh nặng tài chính
cho nhiu người. Người độc thân thường phải chịu chi phí sinh hoạt cao hơn
không sự chia sẻ chi phí, nhất trong bối cảnh nền kinh tế có nhiu biến
động như giá cả sinh hoạt, đi li ng, chi p y tế, giáo dục cũng ngày càng
cao. Ngoài ra, ngưi độc thân còn ít được hưởng ưu đãi như chính sách thuế.
Mặc người độc thân thể không phi chịu các chi pphụ thuộc như người
đã gia đình, nhưng họ vn phải đóng một khoản thuế lớn hơn so với những
người gia đình. một trong những mục tiêu quan trọng trong đời sống cá
nhân khả năng tiết kim đầu để chun bị cho tương lai, việc đánh thuế
cao hơn đối với người độc thân th làm giảm khả năng tiết kiệm của họ, họ
phải chi trả một phần thu nhp ln hơn vào thuế so vi những người đã kết
hôn. Điu này dẫn đến việc hạn chế tài chính nhân, khiến người độc thân gặp
khó khăn trong việc tích lũy i sn đảm bảo sn định i chính lâu i.
Đánh thuế thêm n họ có thể làm tăng gánh nặng i chính, ảnh hưởng đến cuộc
sống hàng ngày của họ. Áp lực i chính có thể dẫn đến ng thng lo âu cho
những người độc thân, ảnh hưởng tu cực đến sức khỏe m của họ. Chính
sách thuế phân biệt có thể làm xói mòn sự tự do nhân khiến hphải thay
đổi lựa chọn sống của mình vì lý do tài chính.
12
Chị Lê Thị Thùy Anh (24 tuổi, Nghệ An) cho biết bản thân không có ý
định kết hôn trong 5 -7 năm tới. Như nhiu người trẻ khác, nguyên nhân được
chị đưa ra cho quyết định kết hôn muộn là chưa chuẩn bị tâm ,i chính hn
chế, muốn theo đuổi sự nghiệp, ổn định kinh tế. Trướcu hỏinên đánh thuế
người độc thân hay không, chị lập luận: “Nhiều người trẻ hiện nay không muốn
kết hôn, sinh con sớm vì lo lng chi p nuôi dạy một đứa trẻ quá đắt đỏ nhất là
khi điều kin kinh tế chưa vững chắc, ổn định hoặc thiếu hụt. Vì vậy, việc đóng
thuế độc thân có vẻ thiếu tính thực tế và chỉ tạo thêm gánh nặng, áp lực kinh
tế cho người trẻ”. Áp lực ng việc, tài chính chưa ổn định do khiến nhiều
bạn trẻ "ngi" kết hôn.
Thứ ba, nếu chính sách thuế đánh vào người độc thân cung cấp các ưu
đãi thuế cho những người đã kết hôn tmột sngười có thể bị cưỡng ép kết
hôn hay quyết định kết hôn giả để hưởng lợi từ các ưu đãi thuế điều đó m gia
tăng các phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân, khi việc kết hôn kng
còn được coi trọng như mt giá tr nhân văn mà chỉ một bin pháp i chính.
Điều này đi ngược lại với mục tiêu vận động nhân n xóa bnhững phong tục
lạc hậu nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ. Bị ép kết hôn hay kết n
giả có thể xy ra khi người n không thực sự ý định xây dựng gia đình
chỉ do i chính m thủ tục kết hôn. Đây mt hệ qutiêu cực khi
chính sách thuế không phản ánh đúng thực tế nhu cầu hội, mà chỉ dựa vào
tình trạng hôn nhân. Nhiều ngưi thể thực hiện một cuộc hôn nhân "giả" ch
để gim nh nng thuế không s gắn kết tình cảm thực s với đối
phương. Kết n giả gây loạn chuẩn mực hội, tạo ra u thuẫn pháp về
quyền lợi của các n trong cuộc hôn nhân đó, tạo hội cho các vấn đề
pháp phát sinh trong việc xác định quyền lợi tài sản, quyn nuôi con các
trách nhiệm liên quan. Để tránh mức thuế cao, nhiu người thể lựa chọn kết
hôn hình thức, chỉ tn giy tờ không có mi quan hệ thực sự. Điều này m
mất đi ý nghĩa thiêng liêng của hôn nhân và vi phm pháp luật.
Trong nhiều trường hợp những người có thu nhập thấp hoặc trung bình có
thcảm thấy bị đẩy vào tình trạng kết hôn giả hoặc sống chung không
sự tự nguyện, từ đó dẫn đến sự không công bằng u thuẫn trong hội.
Một số ngưi thcảm thấy b cưỡng ép phải kết hôn chỉ do thuế
những cuộc hôn nhân như thế sẽ không bền vững và dẫn đến ly n. Nhiều
nhân thể cảm thấy rằng việc kết n biện pháp duy nhất để giảm gánh
nặng thuế không thực sý định xây dựng một gia đình. Điều y không
chỉ xâm phạm quyền tự do nhân còn thể dẫn đến skhông hnh
phúc trong hôn nhân, khi một trong hai n không thực sự sẵn sàng hoặc
không mong muốn lập gia đình. Khi mt người bị ép phi kết hôn chỉ để
gim thuế, họ sphải đối mặt vi những vấn đề tâm nghiêm trọng. Những
vấn đề trên đặt ra cho nhà nước, hội rằng làm sao ththực hiện được lời
khẳng định “Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ”
PHẦN C: KẾT LUẬN
Quan điểm đề xuất đánh thuế đối với người độc thân là một vấn đề cần
được nhìn nhận một cách thấu đáo và cân nhắc kỹ lưỡng, bởi lẽ chính sách này
không chỉ đi ngược lại với các nguyên tắc cơ bản trong Hiến pháp và pháp luật
của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà còn có thể gây ra những hệ
quả pháp , xã hội và tâm lý không mong muốn cho ngườin. Chính vậy,
áp dụng thuế phân biệt đối vi người độc thân thể được coi là một sự vi phạm
nghiêm trọng nguyên tắc bình đẳng này.
Việc áp dụng chính sách thuế đối vi người độc thân sẽ không chỉ gây ra
những vấn đề về mặt pháp lý mà n tạo ra nhiu hệ quả tiêu cực khác. Thực tế,
việc xác định ai là người độc thân có thgặp phải rất nhiều khó khăn, bởi vì
khái niệm "độc thân" có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Do đó áp
dụng một loại thuế mới dựa trên tình trạng hôn nhân thể dẫn đến sự kkhăn
trong việc xác định và thực thi chính sách này. Ngoài ra, những kẽ hở trong quy
định có thtạo cơ hội cho việc khai gian, khai man thông tin vtình trạng hôn
nhân của ngưi dân để tránh bị đánh thuế cao hơn.
