lOMoARcPSD| 40551442
Mục lục
trang
A. MỞ ĐẦU
1
B. NỘI DUNG
1
I. KHÁI QUÁT VỀ LA
1
II. MÂU THUẪN XÃ HỘI LA MÃ QUA CẤC THỜI KỲ
3
1. THỜI KỲ VƯƠNG CHÍNH (753 TCN – 510 TCN)
3
1.1. Khái quát về thời kỳ Vương chính
3
1.2. Mâu thuẫn xã hội trong thời kỳ Vương chính
3
1.3. Phương thức giải quyết mâu thuẫn
4
2. THỜI KỲ CỘNG HÒA LA MÃ (510 TCN – 44 TCN)
5
2.1. Khái quát về thời kỳ Cng hòa La
5
2.2. Mâu thuẫn xã hội trong thời kỳ Cộng hòa La Mã
5
2.3. Phương thức giải quyết mâu thuẫn
7
3. THỜI KỲ ĐẾ CHẾ (30 TCN – TK VI)
9
3.1. Khái quát thời kỳ Đế chế
9
3.2. Mâu thuẫn xã hội trong thời kỳ Đế chế
10
3.3. Phương thức giải quyết mâu thuẫn
11
C. KẾT LUẬN
11
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
13
E. PHỤ LỤC
14
A. MỞ ĐẦU
La Mã cổ đại từng là một quốc gia rộng lớn tồn tại từ khoảng thể kỷ thứ 1 TCN cho
đến khoảng thế kỷ thứ 5 hay thế kỷ thứ 6 SCN, gồm phần đất những nước vây quanh
Địa Trung Hải ngày nay. Ban đầu La Mã được thành lập t3 bộ lạc sinh sống bên
dòng sông Tiber, đây một hòn đảo nhỏ thể lội qua ng, vậy La nằm ở vị
trí quyết định của giao thông buôn bán. Dù nhà nước La hình thành trất sớm
lOMoARcPSD| 40551442
nhưng hệ thống luật vô cùng công phu và chặt chẽ. Ăngghen đã nhận xét : “ Luật La
Mã là hình thức pháp luật hoàn thiện nhất. Trong xã hội tư hữu thì không có một xã
hội nào luật hoàn chỉnh hơn luật La ". Bên cạnh đó người dân La Mã cũng có
nhận thức pháp luật rất cao, họ đã biết cách sử dụng luật pháp để bảo vệ quyền lợi
của mình. Có thể nói xã hội La Mã vô cùng tiên tiến trong thời điểm bấy giờ.
Xuyên suốt khoảng thời gian tồn tại hội La đã trải qua nhiều mâu thuẫn, trong
từng thời kỳ các mâu thuẫn luôn được các nhà cầm quyền cố gắng dung hòa bằng
nhiều biện pháp, cũng do vậyxã hội La Mã đã trải qua nhiều hình thái nhà nước
khác nhau qua nhiều thời kỳ. Để tìm hiểu rõ hơn những mâu thuẫn này nhóm chúng
em lựa chọn đề tài: “ Phân tích những mâu thuẫn xã hội trong từng thời kỳ của lịch
sử nhà nước La Mã và phương thức giải quyết các mâu thuẫn đó.”
B. NỘI DUNG I. KHÁI QUÁT VỀ LA
- Địa lý:
Nơi phát sinh nền văn minh Rôma cổ đại Italia, một bán đảo lớn, dài hẹp
hình chiếc ủng nằm chắn ngang Địa Trung Hải. Phía bắc bán đảo dãy núi Anpơ
(Alpes) tạo thành biên giới tự nhiên giữa Italia và châu Âu; ba phía Đông, Tây, Nam
đều có biển bao bọc. Dãy núi Apennin chạy dọc suốt cả bán đảo từ Bắc xuống Nam
như một đường xương sống. Gần Italia còn ba đảo lớn: đảo Xixin phía nam,
đảo Ccxơ Xácđenhơ phía tây. Khác Hi Lạp, bán đảo Italia lớn gấp năm lần
Hi Lạp, lại khá nhiều đồng bằng màu mỡ: đồng bằng sông (miền Bắc), đồng
bằng sông Tibra (miền Trung), các đồng bằng trên đảo Xixin. Ngoài ra, ở Italia, nhất
miền Nam, còn nhiều đồng cỏ rộng lớn rất thuận tiện cho sự phát triển của nghề
nông và chăn nuôi gia súc.
Địa hình đây không bị chia cắt tạo điều kiện cho sự thống nhất. Bờ biển phía
nam bán đảo nhiều vịnh, cảng thuận tiện cho u trú ẩn khi thời tiết xấu. Do
lOMoARcPSD| 40551442
điều kiện địa như vậy nên bán đảo Italia có điều kiện tiếp xúc với những nền văn
minh pháp triển sớm ở phương Đông.
- Dân cư:
Bán đảo Italia là nơi quần khá sớm của người châu Âu. Trước thiên niên
kỉ II TCN – từ cuối đá mới và đầu đồng thau – người Ligua (Ligures) đã sinh sống
ở đây. Đến đầu thiên niên kỉ II TCN, nhiều bộ lạc ở phía bắc đã vượt qua dãy Anpơ,
tràn vào định cư ở các vùng Campanium, Latium, và Bơrutium. Đến cui thiên niên
kỉ II TCN, lại xảy ra một đợt thiên di mới của người châu Âu từ phía bắc xuống, tạo
nên một cộng đồng người Âu sống định trên bán đảo này được gọi chung
người Italiot (Italiotes) Người Italiốt sống vùng Latium được gọi người Latinh.
=> Nền văn minh La được sự giao lưu kế thừa nhiều nét ưu việt của nhiều nền
văn minh lớn xung quanh như văn minh Hy-lạp, Trung quốc, Ấn độ, ... - Bản chất
nhà nước: La mã là nhà nước chiếm hữu nô lệ, có nguồn cung cấp sức lao động nô
lệ to lớn thu được từ cac cuộc chiến tranh.
- Chế độ tư hữu đối với tư liệu sản xut được coi trọng và bảo vệ một cách vô
cùng thiêng liêng là động lực thúc đẩy phat triển sản xuất, kinh doanh, sáng tạo.
- Truyền thống dân chủ có sớm đã giúp cho người dân La mã có được trình độ
nhận thức phap cao, sớm biết sử dụng cac công cụ phap nhằm bảo vệ lợi ich
chinh đang của mình.
=> Luật La hệ thống pháp luật của La cổ đại, phát triển qua nghìn năm
luật học, từ Thập nhị Bảng (khoảng năm 449 TCN), đến bộ luật Pháp điển Dân
sự (529 CN) do Hoàng đế Đông La Mã Justinianus I ban hành. Luật La Mã tạo nên
khuôn khổ bản cho luật dân sự, hệ thống luật được sử dụng phổ biến nhất hiện
nay.
lOMoARcPSD| 40551442
II. MÂU THUẪN XÃ HỘI LA MÃ QUA CÁC THỜI KỲ 1. THỜI
KỲ VƯƠNG CHÍNH (753 TCN – 510 TCN)
1.1. Khái quát về thời kỳ vương chính
Buổi khởi đầu chỉ là một thành thị nằm bên bờ sông Tiber (ở miền trung Italia
ngày nay), nơi quần cư của 3 bộ lạc (tribus): Liguri, Iapigi, Etruria.
- Mỗi bộ lạc bao gm 10 bào tộc (curiae).
- Mỗi bào tộc là được chia ra làm 10 thị tộc (gentes).
3 bộ lạc (tribus) - 30 bào tộc (curiae) - 300 (gentes) Nhà
nước bao gồm ba cơ quan:
Viện nguyên lão (Senatus):
+ Bao gồm 300 thủ lĩnh của 300 thị tộc
+ quan quyền lực tối cao, quyền quyết định hầu hết cac công việc quan
trọng của người La mã, được quyền thảo luận trước về những đạo luật, quyền phê
chuẩn hoặc ph quyết những nghị quyết của đại hội nhân dân.
Đại hội nhân dân (Comitia Curiata)
+ Bao gồm tất cả những người đàn ông của cả 300 thị tộc.
