lOMoARcPSD| 40551442
TỔ ỢNG HP BÀI TẬP LA MÃ CỦA CÁC NHÓM
MỤ ỤC L C
BÀI 1 : CHỦ THỂ CỦA LUẬT LA ................................................................................................... 1
BÀI 2: QUYỀN CHIẾM HỮU .................................................................................................................. 8
BÀI 3: SỰ HÌNH THÀNH SỞ HỮU TƯ NHÂN ................................................................................... 11
BÀI 4: QUYỀN SỞ HỮU ........................................................................................................................ 14
BÀI 5: CĂN CỨ PHÁT SINH NGHĨA VỤ ............................................................................................ 20
BÀI 6: QUYỀN ĐỐI VỚI TÀI SẢN CỦA NGƯỜI KHÁC (iusa in re aliena) ....................................... 25
BÀI 7:THỪA KẾ TRONG LUẬT LA ............................................................................................. 33
BÀI 8: HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH...........................................................................................................43
BÀI 1 : CHỦ THỂ CỦA LUẬT LA
I.KHÁI NIỆM
- Chủ thể của luật là các cá nhân hay pháp nhân có quyền nghĩa vụ trong một quan hệ pháp luật
- Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, không phải tất cả mọi người đều được công nhận là chủ thềhay
nói cách khác là người có quyền về mặt pháp luật. Chủ thể của luật La Mã rất hạn chế địa vị
pháp lý của các chủ thể không bình đẳng. Lực lượng lao động chính trong xã hôi là nô lệ được
biết đến như công cụ biết nói (instrumentum vocale) hoàn toàn bị loại khỏi tầng lớp những người
có năng lực pháp luật.
- Chủ thể của luật La Mã là những người trực tiếp tham gia vào các quan hệ mà bản thân họ có
các quyền và nghĩa vụ từ quan hệ đó. Đồng thời họ phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện
quyền và nghĩa vụ của mình.
- Chủ thể của Luật có năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
+ Năng lực pháp luật:( khả năng có quyền và nghĩa vụ)
Người có năng lực pháp luật phải hội tụ 3 điều kiện sau đây:
STATUS LIBERATIS :tự do
lOMoARcPSD| 40551442
STATUS CIVITATIS :công dân
STATUS FAMILIAL : gia chủ.
Như vậy, năng lực pháp luật đầy đủ yêu cầu cả ba yếu tố cơ bản, nói cách khác họ phải là người tự
do, có quốc tịch La Mã và giữ vị trí độc lập trong gia đình.
Bất kì sự thay đổi của 1 status nào cũng có ý nghĩa riêng, trong đó, yếu tố tự do đóng vai trò quan
trọng nhất. Xếp tiếp theo lần lượt là địa vị công dân và yếu tố gia chủ.
Mãi cho tới năm 212, trật tự trên mới có sự thay đổi. Trong hiến pháp của Hoàng đế Karakala mới
quy định sự bình đẳng giữa các công dân trừ nô lệ.
+ Năng lực hành vi:
khả năng của 1 người bằng hành vi của chính mình xác lập thực hiện quyền nghĩa vụ, pháp
luật La Mã chia năng lực hành vi thành 3 mức độ dựa trên độ tuổi và khả năng nhận thức:
Không có năng lực hành vi: tất cả những người dưới 7 tuổi và những người bị điên là những người
không có năng lực hành vi, những người này không được phép tham gia vào các giao dịch kể cả các
giao dịch có lợi cho họ trừ thừa kế.
Năng lực hành vi 1 phần: nữ từ 7 đến 12 tuổi, nam từ 7 đến 14 tuổi, những người này được tham gia
vào các giao dịch lợi cho mình không phải gánh chịu nghĩa vụ nhưng đối với các giao dịch
làm phát sinh nghĩa vụ tài sản hoặc chấm dứt quyền tài sản thì phải được sự đồng ý của người giám
hộ.
Năng lực hành vi toàn phần: nữ từ 12 tuổi, nam từ 14 tuổi trở lên không bị điên đến 25 tuổi, về
nguyên tắc đây là những người có năng lực hành vi toàn phần nhưng nếu họ vẫn phụ thuộc vào gia
chủ thì khi thực hiện các giao dịch làm phát sinh nghĩa vụ tài sản hoặc chấm dứt quyền tài sản thì
vẫn phải có sự đồng ý của gia chủ.
II. CÁC CHỦ THỂ TRONG LUẬT LA
Trong luật La Mã, các chủ thể của pháp luật gồm : Công dân La Mã, người La Tinh người
ngoại quốc. Ngoài ra trong bài viết, nhóm tác giả xin trình bày thêm 1 nhóm đối tượng là nông nô,
tá điền.
1. Công dân La Mã
lOMoARcPSD| 40551442
-Công dân La Mã là những người có quốc tịch La Mã, quốc tịch La Mã được xác lập trong các
trường hợp sau:
+ Sinh ra từ công dân La Mã.
+ Trả tự do cho nô lệ từ công dân La Mã.
+ Tặng danh hiệu công dân La Mã cho người nước ngoài.
Công dân La đầy đủ các quyền về nhân thân tài sản các quyền chính trị trong 1 số
trường hợp quốc tịch La Mã bị tước đối với những người phạm trọng tội (vào thời Justinian), bị kết
án tù chung thân hoặc tử hình, bị xung vào làm nô lệ, bị bắt làm tù binh.
Trong tư pháp, năng lực pháp luật của công dân La Mã được thể hiện theo hai phần Ius conubii
(Quyền kết hôn) và Ius commercii (quyền buôn bán, giao dịch – quyền tư hữu)
+ Năng lực hành vi:
Năng lực hành vi của con người luôn phụ thuộc vào lứa tuổi. Pháp luật La Mã chia năng lực hành
vi thành 2 mức độ dựa trên độ tuổi và khả năng nhận thức: infants và impuberes
Không năng lực hành vi (infantes): tất cả những người dưới 7 tuổi những người bị điên
những người không có năng lực hành vi, những người này không được phép tham gia vào các giao
dịch kể cả các giao dịch có lợi cho họ trừ thừa kế.
Trong impuberes có thể được chia làm 2 phần:
Năng lực hành vi 1 phần:
Nữ từ 7 đến 12 tuổi, nam từ 7 đến 14 tuổi, những người này được tham gia vào các giao dịch có lợi
cho mình mà không phải gánh chịu nghĩa vụ nhưng đối với các giao dịch làm phát sinh nghĩa vụ tài
sản hoặc chấm dứt quyền tài sản thì phải được sự đồng ý của người giám hộ.
Năng lực hành vi toàn phần:
Nữ từ 12 tuổi, nam từ 14 tuổi trở lên và không bị điên đến 25 tuổi, về nguyên tắc đây những người
năng lực hành vi toàn phần nhưng nếu họ vẫn phụ thuộc vào gia chủ thì khi thực hiện các giao
dịch làm phát sinh nghĩa vụ tài sản hoặc chấm dứt quyền tài sản thì vẫn phải có sự đồng ý của gia
chủ.
lOMoARcPSD| 40551442
Với phụ nữ
Trong nhiều thế kỉ, năng lực pháp luật năng lực hành vi của phụ nữ bị hạn chế. Trong thời cộng
hòa, pháp luật bắt buộc họ phải phụ thuộc hoàn toàn vào gia chủ. Sau này, điều này được nới lỏng
khi cho phép phụ nữ không còn phải phụ thuộc vào cha hay chồng khi đã lớn tuổi. Sang đến thời
Justinian những hạn chế với phụ nữ được giảm dần. Tuy vậy, xét cho cùng, phụ nữ bao giờ cũng
thiệt thòi hơn nam giới.
Infamia
Đây là cụm từ dùng để chỉ những người mắc trọng tội, vi phạm hình sự hoặc hành vi thiếu đạo đức,
vô luân,… những kẻ được gọi là Infamis tức vi phạm 1 hoặc nhiều điều trên sẽ bị pháp luật La
hạn chế nhiều quyền như giới thiệu người khác tham gia tố tụng, cử đại diện thay cho bản thân trong
tố tụng, hạn chế quyền thừa kế và kết hôn với người tự do khác
2. Người Latin và người ngoại quốc
- Người LaTin là dân cư cùng La-xi-um được nhận quốc tịch Latin từ giữa TK III scn.
Người La Mã và người LaTin sống gần nhau nhưng nhà nước của người La Mã xuất hiện sớm hơn
,
TK thứ II TCN La bị quân Phổ xâm lược vậy người La phải liên minh với người LaTin
để chống lại quân Phổ, dần dần sau đó nhà nước La cho phép người LaTin nhập quốc tịch La
Mã.
- Về địa vị pháp luật: Cơ bản không khác với địa vị của công dân La Mã. Họ có quyền tài
sản,quyền kết hôn khi nhà nước cho phép. Từ năm 268 TCN họ bắt đầ có quyền tố tụng nhưng lại
không có quyền lập di chúc.
- Người ngoại tộc hay dân nhập cư là người dân La Mã nhưng không có năng lực pháp luật
La Mã hay pháp luật Latin. Họ bị coi là dân tộc ngoại lai. Sau này, họ được quyền có năng lực
pháp luật theo hệ thống luật các dân tộc – Ius gentium.
- Từ TK III SCN luật pháp La Mã công nhận tất cả những người LaTin, người ngoại
quốcsống trên lãnh thổ La Mã đều là công dân La Mã.
3. Nông nô và tá điền
-Về nguyên tắc là những người tự do, tá điền là những người có nhà cửa nhưng không có ruộng đất
nên phải thuê đấtnộp thuế, nông là những lệ được giải phóng nhưng không tài sản,
lOMoARcPSD| 40551442
không có ruộng đất nên phải làm thuê cho chủ và hoàn toàn phụ thuộc vào chủ cũ, không được
thưa kiện và phải cấp dưỡng trong trường hợp chủ cũ bị phá sản.
4. Nô lệ
La Mã là một quốc gia chiếm hữu nô lệ. Nô lệ được coi là vật sở hữu của chủ nô. Tuy vậy, địa vị
của nô lệ trong từng giai đoạn không giống nhau.
Trong thời kỳ đầu, lượng lệ trong các gia đình còn chưa nhiều, họ sống làm việc cùng các
thành viên trong gia đình, không có sự khác biệt rõ nét trong cách sinh hoạt giữa họ. Sau này, khi số
lượng nô lệ tăng lên, họ bắt đầu sống tách biệt với chủ nô. Địa vị của họ ngang hang với các đồ vật
cần thiết trong đời sống (Res mancipi)
lệ không quyền sở hữu tài sản, trong một số trường hợp lệ được chủ giao cho một số
tài, đất đai để buôn bán hoặc canh tác nhưng những tài sản đó vẫn thuộc quyền sở hữu của chủ nô.
Pháp luật La Mã không thừa nhận quan hệ hôn nhân giữa nô lệ và nô tì
(contubernium), quan hệ đó được coi như mối quan hệ thuần túy giữa hai Res mancipi mà thôi. Con
của lệ sinh ra thuộc quyền sở hữu của chủ nô. Chủ quyền định đoạt lệ: quyền sinh,
quyền sát, bán, đổi, cho thuê, và có thể giết nô lệ trong trường hợp cần thiết.
Thân phận của người lệ cũng phụ thuộc vào chế độ chiếm hữu lệ bị chính chế độ đó chi
phối. Vào thế kỷ thứ III đến thế kỷ thứ V chế độ lệ La được duy trì theo quy định của hoàng
đế Claudiuxo, cấm bắt nô lệ đau ốm lao động nặng, cấm giết nô lệ đau yếu. Thời hoàng đế Nero đã
cấm đưa nô lệ ra đấu với dã thú. Thời hoàng đế Atoniuxo nếu không có lý do chính đáng thì không
được giết nô lệ.
Trong luật La Mã có khái niệm Peculio, dùng để chỉ một khoản tài sản chủ nô trích ra để nuôi nô lệ.
lệ quyền sử dụng tài sản nói trên. lệ quyền sử dụng tài sản này, chịu hậu quả pháp
về hành vi của bản thân nhưng không có quyền thu lợi từ tài sản đó mang lại.
Khi cho phép lệ sử dụng tài sản Peculio để giao dịch, chủ phải chịu trách nhiệm đối với những
giao dịch mà nô lệ tiến hành với người thứ ba. Trong quan hệ về tài sản giữa nô lệ với người thứ ba
và để giải quyết các hậu quả về tài sản, các quan chấp chính đã quy định cho pháp chủ nợ (bên thứ
ba) có quyền kiện chủ nô ở các hình thức như sau:
Nếu lệ giao dịch với bên thứ ba bằng một tài sản giới hạn trong Peculio để làm giàu thêm cho
chủ một khoản lợi tức nào đó thì người thứ ba chỉ quyền kiện về khoản lợi tức đó thôi.
HÌnh thức kiện này gọi là kiện lợi tức – action de inrem verso
lOMoARcPSD| 40551442
Nếu chủ chỉ định lệ của mình làm người làm công (institor) trong công việc buôn bán của
mình thì chủ nô phải chịu trách nhiệm về những việc mà nô lệ thực hiện trong giao dịch với người
thứ ba. Nếu lệ nhận giữ đồ vật hộ theo yêu cầu của bên thứ ba thì chủ nô không phải chịu trách
nhiệm.
Nêu chủ chỉ đơn giản ủy quyền cho lệ làm việc (chỉ thị iusus), đối tác với lệ thể kiện
chủ nô theo action quod iussu. Nếu nô lệ vi phạm pháp luật (như phá hoại tài sản, ổn hại tài sảncủa
người khác) thì kẻ bị hại có thể kiện chủ nô theo action noxalis (noxa – thiệt hại).
Chủ nô phải chịu trách nhiệm hoàn toàn trong những công việc mà chủ nô ra lệnh cho nô lệ làm
việc.
Chủ nô chỉ phải chịu trách nhiệm về tài sản trong phạm vi những khoản lợi thu được do sự hoạt
động của nô lệ mang lại.
lệ được giao tài sản Peculio để hoạt động nhưng lợi tức thu được đều thuộc về chủ nô. Tuy nhiên,
chủ nô phải chịu trách nhiệm về những việc làm của nô lệ trong giao dịch với bên thứ ba.
Vai trò của nô lệ trong vấn đề này giống như một công cụ làm việc không hơn không kém.
Những trường hợp bắt đầu trình trạng nô lệ:
1. Tù binh bị bắt giữ trong các cuộc chiến tranh
2. Những con nợ không trả được nợ sẽ bị chủ nợ bắt làm nô lệ
3. Những dân thường bị bắt cóc và bị bán làm nô lệ
4. Những người con do nô lệ sinh ra là nô lệ bất kể bố chúng là ai, có địa vị gì. Nhưng nếu bố
là nô lệ, mẹ là người tự do thì con sinh ra là người tự do.
5. Kẻ tử tù hay thù khổ sai cũng có thể bị niến thành nô lệ
6. Nô lệ được giải phóng nhưng sau khi được giải phóng rồi mà tỏ ra bất nhã với người trao
trả tự do thì có thể bị quay trở lại tình trạng nô lệ.
Những trường hợp chấm dứt tình trạng nô lệ:
1. Được chủ nô giải phóng
2. Khi nô lệ chết đi
rất nhiều con đường dẫn đến tình trạng lệ nhưng cơ hội để từ nô lệ trở lại thành thường dân
rất ít. Không có những điều luật bảo vệ người dân thường khi họ bị bắt và đem bán thành nô lệ, hay
khôi phục thân phận dân thường cho những người này.
lOMoARcPSD| 40551442
Kết luận:
Ở La Mã, nô lệ được coi là công cụ biết nói, không phải con người, hoàn toàn không có địa vị pháp
không được pháp luật bảo vệ, không được tài sản nhân. Trong các mối quan hệ hội
cũng không được coi là con người như không được công nhận quan hệ hôn nhân hay trong các cuộc
giao dịch với người thứ ba bằng tài sản Peculio.
Đời sống vật chất và tinh thần của người nô lệ thiếu thốn, khốn khổ, bị bóc lột tàn bạo và tính mạng
không được đảm bảo. Do đó đã có nhiếu cuộc đấu tranh của nô lệ nổ ra trong suốt quá trình lịch sử
của nhà nước La Mã.