Cũng cần phải lưu ý rằng, nếu chính sách thuế y được áp dụng, nó sẽ
tạo ra gánh nặng tài chính cho người độc thân. Những người độc thân phải chịu
chi phí sinh hoạt cao hơn so với những người gia đình, vì không sự chia sẻ
tài chính từ bạn đời. Việc đánh thuế cao hơn đối với người độc thân thể khiến
họ gặp khó khăn trong việc duy trì cuộc sống ổn định, từ đó làm giảm khả năng
tiết kiệm và đầu tư cho tương lai. Áp lực tài chính này có thdẫn đến căng
thng, lo âu và những vấn đề tâm lý khác cho những người độc thân, ảnh hưởng
đến sức khỏe và chất lượng cuộc sống của họ.
Một hệ qutiêu cực khác của đánh thuế người độc thân là khả năng phát sinh
các cuộc hôn nhân gihoặc cưỡng ép kết hôn chỉ vì lý do tài chính. Để tránh bị
đánh thuế cao, nhiu người có thể cảm thấy bị đẩy vào tình trạng kết hôn mà
không thực sự ý định xây dựng một gia đình bền vững. Điều này sẽ làm giảm
giá trị thực sự của hôn nhân, biến trở thành mộtng cụ tài chính thay một
quyết định tự nguyện dựa trên tình cảm.
Cuối cùng, chính sách này phân biệt giữa người độc thân người đã kết
hôn sẽ tạo ra những tác động không mong muốn đối với xã hội. Nó có thể làm
gia tăng sự phân biệt giữa các nhóm dân cư, dẫn đến sự thiếu công bằng trong
phân chia gánh nặng thuế, cũng như tạo ra những bất đồng hi.
Như vy, việc đánh thuế người độc thân không chỉ là một chính sách
không hợp mà còn có thgây ra nhiu hệ quả tiêu cực về pháp lý, xã hi và
m lý. Chính sách này đi ngược lại với nguyên tắc bình đẳng trước pháp lut,
gây ra sự phân biệt không công bằng và có thể tạo ra những vấn đề khó gii
quyết về mặt pháp . Thay vì áp dụng thuế phân biệt, nhà nước cần tập trung
vào việc hoàn thiện các chính sách thuế hiện hành để đảm bảo sự công bằng
hợp lý cho mọi côngn, bảo vệ quyền tự do cá nhân và quyền lợi của mỗi
người
14
Phụ lục 1:
BẢNG THỐNG MỨC SINH VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1999-2023
PHỤ LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Văn bản quy phạm pháp luật
1. Hiến pháp nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam
2. Luậtn nhân và gia đình 2014
3. Nghị định 82/2020/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phm hành chính trong lĩnh
vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân
sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
* Tạp chí, bài o
1.
Chị Thị Thùy Anh (24 tuổi, Nghệ An) cho biết bản thân không ý định
kết hôn trong 5 -7 năm tới Tạp chí điện tử gia đình Việt Nam
2.
Chị Phương Liên (34 tuổi), nhân viên bán hàng tại Hoàng Mai, Nội
muốn kết hôn khi gặp được người thực sự p hợp Tạp chí điện tử gia đình
Việt Nam
3.
Anh Phạm Đức Toàn (27 tuổi, Nam Định) cũng cho rằng phương án gây áp
lực tài chính để người trẻ kết hôn, sinh con không công bằng không mang
lại hiệu quả Tạp c điện tử gia đình Việt Nam
4.
Muốn được sống bằng chính khả năng của mình Báo người Lao động
5.
Việc kết hôn hay không do sự tự nguyện của mỗi người Thư vin Pháp
Luật
6.
Thư viện Pháp luật - https://thuvienphapluat.vn/
7.
Tạp chí điện tử Gia đình Việt Nam - https://giadinhonline.vn/
8.
Báo người Lao động - https://nld.com.vn/
9.
Thuế độc thân đè nặng giới trẻ TP.HCM, Nội Tạp chí tri thức
ZNEWS.VN - https://znews.vn/
10.
Thuế độc thân khủng hoảng chi phí sinh hoạt lan rộng châu Âu - Thi báo
Tài chính Việt Nam - https://thoibaotaichinhvietnam.vn/
11.
https://dantri.com.vn/tam-diem/trach-nhiem-xa-hoi-cua-nguoi-doc-than-
20240825085021284.htm
12.
https://kenh14.vn/gioi-tre-chap-nhan-moi-loai-thue-doc-than-con-hon-ket-
hon-va-sinh-con-lam-cha-me-ton-hon-nhieu-215240824165924789.chn
16

Preview text:

BẢNG ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG NHÓM Nhóm: 02 Lớp: 4911
Chủ đề tranh biện: Trước tình hình xu thế kết hôn muộn hoặc độc thân
đang không ngừng gia tăng Việt Nam trong thời gian gần đây, ý kiến cho
rằng nên quy định đánh thuế với người độc thân. Bằng kiến thức đã học, hãy
đưa ra các quan điểm để phản đối ý kiến trên.
Thời gian hoạt động
Nội dung cụ thể 17/10/2024 Nhận đề tài nhóm 25/10/2024
Bắt đầu làm việc nhóm
Thông báo đề tài tranh biện cả nhóm 26/10/2024 Họp nhóm lần 1
Mỗi thành viên nêu lên quan điểm
của mình về chủ đề bài tập 27/10/2024
Nhóm trưởng tổng hợp ý kiến, gửi dàn ý bài tập cho nhóm 29/10/2024 Họp nhóm lần 2
+ Nhóm trưởng phân công công việc cho các cá nhân
+ Cá nhân nhận nhiệm vụ và bắt đầu công việc Deadline 02/11/2024 03/11/2024
Tổng hợp nội dung từ bài của các thành viên 05/11/2024
Hoàn thành tổng nội dung, bắt đầu viết bài tiểu luận 09/11/2024
Tổ chức họp nhóm lần 3
+ Bổ sung đóng góp cho bài tiểu luận 12/11/2024
Tổ chức họp nhóm lần 4
Các thành viên trong nhóm góp ý
thêm và hoàn thiện bài tiểu luận
1. Kế hoạch làm việc nhân 2
2. Phân chia công việc Tiến độ Công việc thực Xếp STT
Họ tên Mức Họp thực
độ hoàn thành nhóm hiện hiện loại (đúng hạn) Tích Đóng Không Đầy cực góp Không Tốt tốt TB đủ sôi nhiều ý nổi tưởng 1 Nguyễn Ngân Hà 2 Đỗ Việt Hải Nguyễn Thu 3 Hằng Nguyễn Trương 4 Diệu Hiền Nguyễn Phương 5 Hoa 6 Phùng Đức Huy Phạm Thanh 7 Huyền Nguyễn Vi Việt 8 Hùng 9 Chu Mai Hương Nguyễn Đình Gia 10 Khánh 11 Lê Xuân Kiên 12 Bùi Thị Mỹ Lệ 13 Đinh Khánh Linh 14 Lê Phương Linh Nguyễn Khánh 15 Linh Nguyễn Khánh 16 Linh
Nội, ngày tháng năm 2024 Nhóm trưởng
Nguyễn Khánh Linh MỤC LỤC
PHẦN A: LỜI MỞ
ĐẦU.......................................................................................