+ Đại hội curiae có quyền quyết định những vấn đề quan trọng trong đời sống
xã hội của người La mã như: tuyên chiến hay nghị hoà, xét xử, tế lễ, bầu ra một ông
vua mới
Vua (Rex): Do đại hội curiae bầu ra, không được cha truyền con nối
cũng có thể bị đại hội curiae bãi miễn. Thực chất đây chỉ thủ lĩnh quân
sự của liên minh 3 bộ lạc.
1.2. Mâu thuẫn xã hội trong thời kỳ vương chính Mâu thun
hội nổi lên thời này chủ yếu giữa người ngoại lai (Peregrinii) người
gốc La Mã (Quiritium).
lOMoARcPSD| 40551442
Người ngoại lai những người ngoại tộc hay người La-ting đến sống ở La Mã.
Người gốc La Mã là những người sinh ra, lớn lên ở La Mã và có bố mẹ là người La
Mã hoặc có mẹ là người La Mã.
Có mâu thuẫn này vì:
- Theo tưởng của người La cổ đại về việc chinh chiến để mở rộng lãnh
thổ, để đem về thêm của cải, chiến lợi phẩmcho đế chế giàu hùng mạnh của mình.
Người La Mã lo sợ nhữngngười ngoại lai này sẽ có ý đồ xâm lược lại chính La Mã
cho nên người gốc La luôn coi bộ phận người ngoại lai “kẻ thù tiềm tàng”.
Người ngoại lai phải nộp thuế và thực hiện nhiều nghĩa vụ khác nhưng không
quyền hạn về chính trị - kinh tế và bị phân biệt đối xử so với người dân La Mã chính
gốc.
- Mỗi người ngoại lai mang theo kiến thức, kinh nghiệm, vốn liếng, …, họ
thể thương nhân, thợ thủ công lành nghề, lái tàu dày dạn kinh nghiệm...Với các
điều kiện trên người ngoại lai đã góp phần phát triển đa dạng các ngành nghề La
Mã thậm chí có người còn cho rằng các hoạt động sản xuất chủ chốt ở La Mã do bộ
phận người ngoại lai thực hiện. Về sau, khi phát triển dần về thế lực, họ đã lớn
mạnh và sinh ra mâu thuẫn với bọn quý tc thị tộc (Patrici).
1.3. Phương thức giải quyết mâu thuẫn
mặc dù người ngoại lai có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế, xã hội
nhưng họ lại bị người La chính gốc miệt thị, dặt, dề phòng trong giao tiếp.
Điều này đã cho bộ phận người ngoại lai lên tiếng đấu tranh liên tục, đòi quyền
bình đẳng với công dân La Mã chính gc
Đồng thời về phía nhà cầm quyền. Tullius đã tiến hành tổ chức lại công xã La
theo nguyên tắc đa vị và tài sản (chia hội thành 6 đẳng cấp căn cứ trên tài sản
gắn chặt với tổ chức quân đội), chứ không căn cứ vào địa vị và huyết thống.
Ba bộ lạc trước kia bị phá bỏ và xáo trộn thay vào đó là 4 b lạc mới được xác
lập. Đến sau năm 509 TCN, Vua Tarvinha kiêu ngạo bị trc xuất, từ đây này thay vì
lOMoARcPSD| 40551442
bầu ra Vua (Rex), Viện Nguyên Lão bầu ra 2 vị quan chấp chính (Consul) hai quan
chức tối cao trong hệ thống quản lý nhà nước. Sự thay đổi cơ cấu bộ máy nhà nước
như vậy đã xoa dịu được xung đột giữa tầng lớp bình dân tầng lớp quý tộc La Mã.
thay đổi này dẫn đến thời Vương Chính kết thúc, hội La tiếp tục
bước đi dưới chế độ Cộng Hòa, tuy nhiên tương ứng với cấu bộ máy nhà nước
mới thiết lập lại xuất hiện mẫu thuẫn mới xảy ra.
2. THỜI KỲ CỘNG HÒA LA MÃ (510 TCN – 44 TCN)
2.1. Khái quát về thời kỳ Cộng hòa La Mã
Đầu thời kỳ Cộng hòa, dưới cải cách của Servius Tulius, hội La được chia
thành 6 đẳng cấp khác nhau căn cứ theo mức tài sản tư hữu
+ Đẳng cấp thứ nhất: gồm những người mức tài sản trên 100.000 đồng a
(những người giàu nhất), được cung cấp 98/193 đại biểu Centurie vào Đại hội
nhân dân, tương đương với 98/193 số phiếu bầu trong Đại hội.
+ Các đăng cấp thứ 2, 3, 4, 5 được cung cấp số lượng đại biểu Centurie ít hơn,
tương ứng có ít phiếu bầu hơn trong Đại hội nhân dân.
+ Đẳng cấp thứ 6 gồm những người đàn ông ít của cải nhất được miễn làm
nghĩa vụ quân sự và miễn đóng thuế. Đẳng cấp này được cung cấp 1 Centurie tức là
có 1 phiếu bầu trong Hi đồng nhân dân.
2.2. Mâu thun xã hội trong thời kỳ Cộng hòa La Mã
Trong thời kì này cơ bản có 3 mâu thuẫn chính: đó là mâu thuẫn giữa tầng lớp bình
dân và quý tộc, mâu thuẫn giữa chủ nô nô lệ mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp
quý tộc; trong đó nổi bật nhất vẫn là mâu thuẫn giữa tầng lớp bình dân và quý tộc.
Thứ nhất, mâu thuẫn giữa tầng lớp bình dân và tầng lớp quý tộc:
Từ cách phân chia Centurie như vậy, dẫn đến sự chênh lệnh về tài sản, những
người giàu có chiếm được đa số phiếu trong Đại hội nhân dân (Comitia Centuriata).
Còn những người nghèo như đẳng cấp thứ 6 họ chỉ có 1 phiếu duy nhất nên gần
như không có khả năng đóng góp gì trong các quyết định của Đại hội. Đại hội nhân
lOMoARcPSD| 40551442
dân bấy giờ chỉ nhằm tạo quyền lực cho tầng lớp quý tộc dựa trên tính chất của dân
chủ giả hiệu những người giàu trong hội dường như quyền quyết định
mọi việc, Cơ quan quyền lực tối cao ca nhà nước nằm trong tay họ, họ chính luật
pháp. Từ đây mâu thuẫn giữa người bình dân (Pleb) tầng lớp quý tộc (Patricia)
nảy sinh và ngày càng gay gắt.
Từ đó, tầng lớp bình dân (Pleb) đã tự lập ra một “Nghị viện” của riêng mình
(Concilia plesbis tribute) và mật hoạt động. Phong trào đấu tranh nổi lên, nhiều
cuộc nội chiến đã nổ ra vào những năm 88, 83 TCN.
Thứ hai, mâu thuẫn giữa chủ nô và nô lệ:
thời kỳ trước lệ chủ yếu những người lính, những chiến binh của vùng
lãnh thổ người La chiếm được. Với tưởng chinh phục những vùng đất mới
để làm giàu cho đất nước của mình, trong mắt người La Mã, những người nô lệ này
từng những chiến binh chiến đấu dũng cảm., người La cũng stôn trọng
nhất định với những chiến binh cho đó những chiến binh bên kia chiến tuyến.
Tới giai đoạn này khi nền kinh tế, công thương nghiệp La Mã ngày một phát triển,
đòi hỏi số lượng lớn lao động, cùng với sự thay đổi của quy định pháp luật; nô lệ
thể được cung cấp từ hai nguồn nữa đó là những tội phạm bị giáng xung làm nô lệ
những lệ da 8 màu được đưa tới từ các châu lục khác để buôn bán.Người La
Mã nhận thấy những nô lệ nàysự khác biệt màu da với họ nên người La Mã trở
nên khinh thường nô lệ, thậm chí coi nô lệ không phải là con người mà chỉ là tài sản
biết nói. Từ đó đã làm cho mâu thuẫn giưa chủ nô và nô lệ ngày càng trở nên quyết
liệt, gay gắt.
Từ đó, những cuộc nổi dậy của lệ ngày càng nhiều nhưng chỉ mang tính
chất tự phát, không có tổ chức chặt chẽ nên không đem lại hiệu quả, tuy nhiên cũng
đã giúp ích cho phong trào đấu tranh của tầng lớp bình dân chống lại tầng lớp quý
tộc bóc lột.