5. “Pháp nhân”
- Trong luật La Mã, chưa khái niệm về pháp nhân như một chủ thể của pháp luật
trongthời này, quan hệ phát sinh pháp nhân La chưa phát triển. Tuy vậy trong luật
12 Bảng có nhắc đến 1 khái niệm thể coi nó tương đương như một pháp nhân đó là “Hiệp
hội nhân mang tính chất tôn giáo”, “Hiệp hội thủ công”,… Sự phát triển rực rỡ vkinh
tế, văn hóa, hội đã làm xuất hiện nhiều nghề nghiệp mới cùng với sự xuất hiện của đạo
thiên chúa trên lãnh thổ La Mã, xuất hiện nhiều nhà thờ và nhiều công trình xây dựng khác:
rạp hát, nhà trọ, các nghiệp đoàn mai tán , các tổ chức này có tài sản riêng, tổ chức riêng, tên
gọi riêng và nhân danh tên mình tham gia vào các quan hệ. Cùng với thời gian, số lượng các
tổ hợp này càng tăng lên.
Nhận xét về các quy định của chủ thể của Luật La Mã:
- Chủ thể của luật la mã rất hạn chế, địa vị pháp lý của các chủ thể pháp lý không bình đẳng (
phân ra làm nhiều loại chủ thể với quyền lợi khác nhau ). Tuy nhiên, đây chỉ đứng trên
quan điểm của thời đại này, còn nếu xét tại thời điểm đó thì có thể nói đối tượng điều chỉnh
của Luật La đã trở nên hết sức đa dạng phong phú so với các bộ luật trước đó. Luật
La không chỉ điều chỉnh những quan hệ tài sản, còn cả những mối quan hệ phát
sinh giữa công dân La Mã với nhau, giữa công dân La Mã người ngoại quốc (không mang
quốc tịch La Mã), giữa công dân và nô lệ, …
- Chủ thể của luật La Mã trực tiếp tham gia vào các quan hệ mà bản thân của họ có các quyền
nghĩa vụ đồng thời họ phải gánh chịu trách nhiệm trong việc thực hiện các quyền
nghĩa vụ đó.
- Ngoài ra, dấu hiệu về khái niệm Pháp nhân đã manh nha xuất hiện trong Luật La Mã. Tuy
trong bộ luật này không đề cập đến cụm từ pháp nhân, nhưng trong các mối quan hệ dân sự
đã có sự xuất hiện phổ biến của các tổ chức như Tôn giáo, hội buôn, tổ chức kinh tế và các
lOMoARcPSD| 40551442
tổ chức này thông qua hành vi của người đại diện tham gia các quan hệ tài sản vì lợi ích của
tổ chức. Luật còn công nhận quyền của một số tổ chức của nhiều người với một tài sản nhất
định như lập quỹ chưa quy định đó pháp nhân. Tài sản thuộc sở hữu nhiều người, quyền
gắn vào tài sản thuộc về tổ chức.
- Có thể nói đây đã là những điểm rất tiến bộ của Luật La Mã so với các bộ luật trước đó như
Hammurabi, Urnammu của Babylon.
BÀI 2: QUYỀN CHIẾM HỮU
I. KHÁI NIỆM, CÁC HÌNH THỨC CHIẾM HỮU:
1. Khái niệm:
- Chiếm hữu: Sự chiếm dụng , “”thống trị” trên thực tế đối với đồ vật.
- Quyền chiếm hữu( Ius – Possessio): Thực tế kiểm soát và chi phối đồ vật được
pháp luật bảo hộ bằng phương pháp kiện dân sự.
- Yêu cầu: - Có vật thực sự.
+ Có ý chí chiếm hữu luôn coi vật đó là của mình.
2. Hình thức chiếm hữu:
- Chiếm hữu hợp pháp:
+ Chủ sở hữu giữu quyền chiếm hữu.
+ Chủ sở hữu nhượng quyền chiếm hữu cho người khác hoặc giao cho người khác
nắm giữ
- Chiếm hữu không hợp pháp:
+ Người chiếm hữu định đoạt trái phép tài khoản của chủ sở hữu ( trộm, cướp)
+ Nhặt được vật của người khác đánh rơi, làm mất vật
Chiếm hữu bất hợp pháp không ngay thẳng
+ Mua nhầm phải của gian ( người bán không phải chủ sở hữu)
Chiếm hữu bất hợp pháp ngay thẳng
Việc phân biệt chiếm hữu bất hợp pháp ngay thẳng hay không ngay thẳng có ý
nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền sở hữu cũng như xác lập quyền sở
hữu. Người chiếm hữu ngay thẳng có thể trở thành chủ sở hữu theo thời hiệu.
II.PHÂN BIỆT QUYỀN CHIẾM HỮU VÀ CHIẾM HỮU
Quyền chiếm hữu
Quyền chiếm giữ
lOMoARcPSD| 40551442
- Không theo ý chí của chủ sở hữu
Trong trường hợp mất, bị cướp. Còn trong
nhiều trường hợp là do chủ sở hữu thực hiện
hành vi chiếm hữu hợp pháp
- Người chiếm có quyền bảo vệ đồ vật
mình chiếm giữ đối với mọi hành vi xâm
phạm( được pháp luật bảo vệ để tránh nguy
cơ bị tước đoạt)
- Hành vi chiếm hữu về mặt pháp lý
phải thể
-Thực hiện theo ý chí của chủ sở hữu trong
các trường hợp như cho thuê, cho mượn
Thường thì chủ sở hữu không thực hiện hành
vi chiếm hữu đồ vật
-Người chiếm giữ đồ vật chỉ có thể bảo vệ đồ
vật thông qua chủ sở hữu mà anh ta thuê
mướn
-Hành vi chiếm giữ tài sản chỉ là hành vi nắm
giữ quản lý nhưng không coi tài sản đó là của
hiện ý muốn chiếm dụng đồ vật một cách độc
lập không phụ thuộc vào ý chí của người
khác muốn xem đồ vật đó là của chínhmình
- Các dạng chiếm hữu
+Chiếm hữu hợp pháp: là người chủ sở hữu
+Chiếm hữu bất hợp pháp: người chiếm hữu
không biết mình không có quyền chiếm hữu
đồ vật và kẻ ăn cắp( người biết đồ vật đấy
không phải của mình nhưng làm như là của
mình)
mình
VD:Anh ta có đồ vật để sử dụng nhưng bằng
hành vi trả tiền thuê, luật La Mã coi người
thuê đồ vật là người giữ đồ vật thay tên cho
chủ sở hữu
III. CĂN CỨ XÁC LẬP CHẤM DỨT CHIẾM HỮU
1) Căn cứ xác lập/ Phát sinh
Các luật gia La Mã đều cho rằng căn cứ phát sinh chiếm hữu gồm 2 thành tố là:
thực tế chiếm giữ vật ( corpus possessioinis) và có ý chí chiếm giữ mà không phụ thuộc ý
chí của người khác ( animus possessioinis) tức là vừa có vật lại vừa có ý đồ xem vật đó
như là của mình. Thời điểm xác lập chiếm hữu được xem là thời điểm kết hợp giữa hai
thành tố cấu thành này.
Việc xác định và chứng minh corpus possessioinis theo nguyên tắc chung rất rõ
ràng : Người nào đang có vật thì được coi là người chiếm giữ vật
Tuy nhiên, việc xác định animus possessioinis lại phức tạp hơn rất nhiều.
VD: Một người có mặt trên một mảnh ruộng, cày xới và gieo trồng ở đó.
Hoặc một người có ngựa để cưỡi,người đang sinh sống trong một ngôi nhà, …
Chúng ta không thể biết ý đồ muốn chiếm dụng những thứ đó của họ. Trước mắt
chúng ta, họ chỉ là người giữ đồ vật một cách đơn thuần.
Để trả lời cho câu hỏi đó, ta cần làm sáng tỏ cái gọi là Causa possessioinis tức là
căn cứ pháp lý của việc chiếm hữu đồ vật hay mục đích chiếm hữu
VD: Một người có thể có đồ vật vì mua nó qua người bán. Người khác có thể có đồ
vật theo hợp đồng vay mượn để sử dụng. Khi sử dụng đồ vật, cả hai người nói trên có thể
có những hành vi giống nhau nhưng: đối với người thứ nhất hành vi đó là biểu hiện ý chí
chiếm hữu, đối với người thứ hai thì hành vi đó đơn thuần là sự biểu hiện của việc sử dụng
có phụ thuộc. hay là sự chiếm giữ.
lOMoARcPSD| 40551442
Dựa trên cơ sở đó, luật La Mã đặt ra câu hỏi: Kẻ cắp theo luật La Mã là người
chiếm hữu bất hợp pháp không ngay tình nhưng dù sao hắn ta vẫn là người chiếm hữu, vẫn
có ý chí chiếm hữu và luôn coi vật đã ăn cắp được là của mình. Vì vậy, nếu người chủ sở
hữu thực sự muốn yêu cầu người đang chiếm hữu vật trả lại cho mình thì phải chứng minh
vật thuộc sở hữu của họ bị người chiếm giữ ‘ ăn cắp’ . Điều này làm cho chủ sở hữu đích
thực trở nên khó khăn vì rất khó chứng minh được ‘hành vi’ ăn cắp để có thể yêu cầu hoàn
trả lại tài sản từ chiếm hữu bất hợp pháp.
Để chứng minh animus possessioinis, luật La Mã áp dụng nguyên tắc: nemo sibi
causam possessioinis mutare potest – không ai có thể thay đổi căn cứ chiếm hữu cho chính
bản thân ( Bộ Degest, quyển 41, mục 2,3,19). Nguyên tắc này không có nghĩa là: Nếu vào
một thời điểm nhất định ai đó đã có đồ vật ( vd theo hợp đồng vay mượn) – thì anh ta-(
không bao giờ và không vì điều kiện nào) có thể là người chiếm giữ. Hoặc ngược lại, kẻ
chiếm giữ không bao giờ là người giữ đồ vật đơn thuần
.
Không chỉ cá nhân mới thực hiện quá trình chiếm hữu, mà chiếm hữu cũng có thể
phát sinh qua người đại diện. Và muốn có quyền chiếm hữu qua đại diện cần có những
điều kiện sau đây: Thứ nhất, người đại diện phải có đủ thẩm quyền chiếm hữu cho người
khác dù thẩm quyền đó xuất phát từ pháp luật hoặc từ một hợp đồng. Thứ hai, khi trao cho
người đại diện thẩm quyền này, chủ thể chiếm hữu phải thể hiện ý chí chiếm hữu của mình
từ trước.Tức là, mặc dù có vật thực sự nhưng anh ta phải có ý thức không phải lấy đồ vật
cho bản thân mà là cho người ủy quyền.
Tóm lại, để xác định animus possessoinis, cần làm rõ mục đích chiếm hữu trên cơ
sở pháp lý dẫn đến việc chiếm hữu đối với vật
2) Chấm dứt quyền chiếm hữu
Chiếm hữu không thể tồn tại nếu thiếu một trong hai thành tố corpus possessoinis
và animus possessoinis.
Chủ thể không còn chiếm hữu vật nữa trong các trường hợp sau:
- Vật rời khỏi anh ta
- Anh ta vứt bỏ đồ vật ấy đi ( muốn chấm dứt chiếm hữu)
- Vật bị hỏng hoặc không thể lưu thông được nữa
Với chiếm hữu được thực hiện qua đại diện thì nó chấm dứt theo ý chí của
người chiếm hữu. Đồng thời, khả năng chiếm giữ đồ vật của người đại diện hay người ủy
quyền cũng chấm dứt. IV.BẢO VỆ QUYỀN CHIẾM HỮU
1) Đặc điểm nổi bật của sự bảo vệ chiếm hữu được thể hiện ở chỗ: Trong quá trình xét xử về
chiếm hữu theo Luật La Mã, không phải chứng minh quyền đối với vật đó, thậm chí không
được phép dựa vào vật quyền. Có 2 quan điểm để giải thích:
Do hiện tượng một chủ thể vừa là người chiếm hữu và là chủ sở hữu trong thực tế đời sống
quá phổ biến đến mức có thể cho rằng người chiếm giữ đồ vật đó là chủ sở hữu và người
không có trong tay đồ vật thì không có quyền với vật đó.
lOMoARcPSD| 40551442
Xuất phát từ tình hình thực tế nói trên mà nhà nước ban hành pháp luật bảo vệ cho
chủ sở hữu đồ vật- người đang chiếm giữ đồ vật trên thực tế, và không cho phép
kéo dài việc xét xử bằng luận cứ quyền sở hữu của bị cáo. Nếu người chiếm giữ đồ
vật( nguyên cáo) nói trên rõ ràng là kẻ chiếm giữ bất hợp pháp thì bị cáo được
quyền pháp đơn khiếu nại theo vật tố tụng để đòi lại đồ vật của mình.
Trong trường hợp nàynđã thể hiện sự phù hợp với quy phạm của luật La Mã: Đối
tượng chiếm hữu là những đồ vật thuộc quyền sở hữu( chẳng hạn đường sá công
cộng, nhà hát công cộng,… không phải là những thứ thuộc quyền sở hữu của cá
nhân)
Việc đơn giản hoá bảo vệ chiếm hữu là một biện pháp của nhà nước để chống lại tình trạng
sử dụng tuỳ tiện. Chỉ có thể khẳng định quyền sở hữu thông qua xét xử, toà án và pháp luật
bảo vệ cho những kẻ chiếm giữ đồ vật thực tế. Điều này cho thấy đa phần công dân La Mã
là những người chiếm giữ, còn chủ sở hữu lại là tầng lớp giàu có.
2) Chiếm hữu được bảo vệ không phải bằng đơn kiện mà bằng những điều cấm của quan toà
xét xử (interdicta), đó là: điều cấm để giữ quyền chiếm hữu và điều cấm để trả lại quyền
chiếm hữu.
1. Interdicra Retinendae Possessionis (điều cấm để giữ quyền chiếm hữu)
Interdictum uti possidetis để bảo vệ cho những ai chiếm hữu bất động sản. Khái niệm
"Nec vi nec clam nec precarioab" dùng để chỉ luật pháp không bảo vệ chiếm hữu cho những
kẻ dùng sức mạnh ( Vi) để chiếm hữu bất động sản của bên mà trong khi xét xử gọi là ab
avercario. Kẻ nào bí mật (clam) chiếm bất động sản của bị cáo hoặc sử dụng bất động sản
của bị cáo trong lúc xét xử thì không được pháp luật bảo vệ ( Theo bộ Degest, quyển 43, mục
27, trích đoạn 1).
Interdictum utrubi bảo vệ cho những người giữ đồ vật lần cuối cùng trước khi xét xử với
thời gian hơn một năm với điều kiện anh ta không chiến giữ bằng Vi, Clam, Precario.
2. Interdicra Recuperandae Possessionis (điều cấm để trả lại quyền chiếm hữu)
Interdictum unde vi dùng để bảo vệ người chiếm hữu hợp pháp bị người khác tước đoạt
quyền chiếm hữu.
Interdictum de precario dùng để bảo vệ người cho thuê khi bị người thuê từ chối trả lại đồ
vật.
Đối với người chiếm hữu bất hợp pháp ngay thẳng còn được trao quyền Actioc in rem
publiciana. Quyền kiện này được trao cho ai chiếm hữu vật theo thời hiệu. Quan toà chỉ
cần khẳng định thời hiệu chiếm hữu của nguyên đơn là đủ cho anh ta có quyền sở hữu
BÀI 3: SỰ HÌNH THÀNH QUYỀN SỞ HỮU TƯ NHÂN
I,Sự hình thành quyền sở hữu ở luật La Mã:
Tài sản thể hiện tư cách nhân thân của chủ sở hữu. Đây là giai đoạn sơ khai trong lịch sử phát
triển chế định sở hữu. Khái niệm quyền sở hữu ban đầu được hiểu khác xa rất nhiều so với cách
hiểu của chúng ta ngày nay. Tài sản khi đó được hiểu như là sự tiếp nối tư cách cá nhân của chủ sở
hữu. Ai xâm phạm đến tài sản của một người (lấy mất con thú săn được, hoa trái thu lượm được) là
xúc phạm tới cá nhân người đó. Thời La mã cổ đại có quan niệm rằng: Một người kiện kẻ trộm
không phải vì mình có quyền sở hữu, mà vì người ăn trộm đã xúc phạm đến danh dự của mình
thông qua hành vi ăn trộm đó. Kẻ trộm khi đó bị coi là kẻ xúc phạm (bị kiện theo phương thức
lOMoARcPSD| 40551442
kiện hành vi trộm cắp – actio furti), chứ chưa được coi là người chiếm hữu bất hợp pháp tài sản
của người khác (chưa áp dụng các phương thức kiện bảo vệ quyền sở hữu như kiện đòi lại tài sản
thuộc sở hữu của mình – actio rei vindicatio, hay phương thức kiện đòi lại tài sản bị trộm –
condictio furtiva). Quan niệm đó dẫn đến một loạt các hệ quả pháp lý quan trọng sau đây:
- Theo quan niệm đó mà pháp luật La mã giai đoạn cổ đại đã quy định cho phép chủ sở hữu
không những được lấy lại tài sản bị trộm mà còn được trả thù lại sự xúc phạm đó đối với kẻ trộm:
chặt tay, giam giữ, giết, bán làm nô lệ, phạt gấp nhiều lần tài sản trộm, …
(1)
.