PHẦN B: NỘI DUNG...........................................................................................
I. Những vấn đề
chung..........................................................................................
1. Khái niệm............................................................................................................ 2. Thực
trạng............................................................................................................
II. Phản đối ý kiến đánh thuế đối với người độc
thân........................................
Luận điểm 1: Đánh thuế người độc thân là đi ngược lại với các quy định trong
Hiến pháp và Pháp luật của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Luận điểm 2: Đánh thuế người độc thân gây rắc rối tới các vấn đề về mặt pháp
lý, tạo ra gánh nặng về tài chính và phát sinh nhiều vấn nạn như kết hôn giả và cưỡng ép kết hôn.
PHẦN C: KẾT
LUẬN...........................................................................................
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................. 4
PHẦN A: LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm gần đây, khi các quốc gia trên thế giới phải đối mặt với
các thách thức về dân số già hóa, thiếu hụt nguồn nhân lực trẻ và gánh nặng tài
chính cho hệ thống an sinh xã hội, các đề xuất về việc đánh thuế người độc thân
đã bắt đầu được đưa ra nhằm khuyến khích hôn nhân và gia đình. Những người
ủng hộ chính sách này cho rằng, đây là một cách hiệu quả để thúc đẩy dân số,
tăng nguồn thu ngân sách, đồng thời tạo động lực để các cá nhân tích cực tham
gia vào cuộc sống gia đình. Tuy nhiên, từ góc độ của nhiều chuyên gia, đây lại
là một chính sách mang tính áp đặt, gây áp lực xã hội và làm gia tăng phân biệt
đối xử đối với một bộ phận người dân.
Việc đánh thuế người độc thân không chỉ ảnh hưởng đến quyền tự do lựa
chọn của mỗi cá nhân mà còn có thể làm sâu sắc thêm sự bất bình đẳng trong xã
hội. Người độc thân không phải lúc nào cũng có thể dễ dàng lập gia đình do
những yếu tố khách quan như tài chính, hoàn cảnh gia đình, hoặc thậm chí là
nguyện vọng cá nhân. Áp lực từ chính sách thuế không những không giải quyết
được vấn đề dân số mà còn gây ra nhiều hệ lụy về tâm lý và xã hội.
Thông qua bài tiểu luận này, chúng em xin trình bày quan điểm cá nhân
về lý do vì sao việc đánh thuế người độc thân là không hợp lý, đồng thời phân
tích những bất cập mà chính sách này có thể gây ra đối với một xã hội hiện đại, đa dạng và bao dung.
Do trình độ nghiên cứu còn hạn chế, thời gian tìm tòi kiến thức còn chưa
có đủ, kinh nghiệm tích luỹ qua quá trình học tập tại trường chưa được nhiều,
vậy nên bài tiểu luận không tránh khỏi được những thiếu sót. Rất mong nhận
được sự góp ý từ các thầy cô để có thể hoàn thiện thêm cách nhìn nhận vấn đề
và nâng cao kỹ năng viết lách.
PHẦN B: NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1. Khái niệm
1.1. Khái
niệm độc thân
Độc thân thường được hiểu là trạng thái không có mối quan hệ tình cảm
hoặc hôn nhân. Người độc thân có thể chọn sống một mình hoặc trong các mối
quan hệ không chính thức, và thường có quyền tự do quyết định lối sống, công
việc và các mối quan hệ xã hội mà không bị ràng buộc bởi trách nhiệm hôn
nhân. Tình trạng này có thể xuất phát từ nhiều lý do, bao gồm sự lựa chọn cá
nhân, tập trung vào sự nghiệp, hoặc các yếu tố xã hội và văn hóa.
1.2. Khái niệm thuế độc thân
Thuế độc thân là loại thuế áp dụng cho những cá nhân chưa kết hôn hoặc
không có người phụ thuộc. Mức thuế này thường khác với mức thuế áp dụng
cho các cặp vợ chồng hoặc hộ gia đình. Ở nhiều quốc gia, người độc thân có thể
chịu mức thuế cao hơn so với những người đã kết hôn, do không có sự chia sẻ
thu nhập và giảm trừ thuế. Thuế độc thân thường phản ánh khả năng tài chính
của cá nhân và có thể ảnh hưởng đến quyết định tài chính của họ.
2. Thực trạng độc thân kết hôn muộn của người trẻ tại Việt Nam hiện nay
2.1
Tỷ lệ kết hôn muộn độc thân Việt Nam càng gia tăng:
Theo Tổng cục Thống kê, tuổi kết hôn lần đầu trung bình trên cả nước
năm 2021 là 26,2 tuổi (cao hơn 0,5 tuổi so với năm 2020); năm 2022 là 26,9
tuổi. Độ tuổi kết hôn lần đầu tiếp tục ghi nhận sự gia tăng. Theo đó, năm 2023,
tuổi kết hôn lần đầu trung bình là 27,2.
Đặc biệt ở các khu vực địa phương, Đông Nam bộ hiện là vùng người dân
kết hôn lần đầu muộn nhất, ngoài 29 tuổi. Trong đó, tuổi kết hôn lần đầu của
người TPHCM là 30,4 tuổi; Bà Rịa - Vũng Tàu là 29,3 tuổi. Người dân Khánh
Hòa cũng kết hôn muộn, trung bình 29,1 tuổi. Ngoài ra, độ tuổi trung bình để
người Hà Nội kết hôn lần đầu năm 2023 là 27,9 tuổi, cao nhất trong vùng Đồng bằng sông Hồng.
Theo thống kê của Tổng cục Thống kê, tỷ lệ người độc thân có xu hướng
tăng nhanh, tỷ lệ người độc thân tăng 3,87% trong 15 năm (2004 - 2019). Một
phần người trẻ ngày nay chọn tập trung cho sự nghiệp, trải nghiệm thêm nhiều
điều mới mẻ, học các kỹ năng mới để hoàn thiện bản thân. Vào ngày
09/11/2023 Phòng nghiên cứu Statista đã công bố bảng tỷ lệ1 độc thân ở Việt
Nam vào năm 2021, gần 85% dân số nam ở Việt Nam trong độ tuổi từ 20 - 24
vẫn độc thân. Mặt khác, 61,9% dân số nữ trong cùng nhóm tuổi có tình trạng độc thân.
3. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng độc thân kết hôn muộn của giới trẻ
Việt Nam hiện nay
Ưu tiên phát triển sự nghiệp bản thân: Ngày nay, nhiều người trẻ lựa
chọn ưu tiên sự nghiệp và phát triển bản thân trước khi đầu tư vào các mối quan
hệ tình cảm hoặc lập gia đình. Sự ổn định tài chính và vị trí trong công việc là
những yếu tố quan trọng hàng đầu, bởi chúng mang lại cảm giác an toàn và tự
tin cho tương lai. Trong bối cảnh chi phí sinh hoạt ngày càng tăng và áp lực
kinh tế đè nặng, việc đạt được một sự nghiệp vững chắc không chỉ giúp đảm
bảo cuộc sống thoải mái mà còn tạo nền tảng cho các kế hoạch dài hạn như xây
dựng gia đình. Thực tế, việc duy trì một mối quan hệ tình cảm bền vững trong
xã hội hiện đại không hề dễ dàng, khi mà những yêu cầu về thời gian, công sức,
và tài chính đều rất lớn. Do đó, nhiều người chọn cách tập trung vào sự nghiệp,
tạm gác lại chuyện hẹn hò để có thể theo đuổi những mục tiêu khác mà họ cho
là quan trọng hơn. Trong thời đại mà tự do và độc lập cá nhân ngày càng được
coi trọng, nhiều người trẻ không còn xem việc kết hôn là thước đo duy nhất của
hạnh phúc và thành công. Với họ, việc đạt được sự ổn định tài chính và sự
nghiệp đã là một phần quan trọng của "an lạc nghiệp". Trong khi đó, sự
thay đổi trong quan niệm về hạnh phúc và thành công cũng khiến họ cởi mở
hơn trong việc xác định lộ trình cuộc sống riêng của mình. Thành công có thể là
việc thỏa mãn với bản thân, đạt được sự độc lập và tự do thực hiện ước mơ, thay
vì phải tuân theo những khuôn mẫu truyền thống. Những tiến bộ về công nghệ
cũng đã làm thay đổi cách thức hẹn hò và xây dựng mối quan hệ, khiến nhiều 6
người trẻ trở nên thận trọng hơn trong việc đầu tư vào tình yêu. Tất cả những
yếu tố này tạo nên một xu hướng mới, nơi sự nghiệp và phát triển cá nhân được
đặt lên hàng đầu, phản ánh một sự thay đổi sâu sắc trong cách suy nghĩ về cuộc
sống, hạnh phúc và thành công của thế hệ trẻ hiện nay. Nhiều người muốn an cư
lạc nghiệp, đạt được sự ổn định tài chính, vị trí trong công việc, và xây dựng sự
nghiệp trước khi kết hôn. Họ cũng dành nhiều thời gian để trau dồi bản thân,
học hỏi, khám phá đam mê, và đạt được những mục tiêu cá nhân. Hơn nữa trong
thời buổi hiện nay, việc hẹn hò cần rất nhiều thời gian, công sức và cả tài chính
thì mới có thể duy trì một mối quan hệ được lâu dài và hạnh phúc trọn vẹn. Đối
với giới trẻ bây giờ, đa phần họ sẽ tập trung vào công việc, ưu tiên sự nghiệp2,
sự tự do và độc lập của bản thân lên trước do vậy sẽ khó để có thể dành nhiều
sự tập trung cho việc kiếm tìm một đối tượng hẹn hò thực sự chất lượng.
Áp lực kinh tế: Trong xã hội hiện đại đang trở thành một trong những lý
do chính khiến nhiều người trẻ trì hoãn việc kết hôn. Chi phí sinh hoạt ngày
càng gia tăng, từ nhà ở, thực phẩm, đến các dịch vụ y tế và giáo dục, khiến việc
duy trì một cuộc sống ổn định trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Không chỉ là
những khoản chi tiêu cơ bản hàng ngày, nhiều người trẻ còn phải đối mặt với
gánh nặng của các khoản vay mua nhà, xe hơi, hoặc nợ học phí. Điều này đặt ra
yêu cầu phải có một nền tảng tài chính vững chắc trước khi nghĩ đến việc lập
gia đình. Với sự bất ổn của thị trường lao động và áp lực từ nền kinh tế cạnh
tranh, việc đảm bảo có một công việc ổn định với thu nhập đủ cao để trang trải
cho các nhu cầu và dự phòng tương lai là điều không hề đơn giản. Chính vì vậy,
thay vì vội vàng lập gia đình, nhiều người trẻ lựa chọn tập trung vào sự nghiệp,
tích lũy tài chính, và xây dựng một cuộc sống ổn định hơn trước khi bước vào
hôn nhân. Họ hy vọng rằng, khi có đủ tiềm lực kinh tế, họ sẽ giảm bớt căng
thẳng tài chính và có thể tận hưởng cuộc sống hôn nhân một cách trọn vẹn hơn.
Áp lực kinh tế không chỉ ảnh hưởng đến quyết định kết hôn mà còn tác động
đến cách mọi người xây dựng các mối quan hệ, từ việc lựa chọn đối tượng hẹn
hò đến việc lập kế hoạch cho tương lai. Những điều này cho thấy sự thay đổi
lớn trong cách nhìn nhận về hôn nhân của giới trẻ trong thời đại ngày nay, khi
mà sự ổn định tài chính trở thành một yếu tố quan trọng hàng đầu để đảm bảo hạnh phúc gia đình.
Suy
nghĩ hiện đại về hôn nhân tình yêu: Trong xã hội hiện đại, quan niệm
về hôn nhân và tình yêu đã có nhiều thay đổi, khiến nhiều bạn trẻ lựa chọn sống
độc thân thay vì kết hôn theo các chuẩn mực truyền thống. Họ coi trọng quyền
tự quyết về cuộc sống và không muốn bị gò bó bởi những định kiến cũ. Tình
yêu không còn là yếu tố duy nhất quyết định hôn nhân; nhiều người trẻ đặt nặng
sự nghiệp, sự tự do cá nhân và hạnh phúc riêng hơn là việc phải lập gia đình
theo mong đợi của xã hội. Thậm chí hiện nay, một phần nhỏ trong xã hội còn
tìm đến những mối quan hệ được ví như “đồ ăn nhanh” - họ sẽ lên những ứng
dụng hẹn hò, nhìn vào những dòng tiểu sử vắn tắt về cuộc đời và sở thích đối
phương. Từ đó sẽ nhanh chóng chọn những người có cùng đam mê, chí hướng
để tiến tới kết nối và liên lạc. Tất nhiên hình thức này cũng có được kết quả tốt 2: xem phụ lục 2 3
đẹp là những mối quan hệ tiến đến hôn nhân lâu dài nhưng cũng có không ít,
hay thậm chí là rất phổ biến, những mối quan hệ chỉ kéo dài vài ngày, vài tuần.
Việc tìm kiếm bạn đời qua những ứng dụng này phản ánh sự thay đổi trong cách
tiếp cận tình yêu: thực dụng hơn, nhanh chóng hơn, và có phần thoải mái hơn
với sự tạm thời. Sự thay đổi này cho thấy giới trẻ ngày nay đã thoát khỏi những
ràng buộc truyền thống, tìm kiếm sự linh hoạt và quyền tự chủ trong các mối quan hệ tình cảm.