Thứ ba, mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp quý tộc-chủ nô
lOMoARcPSD| 40551442
+ Để bảo vệ quyền lợi đối với ruộng đất hiện tại quý tộc chủ nô cố tình bảo thủ, chủ
trương phản đối chính sách cải cách ruộng đất. Tầng lớp quý tộc chủ công thương
kỵ sĩ lại có quyền lợi tương đồng với tầng lớp bình dân, do vậy đã lấy Đại hội nhân
dân làm chỗ dựa, chủ trương hạn chế quyền lợi của Viện Nguyên lão, mở rộng quyền
công dân, giải quyết phần nào vấn đruộng đất cho người bình dân. Giới bình dân
đã cùng chán ghét Viện Nguyên Lão nhưng không đủ sức tự nổi dậy. Quân đội
chuyên nghiệp chỉ trung thành với vị tướng của mình hơn là với chính quyền
Lúc này, Julius Caesar thuộc phe quý tộc chủ công thương, người tận dụng
được những yếu tkể trên. Ông chiếm được nhiều đất đai nước ngoài, được
lòng trung thành tuyệt đối của binh lính. Sau đó ông hành quân về chiếm thành
Rome, ép buộc Viện Nguyên Lão tăng số đại biểu lên 900 người để cho giới bình
dân tham gia. Vậy là phe quý tộc chủ nô công thương kỵ sĩ do Caesar dẫn đầu chiến
thắng, Caesar được quân đội và dân chúng tôn thờ, nhân đó ông thu gom hết quyền
hành về trong tay mình và thiết lập nên chế nền độc tài. Tuy nhiên, sau đó Caesar b
ám sát trong một âm của phe quý tộc chủ ruộng đất, người cháu của ông
Octavian hoàn thành sự nghiệp của ông, trở thành Hoàng đế đầu tiên của La Mã đã
mở đầu cho thời kì Đế chế độc quyền. Ba mâu thuẩn chính trong xã hội La Mã vẫn
âm ỷ tồn tại.
2.3. Phương thức giải quyết mâu thuẫn
Tuy chế độ cộng hòa đã được thiết lập nhưng về quyền lợi kinh tế, chính trị
địa v hội, bình dân không được bình đẳng với quý tc, vậy bình dân đã đấu
tranh lâu dài với quý tộc để giải quyết các vấn đề đó. Những thắng lợi đầu tiên của
bình dân giai cấp quý tộc phải đồng ý cho bình dân được cử quan Bảo dân để
lOMoARcPSD| 40551442
bênh vực quyền lợi cho bình dân, được chia ruộng đất, được tổ chức Đại hội bình
dân. Đặc biệt, về mặt pháp luật, quý tộc phải đồng ý ban hành luật thành văn.
1
Dưới sức ép đấu tranh của bình dân, chính quyền La đã chấp nhận
quyết định tổ chức lại cơ cấu nhà nước gồm 3 cơ quan đại hội tồn tại đồng thời: đại
hội của tầng lớp quý tộc, của tầng lớp bình dân đại hội chung. Đến năm 367 TCN,
01 người thuộc giới bình dân được bầu làm quan chấp chính. Bộ luật Lex Licinia
Sextia quy định ít nhất 1 trong 2 quan chấp chính phải là người thuộc giới bình dân.
Cuối cùng, chiến thắng quyết định về mặt quyền lực vào năm 287 trước CN, năm
các quyết định luật pháp của chính phủ bình dân được áp dụng cho toàn bộ
cộng đồng La Mã, bao gồm cả giới quý tộc.
Về cải tổ pháp luật:
- Năm 445 TCN, Đạo luật Canuleus đã được ban hành, cho phép người
bìnhdân plebs được quyền tự do kết hôn với những người tầng lớp quý tộc patricia.
- Năm 450 TCN, trước áp lực của những người bình dân và đại hội bình
dân,Viện nguyên lão đã đi đến quyết định cải tổ lại luật pháp theo ớng cải cách
Xôlông Aten (Hy Lạp). Kết quả là một luật mới, hoàn chỉnh đã được ban hành
luật thành văn đầu tiên của lịch sử La mã – Luật 12 bảng (Đuêcim Tabulae).
Năm 367 TCN, lại thông qua 3 pháp lệnh quan trọng:
o Những món nợ nh dân vay, nếu đã trả lãi, phải được coi như đã
trả gốc, số còn thiếu sẽ trả hết trong 3 năm.
o Không ai được chiếm quá 500 jujera đất công tức bằng khoảng 125
ha.
o Bỏ chức lệnh quân đoàn, khôi phục chế độ bầu quan Chấp chính
hàng năm, trong 2 quan Chấp chính phải có 1 người là bình dân.
1
Luật pháp, những pháp lệnh của Ephiantet và Piriclet, sự ra đồi và phát triển của đạo Kito ở La Mã cổ đại, nguồn:
hps://m.hoc247.net/lich-su-van-minh-the-gioi/bai-4-luat-phap-nhung-phap-lenh-cua-ephiantet-va-piriclet-su-
radoi-va-phat-trien-cua-dao-kito-o--l8159.html
lOMoARcPSD| 40551442
Năm 326 TCN, thông qua pháp lệnh thủ tiêu chế đô lệ đối với công dân La
Mã.
Năm 287 TCN, ban hành pháp lệnh quy định quyết nghị của Đại hội bình dân,
có hiệu lực như pháp luật đối với mọi công dân La Mã.
Thời cộng hòa, cơ quan lập pháp là Đại hội nhân dân, đồng thời Viện Nguyên
lão cũng vai trò rất quan trọng. Đến thời quân chủ, Đại hội nhân dân ngừng
hoạt động nên quyết định của Viện Nguyên Lão và mệnh lệnh của nguyên thủ là luật
pháp chủ yếu của La Mã. Nhưng đến cuối thế kỉ III, quyền lập pháp của Viện Nguyên
lão cũng không còn nữa, nên mệnh lệnh của nguyên thủ tức là pháp luật.
Mệnh lệnh của nguyên thủ gồm sắc lệnh, chỉ thị, dụ, quyết định... Sắc lệnh
mệnh lệnh ban bố đối với dân toàn đế quốc. Chỉ thị là mệnh lệnh đối với quan lại.
Dụ mệnh lệnh về một vấn đề biệt. Quyết định là ý kiến vmột vấn đề gây nhiều
tranh luận, nhất là về các vụ án.
Về mặt luật học, những người giải thích pháp luật đầu tiên các thầy cúng.
Nhưng đến cuối thế kỉ IV TCN, bắt đầu những người thế tục chú ý giải thích pháp
luật. Người đầu tiên được nhắc đến là Flaviút, một quan chức của La Mã. Ông công
bố trước công chúng những ngày mở phiên tòa và những ngày không mở phiên tòa,
đồng thời hướng dẫn cho mọi người biết cách thức và thủ tục kiện cáo.
Trong các thế kỉ tiếp theo, La khá nhiều nhà luật học, trong số đó,
Giulianút và Gaiút sống vào thế kỉ II những người tương đối tiêu biểu. Giulianút
đã vâng lệnh hoàng đế Ađrianút tập hợp các sắc lệnh trước đó soạn thành một tập
gọi "Các sắc lệnh chung". Còn Gaiút thì viết một quyển sách giáo khoa về luật
pháp và trình tự kiện cáo gọi là "Bậc thang luật học".
Luật La Mã đến thời trung đại và cận đại có ảnh hường rất lớn ở châu Âu.
lOMoARcPSD| 40551442
3. THỜI KỲ ĐẾ CHẾ (30 TCN – TK VI)
C.1. Khái quát về thời kỳ Đế chế
Cái chết đột ngột của Caesar tạo bước ngoặt lớn cho lịch sử La Mã, Octavianus
trở thành kẻ thống trị đế quốc rộng lớn Octavianus nắm trong tay quyền hạn ông
hoàng thực thụ như: Tổng chỉ huy quân sự, Quan cấp hành chính quan bảo dân
vĩnh viễn hay là Tổng giáo chủ toàn La Mã, được Viện nguyên lão suy tôn là “quốc
phụ”. Tuy nhiên Octavianus không dám coi thường truyền thống dân chủ hình thành
nhiều thế kỷ tthời cộng hòa, ông không dám tự xưng hoàng đế chỉ dám coi mình
người số một trong danh ch công dân- Priceps. Chế độ cộng hòa thực chất đã
chuyển sang chế độ quân chủ chuyên chế, Viện nguyên lão tồn tại không giữ vai trò
là tổ chức nhà nước cộng hòa mà trở thành công cụ quyền hạn quân chủ chủ nô, bởi
vậy, chế độ chính trị lúc bấy giờ là chế độ nguyên thủ (Principalis). Chính thể quân
chủ chuyên chế chủ vừa sản phẩm thời suy vong sụp đổ chế độ chiếm hữu
nô lệ, vừa là công cụ thống trị giai cấp chủ nô Đế quốc La Mã.