- Nếu tài sản rời khỏi chủ sở hữu mà không có sự xúc phạm đến nhân thân của chủ sở hữu
(Vídụ như: chủ sở hữu cho người khác mượn tài sản, sau đó người mượn lại đem bán tài sản đó
đi), thì chủ sở hữu không được quyền đòi lại
(2)
.
- Cũng theo quan niệm đó mà Luật La mã thời kỳ cổ đại đã từng quy định rằng, nếu như có
nhiều kẻ trộm cùng ăn trộm một tài sản, thì hành vi của mỗi kẻ trộm được coi là những sự xúc
phạm riêng biệt đối với chủ sở hữu. Khi đó mỗi kẻ trộm phải trả cho người bị trộm toàn bộ tài sản
đã ăn trộm (có bao nhiêu kẻ trộm cùng thực hiện việc trộm cắp thì chủ sở hữu được hưởng ngần
ấy lần tài sản của mình)
(3)
. Ví dụ như hai kẻ trộm cùng ăn trộm một con ngựa, thì khi bị bắt mỗi kẻ
trộm phải nộp cho người bị trộm một con ngựa.
- Do tài sản là sự tiếp nối tư cách nhân thân của chủ sở hữu, do đó khi chủ sở hữu chết thì tư
cách nhân thân chấm dứt, tài sản trở thành vô chủ. Một số tài liệu khảo cổ cho thấy thời xa xưa tại
nhiều dân tộc có tồn tại tập quán rằng sau khi một người chết đi thì tài sản của người đó (tiền bạc,
đồ dùng quý giá, thậm chí cả nô lệ) cũng được chôn theo. Cùng với đó một nguyên tắc pháp lý
được hình thành dưới thời La mã cổ đại có nội dung như sau: “Việc lấy đi tài sản của người chết
không được coi là ăn trộm– “Rei hereditariae furtum non fit
(4)
. Trong giai đoạn này chế định
thừa kế chưa được hình thành rõ nét, chưa có quy định cụ thể cho việc dịch chuyển tài sản từ
người chết sang cho những người còn sống.
Quyền sở hữu vật là quyền của chủ thể được chi phối tuyệt đối và theo ý chí của mình đối với
vật. Với sự phát triển của giao lưu dân sự, thì khái niệm quyền sở hữu thế hệ thứ hai dần được
hình thành và được hiểu là “quyền thống trị tuyệt đối của một chủ thể lên vật”. Quyền sở hữu là
một loại vật quyền quan trọng nhất thể hiện sự phụ thuộc tuyệt đối và vô hạn của vật đối với chủ
sở hữu. Chủ sở hữu có mọi quyền năng đối với vật. Việc xác lập quyền sở hữu đối với vật trả lời
cho câu hỏi: Vật này của ai?
Đối với một vật cụ thể thì không thể có bất kỳ chủ thể nào có nhiều quyền năng hơn chính chủ sở
hữu vật đó. Mọi hành vi tác động lên vật hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của chính chủ sở hữu đó.
Cũng từ khi có cách hiểu này mà chủ sở hữu mới được bảo vệ bằng những phương thức kiện vật
quyền. Ví dụ như kiện đòi lại tài sản thuộc sở hữu của mình (rei vindicatio).
Cũng trong giai đoạn này mới hình thành nên nguyên tắc: “Một người không thể chuyển giao cho
người khác nhiều hơn những gì mình có” (Tiếng La-tinh: “Nemo ad alium plus juris transferre
potest, quam ipse habet”). Và hệ quả trực tiếp của nguyên tắc này là: nếu như tài sản đã được
chuyển giao từ người chiếm hữu bất hợp pháp sang cho người thứ ba thông qua giao dịch dân sự
thì chủ sở hữu vẫn được đòi lại tài sản từ người thứ ba đó. Ví dụ như một người mua phải tài sản
do trộm cắp có được thì phải trả lại cho chủ sở hữu khi chủ sở hữu đòi lại. Bởi lẽ bản thân kẻ trộm
không có quyền sở hữu đối với vật trộm được, do đó không thể chuyển giao quyền sở hữu sang
lOMoARcPSD| 40551442
cho người mua (không thể chuyển giao cái mà chính mình không có), khi đó người mua phải tài
sản trộm cắp sẽ không thể trở thành chủ sở hữu tài sản mua được.
Tại đây phát sinh một vấn đề: Khi đó một người khi mua tài sản nào đó thường sẽ rất băn khoăn
rằng: Không biết người bán cho mình có đích thực là chủ sở hữu tài sản không. Nếu người bán mà
không phải chủ sở hữu tài sản thì đến một lúc nào đó sau khi mua chủ sở hữu sẽ đến đòi lại, bên
mua khi đó bị buộc phải trả lại cho chủ sở hữu tài sản mình đã mua. Nhằm khắc phục tận gốc vấn
đề đó mà pháp luật các nước mới bắt đầu hình thành cơ chế đăng ký tài sản. Phương thức đăng ký
tài sản đó ban đầu được áp dụng đối với bất động sản, sau đó áp dụng dần cho các loại tài sản khác
là động sản.
Cách hiểu này đã cho phép chủ sở hữu có mọi quyền năng đối với tài sản, do đó ở thế hệ thứ hai
này ta không thấy có sự liệt kê các quyền năng cơ bản của chủ sở hữu.
Quyền sở hữu vật được hiểu thông qua việc liệt kê cụ thể các quyền năng cấu thành của chủ sở
hữu đối với vật của mình.
Trên thực tế thì trong một xã hội công dân, mọi hành vi của mỗi thành viên, trong đó kể cả hành vi
đối với tài sản của chính mình, cũng chỉ giới hạn trong phạm vi cho phép sao cho không làm ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác, cũng như lợi ích của toàn xã hội, của
cộng đồng nói chung.
Chính vì lý do đó quyền năng của chủ sở hữu mới luôn bị hạn chế trong một giới hạn luật định.
Quyền năng vô hạn của chủ sở hữu đối với vật “của mình” chỉ được thể hiện với ý nghĩa lớn hơn
so với bất kỳ một chủ thể nào khác, chứ không bao giờ có thể nhiều hơn những gì pháp luật quy
định. Nói cách khác, quyền sở hữu khi đó được hiểu là tập hợp một số quyền năng cụ thể của chủ
sở hữu mà pháp luật quy định. Bắt đầu hình thành khái niệm quyền sở hữu thế hệ thứ ba – liệt kê
cụ thể các quyền năng cấu thành của quyền sở hữu vật.
Dưới thời cộng hoà La mã thì quyền sở hữu được hiểu bao gồm năm quyền năng là: 1) Quyền
chiếm hữu, 2) Quyền sử dụng, 3) Quyền hưởng dụng lợi ích từ việc sử dụng vật, 4) Quyền định
đoạt số phận vật, 5) Quyền kiện đòi lại vật từ người chiếm hữu bất hợp pháp.
Hạn chế đối với quyền sở hữu
Ưu tiên lợi ích cộng đồng. Ví dụ: người chủ sở hữu 1 BĐS chỉ có thể phá dỡ 1 công trình khi cam
kết xây dựng 1 công trình mới; chủ sở hữu BĐS phải chịu trách nhiệm bảo vệ những người láng
giềng có nguy cơ gặp nguy hiểm do BĐS, công trình trên BĐS của mình
Lạm dụng quyền: một người thực hiện quyền của mình mà gây hại cho người khác thì có thể có
chế tài cho hành vi lạm dụng quyền này. Ví dụ: chủ sở hữu một dòng chảy có quyền thay đổi một
dòng chảy, nhưng nếu nó làm tổn hại đến dòng chảy của người láng giềng thì phải chịu trách
nhiệm
II, Khái niệm quyền sở hữu:
-Quyền sở hữu là loại chế định duy nhất mà người La Mã chưa đưa ra được một khái niệm chính
xác cho nó. Nhưng ta có thể hiểu người chủ sở hữu vật là người có quyền năng thống trị đối với
vật đó. (Những quyền năng đó được luật pháp công nhận)
lOMoARcPSD| 40551442
III, Nội dung của quyền sở hữu:
Quyền sở hữu là một dạng quyền tuyệt đối và có phạm vi rất rộng. Có 5 dạng quyền năng cơ bản
của chủ sở hữu:
+ Ius Utendi (Quyền sử dụng): quyền khai thác những lợi ích kinh tế từ tài sản phù hợp với
tính năng, tác dụng của tài sản đó
+ Ius Fruendi (Quyền thu nhận thành quả từ tài sản) : về nguyên tắc chủ sở hữu là người
hưởng thành quả và lợi nhuận từ tài sản thuộc sở hữu của mình
+ Ius Possidendi (Quyền chiếm hữu tài sản)
+ Ius Abutendi (Quyền định đoạt tài sản): bao gồm định đoạt số phận thực tế cũng như số
phận pháp lý của tài sản như bán, thừa kế, ban tặng, thậm chí là hủy bỏ + Ius Videcandi
(Quyền kiện đòi tài sản) .
Quyền sở hữu hạn chế với bất động sản liền kề. Ví dụ: chủ sở hữu BĐS phải chấp nhận
cho cành lá cây nhà láng giềng trổ sang đất đai nhà mình; phải để cho nước mưa chảy tự
nhiên trên đất nhà mình.
BÀI 4: QUYỀN SỞ HỮU
I/ Quyền sở hữu
Chế định quyền sở hữu là chế định duy nhất mà các luật gia La Mã chưa đưa ra được khái niệm
chính xác về quyền sở hữu cũng như nội dung quyền sở hữu. Tuy nhiên trong Luật La Mã, quyền
sở hữu có thể được hiểu là quyền sử dụng, và quyền định đoạt của chủ sở hữu đối với tài sản của
mình. Quyền sở hữu không được coi là quyền tuyệt đối vì vẫn bị một số giới hạn do pháp luật quy
định.
Các luật gia La Mã đã chỉ ra được những quyền năng cơ bản của chủ sở hữu tài sản. Những quyền
năng đó bao gồm:
- Quyền sử dụng tài sản (Ius Utendi): đây là quyền khai thác những lợi ích kinh tế từ tài
sản phù hợp với tính năng, tác dụng của tài sản đó;
- Quyền thu nhận thành quả và lợi nhuận (Ius Fruendi): về nguyên tắc chủ sở hữu là
người hưởng thành quả và lợi nhuận từ tài sản thuộc sở hữu của mình;
- Quyền định đoạt tài sản (Ius Abutendi): bao gồm định đoạt số phận thực tế cũng như số
phận pháp lý của tài sản như bán, thừa kế, ban tặng, thậm chí là hủy bỏ; - Quyền
chiếm hữu tài sản (Ius Possidendi) - Quyền đòi lại tài sản (Ius Vicicandi).
Về nguyên tắc chung, chủ sở hữu tài sản có toàn quyền đối với tài sản của mình, thực hiện
hành vi mà pháp luật không cấm.
Người La Mã căn cứ vào giá trị về mặt pháp lý của tài sản để chia tài sản thành hai loại là Res
mancipi (đất đai, nô lệ, động vật - những phương tiện sản xuất chủ yếu của người nông dân) và
Res nes mancipi(những tài sản còn lại). Lúc đầu chỉ có công dân La Mã mới được quyền sở hữu
ruộng đất còn dân nhập cư và dân ở các địa phương khác không có quyền. Tuy nhiên quyền sở hữu
được pháp luật ghi nhận còn thực tế bình dân khác cũng sở hữu ruộng đất.Khác với luật La Mã, ở
lOMoARcPSD| 40551442
pháp luật Lưỡng Hà, bộ luật Hammurabi phân loại tài sản căn cứ theo giá trị, khả năng di dời của
tài sản nên chia thành hai loại là động sản (nô lệ, gia súc..) và bất động sản (đất đai, nhà ở…).
Nhưng có điểm giống nhau giữa hai bộ luật là họ đều coi trọng loại tài sản là đất đai (bất động
sản), điều này có thể giải thích được bởi trong xã hội cổ đại, đất đai chủ yếu là loại tư liệu sản xuất
quan trọng nhất và cũng là loại tài sản có giá trị lớn nhất. Cần lưu ý rằng, không phải tài sản nào
cũng là đối tượng của quyền sở hữu, và không phải tài sản nào cũng được chiếm giữ, “ lưu thông”
đó là tài sản chung như nước chảy trên sông, không khí là của tất cả mọi người, đồ cấm như thuốc
độc, sách cấm, tài sản nhà nước..
II/ Căn cứ xác lập quyền sở hữu
Những sự kiện mà với sự phát sinh của chúng, chủ thể đã có quyền sở hữu được gọi là các
phương thức thủ đắc quyền sở hữu (còn gọi là modus acquirendi). Những sự kiện pháp lý là căn
cứ để thủ đắc quyền sở hữu gọi là hạng mục thủ đắc (tirulus acquirendi) Phương thức thủ đắc
quyền sở hữu được chia thành 2 loại:
Phương thức tự nhiên (căn cứ nguyên sinh)
- Là những căn cứ mà từ đó quyền sở hữu đc xác lập mà không phụ thuộc vào quyền sở
hữu trước đó đối với tài sản (vật không thuộc sở hữu của ai, chiếm hữu theo thời hiệu,
chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu…).
- Đối tượng của quyền sở hữu phải là vật đc phép lưu thong (/tự do lưu thong, hạn chế
lưu thông)
- Luật La Mã có quy tắc: Vật không thuộc quyền sở hữu của ai thì ai là người chiếm giữ
vật đó đầu tiên sẽ là chủ sở hữu của vật đó, với ý định chiếm giữ cho mình.
VD: Cá ở sông, biển, thú rừng,vật mà chủ sở hữu đã từ bỏ quyền sở hữu,..
Căn cứ xác định sở hữu ban đầu với từng loại vật:
Vật vô chủ (Res nullius): bất kì một vật nào đó có thể sở hữu (kể cả nô lệ) mà chưa
thuộc quyền sở hữu của một chủ thể cụ thể nào đó – được coi là vật vô chủ vf được sở
hữu một cách tự do.
Quan niệm này trở thành cơ sở pháp lý, lý luận để các quốc gia tuyên bố những vùng đất
vô chủ (terra nullius) là lãnh thổ thuộc chủ quyền lãnh thổ của nước mình vì đã phát
hiện ra, chiếm giữ hoặc đánh dấu chủ quyền lên lãnh thổ đó.
Trong luật La Mã không được phép đánh đòng vật bị vứt bỏ với vật bị đánh mất hặc cất giấu. Xác
nhận theo từng trường hợp cụ thể:
- Nếu người nào đó nhặt được mảnh giẻ cũ, quần áo rách rưới thì có thể xem như những
thữ nhặt được là đồ vật bị vứt bỏ.
- Nếu thấy đồ vật tương đối có giá trị (tiền, kim khí, đá quý,..) thì không được xem như
đồ vật bị vứt bỏ mà được xem như đồ vật bị đánh rơi.
- Theo luật, kẻ nhận được đồ vật bị đánh có giá trị mà chiếm thành của riêng thì mắc vào
tội ăn cắp. Anh ta phải tìm ra chủ của nó bằng mọi cách và nếu tìm được thì có thể yêu
cầu bồi thường chi phí tìm kiếm và trông giữ, nhưng về nguyên tắc luật thì không được
xử bồi thường.
lOMoARcPSD| 40551442
Vật chôn, giấu – Kho báu
- Vật bị cất giấu vẫn xem như là vật có chủ vì vậy quyền sở hữu vẫn thuộc chủ sở hữu
của vật đó.
- Nếu bị cất giấu quá lâu mà không tìm ra chủ của chúng thì chúng được gọi là vật bị
chôn cất (thesaurus). Theo luật La Mã, chủ nhân của vị trí tìm thấy vật bị chôn cất
(thường là đất) được xem là chủ sở hữu của vật đó.
- Từ thế kỉ II SCN, đồ vật bị cất giấu là sở hữu của chủ nhân vị trí chôn cất và của người
tìm ra chúng (mỗi bên một nửa).
VD: B tìm thấy một viên đá quý trong vườn của A thì A được hưởng một nửa, B được
hưởng một nửa giá trị của viên đá quý đó.