Trải nghiệm cuộc sống đa dạng hơn: Những cơ hội trải nghiệm phong
phú trong cuộc sống hiện đại, từ việc đi du lịch khám phá những miền đất mới,
học hỏi những kỹ năng mới, đến tham gia các hoạt động xã hội và cộng đồng,
đã tạo ra một sức hấp dẫn đặc biệt với nhiều người trẻ. Những trải nghiệm này
không chỉ giúp mở mang kiến thức mà còn mang lại những kỷ niệm và cảm xúc
khó quên, khiến cuộc sống độc thân trở nên thú vị và ý nghĩa hơn bao giờ hết.
Nhiều bạn trẻ cảm thấy rằng cuộc sống độc thân cho phép họ tận hưởng sự tự
do, không bị ràng buộc bởi những trách nhiệm của hôn nhân, từ đó có thể dễ
dàng tập trung vào những đam mê và sở thích cá nhân. Việc dành thời gian để
khám phá thế giới và tìm hiểu về bản thân giúp họ phát triển cá nhân một cách
toàn diện, từ kỹ năng mềm, hiểu biết văn hóa đến sự tự tin và khả năng thích
nghi. Chính những trải nghiệm phong phú này đã khiến nhiều người trẻ có xu
hướng kéo dài giai đoạn độc thân, không vội vàng bước vào hôn nhân. Họ muốn
có thời gian để tự do khám phá và tận hưởng những niềm vui của tuổi trẻ, đồng
thời tích lũy những bài học quý giá từ cuộc sống trước khi cam kết với một mối
quan hệ dài hạn. Sự đa dạng trong những trải nghiệm sống không chỉ làm phong
phú thêm đời sống cá nhân mà còn giúp họ hình thành một cái nhìn mới về hạnh
phúc và thành công. Thay vì tuân theo những kỳ vọng truyền thống về việc lập
gia đình sớm, nhiều người trẻ chọn cho mình một lối sống linh hoạt, cởi mở, nơi
mà hạnh phúc được đo lường bằng những kỷ niệm, trải nghiệm và sự tự do cá
nhân. Điều này thể hiện một sự thay đổi trong cách tiếp cận cuộc sống của thế
hệ trẻ, khi họ không còn coi hôn nhân là điểm đích duy nhất mà là một trong
nhiều lựa chọn để tìm kiếm ý nghĩa và hạnh phúc.
Ảnh hưởng từ mạng hội văn hóa hiện đại: Mạng xã hội và văn
hóa hiện đại có ảnh hưởng lớn đến quan niệm của giới trẻ về hôn nhân và tình
yêu. Các nền tảng như Instagram, Facebook, và TikTok thúc đẩy xu hướng sống
tự do và độc lập, khiến lối sống độc thân hoặc kết hôn muộn trở nên phổ biến.
Việc chia sẻ những câu chuyện về cuộc sống tự do, sự nghiệp, và du lịch giúp
nhiều người trẻ cảm thấy hạnh phúc hơn khi lựa chọn sống độc thân thay vì vội
vàng kết hôn. Bên cạnh đó, các bộ phim và chương trình truyền hình hiện nay
thường phản ánh những khía cạnh tiêu cực của hôn nhân, như mâu thuẫn và bất
hòa, khiến nhiều người trẻ cảm thấy e ngại khi nghĩ đến việc cam kết lâu dài. Sự
kết hợp giữa những trào lưu trên mạng xã hội và nội dung văn hóa này đã tạo ra
một hình ảnh không mấy tích cực về hôn nhân, khiến nhiều bạn trẻ chọn cuộc
sống độc thân hoặc kết hôn muộn như một lựa chọn an toàn hơn. 8
II. PHẢN ĐỐI Ý KIẾN ĐÁNH THUẾ NGƯỜI ĐỘC THÂN
Luận
điểm 1: Đánh thuế người độc thân đi ngược lại với các quy định
trong Hiến pháp Pháp luật của nước Cộng hoà hội chủ nghĩa Việt Nam
*
Căn cứ pháp
Khoản 1, điều 2 Luật Hôn nhân gia đình 2014 quy định: Hôn nhân
tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.
Điều 36 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013: Nam, nữ có
quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một
chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau.
Điều 16 Hiến pháp năm 2013 quy định: Mọi người đều bình đẳng trước
pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. * Phân tích
Thứ nhất, căn cứ vào khoản 1, điều 2 Luật Hôn nhân gia đình 2014
khoản 1, điều 36 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013 có đề cập đến
nguyên tắc hôn nhân tự nguyện ta có thể khẳng định rằng việc kết hôn hay
không kết hôn phải là sự lựa chọn cá nhân, mang tính tự nguyệnkhông bị
ép buộc. Hôn nhân là một quyền không phải nghĩa vụ mà pháp luật có thể áp
đặt hoặc khuyến khích tham gia đánh thuế người độc thân. Việc đánh thuế
người độc thân hay những người không kết hôn có thể được xem như một sự
can thiệp không hợp lý vào quyền tự do cá nhân, đi ngược lại với nguyên tắc
“hôn nhân tự nguyện” mà pháp luật đã quy định và đề cao.Việc đánh thuế
người độc thân có thể dẫn đến sự ép buộc xã hội, khiến nhiều người cảm thấy bị
áp lực phải kết hôn để tránh bị đánh thuế. Điều này đi ngược lại nguyên tắc
“hôn nhân tự nguyện” trong luật. Mỗi cá nhân có quyền tự quyết định về cuộc
sống của mình, bao gồm việc có kết hôn hay không. Pháp luật không nên áp
dụng các chính sách kinh tế để định hướng hay can thiệp vào quyết định cá nhân đó.
Thứ hai, điều 16 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013 khẳng
định một nguyên tắc cơ bản và quan trọng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nambình đẳng trước pháp luật”. Nguyên tắc này bảo đảm rằng
mọi công dân, bất kể giới tính, dân tộc, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội đều
được hưởng quyền và nghĩa vụ như nhau trước pháp luật. Việc phân biệt đối xử
trong bất kỳ lĩnh vực nào của đời sống đều bị nghiêm cấm. Việc đánh thuế người
độc thân với mức thuế cao hơn so với người đã kết hôn có thể được xem là đi
ngược lại với nguyên tắc bình đẳng. Bởi vì: tình trạng hôn nhân chỉ là một yếu
tố cá nhân không liên quan trực tiếp đến khả năng đóng góp cho xã hội hoặc thu
nhập cá nhân, người độc thân vẫn tham gia vào các hoạt động kinh tế, xã hội và
đóng góp vào ngân sách nhà nước thông qua các loại thuế khác lên nếu họ bị
đánh thuế cao hơn mà không nhận được lợi ích cụ thể nào tương ứng từ chính
sách này thì đây là sự bất công đối với người độc thân. Việc đánh thuế đối với
người độc thân là đi ngược lại với nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật, khi
mà mọi công dân đều có quyền được đối xử công bằng, không phân biệt đối xử
như Dejonghe nói: "Các chính sách không nên thiên vị hay trừng phạt đối
xử bình đẳng với mọi lối sống". Đánh thuế người độc thân sẽ có thể dẫn đến
những bất công, bất bình đẳng trong việc phân chia gánh nặng thuế giữa các
nhóm dân cư. Theo nguyên tắc bình đẳng, mỗi công dân đều phải đóng góp một
phần tài chính hợp lý dựa trên khả năng của mình, không phải trên yếu tố tình
trạng gia đình. Việc đánh thuế người độc thân có thể bị xem là làm tổn hại đến
nguyên tắc công bằng trong hệ thống thuế, khi những người có thể không cần
gánh vác những trách nhiệm tài chính bổ sung lại phải đóng thuế nhiều hơn chỉ
vì họ chưa kết hôn. Việc đánh thuế cao hơn đối với người độc thân còn có thể
gây áp lực khiến người dân phải thay đổi quyết định cá nhân về việc kết hôn,
ảnh hưởng đến quyền tự do lựa chọn lối sống của mỗi người. Việc đánh thuế
người độc thân có thể tạo ra sự bất bình đẳng xã hội và làm giảm động lực làm
việc của một số người.