C.2. Mâu thuẫn xã hội trong thời kỳ Đế chế
Mâu thuẫn giữa quý tộc chủ nô ruộng đất và chủ nô, công thương, kỵ sỹ trở nên
gay gắt.
Quý tộc chủ nô ruộng đất trụ cột Viện nguyên lão nắm trong tay nhiều
ruộng đất. Để bảo vệ quyền lợi ruộng đất quý tộc chủ nô cố tình bảo thủ, chtrương
phản đối chính sách cải cách ruộng đất.
Tầng lớp quý tộc chủ nô công thương kỵ sỹ lại có quyền lợi tương đồng với tầng
lớp bình dân, lấy Đại hội nhân dân làm chỗ dựa, chủ trương hạn chế quyền lợi Viện
nguyên lão, mở rộng quyền công dân, giải quyết phần vấn đề ruộng đất cho người
bình n. Giới bình dân chán ghét Viện nguyên lão không đủ sức tự dậy Quân đội
chuyên nghiệp trung thành với vị tướng.
Phe quý tộc chủ nô công thương kỵ sỹ do Caesar dẫn đầu đã chiến thắng, Caesar
được dân chúng tôn thờ, ông thu gom hết quyền hành trong tay thiết lập nên chế đ
lOMoARcPSD| 40551442
độc tài. Tuy nhiên, ông chiếm lấy nhiều quyền lực sau đó Caesar bị ám sát do âm
mưu tổ chức của phe quý tộc chủ ruộng đất vào tháng 3 năm 44 TCN. trong
thời kỳ này, tiếp tục tồn tại mâu thuẫn giống với thời kỳ cộng hòa, mâu thuẫn tầng
lớp quý tộc với bình dân, chủ nô nô lệ, mâu thuẫn nội bộ giai cấp quý tộc. Số lượng
lệ ngày càng giảm những cuộc chiến tranh không còn diễn ra ạt ngiai đoạn
trước. Do chất lượng khả năng lao động của lệ ngày càng giảm sút nghiêm
trọng: công cụ sản xuất thô kệch, nặng nề, nô lệ bất bình với chủ do vậy chế độ
nô lệ La Mã ngày càng khủng hoảng trầm trọng.
C.3. Phương thức giải quyết mâu thuẫn
Để giải quyết mâu thuẫn, giai cấp đại chủ chủ phải thay đổi cách bóc lột:
họ đem ruộng đất chia cho người lao động nông nghiệp, Việc đó đã dẫn tới xuất hiện
tầng lớp hội gọi là lệ nông- tiền thân của nông nô thời trung đại. Lệ nông so với
nô lệ có chút tự do, có quyền công dân, có tinh thần tự nguyện sản xuất. Tuy nhiên,
thời kỳ này lại xuất hiện thêm mâu thuẫn giữa chlệ nông lệ nông lệ, phong
trào đấu tranh quần chúng diễn ra mạnh mẽ rộng khắp, quyền trung ương ngàyng
rệu rã, không đủ sức chi phối lực cắt địa phương. Các mâu thuẫn giai cấp ngày càng
sâu sắc, làm cho kinh tế đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng, Nhà nước không
đủ khả năng thống trị đế quốc rộng lớn. Năm 395, Hoàng đế Teododius chia La Mã
thành hai phần: Đông La Mã và Tây La Mã cho hai người cai quản.
Vào thế kthứ V, đế quốc La “già cỗi” đang trên bờ vực suy vong thì
bị các bộ lạc người Giecmanh bên ngoài ạt tràn vào. Những người dân La trước
sự o ép, bóc lột của chính quyền; đã coi những người Giecmanh này như đấng cứu
thế, cứu họ khỏi sự bóc lột. vậy họ giúp đỡ các bộ tộc Giéc manh tiêu diệt đế quốc
Tây La Mã. Năm 476, lãnh tụ quân sự của người Gecman là Odoacer đã phế truất vị
hoàng đế cuối cùng của Ðế quốc La Romulus, rồi tự xưng làm vua. Sự kiện đã
đánh dấu sự diệt vong của Tây bộ La Mã trong lch sử. Cho tới năm 1453, Đông La
Mã bị Thổ Nhĩ Kỳ chinh phục.
lOMoARcPSD| 40551442
C. KẾT LUẬN
Qua những phân tích, nghiên cứu trên, ta thấy được những mâu thuẫn hội
trong từng thời kỳ của lịch sử nhà nước La từ mâu thuẫn hội giữa người ngoại
lai (Peregrinii) người gốc La (Quiritium) trong thời kỳ Vương Chính đến mâu
thuẫn giữa các tầng lớp trong thời k Công Hòa và cuối cùng là mâu thuẫn giữa chủ
ruộng đất chnô công thương kị sỹ trong thời kỳ Đế chế độc quyền. Những
mâu thuẫn trong lòng xã hội La Mã đềunhững mâu thuẫn điển hình của nhà nước
chủ vàxã hội chiếm hữu lệ. Để khắc phục tình trạng này, nhà cầm quyền đã
đưa ra nhiều cách thức giải quyết như cải tổ pháp luật, nhượng bộ với phe chống đối,
Mặc dù cải cách pháp luật đã đạt được nhiều thành tựu tiến b đáng ghi nhận vào
thời vương chính thời cộng hòa La nhưng đến thời Đế chế thì nhiều
giai đoạn pháp luật trở nên mờ nhạt kém hiệu quả. Bên cạnh đó, phương thức giải
quyết mâu thuẫn còn chưa phù hợp, không triệt đkhiến cho mâu thuẫn trong hội
ngày càng sâu sắc hơn.
Trên đây là bài làm của nhóm chúng em do hạn chế về tài liệu, chúng em có
thể còn có thiếu sót trong quá trình nghiên cứu và tiếp cận vấn đề. Chúng em mong
nhận được những đánh giá, nhận xét của thầy/cô để giúp chúng em hoàn thiện hơn
về mặt nhận thức của vấn đề này.
Chúng em xin chân thành cảm ơn
lOMoARcPSD| 40551442
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật La Mã, trường Đại hc Luật Hà Ni.
2. Luật pháp, những pháp lệnh của Ephiantet và Piriclet, sra đồi phát triển
của đạo Kito La cổ đại, nguồn: https://m.hoc247.net/lich-su-van-
minhthe-gioi/bai-4-luat-phap-nhung-phap-lenh-cua-ephiantet-va-piriclet-su-
radoi-va-phat-trien-cua-dao-kito-o--l8159.html
3. Giáo trình lịch sử văn minh thế giới, Dương Vũ Ninh, NXB. Giáo dục, 1994.
lOMoARcPSD| 40551442
E. PHỤ LỤC
Một đồng tiền khác hình một vị quan chấp chính đi cùng 2 vệ sĩ (nguồn: Bởi
Classical Numismatic Group,
Inc. http://www.cngcoins.com, CC BY-SA 2.5,
https://commons.wikimedia.org/w/index.php?
curid=19729458)
(nguồn: Bởi english wikipedia, CC BY-SA 3.0,
https://commons.wikimedia.org/w/index.php?curid=2031501)
Các tỉnh La Mã vào thời điểm xảy ra vụ ám sát Julius Caesar

Preview text:

lOMoAR cPSD| 40551442 Mục lục trang A. MỞ ĐẦU 1 B. NỘI DUNG 1 I.
KHÁI QUÁT VỀ LA MÃ 1 II.