Chế biến vật:
Đây là hình thức tạo một vật mới từ nguyên liệu (chuyển từ dạng này sang dạng khác).
- Nếu nguyên liệu thuộc sở hữu của một người và họ bỏ công sức hoặc chi phí của chính
mình ra để tạo ra một sản phẩm mới thì vật mới được tạo thành đương nhiên thuộc
quyền sở hữu của người đó (quyền sở hữu đối với nguyên vật liệu và vật tạo thành
được xác lập liên tục).
- Nếu nguyên vật liệu thuộc sở hữu của chủ thể này nhưng sức lao động bỏ ra hoặc chi
phí chế biến vật đó thuộc chủ thể khác thì vật mới tạo thành sẽ thuộc sở hữu của ai?
Trong pháp luật La Mã ở những thời điểm lịch sử khác nhau, vấn đề về vật tạo thành
thuộc sở hữu của ai được giải quyết khác nhau. Vào thời hoàng đế Justinian, sản phẩm
tạo thành từ nguyên vật liệu của người khác được giải quyết theo nguyên tắc sau:
+ Nếu vật mới được tạo thành có thể quay về trạng thái ban đầu (không phụ thuộc vào
công sức chế biến) thì vật mới tạo thành thuộc sở hữu của người sở hữu nguyên vật
liệu (VD: Vàng tạo thành đồ trang sực thì có thể nung lại thành hình khối vàng ban
đầu)
+ Nếu vật mới được tạo thành không thể quay về trạng thái ban đầu (VD: gỗ được chế
biến thành đồ gỗ) thì vật mới tạo thành thuộc sở hữu của người chế biến với điều kiện
người chế biến đó phải là người chiếm hữu ngay tình. Người chế biến phải hoàn trả
người có nguyên vật liệu khoản lợi mà mình có được từ việc chiếm hữu ngay tình đó.
Sáp nhập, trộn lẫn:
- Nếu một vật kiên kết với một vật khác và biến thành một phần của vật liên kết mà
không còn tồn tại độc lập thì vật đó thuộc sở hữu của người có vật liên kết VD: Phần
gỗ được dùng làm càng xe ngựa thì gỗ thuộc quyền sở hữu cua người có xe ngựa.
Người có vật liên kết phải hoàn trả lại cho chủ sở hữu có vật ban đầu hai lần giá trị của
vật, nếu vật có thể tách được vật đã lien kết thì quyền sở hữu được khôi phục nếu học
không nhận được phần đền bù 2 lần giá trị đó.
- Việc liên kết một vật vào vật khác, trên cơ sở đó làm phát sinh quyền sở hữu được coi
là căn cứ đầu tiên: trồng cây hay xây dựng công trình trên đất nước của người khác.
- Trộn lẫn vật là hình thức liên kết mà sau đó không phân biệt được các thành phần đã
liên kết (hợp kim, vàng, bạc) vật được liên kết được tạo thành vật mới thuộc sở hữu
chung của những người có các vật thành phần.
lOMoARcPSD| 40551442
- Nếu vật bị trộn lẫn là những vật cùng loại (VD: lương thực cùng loại cới số lượng và
chất lượng khac nhau) thì hỗn hợp tạo thành là sở hữu chung theo phần của các chủ sở
hữu có thành phần hỗn hợp.
Theo thời hiệu
- Quyền sở hữu xác lập theo thời hiệu là một dạng đặc biệt của căn cứ đầu tiên. Theo
quan niệm của các luật gia La Mã thì một người chiếm hữu tài sản trong một thời gian
nhất định và thực hiện quyền như chủ sở hữu mà không có bất kì tranh chấp nào sẽ
được công nhận quyền sở hữu đối với vật mà họ đã chiếm hữu ngay tình.
Lý do có điều trên:
- Trong thời gian đó người chủ thực sự có đủ thời gian để tìm lại tài sản đã mất của mình
nhưng đã không tìm, nên suy đoán là họ đã từ bỏ quyền sở hữu.
- Nếu họ không tìm thấy, không phát hiện được là tài sản của mình đang do người chiếm
hữu ngay tình chiếm hữu thì đã mất quyền khởi kiện để đòi lại. Về mặt khách quan thì
quyền sở hữu đồ vật nói trên thuộc về người khác. Người thứ 2 này có quyền phát đơn
kiện và chững minh được quyền sở hữu của mình trong phiên tòa xét xử. Trong trường
hợp này thì người thủ đắc ngay thẳng phải trả lại vật. Tuy nhiên nếu thời hạn khởi kiện
đòi quá hạn thì người thủ đắc thiện chí hoàn toàn có thể là chủ sở hữu của đồ vật. Cần
công nhận người chiếm hữu theo thời hiệu là chủ sở hữu tài sản để ảo đảm tính ổn định
của lưu thông. Quy định thời hiệu chiếm hữu để trở thành chủ sở hữu khác nhau trong
từng thời kì lịch sử:
+ Trong luật 12 bảng thì thủ đắc theo thời hiệu (usucapio) được chấp nhận tương đối
đơn giản: Đất đai: 2 năm
Các vật khác: 1 năm
Người thủ đắc theo thời hiệu được công nhận là chủ sở hữu của vật nếu chiếm giữ đồ
vật trong thời gian nói trên và không phải đồ do ăn cắp mà có. + Ở các địa phương
quy định một dạng thời hiệu gọi là Longi temporis paraescriptio:
Đối với người sống trong 1 tỉnh (inter paraesentes) thời hiệu là 10 năm
Đối với người khác tỉnh (inter absentes) là 20 năm Đối với vật bị mất do
trộm cắp thì không có thời hiệu.
+ Dưới thời hoàng đế Justinian thống nhất 2 dạng thời hiệu usucapioLongi temporis
paraescriptio:
Cần thiết phải chiếm giữ đồ vật.
Người chiếm hữu phải là người chiếm giữ ngay tình đang thực tế chiếm hữu vật.
Chiếm hữu phải dựa trên cơ sở của pháp luật về chiếm hữu.
Thời hiệu chiếm hữu với động sản là 3 năm, bất động sản là 10-20 năm. Vật
phải được phép lưu thông và không phải vật bị mất trộm.
Hoa lợi
- Hoa lợi là sản vật tự nhiên mà tài sản mang lại VD: trái cây, trứng gà,..
- Hoa lợi, trong một chừng mực nào đó được coi là vật phụ của tài sản gốc, vì vậy,
chủ sở hữu của tài sản gốc cũng là chủ sở hữu hoa lợi, dù hoa lợi đã hay chưa
được thu hoạch. Nếu chủ sở hữu chăm sóc vật mang hoa lợi thì hoa lợi thuộc về
chủ sở
hữu, còn nếu chủ sở hữukhông chăm sóc mà do 1 người khác thì hoa lợi chia theo thỏa
thuận hay hợp đồng.
lOMoARcPSD| 40551442
- Nếu vật làm ra hoa lợi bị mất hoặc bị ăn cắp thì chủ sở hữu có thể khởi kiện:
+ Nếu có người chiếm hữu ngay tình đối với vật sinh hoa lợi bị mất đó thì trong trường
hợp hoa lợi được thu hoạch, chế biến trước thời điểm khởi kiện thì hoa lợi sẽ thuộc về
người chiếm hữu ngay tình đó. Còn nếu hoa lợi thu hoạch hoặc chế biến sau thời điểm
khởi kiện thì phải để lại.
+ Nếu là người chiếm hữu không ngay tình thì người chiếm hữu không bao giờ thành
chủ sở hữu
Căn cứ phái sinh (căn cứ kế tục): là phương thức mà trong đó quyền sở hữu của chủ thể
đc phát sinh từ quyền sở hữu của chủ sở hữu trước đây
- Phương thức thủ đắc quyền sở hữu kế tục là sự chuyển giao đồ vật (tradition), nghĩa là
quyền sở hữu vật đc dịch chuyển từ chủ thể nay sang chủ thể khác (không phải sự
chuyển giao nào cũng đều kèm theo sự chuyển nhượng quyền sở hữu). Và ý chí của
người trao và người nhận phải đồng nhất, người chuyển giao tài sản phải có ý định
chuyển giao cả quyền sở hữu, đồng thời người nhận phải có ý định tiếp nhận quyền sở
hữu.
- Việc chuyển giao tài sản phải thỏa mãn các điều kiện sau:
+ Việc chiếm hữu phải đc chuyển giao cho người tiếp nhận chuyển giao
+ Người chuyển giao phải có quyền chuyển giao tài sản
+ Việc chuyển giao kèm với mục đích chuyển giao
+ Đối tượng chuyển giao phải đc phép lưu thông
III/ Chấm dứt quyền sở hữu
1/ Vật bị tiêu hủy do quy định của nhà nước bị cấm lưu thông
Vd: sách cấm
2/ chủ sở hữu bị tước quyền sở hữu
Tài sản bị tịch thu do phạm tội hay hây tổn thất phải đền bù cho bên bị hại
Tài sản có thời hiệu bị người khác xác lập quyền sở hữu.
3/ chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản
-Vứt đồ vật đó đi coi như từ bỏ quyền sở hữu. Tuy nhiên sẽ phát sinh vấn đề nhặt được đồ vật phải
xác minh đó là đồ vật bị đánh rơi, vứt bỏ hay chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu đồ vật đó. Theo đó
luật la mã quy định rất rõ ràng :
+Nếu người nào nhặt được một mảnh giẻ cũ, quần áo rách -> được xem là đồ vật bị bỏ rơi
+Nếu đồ vật có giá trị thì phải coi là đồ vật bị đánh rơi; nếu chiếm lấy sẽ mắc vào tội ăn cắp. Phải
trình báo để tìm ra chủ của nó bằng mọi cách.Trong thời gian nhất định nếu không tì đc => người
thủ đắc thiện chí hoàn toàn có thể là chủ sở hữu.
lOMoARcPSD| 40551442
Ngoài ra, khi biết tài sản sở hữu của mình bị chiếm hữu mà không có khiếu kiện, ý kiến thì sau
1 thời gian nhất định người chủ sở hữu đó sẽ mất quyền sở hữu Bán đi tài sản của mình hoặc
cho đi.
4/ Quyền sở hữu không hoàn toàn
Trong trường hợp chủ sở hữu đem tài sản ra cầm cố thì chủ sở hữu sẽ tạm thời mất các quyền năng
đối với đồ vật đó tuy nhiên vẫn là chủ sở hữu của tài sản.quyền sở hữu sẽ bị mất và chuyển sang
cho người cầm đồ nếu trong thời hạn mà chủ sở hữu không thể trả nợ hoặc không trả nợ.
5/ Khác
- Sau khi một người chết đi thì quan hệ sở hữu cũng kết thúc
- Cũng như trong phần bắt đầu quyền sở hữu. nếu một người làm rơi, thất lác một đồ vật mà
người thủ đắc thiện chí trong khoản thời gian nhất định cố gắng tìm ra chủ sở hữu mà không
được thì sẽ mất quyền sở hữu và quyền sở hữu đồ vật đó sẽ thuộc về người thủ đắc thiện chí
kia. Cụ thể là 10-20 năm đối với bất động sản và3 năm với động sản.
IV/ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU
Quyền sở hữu có thể có thể bị xâm hại bởi hành vi chiếm hữu của người khác. Đặt giả thiết khi
chủ sở hữu và người chiếm hữu là 2 người khác nhau, vậy để chấm dứt tình trạng đó, người La
cổ đại thực hiện một trong 2 biện pháp sau:
- Làm biến mất quyền của chủ sở hữu và xác lập quyền đó cho người chiếm hữu. Đó là biện
pháp xác lập quyền sở hữu theo thời điểm.
- Chấm dứt tình trạng chiếm hữu của người chiếm hữu và khôi phục việc chiếm hữu cho chủ
sở hữu. Đây chính là mục đích của việc kiện đòi lại tài sản.
Trong Luật La Mã, việc kiện đòi lại tài sản có 3 cấp độ: Đòi lại tài sản đúng nghĩa, đòi lại tài sản
theo nghĩa tương đối và trong trường hợp tài sản bị xâm phạm là bất động sản, việc kiện có thể
mang tính chất của một biện pháp bảo vệ phụ trợ đối với quyền sở hữu.
1. Kiện đòi lại tài sản đúng nghĩa
Quyền kiện đòi lại tài sản được thừa nhận như một biện pháp giải quyết các xung đột giữa tình
trạng thực tế và tình trạng pháp lý.Đây là quyền mà chủ sở hữu kiện đòi lại tài sản bị chiếm hữu
bất hợp pháp (Ius Vidicatio).Người có trách nhiệm chứng minh trong vụ kiện đòi lại tài sản này là
người khởi kiện.Bên người bị kiện có quyền không chứng minh gì cả.Nếu xét thấy các lý lẽ của
người khởi kiện là thỏa đáng, người bị kiện có thể từ bỏ việc chiếm hữu đối với tài sản.
Tuy nhiên rất khó để có thể giải quyết các hậu quả phức tạp của việc chiếm hữu.Quyền đối với hoa
lợi, trách nhiệm đối với những hư hỏng, xuống cấp, trách nhiệm đối với chi phí tu bổ, nâng cấp tài
sản.
Đối với người chiếm hữu ngay tình, họ phải chịu trách nhiệm đối với tài sản, từ thời điểm bắt đầu
khởi kiện, và được hoàn trả những chi phí bảo quản tài sản cần thiết.Còn người chiếm hữu không
ngay tình phải chịu trách nhiệm đối với mọi thiệt hại về tài sản kể từ khi họ chiếm giữ tài sản đó.
lOMoARcPSD| 40551442
2. Kiện đòi bảo vệ quyền sở hữu theo nghĩa tương đối
Chiếm hữu coi như một hình thức công bố quyền sở hữu
Quyền kiện yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu theo nghĩa tương đối được thừa nhận cho một người
chuyển nhượng tài sản từ một người mà ta không rõ có tư cách chủ sở hữu hay không. Trong điều
kiện người được chuyển nhượng ngay tình, người ta giả định rằng, người chuyển nhượng có quyền
yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu mà người chuyển nhượng đã giao cho do hiệu lực của một giao dịch.
3. Bảo vệ phụ trợ đối với quyền sở hữu (đối với bất động sản)
- Chống nguy cơ gây thiệt hại đối với bất động sản (Cam kết bồi thường nếu không chấp
nhận cam kết sẽ chuyển giao quyền chiếm hữu bất động sản)
- Chống những hành vi gây thiệt hại đã được thực hiện (bồi thường và yêu cầu khôi phục lại
hiện trạng ban đầu)
BÀI 5: CĂN CỨ PHÁT SINH NGHĨA VỤ
Nghĩa vụ được phát sinh trên những sự kiện khác nhau mà luật pháp thừa nhận.
Theo căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ thì nghĩa vụ được chủ yếu phát sinh từ hợp đồng ( ex
contractu) và nghĩa vụ từ hành vi vi phạm pháp luật (ex delictu). Đây là hai căn cứ quan trọng, phổ
biến nhất trong pháp luật La Mã.
Tuy hai căn cứ nêu trên được coi là chủ yếu và quan trọng nhất làm phát sinh nghĩa vụ,
nhưng do sự phức tạp của của các quan hệ xã hội cũng như sự phát triển kinh tế , các luật gia La
Mã nhận thấy còn có những nghĩa vụ phát sinh từ những căn cứ mà không được liệt vào hợp đồng
cũng như là hành vi vi phạm. Đó là nghĩa vụ phát sinh như từ hợp đồng (ex quasi contractu) và
nghĩa vụ phát sinh như từ vi phạm pháp luật (ex quasi delictio)
Tóm lại, Luật La Mã quy định bốn căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ:
- Nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng (ex contractu)
- Nghĩa vụ do hành vi vi phạm tư pháp( ex delictio)
- Nghĩa vụ phát sinh như từ hợp đồng (ex quasi contractu)
- Nghĩa vụ phát sinh như từ các vi phạm pháp luật (ex quasi delictio)
I. NGHĨA VỤ PHÁT SINH TỪ HỢP ĐỒNG ( EX CONTRACTU)
1, Giao ước và khế ước
- Giao ước: Là những thảo thuận, làm phát sinh những hậu quả nhưng không được pháp luật
bảo hộ bằng phương thức kiện nhưng do sự phát triển của kinh tế, một số giao ước được
quan tòa bảo hộ và một số được hoàng đế bảo hộ.