Dựa vào những phân tích trên, ta có thể đưa ra các lập luận để phản đối
việc đánh thuế người độc thân như: Thuế là nghĩa vụ công, nhưng việc đánh
thuế nên dựa trên khả năng đóng góp của mỗi người, cụ thể là thu nhập. Việc
đánh thuế dựa trên tình trạng hôn nhân là không công bằngkhông hợp .
Việc đánh thuế người độc thân vi phạm quyền bình đẳng của công dân, đi ngược
lại với tinh thần của Hiến pháp. Việc đánh thuế người độc thân có thể tạo ra áp
lực xã hội, khiến nhiều người cảm thấy bị buộc phải kết hôn, điều này không
khuyến khích sự đa dạng trong các mô hình gia đình và lối sống.
Luận điểm 2: Đánh thuế người độc thân gây rắc rối tới các vấn đề về mặt
pháp lý, tạo ra gánh nặng về tài chính phát sinh nhiều vấn nạn như kết
hôn giả cưỡng ép kết hôn.
*
Căn cứ pháp
Khoản 11, điều 3 Luật Hôn nhân Gia đình năm 2014 quy định: Kết
hôn giả tạo là việc lợi dụng kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, nhập quốc
tịch Việt Nam, quốc tịch nước ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc
để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích xây dựng gia đình.
Khoản 2, điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP quy định hành vi vi phạm
quy định về kết hôn, ly hôn vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng:
Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
Cưỡng ép kết hôn hoặc lừa dối kết hôn; cưỡng ép ly hôn hoặc lừa dối ly hôn.
Lợi dụng việc kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh, trú, nhập quốc tịch
Việt Nam, quốc tịch nước ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc để
đạt được mục đích khác không nhằm mục đích xây dựng gia đình.
Khoản 1, điều 4 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 quy định: Nhà
nước có chính sách, biện pháp bảo hộ hôn nhân và gia đình, tạo điều kiện để
nam, nữ xác lập hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình
đẳng; xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc và thực hiện đầy đủ chức
năng của mình; tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về hôn
nhân và gia đình; vận động nhân dân xóa bỏ phong tục, tập quán lạc hậu về hôn 10
nhân và gia đình, phát huy truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp thể hiện
bản sắc của mỗi dân tộc.
Điều 5 Luật Hôn nhân gia đình quy định: Bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình
1. Quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập, thực hiện theo quy định
của Luật này được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
2. Cấm các hành vi sau đây:
a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;
b) Tảo
hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;
c) Người
đang vợ, chồng kết hôn hoặc chung sống như vợ
chồng với người khác hoặc chưa vợ, chưa chồng kết hôn hoặc chung
sống như vợ chồng với người đang chồng, vợ;
d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng
máu về trực hệ; giữa những người họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ
nuôi với con nuôi; giữa người đã từng cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng
với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con
riêng của chồng;
đ) Yêu sách của cải trong kết hôn;
e) Cưỡng
ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn;
g) Thực
hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản mục đích thương
mại, mang thai hộ mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản tính;
h) Bạo lực gia đình;
i) Lợi
dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân gia đình để mua bán
người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc hành vi khác nhằm mục
đích trục lợi.
* Phân tích:
Thứ nhất, pháp luật Việt Nam không có bất kỳ quy định nào xử phạt
người độc thân không kết hôn và cũng không có loại thuế tên là "thuế độc
thân". Nên việc áp đặt một loại thuế mới sẽ đòi hỏi phải có sự điều chỉnh và bổ
sung pháp luật, điều này đòi hỏi quá trình tham vấn và thông qua phức tạp. Khái
niệm "người độc thân" có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau, từ người
chưa bao giờ kết hôn đến người đã ly hôn hoặc góa bụa vì vậy để xác định chính
xác khái niệm này rất khó. Chính sách thuế phân biệt có thể tạo ra lỗ hổng pháp
mà người dân có thể lợi dụng để giảm thuế. Những người chưa kết hôn hoặc
chưa đăng ký kết hôn có thể khai báo sai về tình trạng hôn nhân của mình để
tránh bị đánh thuế cao, dẫn đến gian lận thuế. Điều này gây khó khăn trong việc
giám sát và kiểm tra, dẫn đến sự bất ổn trong hệ thống thuế và gia tăng gánh
nặng cho cơ quan quản lý. Việc xác định một cách chính xác và thống nhất ai là
"người độc thân" để áp dụng thuế là rất khó khăn. Để xác định tình trạng hôn
nhân của một cá nhân, các cơ quan thuế có thể yêu cầu cung cấp thông tin cá
nhân liên quan đến đời sống riêng tư, điều này có thể vi phạm quyền riêng tư
của công dân. Nếu chính sách thuế phân biệt giữa người độc thân và người đã
kết hôn, sẽ có nhiều tình huống pháp khó giải quyết. Ví dụ: Người độc
thân sống chung với bạn đời nhưng chưa kết hôn: Họ có nên chịu mức thuế
giống như người đã kết hôn hay không?; Người đã ly hôn nhưng chưa tái hôn:
Họ vẫn được coi là người "độc thân" hay có quyền hưởng mức thuế thấp của
người đã kết hôn? Những người không muốn công khai tình trạng hôn nhân
vì lý do riêng tư cũng sẽ gặp khó khăn trong việc cung cấp thông tin chính xác.