MÂU THUẪN XÃ HỘI LA MÃ QUA CẤC THỜI KỲ 3
1. THỜI KỲ VƯƠNG CHÍNH (753 TCN – 510 TCN) 3
1.1. Khái quát về thời kỳ Vương chính 3
1.2. Mâu thuẫn xã hội trong thời kỳ Vương chính 3
1.3. Phương thức giải quyết mâu thuẫn 4
2. THỜI KỲ CỘNG HÒA LA MÃ (510 TCN – 44 TCN) 5
2.1. Khái quát về thời kỳ Cộng hòa La Mã 5
2.2. Mâu thuẫn xã hội trong thời kỳ Cộng hòa La Mã 5
2.3. Phương thức giải quyết mâu thuẫn 7
3. THỜI KỲ ĐẾ CHẾ (30 TCN – TK VI) 9
3.1. Khái quát thời kỳ Đế chế 9
3.2. Mâu thuẫn xã hội trong thời kỳ Đế chế 10
3.3. Phương thức giải quyết mâu thuẫn 11 C. KẾT LUẬN 11
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 13 E. PHỤ LỤC 14 A. MỞ ĐẦU
La Mã cổ đại từng là một quốc gia rộng lớn tồn tại từ khoảng thể kỷ thứ 1 TCN cho
đến khoảng thế kỷ thứ 5 hay thế kỷ thứ 6 SCN, gồm phần đất những nước vây quanh
Địa Trung Hải ngày nay. Ban đầu La Mã được thành lập từ 3 bộ lạc sinh sống bên
dòng sông Tiber, đây một hòn đảo nhỏ có thể lội qua sông, vì vậy La Mã nằm ở vị
trí quyết định của giao thông buôn bán. Dù nhà nước La Mã hình thành từ rất sớm lOMoAR cPSD| 40551442
nhưng hệ thống luật vô cùng công phu và chặt chẽ. Ăngghen đã nhận xét : “ Luật La
Mã là hình thức pháp luật hoàn thiện nhất. Trong xã hội tư hữu thì không có một xã
hội nào có luật hoàn chỉnh hơn luật La Mã ". Bên cạnh đó người dân La Mã cũng có
nhận thức pháp luật rất cao, họ đã biết cách sử dụng luật pháp để bảo vệ quyền lợi
của mình. Có thể nói xã hội La Mã vô cùng tiên tiến trong thời điểm bấy giờ.
Xuyên suốt khoảng thời gian tồn tại xã hội La Mã đã trải qua nhiều mâu thuẫn, trong
từng thời kỳ các mâu thuẫn luôn được các nhà cầm quyền cố gắng dung hòa bằng
nhiều biện pháp, cũng do vậy mà xã hội La Mã đã trải qua nhiều hình thái nhà nước
khác nhau qua nhiều thời kỳ. Để tìm hiểu rõ hơn những mâu thuẫn này nhóm chúng
em lựa chọn đề tài: “ Phân tích những mâu thuẫn xã hội trong từng thời kỳ của lịch
sử nhà nước La Mã và phương thức giải quyết các mâu thuẫn đó.” B. NỘI DUNG I.
KHÁI QUÁT VỀ LA MÃ - Địa lý:
Nơi phát sinh nền văn minh Rôma cổ đại là Italia, một bán đảo lớn, dài và hẹp
hình chiếc ủng nằm chắn ngang Địa Trung Hải. Phía bắc bán đảo có dãy núi Anpơ
(Alpes) tạo thành biên giới tự nhiên giữa Italia và châu Âu; ba phía Đông, Tây, Nam
đều có biển bao bọc. Dãy núi Apennin chạy dọc suốt cả bán đảo từ Bắc xuống Nam
như một đường xương sống. Gần Italia còn có ba đảo lớn: đảo Xixin ở phía nam,
đảo Coócxơ và Xácđenhơ ở phía tây. Khác Hi Lạp, bán đảo Italia lớn gấp năm lần
Hi Lạp, lại có khá nhiều đồng bằng màu mỡ: đồng bằng sông Pô (miền Bắc), đồng
bằng sông Tibra (miền Trung), các đồng bằng trên đảo Xixin. Ngoài ra, ở Italia, nhất
là miền Nam, còn có nhiều đồng cỏ rộng lớn rất thuận tiện cho sự phát triển của nghề
nông và chăn nuôi gia súc.
Địa hình ở đây không bị chia cắt tạo điều kiện cho sự thống nhất. Bờ biển phía
nam bán đảo có nhiều vịnh, cảng thuận tiện cho tàu bè trú ẩn khi thời tiết xấu. Do lOMoAR cPSD| 40551442
điều kiện địa lí như vậy nên bán đảo Italia có điều kiện tiếp xúc với những nền văn
minh pháp triển sớm ở phương Đông. - Dân cư:
Bán đảo Italia là nơi quần cư khá sớm của người châu Âu. Trước thiên niên
kỉ II TCN – từ cuối đá mới và đầu đồng thau – người Ligua (Ligures) đã sinh sống
ở đây. Đến đầu thiên niên kỉ II TCN, nhiều bộ lạc ở phía bắc đã vượt qua dãy Anpơ,
tràn vào định cư ở các vùng Campanium, Latium, và Bơrutium. Đến cuối thiên niên
kỉ II TCN, lại xảy ra một đợt thiên di mới của người châu Âu từ phía bắc xuống, tạo
nên một cộng đồng người Âu sống định cư trên bán đảo này và được gọi chung là
người Italiot (Italiotes) – Người Italiốt sống ở vùng Latium được gọi là người Latinh.
=> Nền văn minh La mã có được sự giao lưu kế thừa nhiều nét ưu việt của nhiều nền
văn minh lớn xung quanh như văn minh Hy-lạp, Trung quốc, Ấn độ, ... - Bản chất
nhà nước: La mã là nhà nước chiếm hữu nô lệ, có nguồn cung cấp sức lao động nô
lệ to lớn thu được từ cac cuộc chiến tranh.
- Chế độ tư hữu đối với tư liệu sản xuất được coi trọng và bảo vệ một cách vô
cùng thiêng liêng là động lực thúc đẩy phat triển sản xuất, kinh doanh, sáng tạo.
- Truyền thống dân chủ có sớm đã giúp cho người dân La mã có được trình độ
nhận thức phap lý cao, sớm biết sử dụng cac công cụ phap lý nhằm bảo vệ lợi ich chinh đang của mình.
=> Luật La Mã là hệ thống pháp luật của La Mã cổ đại, phát triển qua nghìn năm
luật học, từ Thập nhị Bảng (khoảng năm 449 TCN), đến bộ luật Pháp điển Dân
sự (529 CN) do Hoàng đế Đông La Mã Justinianus I ban hành. Luật La Mã tạo nên
khuôn khổ cơ bản cho luật dân sự, hệ thống luật được sử dụng phổ biến nhất hiện nay. lOMoAR cPSD| 40551442
II. MÂU THUẪN XÃ HỘI LA MÃ QUA CÁC THỜI KỲ 1. THỜI
KỲ VƯƠNG CHÍNH (753 TCN – 510 TCN)
1.1. Khái quát về thời kỳ vương chính
Buổi khởi đầu chỉ là một thành thị nằm bên bờ sông Tiber (ở miền trung Italia
ngày nay), nơi quần cư của 3 bộ lạc (tribus): Liguri, Iapigi, Etruria.
- Mỗi bộ lạc bao gồm 10 bào tộc (curiae).
- Mỗi bào tộc là được chia ra làm 10 thị tộc (gentes).
3 bộ lạc (tribus) - 30 bào tộc (curiae) - 300 (gentes) Nhà
nước bao gồm ba cơ quan:
• Viện nguyên lão (Senatus):
+ Bao gồm 300 thủ lĩnh của 300 thị tộc
+ Là cơ quan quyền lực tối cao, có quyền quyết định hầu hết cac công việc quan
trọng của người La mã, được quyền thảo luận trước về những đạo luật, quyền phê
chuẩn hoặc phủ quyết những nghị quyết của đại hội nhân dân.
• Đại hội nhân dân (Comitia Curiata)
+ Bao gồm tất cả những người đàn ông của cả 300 thị tộc.
+ Đại hội curiae có quyền quyết định những vấn đề quan trọng trong đời sống
xã hội của người La mã như: tuyên chiến hay nghị hoà, xét xử, tế lễ, bầu ra một ông vua mới
• Vua (Rex): Do đại hội curiae bầu ra, không được cha truyền con nối và
cũng có thể bị đại hội curiae bãi miễn. Thực chất đây chỉ là thủ lĩnh quân
sự của liên minh 3 bộ lạc.