Hai bên tham gia thỏa thuận nếu không thực hiện đúng giao ước thì không phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật

Preview text:

lOMoAR cPSD| 40551442
TỔ ỢNG HP BÀI TẬP LA MÃ CỦA CÁC NHÓM MỤ ỤC L C
BÀI 1 : CHỦ THỂ CỦA LUẬT LA MÃ ................................................................................................... 1
BÀI 2: QUYỀN CHIẾM HỮU .................................................................................................................. 8
BÀI 3: SỰ HÌNH THÀNH SỞ HỮU TƯ NHÂN ................................................................................... 11
BÀI 4: QUYỀN SỞ HỮU ........................................................................................................................ 14
BÀI 5: CĂN CỨ PHÁT SINH NGHĨA VỤ ............................................................................................ 20
BÀI 6: QUYỀN ĐỐI VỚI TÀI SẢN CỦA NGƯỜI KHÁC (iusa in re aliena) ....................................... 25
BÀI 7:THỪA KẾ TRONG LUẬT LA MÃ ............................................................................................. 33
BÀI 8: HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH...........................................................................................................43
BÀI 1 : CHỦ THỂ CỦA LUẬT LA MÃ I.KHÁI NIỆM
- Chủ thể của luật là các cá nhân hay pháp nhân có quyền nghĩa vụ trong một quan hệ pháp luật
- Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, không phải tất cả mọi người đều được công nhận là chủ thềhay
nói cách khác là người có quyền về mặt pháp luật. Chủ thể của luật La Mã rất hạn chế địa vị
pháp lý của các chủ thể không bình đẳng. Lực lượng lao động chính trong xã hôi là nô lệ được
biết đến như công cụ biết nói (instrumentum vocale) hoàn toàn bị loại khỏi tầng lớp những người có năng lực pháp luật.
- Chủ thể của luật La Mã là những người trực tiếp tham gia vào các quan hệ mà bản thân họ có
các quyền và nghĩa vụ từ quan hệ đó. Đồng thời họ phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện
quyền và nghĩa vụ của mình.
- Chủ thể của Luật có năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
+ Năng lực pháp luật:( khả năng có quyền và nghĩa vụ)
Người có năng lực pháp luật phải hội tụ 3 điều kiện sau đây: STATUS LIBERATIS :tự do lOMoAR cPSD| 40551442 STATUS CIVITATIS :công dân STATUS FAMILIAL : gia chủ.
Như vậy, năng lực pháp luật đầy đủ yêu cầu cả ba yếu tố cơ bản, nói cách khác họ phải là người tự
do, có quốc tịch La Mã và giữ vị trí độc lập trong gia đình.
Bất kì sự thay đổi của 1 status nào cũng có ý nghĩa riêng, trong đó, yếu tố tự do đóng vai trò quan
trọng nhất. Xếp tiếp theo lần lượt là địa vị công dân và yếu tố gia chủ.
Mãi cho tới năm 212, trật tự trên mới có sự thay đổi. Trong hiến pháp của Hoàng đế Karakala mới
quy định sự bình đẳng giữa các công dân trừ nô lệ.
+ Năng lực hành vi:
Là khả năng của 1 người bằng hành vi của chính mình xác lập thực hiện quyền và nghĩa vụ, pháp
luật La Mã chia năng lực hành vi thành 3 mức độ dựa trên độ tuổi và khả năng nhận thức:
Không có năng lực hành vi: tất cả những người dưới 7 tuổi và những người bị điên là những người
không có năng lực hành vi, những người này không được phép tham gia vào các giao dịch kể cả các
giao dịch có lợi cho họ trừ thừa kế.
Năng lực hành vi 1 phần: nữ từ 7 đến 12 tuổi, nam từ 7 đến 14 tuổi, những người này được tham gia
vào các giao dịch có lợi cho mình mà không phải gánh chịu nghĩa vụ nhưng đối với các giao dịch
làm phát sinh nghĩa vụ tài sản hoặc chấm dứt quyền tài sản thì phải được sự đồng ý của người giám hộ.
Năng lực hành vi toàn phần: nữ từ 12 tuổi, nam từ 14 tuổi trở lên và không bị điên đến 25 tuổi, về
nguyên tắc đây là những người có năng lực hành vi toàn phần nhưng nếu họ vẫn phụ thuộc vào gia
chủ thì khi thực hiện các giao dịch làm phát sinh nghĩa vụ tài sản hoặc chấm dứt quyền tài sản thì
vẫn phải có sự đồng ý của gia chủ.
II. CÁC CHỦ THỂ TRONG LUẬT LA MÃ
Trong luật La Mã, các chủ thể của pháp luật gồm có : Công dân La Mã, người La Tinh và người
ngoại quốc. Ngoài ra trong bài viết, nhóm tác giả xin trình bày thêm 1 nhóm đối tượng là nông nô, tá điền. 1. Công dân La Mã lOMoAR cPSD| 40551442
-Công dân La Mã là những người có quốc tịch La Mã, quốc tịch La Mã được xác lập trong các trường hợp sau:
+ Sinh ra từ công dân La Mã.
+ Trả tự do cho nô lệ từ công dân La Mã.
+ Tặng danh hiệu công dân La Mã cho người nước ngoài.
Công dân La Mã có đầy đủ các quyền về nhân thân và tài sản và các quyền chính trị trong 1 số
trường hợp quốc tịch La Mã bị tước đối với những người phạm trọng tội (vào thời Justinian), bị kết
án tù chung thân hoặc tử hình, bị xung vào làm nô lệ, bị bắt làm tù binh.
Trong tư pháp, năng lực pháp luật của công dân La Mã được thể hiện theo hai phần Ius conubii
(Quyền kết hôn) và Ius commercii (quyền buôn bán, giao dịch – quyền tư hữu)
+ Năng lực hành vi:
Năng lực hành vi của con người luôn phụ thuộc vào lứa tuổi. Pháp luật La Mã chia năng lực hành
vi thành 2 mức độ dựa trên độ tuổi và khả năng nhận thức: infants và impuberes
Không có năng lực hành vi (infantes): tất cả những người dưới 7 tuổi và những người bị điên là
những người không có năng lực hành vi, những người này không được phép tham gia vào các giao
dịch kể cả các giao dịch có lợi cho họ trừ thừa kế.
Trong impuberes có thể được chia làm 2 phần:
Năng lực hành vi 1 phần:
Nữ từ 7 đến 12 tuổi, nam từ 7 đến 14 tuổi, những người này được tham gia vào các giao dịch có lợi
cho mình mà không phải gánh chịu nghĩa vụ nhưng đối với các giao dịch làm phát sinh nghĩa vụ tài
sản hoặc chấm dứt quyền tài sản thì phải được sự đồng ý của người giám hộ.
Năng lực hành vi toàn phần:
Nữ từ 12 tuổi, nam từ 14 tuổi trở lên và không bị điên đến 25 tuổi, về nguyên tắc đây là những người
có năng lực hành vi toàn phần nhưng nếu họ vẫn phụ thuộc vào gia chủ thì khi thực hiện các giao
dịch làm phát sinh nghĩa vụ tài sản hoặc chấm dứt quyền tài sản thì vẫn phải có sự đồng ý của gia chủ. lOMoAR cPSD| 40551442
Với phụ nữ
Trong nhiều thế kỉ, năng lực pháp luật và năng lực hành vi của phụ nữ bị hạn chế. Trong thời kì cộng
hòa, pháp luật bắt buộc họ phải phụ thuộc hoàn toàn vào gia chủ. Sau này, điều này được nới lỏng
khi cho phép phụ nữ không còn phải phụ thuộc vào cha hay chồng khi đã lớn tuổi. Sang đến thời
Justinian những hạn chế với phụ nữ được giảm dần. Tuy vậy, xét cho cùng, phụ nữ bao giờ cũng
thiệt thòi hơn nam giới. Infamia
Đây là cụm từ dùng để chỉ những người mắc trọng tội, vi phạm hình sự hoặc hành vi thiếu đạo đức,
vô luân,… những kẻ được gọi là Infamis tức vi phạm 1 hoặc nhiều điều trên sẽ bị pháp luật La Mã
hạn chế nhiều quyền như giới thiệu người khác tham gia tố tụng, cử đại diện thay cho bản thân trong
tố tụng, hạn chế quyền thừa kế và kết hôn với người tự do khác
2. Người Latin và người ngoại quốc -
Người LaTin là dân cư cùng La-xi-um được nhận quốc tịch Latin từ giữa TK III scn.
Người La Mã và người LaTin sống gần nhau nhưng nhà nước của người La Mã xuất hiện sớm hơn ,
TK thứ II TCN La Mã bị quân Phổ xâm lược vì vậy người La Mã phải liên minh với người LaTin
để chống lại quân Phổ, dần dần sau đó nhà nước La Mã cho phép người LaTin nhập quốc tịch La Mã. -
Về địa vị pháp luật: Cơ bản không khác với địa vị của công dân La Mã. Họ có quyền tài
sản,quyền kết hôn khi nhà nước cho phép. Từ năm 268 TCN họ bắt đầ có quyền tố tụng nhưng lại
không có quyền lập di chúc. -
Người ngoại tộc hay dân nhập cư là người dân La Mã nhưng không có năng lực pháp luật
La Mã hay pháp luật Latin. Họ bị coi là dân tộc ngoại lai. Sau này, họ được quyền có năng lực
pháp luật theo hệ thống luật các dân tộc – Ius gentium. -
Từ TK III SCN luật pháp La Mã công nhận tất cả những người LaTin, người ngoại
quốcsống trên lãnh thổ La Mã đều là công dân La Mã.
3. Nông nô và tá điền
-Về nguyên tắc là những người tự do, tá điền là những người có nhà cửa nhưng không có ruộng đất
nên phải thuê đất và nộp tô thuế, nông nô là những nô lệ được giải phóng nhưng không có tài sản, lOMoAR cPSD| 40551442
không có ruộng đất nên phải làm thuê cho chủ cũ và hoàn toàn phụ thuộc vào chủ cũ, không được
thưa kiện và phải cấp dưỡng trong trường hợp chủ cũ bị phá sản. 4. Nô lệ
La Mã là một quốc gia chiếm hữu nô lệ. Nô lệ được coi là vật sở hữu của chủ nô. Tuy vậy, địa vị
của nô lệ trong từng giai đoạn không giống nhau.
Trong thời kỳ đầu, lượng nô lệ trong các gia đình còn chưa nhiều, họ sống và làm việc cùng các
thành viên trong gia đình, không có sự khác biệt rõ nét trong cách sinh hoạt giữa họ. Sau này, khi số
lượng nô lệ tăng lên, họ bắt đầu sống tách biệt với chủ nô. Địa vị của họ ngang hang với các đồ vật
cần thiết trong đời sống (Res mancipi)
Nô lệ không có quyền sở hữu tài sản, trong một số trường hợp nô lệ được chủ nô giao cho một số
tài, đất đai để buôn bán hoặc canh tác nhưng những tài sản đó vẫn thuộc quyền sở hữu của chủ nô.
Pháp luật La Mã không thừa nhận quan hệ hôn nhân giữa nô lệ và nô tì
(contubernium), quan hệ đó được coi như mối quan hệ thuần túy giữa hai Res mancipi mà thôi. Con
của nô lệ sinh ra thuộc quyền sở hữu của chủ nô. Chủ nô có quyền định đoạt nô lệ: quyền sinh,
quyền sát, bán, đổi, cho thuê, và có thể giết nô lệ trong trường hợp cần thiết.
Thân phận của người nô lệ cũng phụ thuộc vào chế độ chiếm hữu nô lệ và bị chính chế độ đó chi
phối. Vào thế kỷ thứ III đến thế kỷ thứ V chế độ nô lệ ở La Mã được duy trì theo quy định của hoàng
đế Claudiuxo, cấm bắt nô lệ đau ốm lao động nặng, cấm giết nô lệ đau yếu. Thời hoàng đế Nero đã
cấm đưa nô lệ ra đấu với dã thú. Thời hoàng đế Atoniuxo nếu không có lý do chính đáng thì không được giết nô lệ.
Trong luật La Mã có khái niệm Peculio, dùng để chỉ một khoản tài sản chủ nô trích ra để nuôi nô lệ.
Nô lệ có quyền sử dụng tài sản nói trên. Nô lệ có quyền sử dụng tài sản này, chịu hậu quả pháp lý
về hành vi của bản thân nhưng không có quyền thu lợi từ tài sản đó mang lại.
Khi cho phép nô lệ sử dụng tài sản Peculio để giao dịch, chủ nô phải chịu trách nhiệm đối với những
giao dịch mà nô lệ tiến hành với người thứ ba. Trong quan hệ về tài sản giữa nô lệ với người thứ ba
và để giải quyết các hậu quả về tài sản, các quan chấp chính đã quy định cho pháp chủ nợ (bên thứ
ba) có quyền kiện chủ nô ở các hình thức như sau:
Nếu nô lệ giao dịch với bên thứ ba bằng một tài sản giới hạn trong Peculio để làm giàu thêm cho
chủ nô một khoản lợi tức nào đó thì người thứ ba chỉ có quyền kiện về khoản lợi tức đó mà thôi.
HÌnh thức kiện này gọi là kiện lợi tức – action de inrem verso lOMoAR cPSD| 40551442
Nếu chủ nô chỉ định nô lệ của mình làm người làm công (institor) trong công việc buôn bán của
mình thì chủ nô phải chịu trách nhiệm về những việc mà nô lệ thực hiện trong giao dịch với người
thứ ba. Nếu nô lệ nhận giữ đồ vật hộ theo yêu cầu của bên thứ ba thì chủ nô không phải chịu trách nhiệm.
Nêu chủ nô chỉ đơn giản ủy quyền cho nô lệ làm việc (chỉ thị iusus), đối tác với nô lệ có thể kiện
chủ nô theo action quod iussu. Nếu nô lệ vi phạm pháp luật (như phá hoại tài sản, ổn hại tài sảncủa
người khác) thì kẻ bị hại có thể kiện chủ nô theo action noxalis (noxa – thiệt hại).
Chủ nô phải chịu trách nhiệm hoàn toàn trong những công việc mà chủ nô ra lệnh cho nô lệ làm việc.
Chủ nô chỉ phải chịu trách nhiệm về tài sản trong phạm vi những khoản lợi thu được do sự hoạt
động của nô lệ mang lại.
Nô lệ được giao tài sản Peculio để hoạt động nhưng lợi tức thu được đều thuộc về chủ nô. Tuy nhiên,
chủ nô phải chịu trách nhiệm về những việc làm của nô lệ trong giao dịch với bên thứ ba.
Vai trò của nô lệ trong vấn đề này giống như một công cụ làm việc không hơn không kém.
Những trường hợp bắt đầu trình trạng nô lệ:
1. Tù binh bị bắt giữ trong các cuộc chiến tranh
2. Những con nợ không trả được nợ sẽ bị chủ nợ bắt làm nô lệ
3. Những dân thường bị bắt cóc và bị bán làm nô lệ
4. Những người con do nô lệ sinh ra là nô lệ bất kể bố chúng là ai, có địa vị gì. Nhưng nếu bố
là nô lệ, mẹ là người tự do thì con sinh ra là người tự do.
5. Kẻ tử tù hay thù khổ sai cũng có thể bị niến thành nô lệ
6. Nô lệ được giải phóng nhưng sau khi được giải phóng rồi mà tỏ ra bất nhã với người trao
trả tự do thì có thể bị quay trở lại tình trạng nô lệ.
Những trường hợp chấm dứt tình trạng nô lệ:
1. Được chủ nô giải phóng 2. Khi nô lệ chết đi
Có rất nhiều con đường dẫn đến tình trạng nô lệ nhưng cơ hội để từ nô lệ trở lại thành thường dân
rất ít. Không có những điều luật bảo vệ người dân thường khi họ bị bắt và đem bán thành nô lệ, hay
khôi phục thân phận dân thường cho những người này. lOMoAR cPSD| 40551442 Kết luận:
Ở La Mã, nô lệ được coi là công cụ biết nói, không phải con người, hoàn toàn không có địa vị pháp
lý và không được pháp luật bảo vệ, không được có tài sản cá nhân. Trong các mối quan hệ xã hội
cũng không được coi là con người như không được công nhận quan hệ hôn nhân hay trong các cuộc
giao dịch với người thứ ba bằng tài sản Peculio.