Việc đưa ra chính sách thuế phân biệt theo tình trạng hôn nhân sẽ đòi hỏi phải
xây dựng các quy định chi tiết để xác định ai là người độc thân và ai là người đã
kết hôn. Tuy nhiên, các quy định này có thể gặp nhiều khó khăn trong việc đảm
bảo tính công bằng, chính xác và khả thi trong thực tế. Liệu một người sống độc
thân có thể chứng minh tình trạng độc thân hợp pháp hay không? Những người
có quan hệ yêu đương nhưng không đăng ký kết hôn có thể gặp phải khó khăn
khi xác định liệu họ có nên bị áp mức thuế cao hay không. Điều này sẽ dẫn đến
rắc rối pháp và có thể dẫn đến việc áp dụng sai quy định. Việc áp dụng chính
sách thuế này có thể dẫn đến nhiều tranh chấp pháp khó khăn trong
việc giải thích luật trước tòa nếu có khiếu nại, đồng thời làm gia tăng gánh
nặng hành chính cho các cơ quan nhà nước. Việc đánh thuế người độc thân có
thể dẫn đến nhiều vụ kiện tụng, khi người dân cho rằng quyền lợi của mình bị
xâm phạm. Các vụ kiện này sẽ gây tốn kém về thời gian, công sức và tài chính
cho cả cá nhân và nhà nước. Số lượng vụ kiện tăng lên sẽ gây áp lực lớn lên hệ
thống tư pháp, làm chậm trễ việc giải quyết các vụ án khác. Việc quản lý và thực
thi loại thuế này sẽ tốn kém nhiều chi phí hơn so với các loại thuế khác, do yêu
cầu xác minh thông tin phức tạp. Việc đánh thuế người độc thân không chỉ gây
ra bất bình đẳng xã hội mà còn tiềm ẩn nhiều rắc rối về mặt pháp lý. Để giải
quyết vấn đề thu ngân sách, nhà nước nên tập trung vào việc hoàn thiện hệ thống
thuế hiện hành, tăng cường quản lý thuế và chống trốn thuế, chứ không nên áp
dụng những biện pháp gây tranh cãi và khó thực thi như đánh thuế người độc thân.
Thứ hai, việc đánh thuế người độc thân có thể tạo ra gánh nặng tài chính
cho nhiều người. Người độc thân thường phải chịu chi phí sinh hoạt cao hơn vì
không có sự chia sẻ chi phí, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế có nhiều biến
động như giá cả sinh hoạt, đi lại tăng, chi phí y tế, giáo dục cũng ngày càng
cao. Ngoài ra, người độc thân còn ít được hưởng ưu đãi như chính sách thuế.
Mặc dù người độc thân có thể không phải chịu các chi phí phụ thuộc như người
đã có gia đình, nhưng họ vẫn phải đóng một khoản thuế lớn hơn so với những
người có gia đình. Và một trong những mục tiêu quan trọng trong đời sống cá
nhân là khả năng tiết kiệm và đầu tư để chuẩn bị cho tương lai, việc đánh thuế
cao hơn đối với người độc thân có thể làm giảm khả năng tiết kiệm của họ, vì họ
phải chi trả một phần thu nhập lớn hơn vào thuế so với những người đã kết
hôn. Điều này dẫn đến việc hạn chế tài chính cá nhân, khiến người độc thân gặp
khó khăn trong việc tích lũy tài sản và đảm bảo sự ổn định tài chính lâu dài.
Đánh thuế thêm lên họ có thể làm tăng gánh nặng tài chính, ảnh hưởng đến cuộc
sống hàng ngày của họ. Áp lực tài chính có thể dẫn đến căng thẳng và lo âu cho
những người độc thân, ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe tâm lý của họ. Chính
sách thuế phân biệt có thể làm xói mòn sự tự do nhân và khiến họ phải thay
đổi lựa chọn sống của mình vì lý do tài chính. 12
Chị Lê Thị Thùy Anh (24 tuổi, Nghệ An) cho biết bản thân không có ý
định kết hôn trong 5 -7 năm tới. Như nhiều người trẻ khác, nguyên nhân được
chị đưa ra cho quyết định kết hôn muộn là chưa chuẩn bị tâm lý, tài chính hạn
chế, muốn theo đuổi sự nghiệp, ổn định kinh tế. Trước câu hỏi có nên đánh thuế
người độc thân hay không, chị lập luận: “Nhiều người trẻ hiện nay không muốn
kết hôn, sinh con sớm vì lo lắng chi phí nuôi dạy một đứa trẻ quá đắt đỏ nhất là
khi điều kiện kinh tế chưa vững chắc, ổn định hoặc thiếu hụt. Vì vậy, việc đóng
thuế độc thân có vẻ thiếu tính thực tế và chỉ tạo thêm gánh nặng, áp lực kinh
tế
cho người trẻ”. Áp lực công việc, tài chính chưa ổn định là lý do khiến nhiều
bạn trẻ "ngại" kết hôn.
Thứ ba, nếu chính sách thuế đánh vào người độc thân và cung cấp các ưu
đãi thuế cho những người đã kết hôn thì một số người có thể bị cưỡng ép kết
hôn hay quyết định kết hôn giả để hưởng lợi từ các ưu đãi thuế điều đó làm gia
tăng các phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân, khi mà việc kết hôn không
còn được coi trọng như một giá trị nhân văn mà chỉ là một biện pháp tài chính.
Điều này đi ngược lại với mục tiêu vận động nhân dân xóa bỏ những phong tục
lạc hậu và nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ. Bị ép kết hôn hay kết hôn
giả có thể xảy ra khi người dân không thực sự có ý định xây dựng gia đình mà
chỉ vì lý do tài chính mà làm thủ tục kết hôn. Đây là một hệ quả tiêu cực khi
chính sách thuế không phản ánh đúng thực tế nhu cầu hội, mà chỉ dựa vào
tình trạng hôn nhân. Nhiều người có thể thực hiện một cuộc hôn nhân "giả" chỉ
để giảm gánh nặng thuế mà không có sự gắn kết tình cảm thực sự với đối
phương. Kết hôn giả gây loạn chuẩn mực hội, tạo ra mâu thuẫn pháp về
quyền lợi của các bên trong cuộc hôn nhân đó, và tạo cơ hội cho các vấn đề
pháp lý phát sinh trong việc xác định quyền lợi tài sản, quyền nuôi con và các
trách nhiệm liên quan. Để tránh mức thuế cao, nhiều người có thể lựa chọn kết
hôn hình thức, chỉ trên giấy tờ mà không có mối quan hệ thực sự. Điều này làm
mất đi ý nghĩa thiêng liêng của hôn nhân và vi phạm pháp luật.
Trong nhiều trường hợp những người có thu nhập thấp hoặc trung bình có
thể cảm thấy bị đẩy vào tình trạng kết hôn giả hoặc sống chung mà không có
sự tự nguyện, từ đó dẫn đến sự không công bằngmâu thuẫn trong xã hội.