1.2. Mâu thuẫn xã hội trong thời kỳ vương chính Mâu thuẫn
xã hội nổi lên thời kì này chủ yếu là giữa người ngoại lai (Peregrinii) và người
gốc La Mã (Quiritium). lOMoAR cPSD| 40551442
Người ngoại lai là những người ngoại tộc hay người La-ting đến sống ở La Mã.
Người gốc La Mã là những người sinh ra, lớn lên ở La Mã và có bố mẹ là người La
Mã hoặc có mẹ là người La Mã. Có mâu thuẫn này vì:
- Theo tư tưởng của người La Mã cổ đại về việc chinh chiến để mở rộng lãnh
thổ, để đem về thêm của cải, chiến lợi phẩmcho đế chế giàu có hùng mạnh của mình.
Người La Mã lo sợ nhữngngười ngoại lai này sẽ có ý đồ xâm lược lại chính La Mã
cho nên người gốc La Mã luôn coi bộ phận người ngoại lai là “kẻ thù tiềm tàng”.
Người ngoại lai phải nộp thuế và thực hiện nhiều nghĩa vụ khác nhưng không có
quyền hạn về chính trị - kinh tế và bị phân biệt đối xử so với người dân La Mã chính gốc.
- Mỗi người ngoại lai mang theo kiến thức, kinh nghiệm, vốn liếng, …, họ có
thể là thương nhân, thợ thủ công lành nghề, lái tàu dày dạn kinh nghiệm...Với các
điều kiện trên người ngoại lai đã góp phần phát triển đa dạng các ngành nghề ở La
Mã thậm chí có người còn cho rằng các hoạt động sản xuất chủ chốt ở La Mã do bộ
phận người ngoại lai thực hiện. Về sau, khi phát triển dần về thế và lực, họ đã lớn
mạnh và sinh ra mâu thuẫn với bọn quý tộc thị tộc (Patrici).
1.3. Phương thức giải quyết mâu thuẫn
mặc dù người ngoại lai có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế, xã hội
nhưng họ lại bị người La Mã chính gốc miệt thị, dè dặt, dề phòng trong giao tiếp.
Điều này đã là cho bộ phận người ngoại lai lên tiếng đấu tranh liên tục, đòi quyền
bình đẳng với công dân La Mã chính gốc
Đồng thời về phía nhà cầm quyền. Tullius đã tiến hành tổ chức lại công xã La
Mã theo nguyên tắc địa vị và tài sản (chia xã hội thành 6 đẳng cấp căn cứ trên tài sản
gắn chặt với tổ chức quân đội), chứ không căn cứ vào địa vị và huyết thống.
Ba bộ lạc trước kia bị phá bỏ và xáo trộn thay vào đó là 4 bộ lạc mới được xác
lập. Đến sau năm 509 TCN, Vua Tarvinha kiêu ngạo bị trục xuất, từ đây này thay vì lOMoAR cPSD| 40551442
bầu ra Vua (Rex), Viện Nguyên Lão bầu ra 2 vị quan chấp chính (Consul) hai quan
chức tối cao trong hệ thống quản lý nhà nước. Sự thay đổi cơ cấu bộ máy nhà nước
như vậy đã xoa dịu được xung đột giữa tầng lớp bình dân và tầng lớp quý tộc La Mã.
Sư thay đổi này dẫn đến thời kì Vương Chính kết thúc, xã hội La Mã tiếp tục
bước đi dưới chế độ Cộng Hòa, tuy nhiên tương ứng với cơ cấu bộ máy nhà nước
mới thiết lập lại xuất hiện mẫu thuẫn mới xảy ra.
2. THỜI KỲ CỘNG HÒA LA MÃ (510 TCN – 44 TCN)
2.1. Khái quát về thời kỳ Cộng hòa La Mã
Đầu thời kỳ Cộng hòa, dưới cải cách của Servius Tulius, xã hội La Mã được chia
thành 6 đẳng cấp khác nhau căn cứ theo mức tài sản tư hữu
+ Đẳng cấp thứ nhất: gồm những người có mức tài sản trên 100.000 đồng axơ
(những người giàu có nhất), được cung cấp 98/193 đại biểu Centurie vào Đại hội
nhân dân, tương đương với 98/193 số phiếu bầu trong Đại hội.
+ Các đăng cấp thứ 2, 3, 4, 5 được cung cấp số lượng đại biểu Centurie ít hơn,
tương ứng có ít phiếu bầu hơn trong Đại hội nhân dân.
+ Đẳng cấp thứ 6 gồm những người đàn ông ít của cải nhất được miễn làm
nghĩa vụ quân sự và miễn đóng thuế. Đẳng cấp này được cung cấp 1 Centurie tức là
có 1 phiếu bầu trong Hội đồng nhân dân.
2.2. Mâu thuẫn xã hội trong thời kỳ Cộng hòa La Mã
Trong thời kì này cơ bản có 3 mâu thuẫn chính: đó là mâu thuẫn giữa tầng lớp bình
dân và quý tộc, mâu thuẫn giữa chủ nô và nô lệ và mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp
quý tộc; trong đó nổi bật nhất vẫn là mâu thuẫn giữa tầng lớp bình dân và quý tộc.
Thứ nhất, mâu thuẫn giữa tầng lớp bình dân và tầng lớp quý tộc:
Từ cách phân chia Centurie như vậy, dẫn đến sự chênh lệnh về tài sản, những
người giàu có chiếm được đa số phiếu trong Đại hội nhân dân (Comitia Centuriata).
Còn những người nghèo như đẳng cấp thứ 6 họ chỉ có 1 lá phiếu duy nhất nên gần
như không có khả năng đóng góp gì trong các quyết định của Đại hội. Đại hội nhân lOMoAR cPSD| 40551442
dân bấy giờ chỉ nhằm tạo quyền lực cho tầng lớp quý tộc dựa trên tính chất của dân
chủ giả hiệu và những người giàu có trong xã hội dường như có quyền quyết định
mọi việc, Cơ quan quyền lực tối cao của nhà nước nằm trong tay họ, họ chính là luật
pháp. Từ đây mâu thuẫn giữa người bình dân (Pleb) và tầng lớp quý tộc (Patricia)
nảy sinh và ngày càng gay gắt.
Từ đó, tầng lớp bình dân (Pleb) đã tự lập ra một “Nghị viện” của riêng mình
(Concilia plesbis tribute) và bí mật hoạt động. Phong trào đấu tranh nổi lên, nhiều
cuộc nội chiến đã nổ ra vào những năm 88, 83 TCN.
Thứ hai, mâu thuẫn giữa chủ nô và nô lệ:
Ở thời kỳ trước nô lệ chủ yếu là những người lính, những chiến binh của vùng
lãnh thổ mà người La Mã chiếm được. Với tư tưởng chinh phục những vùng đất mới
để làm giàu cho đất nước của mình, trong mắt người La Mã, những người nô lệ này
từng là những chiến binh chiến đấu dũng cảm., người La Mã cũng có sự tôn trọng
nhất định với những chiến binh dù cho đó là những chiến binh ở bên kia chiến tuyến.
Tới giai đoạn này khi nền kinh tế, công thương nghiệp La Mã ngày một phát triển,
đòi hỏi số lượng lớn lao động, cùng với sự thay đổi của quy định pháp luật; nô lệ có
thể được cung cấp từ hai nguồn nữa đó là những tội phạm bị giáng xuống làm nô lệ
và những nô lệ da 8 màu được đưa tới từ các châu lục khác để buôn bán.Người La
Mã nhận thấy những nô lệ này có sự khác biệt màu da với họ nên người La Mã trở
nên khinh thường nô lệ, thậm chí coi nô lệ không phải là con người mà chỉ là tài sản
biết nói. Từ đó đã làm cho mâu thuẫn giưa chủ nô và nô lệ ngày càng trở nên quyết liệt, gay gắt.
Từ đó, những cuộc nổi dậy của nô lệ ngày càng nhiều nhưng chỉ mang tính
chất tự phát, không có tổ chức chặt chẽ nên không đem lại hiệu quả, tuy nhiên cũng
đã có giúp ích cho phong trào đấu tranh của tầng lớp bình dân chống lại tầng lớp quý tộc bóc lột.