Đời sống vật chất và tinh thần của người nô lệ thiếu thốn, khốn khổ, bị bóc lột tàn bạo và tính mạng
không được đảm bảo. Do đó đã có nhiếu cuộc đấu tranh của nô lệ nổ ra trong suốt quá trình lịch sử của nhà nước La Mã. 5. “Pháp nhân”
- Trong luật La Mã, chưa có khái niệm về pháp nhân như là một chủ thể của pháp luật vì
trongthời kì này, quan hệ phát sinh pháp nhân ở La Mã chưa phát triển. Tuy vậy trong luật
12 Bảng có nhắc đến 1 khái niệm có thể coi nó tương đương như một pháp nhân đó là “Hiệp
hội tư nhân mang tính chất tôn giáo”, “Hiệp hội thủ công”,… Sự phát triển rực rỡ về kinh
tế, văn hóa, xã hội đã làm xuất hiện nhiều nghề nghiệp mới cùng với sự xuất hiện của đạo
thiên chúa trên lãnh thổ La Mã, xuất hiện nhiều nhà thờ và nhiều công trình xây dựng khác:
rạp hát, nhà trọ, các nghiệp đoàn mai tán , các tổ chức này có tài sản riêng, tổ chức riêng, tên
gọi riêng và nhân danh tên mình tham gia vào các quan hệ. Cùng với thời gian, số lượng các
tổ hợp này càng tăng lên.
Nhận xét về các quy định của chủ thể của Luật La Mã:
- Chủ thể của luật la mã rất hạn chế, địa vị pháp lý của các chủ thể pháp lý không bình đẳng (
phân ra làm nhiều loại chủ thể với quyền lợi khác nhau ). Tuy nhiên, đây chỉ là đứng trên
quan điểm của thời đại này, còn nếu xét ở tại thời điểm đó thì có thể nói đối tượng điều chỉnh
của Luật La Mã đã trở nên hết sức đa dạng và phong phú so với các bộ luật trước đó. Luật
La Mã không chỉ điều chỉnh những quan hệ tài sản, mà còn có cả những mối quan hệ phát
sinh giữa công dân La Mã với nhau, giữa công dân La Mã và người ngoại quốc (không mang
quốc tịch La Mã), giữa công dân và nô lệ, …
- Chủ thể của luật La Mã trực tiếp tham gia vào các quan hệ mà bản thân của họ có các quyền
và nghĩa vụ và đồng thời họ phải gánh chịu trách nhiệm trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó.
- Ngoài ra, dấu hiệu về khái niệm Pháp nhân đã manh nha xuất hiện trong Luật La Mã. Tuy
trong bộ luật này không đề cập đến cụm từ pháp nhân, nhưng trong các mối quan hệ dân sự
đã có sự xuất hiện phổ biến của các tổ chức như Tôn giáo, hội buôn, tổ chức kinh tế và các lOMoAR cPSD| 40551442
tổ chức này thông qua hành vi của người đại diện tham gia các quan hệ tài sản vì lợi ích của
tổ chức. Luật còn công nhận quyền của một số tổ chức của nhiều người với một tài sản nhất
định như lập quỹ dù chưa quy định đó là pháp nhân. Tài sản thuộc sở hữu nhiều người, quyền
gắn vào tài sản thuộc về tổ chức.
- Có thể nói đây đã là những điểm rất tiến bộ của Luật La Mã so với các bộ luật trước đó như
Hammurabi, Urnammu của Babylon. BÀI 2: QUYỀN CHIẾM HỮU I.
KHÁI NIỆM, CÁC HÌNH THỨC CHIẾM HỮU: 1. Khái niệm: -
Chiếm hữu: Sự chiếm dụng , “”thống trị” trên thực tế đối với đồ vật. -
Quyền chiếm hữu( Ius – Possessio): Thực tế kiểm soát và chi phối đồ vật được
pháp luật bảo hộ bằng phương pháp kiện dân sự. -
Yêu cầu: - Có vật thực sự.
+ Có ý chí chiếm hữu luôn coi vật đó là của mình.
2. Hình thức chiếm hữu: - Chiếm hữu hợp pháp:
+ Chủ sở hữu giữu quyền chiếm hữu.
+ Chủ sở hữu nhượng quyền chiếm hữu cho người khác hoặc giao cho người khác nắm giữ -
Chiếm hữu không hợp pháp:
+ Người chiếm hữu định đoạt trái phép tài khoản của chủ sở hữu ( trộm, cướp)
+ Nhặt được vật của người khác đánh rơi, làm mất vật
Chiếm hữu bất hợp pháp không ngay thẳng
+ Mua nhầm phải của gian ( người bán không phải chủ sở hữu)
Chiếm hữu bất hợp pháp ngay thẳng
Việc phân biệt chiếm hữu bất hợp pháp ngay thẳng hay không ngay thẳng có ý
nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền sở hữu cũng như xác lập quyền sở
hữu. Người chiếm hữu ngay thẳng có thể trở thành chủ sở hữu theo thời hiệu.
II.PHÂN BIỆT QUYỀN CHIẾM HỮU VÀ CHIẾM HỮU Quyền chiếm hữu Quyền chiếm giữ lOMoAR cPSD| 40551442 -
Không theo ý chí của chủ sở hữu
-Thực hiện theo ý chí của chủ sở hữu trong
Trong trường hợp mất, bị cướp. Còn trong
các trường hợp như cho thuê, cho mượn
nhiều trường hợp là do chủ sở hữu thực hiện
Thường thì chủ sở hữu không thực hiện hành
hành vi chiếm hữu hợp pháp vi chiếm hữu đồ vật -
Người chiếm có quyền bảo vệ đồ vật
-Người chiếm giữ đồ vật chỉ có thể bảo vệ đồ
mình chiếm giữ đối với mọi hành vi xâm
vật thông qua chủ sở hữu mà anh ta thuê
phạm( được pháp luật bảo vệ để tránh nguy mướn cơ bị tước đoạt)
-Hành vi chiếm giữ tài sản chỉ là hành vi nắm -
Hành vi chiếm hữu về mặt pháp lý
giữ quản lý nhưng không coi tài sản đó là của phải thể
hiện ý muốn chiếm dụng đồ vật một cách độc mình
lập không phụ thuộc vào ý chí của người
VD:Anh ta có đồ vật để sử dụng nhưng bằng
khác muốn xem đồ vật đó là của chínhmình
hành vi trả tiền thuê, luật La Mã coi người
thuê đồ vật là người giữ đồ vật thay tên cho - Các dạng chiếm hữu chủ sở hữu
+Chiếm hữu hợp pháp: là người chủ sở hữu
+Chiếm hữu bất hợp pháp: người chiếm hữu
không biết mình không có quyền chiếm hữu
đồ vật và kẻ ăn cắp( người biết đồ vật đấy
không phải của mình nhưng làm như là của mình)
III. CĂN CỨ XÁC LẬP VÀ CHẤM DỨT CHIẾM HỮU
1) Căn cứ xác lập/ Phát sinh
Các luật gia La Mã đều cho rằng căn cứ phát sinh chiếm hữu gồm 2 thành tố là:
thực tế chiếm giữ vật ( corpus possessioinis) và có ý chí chiếm giữ mà không phụ thuộc ý
chí của người khác ( animus possessioinis) tức là vừa có vật lại vừa có ý đồ xem vật đó
như là của mình. Thời điểm xác lập chiếm hữu được xem là thời điểm kết hợp giữa hai
thành tố cấu thành này.
Việc xác định và chứng minh corpus possessioinis theo nguyên tắc chung rất rõ
ràng : Người nào đang có vật thì được coi là người chiếm giữ vật
Tuy nhiên, việc xác định animus possessioinis lại phức tạp hơn rất nhiều.
VD: Một người có mặt trên một mảnh ruộng, cày xới và gieo trồng ở đó.
Hoặc một người có ngựa để cưỡi,người đang sinh sống trong một ngôi nhà, …
Chúng ta không thể biết ý đồ muốn chiếm dụng những thứ đó của họ. Trước mắt
chúng ta, họ chỉ là người giữ đồ vật một cách đơn thuần.
Để trả lời cho câu hỏi đó, ta cần làm sáng tỏ cái gọi là Causa possessioinis tức là
căn cứ pháp lý của việc chiếm hữu đồ vật hay mục đích chiếm hữu
VD: Một người có thể có đồ vật vì mua nó qua người bán. Người khác có thể có đồ
vật theo hợp đồng vay mượn để sử dụng. Khi sử dụng đồ vật, cả hai người nói trên có thể
có những hành vi giống nhau nhưng: đối với người thứ nhất hành vi đó là biểu hiện ý chí
chiếm hữu, đối với người thứ hai thì hành vi đó đơn thuần là sự biểu hiện của việc sử dụng
có phụ thuộc. hay là sự chiếm giữ. lOMoAR cPSD| 40551442
Dựa trên cơ sở đó, luật La Mã đặt ra câu hỏi: Kẻ cắp theo luật La Mã là người
chiếm hữu bất hợp pháp không ngay tình nhưng dù sao hắn ta vẫn là người chiếm hữu, vẫn
có ý chí chiếm hữu và luôn coi vật đã ăn cắp được là của mình. Vì vậy, nếu người chủ sở
hữu thực sự muốn yêu cầu người đang chiếm hữu vật trả lại cho mình thì phải chứng minh
vật thuộc sở hữu của họ bị người chiếm giữ ‘ ăn cắp’ . Điều này làm cho chủ sở hữu đích
thực trở nên khó khăn vì rất khó chứng minh được ‘hành vi’ ăn cắp để có thể yêu cầu hoàn
trả lại tài sản từ chiếm hữu bất hợp pháp.
Để chứng minh animus possessioinis, luật La Mã áp dụng nguyên tắc: nemo sibi
causam possessioinis mutare potest – không ai có thể thay đổi căn cứ chiếm hữu cho chính
bản thân ( Bộ Degest, quyển 41, mục 2,3,19). Nguyên tắc này không có nghĩa là: Nếu vào
một thời điểm nhất định ai đó đã có đồ vật ( vd theo hợp đồng vay mượn) – thì anh ta-(
không bao giờ và không vì điều kiện nào) có thể là người chiếm giữ. Hoặc ngược lại, kẻ
chiếm giữ không bao giờ là người giữ đồ vật đơn thuần .
Không chỉ cá nhân mới thực hiện quá trình chiếm hữu, mà chiếm hữu cũng có thể
phát sinh qua người đại diện. Và muốn có quyền chiếm hữu qua đại diện cần có những
điều kiện sau đây: Thứ nhất, người đại diện phải có đủ thẩm quyền chiếm hữu cho người
khác dù thẩm quyền đó xuất phát từ pháp luật hoặc từ một hợp đồng. Thứ hai, khi trao cho
người đại diện thẩm quyền này, chủ thể chiếm hữu phải thể hiện ý chí chiếm hữu của mình
từ trước.Tức là, mặc dù có vật thực sự nhưng anh ta phải có ý thức không phải lấy đồ vật
cho bản thân mà là cho người ủy quyền.
Tóm lại, để xác định animus possessoinis, cần làm rõ mục đích chiếm hữu trên cơ
sở pháp lý dẫn đến việc chiếm hữu đối với vật
2) Chấm dứt quyền chiếm hữu
Chiếm hữu không thể tồn tại nếu thiếu một trong hai thành tố corpus possessoinis và animus possessoinis.
Chủ thể không còn chiếm hữu vật nữa trong các trường hợp sau: - Vật rời khỏi anh ta
- Anh ta vứt bỏ đồ vật ấy đi ( muốn chấm dứt chiếm hữu)
- Vật bị hỏng hoặc không thể lưu thông được nữa
Với chiếm hữu được thực hiện qua đại diện thì nó chấm dứt theo ý chí của
người chiếm hữu. Đồng thời, khả năng chiếm giữ đồ vật của người đại diện hay người ủy
quyền cũng chấm dứt. IV.BẢO VỆ QUYỀN CHIẾM HỮU
1) Đặc điểm nổi bật của sự bảo vệ chiếm hữu được thể hiện ở chỗ: Trong quá trình xét xử về
chiếm hữu theo Luật La Mã, không phải chứng minh quyền đối với vật đó, thậm chí không
được phép dựa vào vật quyền. Có 2 quan điểm để giải thích:
• Do hiện tượng một chủ thể vừa là người chiếm hữu và là chủ sở hữu trong thực tế đời sống
quá phổ biến đến mức có thể cho rằng người chiếm giữ đồ vật đó là chủ sở hữu và người
không có trong tay đồ vật thì không có quyền với vật đó. lOMoAR cPSD| 40551442
Xuất phát từ tình hình thực tế nói trên mà nhà nước ban hành pháp luật bảo vệ cho
chủ sở hữu đồ vật- người đang chiếm giữ đồ vật trên thực tế, và không cho phép
kéo dài việc xét xử bằng luận cứ quyền sở hữu của bị cáo. Nếu người chiếm giữ đồ
vật( nguyên cáo) nói trên rõ ràng là kẻ chiếm giữ bất hợp pháp thì bị cáo được
quyền pháp đơn khiếu nại theo vật tố tụng để đòi lại đồ vật của mình.
Trong trường hợp nàynđã thể hiện sự phù hợp với quy phạm của luật La Mã: Đối
tượng chiếm hữu là những đồ vật thuộc quyền sở hữu( chẳng hạn đường sá công
cộng, nhà hát công cộng,… không phải là những thứ thuộc quyền sở hữu của cá nhân)
• Việc đơn giản hoá bảo vệ chiếm hữu là một biện pháp của nhà nước để chống lại tình trạng
sử dụng tuỳ tiện. Chỉ có thể khẳng định quyền sở hữu thông qua xét xử, toà án và pháp luật
bảo vệ cho những kẻ chiếm giữ đồ vật thực tế. Điều này cho thấy đa phần công dân La Mã
là những người chiếm giữ, còn chủ sở hữu lại là tầng lớp giàu có.
2) Chiếm hữu được bảo vệ không phải bằng đơn kiện mà bằng những điều cấm của quan toà
xét xử (interdicta), đó là: điều cấm để giữ quyền chiếm hữu và điều cấm để trả lại quyền chiếm hữu.
1. Interdicra Retinendae Possessionis (điều cấm để giữ quyền chiếm hữu)
Interdictum uti possidetis để bảo vệ cho những ai chiếm hữu bất động sản. Khái niệm
"Nec vi nec clam nec precarioab" dùng để chỉ luật pháp không bảo vệ chiếm hữu cho những
kẻ dùng sức mạnh ( Vi) để chiếm hữu bất động sản của bên mà trong khi xét xử gọi là ab
avercario. Kẻ nào bí mật (clam) chiếm bất động sản của bị cáo hoặc sử dụng bất động sản
của bị cáo trong lúc xét xử thì không được pháp luật bảo vệ ( Theo bộ Degest, quyển 43, mục 27, trích đoạn 1).
Interdictum utrubi bảo vệ cho những người giữ đồ vật lần cuối cùng trước khi xét xử với
thời gian hơn một năm với điều kiện anh ta không chiến giữ bằng Vi, Clam, Precario.
2. Interdicra Recuperandae Possessionis (điều cấm để trả lại quyền chiếm hữu)
• Interdictum unde vi dùng để bảo vệ người chiếm hữu hợp pháp bị người khác tước đoạt quyền chiếm hữu.
• Interdictum de precario dùng để bảo vệ người cho thuê khi bị người thuê từ chối trả lại đồ vật.