Một số người có thể cảm thấy bị cưỡng ép phải kết hôn chỉ vì lý do thuế và
những cuộc hôn nhân như thế sẽ không bền vững và dẫn đến ly hôn. Nhiều cá
nhân có thể cảm thấy rằng việc kết hôn là biện pháp duy nhất để giảm gánh
nặng thuế mà không thực sự có ý định xây dựng một gia đình. Điều này không
chỉ xâm phạm quyền tự do nhân mà còn có thể dẫn đến sự không hạnh
phúc trong hôn nhân, khi một trong hai bên không thực sự sẵn sàng hoặc
không có mong muốn lập gia đình. Khi một người bị ép phải kết hôn chỉ để
giảm thuế, họ sẽ phải đối mặt với những vấn đề tâm nghiêm trọng. Những
vấn đề trên đặt ra cho nhà nước, xã hội rằng làm sao có thể thực hiện được lời
khẳng định “Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ”
PHẦN C: KẾT LUẬN
Quan điểm đề xuất đánh thuế đối với người độc thân là một vấn đề cần
được nhìn nhận một cách thấu đáo và cân nhắc kỹ lưỡng, bởi lẽ chính sách này
không chỉ đi ngược lại với các nguyên tắc cơ bản trong Hiến pháp và pháp luật
của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà còn có thể gây ra những hệ
quả pháp lý, xã hội và tâm lý không mong muốn cho người dân. Chính vì vậy,
áp dụng thuế phân biệt đối với người độc thân có thể được coi là một sự vi phạm
nghiêm trọng nguyên tắc bình đẳng này.
Việc áp dụng chính sách thuế đối với người độc thân sẽ không chỉ gây ra
những vấn đề về mặt pháp lý mà còn tạo ra nhiều hệ quả tiêu cực khác. Thực tế,
việc xác định ai là người độc thân có thể gặp phải rất nhiều khó khăn, bởi vì
khái niệm "độc thân" có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Do đó áp
dụng một loại thuế mới dựa trên tình trạng hôn nhân có thể dẫn đến sự khó khăn
trong việc xác định và thực thi chính sách này. Ngoài ra, những kẽ hở trong quy
định có thể tạo cơ hội cho việc khai gian, khai man thông tin về tình trạng hôn
nhân của người dân để tránh bị đánh thuế cao hơn.
Cũng cần phải lưu ý rằng, nếu chính sách thuế này được áp dụng, nó sẽ
tạo ra gánh nặng tài chính cho người độc thân. Những người độc thân phải chịu
chi phí sinh hoạt cao hơn so với những người có gia đình, vì không có sự chia sẻ
tài chính từ bạn đời. Việc đánh thuế cao hơn đối với người độc thân có thể khiến
họ gặp khó khăn trong việc duy trì cuộc sống ổn định, từ đó làm giảm khả năng
tiết kiệm và đầu tư cho tương lai. Áp lực tài chính này có thể dẫn đến căng
thẳng, lo âu và những vấn đề tâm lý khác cho những người độc thân, ảnh hưởng
đến sức khỏe và chất lượng cuộc sống của họ.
Một hệ quả tiêu cực khác của đánh thuế người độc thân là khả năng phát sinh
các cuộc hôn nhân giả hoặc cưỡng ép kết hôn chỉ vì lý do tài chính. Để tránh bị
đánh thuế cao, nhiều người có thể cảm thấy bị đẩy vào tình trạng kết hôn mà
không thực sự có ý định xây dựng một gia đình bền vững. Điều này sẽ làm giảm
giá trị thực sự của hôn nhân, biến nó trở thành một công cụ tài chính thay vì một
quyết định tự nguyện dựa trên tình cảm.
Cuối cùng, chính sách này phân biệt giữa người độc thân và người đã kết
hôn sẽ tạo ra những tác động không mong muốn đối với xã hội. Nó có thể làm
gia tăng sự phân biệt giữa các nhóm dân cư, dẫn đến sự thiếu công bằng trong
phân chia gánh nặng thuế, cũng như tạo ra những bất đồng xã hội.
Như vậy, việc đánh thuế người độc thân không chỉ là một chính sách
không hợp lý mà còn có thể gây ra nhiều hệ quả tiêu cực về pháp lý, xã hội và
tâm lý. Chính sách này đi ngược lại với nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật,
gây ra sự phân biệt không công bằng và có thể tạo ra những vấn đề khó giải
quyết về mặt pháp lý. Thay vì áp dụng thuế phân biệt, nhà nước cần tập trung
vào việc hoàn thiện các chính sách thuế hiện hành để đảm bảo sự công bằng và
hợp lý cho mọi công dân, bảo vệ quyền tự do cá nhân và quyền lợi của mỗi người 14 PHỤ LỤC
Phụ lục 1:
BẢNG THỐNG KÊ MỨC SINH Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1999-2023
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Văn bản quy phạm pháp luật
1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
2. Luật hôn nhân và gia đình 2014
3. Nghị định 82/2020/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân
sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
* Tạp chí, bài báo
1. Chị Lê Thị Thùy Anh (24 tuổi, Nghệ An) cho biết bản thân không ý định
kết hôn trong 5 -7 năm tới – Tạp chí điện tử gia đình Việt Nam
2. Chị Lê Phương Liên (34 tuổi), nhân viên bán hàng tại Hoàng Mai, Hà Nội
muốn kết hôn khi gặp được người thực sự phù hợp – Tạp chí điện tử gia đình Việt Nam
3. Anh Phạm Đức Toàn (27 tuổi, Nam Định) cũng cho rằng phương án gây áp
lực tài chính để người trẻ kết hôn, sinh con không công bằng không mang
lại hiệu quả – Tạp chí điện tử gia đình Việt Nam
4. Muốn được sống bằng chính khả năng của mình – Báo người Lao động
5. Việc kết hôn hay không do sự tự nguyện của mỗi người – Thư viện Pháp Luật
6. Thư viện Pháp luật - https://thuvienphapluat.vn/
7. Tạp chí điện tử Gia đình Việt Nam - https://giadinhonline.vn/
8. Báo người Lao động - https://nld.com.vn/
9. Thuế độc thân đè nặng giới trẻ TP.HCM, Nội – Tạp chí tri thức ZNEWS.VN - https://znews.vn/
10. Thuế độc thân khủng hoảng chi phí sinh hoạt lan rộng châu Âu - Thời báo
Tài chính Việt Nam - https://thoibaotaichinhvietnam.vn/
11. https://dantri.com.vn/tam-diem/trach-nhiem-xa-hoi-cua-nguoi-doc-than- 20240825085021284.htm
12. https://kenh14.vn/gioi-tre-chap-nhan-moi-loai-thue-doc-than-con-hon-ket-
hon-va-sinh-con-lam-cha-me-ton-hon-nhieu-215240824165924789.chn 16
Document Outline

  • BẢNG ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG NHÓM
  • MỤC LỤC
  • ĐẦU.......................................................................................
  • PHẦN C: KẾT LUẬN...........................................................................................
  • PHẦN B: NỘI DUNG
  • II. PHẢN ĐỐI Ý KIẾN ĐÁNH THUẾ NGƯỜI ĐỘC THÂN
  • PHẦN C: KẾT LUẬN
  • PHỤ LỤC