Thứ ba, mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp quý tộc-chủ nô lOMoAR cPSD| 40551442
+ Để bảo vệ quyền lợi đối với ruộng đất hiện tại quý tộc chủ nô cố tình bảo thủ, chủ
trương phản đối chính sách cải cách ruộng đất. Tầng lớp quý tộc chủ nô công thương
kỵ sĩ lại có quyền lợi tương đồng với tầng lớp bình dân, do vậy đã lấy Đại hội nhân
dân làm chỗ dựa, chủ trương hạn chế quyền lợi của Viện Nguyên lão, mở rộng quyền
công dân, giải quyết phần nào vấn đề ruộng đất cho người bình dân. Giới bình dân
đã vô cùng chán ghét Viện Nguyên Lão nhưng không đủ sức tự nổi dậy. Quân đội
chuyên nghiệp chỉ trung thành với vị tướng của mình hơn là với chính quyền
Lúc này, Julius Caesar thuộc phe quý tộc chủ nô công thương, là người tận dụng
được những yếu tố kể trên. Ông chiếm được nhiều đất đai ở nước ngoài, có được
lòng trung thành tuyệt đối của binh lính. Sau đó ông hành quân về chiếm thành
Rome, ép buộc Viện Nguyên Lão tăng số đại biểu lên 900 người để cho giới bình
dân tham gia. Vậy là phe quý tộc chủ nô công thương kỵ sĩ do Caesar dẫn đầu chiến
thắng, Caesar được quân đội và dân chúng tôn thờ, nhân đó ông thu gom hết quyền
hành về trong tay mình và thiết lập nên chế nền độc tài. Tuy nhiên, sau đó Caesar bị
ám sát trong một âm của phe quý tộc chủ nô ruộng đất, người cháu của ông là
Octavian hoàn thành sự nghiệp của ông, trở thành Hoàng đế đầu tiên của La Mã đã
mở đầu cho thời kì Đế chế độc quyền. Ba mâu thuẩn chính trong xã hội La Mã vẫn âm ỷ tồn tại.
2.3. Phương thức giải quyết mâu thuẫn
Tuy chế độ cộng hòa đã được thiết lập nhưng về quyền lợi kinh tế, chính trị
và địa vị xã hội, bình dân không được bình đẳng với quý tộc, vì vậy bình dân đã đấu
tranh lâu dài với quý tộc để giải quyết các vấn đề đó. Những thắng lợi đầu tiên của
bình dân là giai cấp quý tộc phải đồng ý cho bình dân được cử quan Bảo dân để lOMoAR cPSD| 40551442
bênh vực quyền lợi cho bình dân, được chia ruộng đất, được tổ chức Đại hội bình
dân. Đặc biệt, về mặt pháp luật, quý tộc phải đồng ý ban hành luật thành văn.1
Dưới sức ép đấu tranh của bình dân, chính quyền La Mã đã chấp nhận và
quyết định tổ chức lại cơ cấu nhà nước gồm 3 cơ quan đại hội tồn tại đồng thời: đại
hội của tầng lớp quý tộc, của tầng lớp bình dân và đại hội chung. Đến năm 367 TCN,
01 người thuộc giới bình dân được bầu làm quan chấp chính. Bộ luật Lex Licinia
Sextia quy định ít nhất 1 trong 2 quan chấp chính phải là người thuộc giới bình dân.
Cuối cùng, chiến thắng quyết định về mặt quyền lực vào năm 287 trước CN, năm
mà các quyết định và luật pháp của chính phủ bình dân được áp dụng cho toàn bộ
cộng đồng La Mã, bao gồm cả giới quý tộc. Về cải tổ pháp luật: -
Năm 445 TCN, Đạo luật Canuleus đã được ban hành, cho phép người
bìnhdân plebs được quyền tự do kết hôn với những người ở tầng lớp quý tộc patricia. -
Năm 450 TCN, trước áp lực của những người bình dân và đại hội bình
dân,Viện nguyên lão đã đi đến quyết định cải tổ lại luật pháp theo hướng cải cách
Xôlông ở Aten (Hy Lạp). Kết quả là một luật mới, hoàn chỉnh đã được ban hành –
luật thành văn đầu tiên của lịch sử La mã – Luật 12 bảng (Đuêcim Tabulae). •
Năm 367 TCN, lại thông qua 3 pháp lệnh quan trọng:
o Những món nợ mà bình dân vay, nếu đã trả lãi, phải được coi như đã
trả gốc, số còn thiếu sẽ trả hết trong 3 năm.
o Không ai được chiếm quá 500 jujera đất công tức là bằng khoảng 125 ha.
o Bỏ chức Tư lệnh quân đoàn, khôi phục chế độ bầu quan Chấp chính
hàng năm, trong 2 quan Chấp chính phải có 1 người là bình dân.
1 Luật pháp, những pháp lệnh của Ephiantet và Piriclet, sự ra đồi và phát triển của đạo Kito ở La Mã cổ đại, nguồn:
https://m.hoc247.net/lich-su-van-minh-the-gioi/bai-4-luat-phap-nhung-phap-lenh-cua-ephiantet-va-piriclet-su-
radoi-va-phat-trien-cua-dao-kito-o--l8159.html lOMoAR cPSD| 40551442 •
Năm 326 TCN, thông qua pháp lệnh thủ tiêu chế đô nô lệ đối với công dân La Mã. •
Năm 287 TCN, ban hành pháp lệnh quy định quyết nghị của Đại hội bình dân,
có hiệu lực như pháp luật đối với mọi công dân La Mã.
Thời cộng hòa, cơ quan lập pháp là Đại hội nhân dân, đồng thời Viện Nguyên
lão cũng có vai trò rất quan trọng. Đến thời kì quân chủ, Đại hội nhân dân ngừng
hoạt động nên quyết định của Viện Nguyên Lão và mệnh lệnh của nguyên thủ là luật
pháp chủ yếu của La Mã. Nhưng đến cuối thế kỉ III, quyền lập pháp của Viện Nguyên
lão cũng không còn nữa, nên mệnh lệnh của nguyên thủ tức là pháp luật.
Mệnh lệnh của nguyên thủ gồm có sắc lệnh, chỉ thị, dụ, quyết định... Sắc lệnh là
mệnh lệnh ban bố đối với cư dân toàn đế quốc. Chỉ thị là mệnh lệnh đối với quan lại.
Dụ là mệnh lệnh về một vấn đề cá biệt. Quyết định là ý kiến về một vấn đề gây nhiều
tranh luận, nhất là về các vụ án.
Về mặt luật học, những người giải thích pháp luật đầu tiên là các thầy cúng.
Nhưng đến cuối thế kỉ IV TCN, bắt đầu có những người thế tục chú ý giải thích pháp
luật. Người đầu tiên được nhắc đến là Flaviút, một quan chức của La Mã. Ông công
bố trước công chúng những ngày mở phiên tòa và những ngày không mở phiên tòa,
đồng thời hướng dẫn cho mọi người biết cách thức và thủ tục kiện cáo.
Trong các thế kỉ tiếp theo, ở La Mã có khá nhiều nhà luật học, trong số đó,
Giulianút và Gaiút sống vào thế kỉ II là những người tương đối tiêu biểu. Giulianút
đã vâng lệnh hoàng đế Ađrianút tập hợp các sắc lệnh trước đó soạn thành một tập
gọi là "Các sắc lệnh chung". Còn Gaiút thì viết một quyển sách giáo khoa về luật
pháp và trình tự kiện cáo gọi là "Bậc thang luật học".