• Đối với người chiếm hữu bất hợp pháp ngay thẳng còn được trao quyền Actioc in rem
publiciana. Quyền kiện này được trao cho ai chiếm hữu vật theo thời hiệu. Quan toà chỉ
cần khẳng định thời hiệu chiếm hữu của nguyên đơn là đủ cho anh ta có quyền sở hữu
BÀI 3: SỰ HÌNH THÀNH QUYỀN SỞ HỮU TƯ NHÂN
I,Sự hình thành quyền sở hữu ở luật La Mã:
Tài sản thể hiện tư cách nhân thân của chủ sở hữu. Đây là giai đoạn sơ khai trong lịch sử phát
triển chế định sở hữu. Khái niệm quyền sở hữu ban đầu được hiểu khác xa rất nhiều so với cách
hiểu của chúng ta ngày nay. Tài sản khi đó được hiểu như là sự tiếp nối tư cách cá nhân của chủ sở
hữu. Ai xâm phạm đến tài sản của một người (lấy mất con thú săn được, hoa trái thu lượm được) là
xúc phạm tới cá nhân người đó. Thời La mã cổ đại có quan niệm rằng: Một người kiện kẻ trộm
không phải vì mình có quyền sở hữu, mà vì người ăn trộm đã xúc phạm đến danh dự của mình
thông qua hành vi ăn trộm đó. Kẻ trộm khi đó bị coi là kẻ xúc phạm (bị kiện theo phương thức lOMoAR cPSD| 40551442
kiện hành vi trộm cắp – actio furti), chứ chưa được coi là người chiếm hữu bất hợp pháp tài sản
của người khác (chưa áp dụng các phương thức kiện bảo vệ quyền sở hữu như kiện đòi lại tài sản
thuộc sở hữu của mình – actio rei vindicatio, hay phương thức kiện đòi lại tài sản bị trộm –
condictio furtiva). Quan niệm đó dẫn đến một loạt các hệ quả pháp lý quan trọng sau đây: -
Theo quan niệm đó mà pháp luật La mã giai đoạn cổ đại đã quy định cho phép chủ sở hữu
không những được lấy lại tài sản bị trộm mà còn được trả thù lại sự xúc phạm đó đối với kẻ trộm:
chặt tay, giam giữ, giết, bán làm nô lệ, phạt gấp nhiều lần tài sản trộm, …(1). -
Nếu tài sản rời khỏi chủ sở hữu mà không có sự xúc phạm đến nhân thân của chủ sở hữu
(Vídụ như: chủ sở hữu cho người khác mượn tài sản, sau đó người mượn lại đem bán tài sản đó
đi), thì chủ sở hữu không được quyền đòi lại(2). -
Cũng theo quan niệm đó mà Luật La mã thời kỳ cổ đại đã từng quy định rằng, nếu như có
nhiều kẻ trộm cùng ăn trộm một tài sản, thì hành vi của mỗi kẻ trộm được coi là những sự xúc
phạm riêng biệt đối với chủ sở hữu. Khi đó mỗi kẻ trộm phải trả cho người bị trộm toàn bộ tài sản
đã ăn trộm (có bao nhiêu kẻ trộm cùng thực hiện việc trộm cắp thì chủ sở hữu được hưởng ngần
ấy lần tài sản của mình)(3). Ví dụ như hai kẻ trộm cùng ăn trộm một con ngựa, thì khi bị bắt mỗi kẻ
trộm phải nộp cho người bị trộm một con ngựa. -
Do tài sản là sự tiếp nối tư cách nhân thân của chủ sở hữu, do đó khi chủ sở hữu chết thì tư
cách nhân thân chấm dứt, tài sản trở thành vô chủ. Một số tài liệu khảo cổ cho thấy thời xa xưa tại
nhiều dân tộc có tồn tại tập quán rằng sau khi một người chết đi thì tài sản của người đó (tiền bạc,
đồ dùng quý giá, thậm chí cả nô lệ) cũng được chôn theo. Cùng với đó một nguyên tắc pháp lý
được hình thành dưới thời La mã cổ đại có nội dung như sau: “Việc lấy đi tài sản của người chết
không được coi là ăn trộm
” – “Rei hereditariae furtum non fit(4). Trong giai đoạn này chế định
thừa kế chưa được hình thành rõ nét, chưa có quy định cụ thể cho việc dịch chuyển tài sản từ
người chết sang cho những người còn sống.
Quyền sở hữu vật là quyền của chủ thể được chi phối tuyệt đối và theo ý chí của mình đối với
vật. Với sự phát triển của giao lưu dân sự, thì khái niệm quyền sở hữu thế hệ thứ hai dần được
hình thành và được hiểu là “quyền thống trị tuyệt đối của một chủ thể lên vật”. Quyền sở hữu là
một loại vật quyền quan trọng nhất thể hiện sự phụ thuộc tuyệt đối và vô hạn của vật đối với chủ
sở hữu. Chủ sở hữu có mọi quyền năng đối với vật. Việc xác lập quyền sở hữu đối với vật trả lời
cho câu hỏi: Vật này của ai?
Đối với một vật cụ thể thì không thể có bất kỳ chủ thể nào có nhiều quyền năng hơn chính chủ sở
hữu vật đó. Mọi hành vi tác động lên vật hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của chính chủ sở hữu đó.
Cũng từ khi có cách hiểu này mà chủ sở hữu mới được bảo vệ bằng những phương thức kiện vật
quyền. Ví dụ như kiện đòi lại tài sản thuộc sở hữu của mình (rei vindicatio).
Cũng trong giai đoạn này mới hình thành nên nguyên tắc: “Một người không thể chuyển giao cho
người khác nhiều hơn những gì mình có” (Tiếng La-tinh: “Nemo ad alium plus juris transferre
potest, quam ipse habet
”). Và hệ quả trực tiếp của nguyên tắc này là: nếu như tài sản đã được
chuyển giao từ người chiếm hữu bất hợp pháp sang cho người thứ ba thông qua giao dịch dân sự
thì chủ sở hữu vẫn được đòi lại tài sản từ người thứ ba đó. Ví dụ như một người mua phải tài sản
do trộm cắp có được thì phải trả lại cho chủ sở hữu khi chủ sở hữu đòi lại. Bởi lẽ bản thân kẻ trộm
không có quyền sở hữu đối với vật trộm được, do đó không thể chuyển giao quyền sở hữu sang lOMoAR cPSD| 40551442
cho người mua (không thể chuyển giao cái mà chính mình không có), khi đó người mua phải tài
sản trộm cắp sẽ không thể trở thành chủ sở hữu tài sản mua được.
Tại đây phát sinh một vấn đề: Khi đó một người khi mua tài sản nào đó thường sẽ rất băn khoăn
rằng: Không biết người bán cho mình có đích thực là chủ sở hữu tài sản không. Nếu người bán mà
không phải chủ sở hữu tài sản thì đến một lúc nào đó sau khi mua chủ sở hữu sẽ đến đòi lại, bên
mua khi đó bị buộc phải trả lại cho chủ sở hữu tài sản mình đã mua. Nhằm khắc phục tận gốc vấn
đề đó mà pháp luật các nước mới bắt đầu hình thành cơ chế đăng ký tài sản. Phương thức đăng ký
tài sản đó ban đầu được áp dụng đối với bất động sản, sau đó áp dụng dần cho các loại tài sản khác là động sản.
Cách hiểu này đã cho phép chủ sở hữu có mọi quyền năng đối với tài sản, do đó ở thế hệ thứ hai
này ta không thấy có sự liệt kê các quyền năng cơ bản của chủ sở hữu.
Quyền sở hữu vật được hiểu thông qua việc liệt kê cụ thể các quyền năng cấu thành của chủ sở
hữu đối với vật của mình.
Trên thực tế thì trong một xã hội công dân, mọi hành vi của mỗi thành viên, trong đó kể cả hành vi
đối với tài sản của chính mình, cũng chỉ giới hạn trong phạm vi cho phép sao cho không làm ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác, cũng như lợi ích của toàn xã hội, của cộng đồng nói chung.
Chính vì lý do đó quyền năng của chủ sở hữu mới luôn bị hạn chế trong một giới hạn luật định.
Quyền năng vô hạn của chủ sở hữu đối với vật “của mình” chỉ được thể hiện với ý nghĩa lớn hơn
so với bất kỳ một chủ thể nào khác, chứ không bao giờ có thể nhiều hơn những gì pháp luật quy
định. Nói cách khác, quyền sở hữu khi đó được hiểu là tập hợp một số quyền năng cụ thể của chủ
sở hữu mà pháp luật quy định. Bắt đầu hình thành khái niệm quyền sở hữu thế hệ thứ ba – liệt kê
cụ thể các quyền năng cấu thành của quyền sở hữu vật.
Dưới thời cộng hoà La mã thì quyền sở hữu được hiểu bao gồm năm quyền năng là: 1) Quyền
chiếm hữu, 2) Quyền sử dụng, 3) Quyền hưởng dụng lợi ích từ việc sử dụng vật, 4) Quyền định
đoạt số phận vật, 5) Quyền kiện đòi lại vật từ người chiếm hữu bất hợp pháp.
Hạn chế đối với quyền sở hữu
Ưu tiên lợi ích cộng đồng. Ví dụ: người chủ sở hữu 1 BĐS chỉ có thể phá dỡ 1 công trình khi cam
kết xây dựng 1 công trình mới; chủ sở hữu BĐS phải chịu trách nhiệm bảo vệ những người láng
giềng có nguy cơ gặp nguy hiểm do BĐS, công trình trên BĐS của mình
Lạm dụng quyền: một người thực hiện quyền của mình mà gây hại cho người khác thì có thể có
chế tài cho hành vi lạm dụng quyền này. Ví dụ: chủ sở hữu một dòng chảy có quyền thay đổi một
dòng chảy, nhưng nếu nó làm tổn hại đến dòng chảy của người láng giềng thì phải chịu trách nhiệm
II, Khái niệm quyền sở hữu:
-Quyền sở hữu là loại chế định duy nhất mà người La Mã chưa đưa ra được một khái niệm chính
xác cho nó. Nhưng ta có thể hiểu người chủ sở hữu vật là người có quyền năng thống trị đối với
vật đó. (Những quyền năng đó được luật pháp công nhận) lOMoAR cPSD| 40551442
III, Nội dung của quyền sở hữu:
Quyền sở hữu là một dạng quyền tuyệt đối và có phạm vi rất rộng. Có 5 dạng quyền năng cơ bản của chủ sở hữu:
+ Ius Utendi (Quyền sử dụng): quyền khai thác những lợi ích kinh tế từ tài sản phù hợp với
tính năng, tác dụng của tài sản đó
+ Ius Fruendi (Quyền thu nhận thành quả từ tài sản) : về nguyên tắc chủ sở hữu là người
hưởng thành quả và lợi nhuận từ tài sản thuộc sở hữu của mình
+ Ius Possidendi (Quyền chiếm hữu tài sản)
+ Ius Abutendi (Quyền định đoạt tài sản): bao gồm định đoạt số phận thực tế cũng như số
phận pháp lý của tài sản như bán, thừa kế, ban tặng, thậm chí là hủy bỏ + Ius Videcandi
(Quyền kiện đòi tài sản) .
Quyền sở hữu hạn chế với bất động sản liền kề. Ví dụ: chủ sở hữu BĐS phải chấp nhận
cho cành lá cây nhà láng giềng trổ sang đất đai nhà mình; phải để cho nước mưa chảy tự
nhiên trên đất nhà mình. BÀI 4: QUYỀN SỞ HỮU
I/ Quyền sở hữu
Chế định quyền sở hữu là chế định duy nhất mà các luật gia La Mã chưa đưa ra được khái niệm
chính xác về quyền sở hữu cũng như nội dung quyền sở hữu. Tuy nhiên trong Luật La Mã, quyền
sở hữu có thể được hiểu là quyền sử dụng, và quyền định đoạt của chủ sở hữu đối với tài sản của
mình. Quyền sở hữu không được coi là quyền tuyệt đối vì vẫn bị một số giới hạn do pháp luật quy định.
Các luật gia La Mã đã chỉ ra được những quyền năng cơ bản của chủ sở hữu tài sản. Những quyền năng đó bao gồm:
- Quyền sử dụng tài sản (Ius Utendi): đây là quyền khai thác những lợi ích kinh tế từ tài
sản phù hợp với tính năng, tác dụng của tài sản đó;
- Quyền thu nhận thành quả và lợi nhuận (Ius Fruendi): về nguyên tắc chủ sở hữu là
người hưởng thành quả và lợi nhuận từ tài sản thuộc sở hữu của mình;
- Quyền định đoạt tài sản (Ius Abutendi): bao gồm định đoạt số phận thực tế cũng như số
phận pháp lý của tài sản như bán, thừa kế, ban tặng, thậm chí là hủy bỏ; - Quyền
chiếm hữu tài sản (Ius Possidendi) -
Quyền đòi lại tài sản (Ius Vicicandi).
Về nguyên tắc chung, chủ sở hữu tài sản có toàn quyền đối với tài sản của mình, thực hiện
hành vi mà pháp luật không cấm.
Người La Mã căn cứ vào giá trị về mặt pháp lý của tài sản để chia tài sản thành hai loại là Res
mancipi (đất đai, nô lệ, động vật - những phương tiện sản xuất chủ yếu của người nông dân) và
Res nes mancipi(những tài sản còn lại). Lúc đầu chỉ có công dân La Mã mới được quyền sở hữu
ruộng đất còn dân nhập cư và dân ở các địa phương khác không có quyền. Tuy nhiên quyền sở hữu
được pháp luật ghi nhận còn thực tế bình dân khác cũng sở hữu ruộng đất.Khác với luật La Mã, ở lOMoAR cPSD| 40551442
pháp luật Lưỡng Hà, bộ luật Hammurabi phân loại tài sản căn cứ theo giá trị, khả năng di dời của
tài sản nên chia thành hai loại là động sản (nô lệ, gia súc..) và bất động sản (đất đai, nhà ở…).
Nhưng có điểm giống nhau giữa hai bộ luật là họ đều coi trọng loại tài sản là đất đai (bất động
sản), điều này có thể giải thích được bởi trong xã hội cổ đại, đất đai chủ yếu là loại tư liệu sản xuất
quan trọng nhất và cũng là loại tài sản có giá trị lớn nhất. Cần lưu ý rằng, không phải tài sản nào
cũng là đối tượng của quyền sở hữu, và không phải tài sản nào cũng được chiếm giữ, “ lưu thông”
đó là tài sản chung như nước chảy trên sông, không khí là của tất cả mọi người, đồ cấm như thuốc
độc, sách cấm, tài sản nhà nước..
II/ Căn cứ xác lập quyền sở hữu
Những sự kiện mà với sự phát sinh của chúng, chủ thể đã có quyền sở hữu được gọi là các
phương thức thủ đắc quyền sở hữu (còn gọi là modus acquirendi). Những sự kiện pháp lý là căn
cứ để thủ đắc quyền sở hữu gọi là hạng mục thủ đắc (tirulus acquirendi) Phương thức thủ đắc
quyền sở hữu được chia thành 2 loại:
Phương thức tự nhiên (căn cứ nguyên sinh)
- Là những căn cứ mà từ đó quyền sở hữu đc xác lập mà không phụ thuộc vào quyền sở
hữu trước đó đối với tài sản (vật không thuộc sở hữu của ai, chiếm hữu theo thời hiệu,
chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu…).
- Đối tượng của quyền sở hữu phải là vật đc phép lưu thong (/tự do lưu thong, hạn chế lưu thông)
- Luật La Mã có quy tắc: Vật không thuộc quyền sở hữu của ai thì ai là người chiếm giữ
vật đó đầu tiên sẽ là chủ sở hữu của vật đó, với ý định chiếm giữ cho mình.
VD: Cá ở sông, biển, thú rừng,vật mà chủ sở hữu đã từ bỏ quyền sở hữu,..
Căn cứ xác định sở hữu ban đầu với từng loại vật:
Vật vô chủ (Res nullius): bất kì một vật nào đó có thể sở hữu (kể cả nô lệ) mà chưa
thuộc quyền sở hữu của một chủ thể cụ thể nào đó – được coi là vật vô chủ vf được sở hữu một cách tự do.
Quan niệm này trở thành cơ sở pháp lý, lý luận để các quốc gia tuyên bố những vùng đất
vô chủ (terra nullius) là lãnh thổ thuộc chủ quyền lãnh thổ của nước mình vì đã phát
hiện ra, chiếm giữ hoặc đánh dấu chủ quyền lên lãnh thổ đó.
Trong luật La Mã không được phép đánh đòng vật bị vứt bỏ với vật bị đánh mất hặc cất giấu. Xác
nhận theo từng trường hợp cụ thể:
- Nếu người nào đó nhặt được mảnh giẻ cũ, quần áo rách rưới thì có thể xem như những
thữ nhặt được là đồ vật bị vứt bỏ.
- Nếu thấy đồ vật tương đối có giá trị (tiền, kim khí, đá quý,..) thì không được xem như
đồ vật bị vứt bỏ mà được xem như đồ vật bị đánh rơi.
- Theo luật, kẻ nhận được đồ vật bị đánh có giá trị mà chiếm thành của riêng thì mắc vào
tội ăn cắp. Anh ta phải tìm ra chủ của nó bằng mọi cách và nếu tìm được thì có thể yêu
cầu bồi thường chi phí tìm kiếm và trông giữ, nhưng về nguyên tắc luật thì không được xử bồi thường. lOMoAR cPSD| 40551442
Vật chôn, giấu – Kho báu
- Vật bị cất giấu vẫn xem như là vật có chủ vì vậy quyền sở hữu vẫn thuộc chủ sở hữu của vật đó.
- Nếu bị cất giấu quá lâu mà không tìm ra chủ của chúng thì chúng được gọi là vật bị
chôn cất (thesaurus). Theo luật La Mã, chủ nhân của vị trí tìm thấy vật bị chôn cất
(thường là đất) được xem là chủ sở hữu của vật đó.
- Từ thế kỉ II SCN, đồ vật bị cất giấu là sở hữu của chủ nhân vị trí chôn cất và của người
tìm ra chúng (mỗi bên một nửa).