Luật La Mã đến thời trung đại và cận đại có ảnh hường rất lớn ở châu Âu. lOMoAR cPSD| 40551442
3. THỜI KỲ ĐẾ CHẾ (30 TCN – TK VI)
C.1. Khái quát về thời kỳ Đế chế
Cái chết đột ngột của Caesar tạo bước ngoặt lớn cho lịch sử La Mã, Octavianus
trở thành kẻ thống trị đế quốc rộng lớn Octavianus nắm trong tay quyền hạn ông
hoàng thực thụ như: Tổng chỉ huy quân sự, Quan cấp hành chính và quan bảo dân
vĩnh viễn hay là Tổng giáo chủ toàn La Mã, được Viện nguyên lão suy tôn là “quốc
phụ”. Tuy nhiên Octavianus không dám coi thường truyền thống dân chủ hình thành
nhiều thế kỷ từ thời cộng hòa, ông không dám tự xưng hoàng đế chỉ dám coi mình
là người số một trong danh sách công dân- Priceps. Chế độ cộng hòa thực chất đã
chuyển sang chế độ quân chủ chuyên chế, Viện nguyên lão tồn tại không giữ vai trò
là tổ chức nhà nước cộng hòa mà trở thành công cụ quyền hạn quân chủ chủ nô, bởi
vậy, chế độ chính trị lúc bấy giờ là chế độ nguyên thủ (Principalis). Chính thể quân
chủ chuyên chế chủ nô vừa là sản phẩm thời kì suy vong sụp đổ chế độ chiếm hữu
nô lệ, vừa là công cụ thống trị giai cấp chủ nô Đế quốc La Mã.
C.2. Mâu thuẫn xã hội trong thời kỳ Đế chế
Mâu thuẫn giữa quý tộc chủ nô ruộng đất và chủ nô, công thương, kỵ sỹ trở nên gay gắt.
Quý tộc chủ nô ruộng đất mà trụ cột là Viện nguyên lão nắm trong tay nhiều
ruộng đất. Để bảo vệ quyền lợi ruộng đất quý tộc chủ nô cố tình bảo thủ, chủ trương
phản đối chính sách cải cách ruộng đất.
Tầng lớp quý tộc chủ nô công thương kỵ sỹ lại có quyền lợi tương đồng với tầng
lớp bình dân, lấy Đại hội nhân dân làm chỗ dựa, chủ trương hạn chế quyền lợi Viện
nguyên lão, mở rộng quyền công dân, giải quyết phần vấn đề ruộng đất cho người
bình dân. Giới bình dân chán ghét Viện nguyên lão không đủ sức tự dậy Quân đội
chuyên nghiệp trung thành với vị tướng.
Phe quý tộc chủ nô công thương kỵ sỹ do Caesar dẫn đầu đã chiến thắng, Caesar
được dân chúng tôn thờ, ông thu gom hết quyền hành trong tay thiết lập nên chế độ lOMoAR cPSD| 40551442
độc tài. Tuy nhiên, ông chiếm lấy nhiều quyền lực sau đó Caesar bị ám sát do âm
mưu tổ chức của phe quý tộc chủ nô ruộng đất vào tháng 3 năm 44 TCN. trong
thời kỳ này, tiếp tục tồn tại mâu thuẫn giống với thời kỳ cộng hòa, mâu thuẫn tầng
lớp quý tộc với bình dân, chủ nô nô lệ, mâu thuẫn nội bộ giai cấp quý tộc. Số lượng
nô lệ ngày càng giảm vì những cuộc chiến tranh không còn diễn ra ồ ạt như giai đoạn
trước. Do chất lượng và khả năng lao động của nô lệ ngày càng giảm sút nghiêm
trọng: công cụ sản xuất thô kệch, nặng nề, nô lệ bất bình với chủ nô do vậy chế độ
nô lệ La Mã ngày càng khủng hoảng trầm trọng.
C.3. Phương thức giải quyết mâu thuẫn
Để giải quyết mâu thuẫn, giai cấp đại chủ chủ nô phải thay đổi cách bóc lột:
họ đem ruộng đất chia cho người lao động nông nghiệp, Việc đó đã dẫn tới xuất hiện
tầng lớp xã hội gọi là lệ nông- tiền thân của nông nô thời trung đại. Lệ nông so với
nô lệ có chút tự do, có quyền công dân, có tinh thần tự nguyện sản xuất. Tuy nhiên,
thời kỳ này lại xuất hiện thêm mâu thuẫn giữa chủ nô lệ nông và lệ nông nô lệ, phong
trào đấu tranh quần chúng diễn ra mạnh mẽ rộng khắp, quyền trung ương ngày càng
rệu rã, không đủ sức chi phối lực cắt địa phương. Các mâu thuẫn giai cấp ngày càng
sâu sắc, làm cho kinh tế đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng, Nhà nước không
đủ khả năng thống trị đế quốc rộng lớn. Năm 395, Hoàng đế Teododius chia La Mã
thành hai phần: Đông La Mã và Tây La Mã cho hai người cai quản.
Vào thế kỉ thứ V, đế quốc La Mã “già cỗi” đang trên bờ vực suy vong thì
bị các bộ lạc người Giecmanh bên ngoài ồ ạt tràn vào. Những người dân La Mã trước
sự o ép, bóc lột của chính quyền; đã coi những người Giecmanh này như đấng cứu
thế, cứu họ khỏi sự bóc lột. Vì vậy họ giúp đỡ các bộ tộc Giéc manh tiêu diệt đế quốc
Tây La Mã. Năm 476, lãnh tụ quân sự của người Gecman là Odoacer đã phế truất vị
hoàng đế cuối cùng của Ðế quốc La mã Romulus, rồi tự xưng làm vua. Sự kiện đã
đánh dấu sự diệt vong của Tây bộ La Mã trong lịch sử. Cho tới năm 1453, Đông La
Mã bị Thổ Nhĩ Kỳ chinh phục. lOMoAR cPSD| 40551442 C. KẾT LUẬN
Qua những phân tích, nghiên cứu trên, ta thấy được những mâu thuẫn xã hội
trong từng thời kỳ của lịch sử nhà nước La Mã từ mâu thuẫn xã hội giữa người ngoại
lai (Peregrinii) và người gốc La Mã (Quiritium) trong thời kỳ Vương Chính đến mâu
thuẫn giữa các tầng lớp trong thời kỳ Công Hòa và cuối cùng là mâu thuẫn giữa chủ
nô ruộng đất và chủ nô công thương kị sỹ trong thời kỳ Đế chế độc quyền. Những
mâu thuẫn trong lòng xã hội La Mã đều là những mâu thuẫn điển hình của nhà nước
chủ nô vàxã hội chiếm hữu nô lệ. Để khắc phục tình trạng này, nhà cầm quyền đã
đưa ra nhiều cách thức giải quyết như cải tổ pháp luật, nhượng bộ với phe chống đối,
… Mặc dù cải cách pháp luật đã đạt được nhiều thành tựu tiến bộ đáng ghi nhận vào
thời kì vương chính và thời kì cộng hòa La Mã nhưng đến thời kì Đế chế thì có nhiều
giai đoạn pháp luật trở nên mờ nhạt và kém hiệu quả. Bên cạnh đó, phương thức giải
quyết mâu thuẫn còn chưa phù hợp, không triệt để khiến cho mâu thuẫn trong xã hội ngày càng sâu sắc hơn.
Trên đây là bài làm của nhóm chúng em do hạn chế về tài liệu, chúng em có
thể còn có thiếu sót trong quá trình nghiên cứu và tiếp cận vấn đề. Chúng em mong
nhận được những đánh giá, nhận xét của thầy/cô để giúp chúng em hoàn thiện hơn
về mặt nhận thức của vấn đề này.
Chúng em xin chân thành cảm ơn lOMoAR cPSD| 40551442
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật La Mã, trường Đại học Luật Hà Nội.
2. Luật pháp, những pháp lệnh của Ephiantet và Piriclet, sự ra đồi và phát triển
của đạo Kito ở La Mã cổ đại, nguồn: https://m.hoc247.net/lich-su-van-
minhthe-gioi/bai-4-luat-phap-nhung-phap-lenh-cua-ephiantet-va-piriclet-su-
radoi-va-phat-trien-cua-dao-kito-o--l8159.html
3. Giáo trình lịch sử văn minh thế giới, Dương Vũ Ninh, NXB. Giáo dục, 1994. lOMoAR cPSD| 40551442 E. PHỤ LỤC
Một đồng tiền khác hình một vị quan chấp chính đi cùng 2 vệ sĩ (nguồn: Bởi Classical Numismatic Group,
Inc. http://www.cngcoins.com, CC BY-SA 2.5,
https://commons.wikimedia.org/w/index.php? curid=19729458)
(nguồn: Bởi english wikipedia, CC BY-SA 3.0,
https://commons.wikimedia.org/w/index.php?curid=2031501)
Các tỉnh La Mã vào thời điểm xảy ra vụ ám sát Julius Caesar