VD: B tìm thấy một viên đá quý trong vườn của A thì A được hưởng một nửa, B được
hưởng một nửa giá trị của viên đá quý đó.
Chế biến vật:
Đây là hình thức tạo một vật mới từ nguyên liệu (chuyển từ dạng này sang dạng khác).
- Nếu nguyên liệu thuộc sở hữu của một người và họ bỏ công sức hoặc chi phí của chính
mình ra để tạo ra một sản phẩm mới thì vật mới được tạo thành đương nhiên thuộc
quyền sở hữu của người đó (quyền sở hữu đối với nguyên vật liệu và vật tạo thành
được xác lập liên tục).
- Nếu nguyên vật liệu thuộc sở hữu của chủ thể này nhưng sức lao động bỏ ra hoặc chi
phí chế biến vật đó thuộc chủ thể khác thì vật mới tạo thành sẽ thuộc sở hữu của ai?
Trong pháp luật La Mã ở những thời điểm lịch sử khác nhau, vấn đề về vật tạo thành
thuộc sở hữu của ai được giải quyết khác nhau. Vào thời hoàng đế Justinian, sản phẩm
tạo thành từ nguyên vật liệu của người khác được giải quyết theo nguyên tắc sau:
+ Nếu vật mới được tạo thành có thể quay về trạng thái ban đầu (không phụ thuộc vào
công sức chế biến) thì vật mới tạo thành thuộc sở hữu của người sở hữu nguyên vật
liệu (VD: Vàng tạo thành đồ trang sực thì có thể nung lại thành hình khối vàng ban đầu)
+ Nếu vật mới được tạo thành không thể quay về trạng thái ban đầu (VD: gỗ được chế
biến thành đồ gỗ) thì vật mới tạo thành thuộc sở hữu của người chế biến với điều kiện
người chế biến đó phải là người chiếm hữu ngay tình. Người chế biến phải hoàn trả
người có nguyên vật liệu khoản lợi mà mình có được từ việc chiếm hữu ngay tình đó.
Sáp nhập, trộn lẫn:
- Nếu một vật kiên kết với một vật khác và biến thành một phần của vật liên kết mà
không còn tồn tại độc lập thì vật đó thuộc sở hữu của người có vật liên kết VD: Phần
gỗ được dùng làm càng xe ngựa thì gỗ thuộc quyền sở hữu cua người có xe ngựa.
Người có vật liên kết phải hoàn trả lại cho chủ sở hữu có vật ban đầu hai lần giá trị của
vật, nếu vật có thể tách được vật đã lien kết thì quyền sở hữu được khôi phục nếu học
không nhận được phần đền bù 2 lần giá trị đó.
- Việc liên kết một vật vào vật khác, trên cơ sở đó làm phát sinh quyền sở hữu được coi
là căn cứ đầu tiên: trồng cây hay xây dựng công trình trên đất nước của người khác.
- Trộn lẫn vật là hình thức liên kết mà sau đó không phân biệt được các thành phần đã
liên kết (hợp kim, vàng, bạc) vật được liên kết được tạo thành vật mới thuộc sở hữu
chung của những người có các vật thành phần. lOMoAR cPSD| 40551442
- Nếu vật bị trộn lẫn là những vật cùng loại (VD: lương thực cùng loại cới số lượng và
chất lượng khac nhau) thì hỗn hợp tạo thành là sở hữu chung theo phần của các chủ sở
hữu có thành phần hỗn hợp. • Theo thời hiệu
- Quyền sở hữu xác lập theo thời hiệu là một dạng đặc biệt của căn cứ đầu tiên. Theo
quan niệm của các luật gia La Mã thì một người chiếm hữu tài sản trong một thời gian
nhất định và thực hiện quyền như chủ sở hữu mà không có bất kì tranh chấp nào sẽ
được công nhận quyền sở hữu đối với vật mà họ đã chiếm hữu ngay tình. Lý do có điều trên:
- Trong thời gian đó người chủ thực sự có đủ thời gian để tìm lại tài sản đã mất của mình
nhưng đã không tìm, nên suy đoán là họ đã từ bỏ quyền sở hữu.
- Nếu họ không tìm thấy, không phát hiện được là tài sản của mình đang do người chiếm
hữu ngay tình chiếm hữu thì đã mất quyền khởi kiện để đòi lại. Về mặt khách quan thì
quyền sở hữu đồ vật nói trên thuộc về người khác. Người thứ 2 này có quyền phát đơn
kiện và chững minh được quyền sở hữu của mình trong phiên tòa xét xử. Trong trường
hợp này thì người thủ đắc ngay thẳng phải trả lại vật. Tuy nhiên nếu thời hạn khởi kiện
đòi quá hạn thì người thủ đắc thiện chí hoàn toàn có thể là chủ sở hữu của đồ vật. Cần
công nhận người chiếm hữu theo thời hiệu là chủ sở hữu tài sản để ảo đảm tính ổn định
của lưu thông. Quy định thời hiệu chiếm hữu để trở thành chủ sở hữu khác nhau trong
từng thời kì lịch sử:
+ Trong luật 12 bảng thì thủ đắc theo thời hiệu (usucapio) được chấp nhận tương đối
đơn giản: Đất đai: 2 năm Các vật khác: 1 năm
Người thủ đắc theo thời hiệu được công nhận là chủ sở hữu của vật nếu chiếm giữ đồ
vật trong thời gian nói trên và không phải đồ do ăn cắp mà có. + Ở các địa phương
quy định một dạng thời hiệu gọi là Longi temporis paraescriptio:
Đối với người sống trong 1 tỉnh (inter paraesentes) thời hiệu là 10 năm
Đối với người khác tỉnh (inter absentes) là 20 năm Đối với vật bị mất do
trộm cắp thì không có thời hiệu.
+ Dưới thời hoàng đế Justinian thống nhất 2 dạng thời hiệu usucapioLongi temporis paraescriptio:
Cần thiết phải chiếm giữ đồ vật.
Người chiếm hữu phải là người chiếm giữ ngay tình đang thực tế chiếm hữu vật.
Chiếm hữu phải dựa trên cơ sở của pháp luật về chiếm hữu.
Thời hiệu chiếm hữu với động sản là 3 năm, bất động sản là 10-20 năm. Vật
phải được phép lưu thông và không phải vật bị mất trộm. Hoa lợi
- Hoa lợi là sản vật tự nhiên mà tài sản mang lại VD: trái cây, trứng gà,..
- Hoa lợi, trong một chừng mực nào đó được coi là vật phụ của tài sản gốc, vì vậy,
chủ sở hữu của tài sản gốc cũng là chủ sở hữu hoa lợi, dù hoa lợi đã hay chưa
được thu hoạch. Nếu chủ sở hữu chăm sóc vật mang hoa lợi thì hoa lợi thuộc về chủ sở
hữu, còn nếu chủ sở hữukhông chăm sóc mà do 1 người khác thì hoa lợi chia theo thỏa thuận hay hợp đồng. lOMoAR cPSD| 40551442
- Nếu vật làm ra hoa lợi bị mất hoặc bị ăn cắp thì chủ sở hữu có thể khởi kiện:
+ Nếu có người chiếm hữu ngay tình đối với vật sinh hoa lợi bị mất đó thì trong trường
hợp hoa lợi được thu hoạch, chế biến trước thời điểm khởi kiện thì hoa lợi sẽ thuộc về
người chiếm hữu ngay tình đó. Còn nếu hoa lợi thu hoạch hoặc chế biến sau thời điểm
khởi kiện thì phải để lại.
+ Nếu là người chiếm hữu không ngay tình thì người chiếm hữu không bao giờ thành chủ sở hữu
Căn cứ phái sinh (căn cứ kế tục): là phương thức mà trong đó quyền sở hữu của chủ thể
đc phát sinh từ quyền sở hữu của chủ sở hữu trước đây
- Phương thức thủ đắc quyền sở hữu kế tục là sự chuyển giao đồ vật (tradition), nghĩa là
quyền sở hữu vật đc dịch chuyển từ chủ thể nay sang chủ thể khác (không phải sự
chuyển giao nào cũng đều kèm theo sự chuyển nhượng quyền sở hữu). Và ý chí của
người trao và người nhận phải đồng nhất, người chuyển giao tài sản phải có ý định
chuyển giao cả quyền sở hữu, đồng thời người nhận phải có ý định tiếp nhận quyền sở hữu.
- Việc chuyển giao tài sản phải thỏa mãn các điều kiện sau:
+ Việc chiếm hữu phải đc chuyển giao cho người tiếp nhận chuyển giao
+ Người chuyển giao phải có quyền chuyển giao tài sản
+ Việc chuyển giao kèm với mục đích chuyển giao
+ Đối tượng chuyển giao phải đc phép lưu thông
III/ Chấm dứt quyền sở hữu
1/ Vật bị tiêu hủy do quy định của nhà nước bị cấm lưu thông Vd: sách cấm
2/ chủ sở hữu bị tước quyền sở hữu
Tài sản bị tịch thu do phạm tội hay hây tổn thất phải đền bù cho bên bị hại
Tài sản có thời hiệu bị người khác xác lập quyền sở hữu.
3/ chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản
-Vứt đồ vật đó đi coi như từ bỏ quyền sở hữu. Tuy nhiên sẽ phát sinh vấn đề nhặt được đồ vật phải
xác minh đó là đồ vật bị đánh rơi, vứt bỏ hay chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu đồ vật đó. Theo đó
luật la mã quy định rất rõ ràng :
+Nếu người nào nhặt được một mảnh giẻ cũ, quần áo rách -> được xem là đồ vật bị bỏ rơi
+Nếu đồ vật có giá trị thì phải coi là đồ vật bị đánh rơi; nếu chiếm lấy sẽ mắc vào tội ăn cắp. Phải
trình báo để tìm ra chủ của nó bằng mọi cách.Trong thời gian nhất định nếu không tì đc => người
thủ đắc thiện chí hoàn toàn có thể là chủ sở hữu. lOMoAR cPSD| 40551442
Ngoài ra, khi biết tài sản sở hữu của mình bị chiếm hữu mà không có khiếu kiện, ý kiến thì sau
1 thời gian nhất định người chủ sở hữu đó sẽ mất quyền sở hữu Bán đi tài sản của mình hoặc cho đi.
4/ Quyền sở hữu không hoàn toàn
Trong trường hợp chủ sở hữu đem tài sản ra cầm cố thì chủ sở hữu sẽ tạm thời mất các quyền năng
đối với đồ vật đó tuy nhiên vẫn là chủ sở hữu của tài sản.quyền sở hữu sẽ bị mất và chuyển sang
cho người cầm đồ nếu trong thời hạn mà chủ sở hữu không thể trả nợ hoặc không trả nợ. 5/ Khác
- Sau khi một người chết đi thì quan hệ sở hữu cũng kết thúc
- Cũng như trong phần bắt đầu quyền sở hữu. nếu một người làm rơi, thất lác một đồ vật mà
người thủ đắc thiện chí trong khoản thời gian nhất định cố gắng tìm ra chủ sở hữu mà không
được thì sẽ mất quyền sở hữu và quyền sở hữu đồ vật đó sẽ thuộc về người thủ đắc thiện chí
kia. Cụ thể là 10-20 năm đối với bất động sản và3 năm với động sản.
IV/ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU
Quyền sở hữu có thể có thể bị xâm hại bởi hành vi chiếm hữu của người khác. Đặt giả thiết khi
chủ sở hữu và người chiếm hữu là 2 người khác nhau, vậy để chấm dứt tình trạng đó, người La Mã
cổ đại thực hiện một trong 2 biện pháp sau:
- Làm biến mất quyền của chủ sở hữu và xác lập quyền đó cho người chiếm hữu. Đó là biện
pháp xác lập quyền sở hữu theo thời điểm.
- Chấm dứt tình trạng chiếm hữu của người chiếm hữu và khôi phục việc chiếm hữu cho chủ
sở hữu. Đây chính là mục đích của việc kiện đòi lại tài sản.
Trong Luật La Mã, việc kiện đòi lại tài sản có 3 cấp độ: Đòi lại tài sản đúng nghĩa, đòi lại tài sản
theo nghĩa tương đối và trong trường hợp tài sản bị xâm phạm là bất động sản, việc kiện có thể
mang tính chất của một biện pháp bảo vệ phụ trợ đối với quyền sở hữu.
1. Kiện đòi lại tài sản đúng nghĩa
Quyền kiện đòi lại tài sản được thừa nhận như một biện pháp giải quyết các xung đột giữa tình
trạng thực tế và tình trạng pháp lý.Đây là quyền mà chủ sở hữu kiện đòi lại tài sản bị chiếm hữu
bất hợp pháp (Ius Vidicatio).Người có trách nhiệm chứng minh trong vụ kiện đòi lại tài sản này là
người khởi kiện.Bên người bị kiện có quyền không chứng minh gì cả.Nếu xét thấy các lý lẽ của
người khởi kiện là thỏa đáng, người bị kiện có thể từ bỏ việc chiếm hữu đối với tài sản.
Tuy nhiên rất khó để có thể giải quyết các hậu quả phức tạp của việc chiếm hữu.Quyền đối với hoa
lợi, trách nhiệm đối với những hư hỏng, xuống cấp, trách nhiệm đối với chi phí tu bổ, nâng cấp tài sản.
Đối với người chiếm hữu ngay tình, họ phải chịu trách nhiệm đối với tài sản, từ thời điểm bắt đầu
khởi kiện, và được hoàn trả những chi phí bảo quản tài sản cần thiết.Còn người chiếm hữu không
ngay tình phải chịu trách nhiệm đối với mọi thiệt hại về tài sản kể từ khi họ chiếm giữ tài sản đó. lOMoAR cPSD| 40551442
2. Kiện đòi bảo vệ quyền sở hữu theo nghĩa tương đối
Chiếm hữu coi như một hình thức công bố quyền sở hữu
Quyền kiện yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu theo nghĩa tương đối được thừa nhận cho một người
chuyển nhượng tài sản từ một người mà ta không rõ có tư cách chủ sở hữu hay không. Trong điều
kiện người được chuyển nhượng ngay tình, người ta giả định rằng, người chuyển nhượng có quyền
yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu mà người chuyển nhượng đã giao cho do hiệu lực của một giao dịch.
3. Bảo vệ phụ trợ đối với quyền sở hữu (đối với bất động sản)
- Chống nguy cơ gây thiệt hại đối với bất động sản (Cam kết bồi thường nếu không chấp
nhận cam kết sẽ chuyển giao quyền chiếm hữu bất động sản)
- Chống những hành vi gây thiệt hại đã được thực hiện (bồi thường và yêu cầu khôi phục lại hiện trạng ban đầu)
BÀI 5: CĂN CỨ PHÁT SINH NGHĨA VỤ
Nghĩa vụ được phát sinh trên những sự kiện khác nhau mà luật pháp thừa nhận.
Theo căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ thì nghĩa vụ được chủ yếu phát sinh từ hợp đồng ( ex
contractu) và nghĩa vụ từ hành vi vi phạm pháp luật (ex delictu). Đây là hai căn cứ quan trọng, phổ
biến nhất trong pháp luật La Mã.
Tuy hai căn cứ nêu trên được coi là chủ yếu và quan trọng nhất làm phát sinh nghĩa vụ,
nhưng do sự phức tạp của của các quan hệ xã hội cũng như sự phát triển kinh tế , các luật gia La
Mã nhận thấy còn có những nghĩa vụ phát sinh từ những căn cứ mà không được liệt vào hợp đồng
cũng như là hành vi vi phạm. Đó là nghĩa vụ phát sinh như từ hợp đồng (ex quasi contractu) và
nghĩa vụ phát sinh như từ vi phạm pháp luật (ex quasi delictio)
Tóm lại, Luật La Mã quy định bốn căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ:
- Nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng (ex contractu)
- Nghĩa vụ do hành vi vi phạm tư pháp( ex delictio)
- Nghĩa vụ phát sinh như từ hợp đồng (ex quasi contractu)
- Nghĩa vụ phát sinh như từ các vi phạm pháp luật (ex quasi delictio) I.
NGHĨA VỤ PHÁT SINH TỪ HỢP ĐỒNG ( EX CONTRACTU)
1, Giao ước và khế ước
- Giao ước: Là những thảo thuận, làm phát sinh những hậu quả nhưng không được pháp luật
bảo hộ bằng phương thức kiện nhưng do sự phát triển của kinh tế, một số giao ước được
quan tòa bảo hộ và một số được hoàng đế bảo hộ.
Hai bên tham gia thỏa thuận nếu không thực hiện đúng giao ước thì không phải chịu trách nhiệm trước pháp luật